Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2022
BBC tiếng Việt: Nhà nước Việt Nam- Bộ máy bị chảy máu chất xám ngay trong nước?
Trần Mộng Tú: Tình Yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn
Thi sĩ Xuân Diệu, một thành viên trong Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ) đã viết: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu.”
Tình yêu và thơ rất giống nhau vì đó là hai “chủ đề” khó định nghĩa nhất. Nó là hai thế giới không có lằn ranh, không ai biết bắt đầu từ đâu và kết thúc chỗ nào.
Thơ thì “Hay” và có ý nghĩa với tác giả nhưng với độc giả, phần nhiều: “Chẳng hiểu thi sĩ định nói cái gì?”
Tình yêu trong tiểu thuyết còn mông lung hơn nữa. Chấm dứt trong hạnh phúc hay trong nỗi buồn của những nhân vật đều do tác giả quyết định, không phải theo ức đoán của độc giả. Tác giả đưa ta đến một chỗ ta chưa nghe đến bao giờ, và làm cho ta tin đó là nơi chốn có thật, đặt nhân vật vào một hoàn cảnh vô lý rồi mặc ta tha hồ cười khóc hộ tác giả.
Nhưng cả tình yêu và thơ luôn luôn biến chuyển theo thời gian và không gian.
Hãy hình dung ra tình yêu của thời đại điện toán ngày hôm nay.
Thói quen thỉnh thoảng uống cà phê trong quán một mình, tôi mới có vào khoảng vài năm nay, và tôi thấy nó bỗng trở nên cần thiết. Ngồi một mình, muốn nghĩ gì thì nghĩ, nhìn ngang nhìn dọc ra ngoài cửa kính xem xe cộ, người đi, tha hồ tưởng tượng và đặt cho những nhân vật bên ngoài đó một cuộc đời, một cuộc tình hay một vai kịch mà mình thích cho họ đóng tùy theo dáng dấp, y phục, tuổi tác của từng người. Nhìn ra ngoài mãi, mới nhâm nhi hết một nửa ly cà phê, chán, lại nhìn trong quán ngay chung quanh mình. Ở Starbucks có những cái bàn đơn cho những cái laptop và một người lơ mơ ngồi viết hay đọc một cái gì không rõ rệt hoặc cho sinh viên làm vội bài trước khi đến lớp, cũng có đám ba bốn người họ chập hai cái bàn nhỏ ngồi với nhau uống cà phê trong giờ trưa của một cơ sở gần đó, cũng có cái bàn cho một cặp tình nhân trẻ, ngồi xuống không đầy mười phút cho một cái hẹn vội.
Hôm nay tôi vào Starbucks với một chồng sách của Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ). Chọn một cái bàn trong góc để ngồi lâu và không ai chú ý đến mình. Tôi đứng lên mua một ly cà phê đen, tự pha đường lấy, ngồi xuống nhâm nhi và ngắm nghía.
Trần Mộng Tú: Tình Yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn (Tiếp theo)
Xóm Cầu Mới của Nhất Linh với mối tình giữa Siêu và Mùi hai anh em họ, con dì con già là một mối tình rất lạ.Trong đó, vai nữ cô Mùi là cô gái con một cụ Lang, ngoài việc cô xinh đẹp, đảm đang, tốt bụng, dễ tức, hay khóc, biết uống rượu và thích được say nữa, cô còn rất thông minh trong tình yêu, cô luôn luôn đoán trước được ý định của Siêu và gần như dẫn dắt Siêu trong cuộc tình của hai người; Siêu bị cô cuốn đi mà không biết, mặc dù Siêu là người am hiểu về đời sống, có học và lớn tuổi hơn cô. Lồng trong cuộc tình của Siêu-Mùi còn cuộc tình của Bé và Đỗi, chuyện tình của Bác Hòa hàng cơm và Nhỡ. Mỗi nhân vật có một cá tính riêng nhưng rất gần gũi đời thường, với văn phong tinh tế, dí dỏm, chi tiết và lãng mạn một cách trong sáng. Đọc xong cuốn truyện, gấp sách lại ta có một cảm tưởng nhẹ nhàng, khoan khoái, thấy truyện nó tự nhiên như thế, phải diễn tiến như thế, phải khép lại như thế. Nó tự nhiên đến nỗi cho người đọc cái cảm tưởng là: Nếu mình là Mùi, là Siêu, là Nhỡ, là Bé…thì mình cũng “Yêu” như thế.
Siêu hơn Mùi năm tuổi, nên khi Siêu bế ẵm Mùi là sự tự nhiên trước mắt mọi người, cho đến khi Mùi khoảng mười hai tuổi, đã hơn cả năm Siêu không còn bế nữa. Một buổi trưa cả nhà đi vắng, Siêu kéo Mùi nằm ngả vào ngực mình, Siêu cúi đầu vào tóc nàng, áp mặt vào má nàng và môi chàng đưa đi đưa lại mấy cái nhẹ trên má. Mới mười hai tuổi nhưng cô Mùi hình như đã biết thế nào là tình yêu, cô giơ hai tay ôm vòng lấy cổ Siêu, kéo đầu chàng xuống và để hai môi chàng đặt lên môi mình.
“Nàng không nhớ rõ lắm, mà nàng nhớ làm sao được rõ vì nàng có biết nàng làm gì lúc đó đâu; nàng bàng hoàng về một thứ khác; lúc đưa môi cho Siêu hôn không phải nàng chỉ cốt được cái thú Siêu hôn mình, có một thứ gì to tát hơn nhiều mà ngay lúc đó nàng chỉ cảm thấy mơ màng, không sao rõ được là thứ gì.”
Siêu lúc đó mười bẩy tuổi, vốn tính nhút nhát chưa dám một lần nào ngồi nói chuyện với con gái. Mùi là em họ Siêu, nên chàng muốn thử hôn cho biết ra sao, nhưng chàng sợ vì thấy Mùi tự ý ôm lấy cổ chàng, đặt môi chàng lên môi nàng. Từ đó chàng lờ đi như câu chuyện chưa hề xẩy ra. Mùi còn bé quá, lại là em họ chàng, vẻ mặt Mùi lúc đó cũng không đẹp đến nỗi làm chàng mê đến dại dột. Chàng cũng không ngờ là Mùi yêu mình bắt đầu từ hôm đó.
Gió ViVu: Annie Ernaux Được Trao Giải Nobel Văn Học Năm 2022
![]() |
Nhà văn Annie Ernaux Hình Wikipedia |
Annie Ernaux sinh năm 1940, 82 tuổi, lớn lên ở Yvetot, một thị trấn nhỏ thuộc Normandy, nước Pháp. Bà theo học tại Đại Học Rouen và Bordeaux ngành văn học. Từ năm 1977 đến năm 2000, bà là giảng sư tại Trung Tâm Văn Học Quốc Gia Pháp. Sự nghiệp viết văn của bà Ernaux thật lâu dài và đầy gian truân.
Năm 1974, tác phẩm đầu tay Cleaned Out (Dẹp bỏ) viết về phá thai trong khi ở Pháp "phá thai" vẫn còn bị cấm đoán. Bà Ernaux viết trong bí mật. Bà đã nói với tờ New York Time vào năm 2020 "Chồng tôi đã cười nhạo sau bản thảo đầu tiên của tôi. Tôi đã giả vờ bận rộn với Luận án Tiến sĩ để có thời gian riêng tư viết". Tác phẩm này đã được dịch ra tiếng Anh năm 1990.
A Man's Place (Một chỗ đứng trong đời) và A Woman's Story (Câu chuyện của một người đàn bà ) lần đầu được xuất bản tại Pháp đã trở thành những tác phẩm bất hủ. Ernaux đã đoạt giải Prix Renaudot vào năm 2008 với cuốn tự truyện The Years (Những năm tháng), và tác phẩm này được đưa vào danh sách dự giải Văn Bút Thế Giới năm 2019 khi được dịch ra tiếng Anh bởi tác giả Alison L. Strayer.
Năm 2018, Azarin Sadegh, nhà điểm sách ở Los Angeles đã phê bình và so sánh: "Đọc cuốn The Years (Những năm tháng) như xem lại những tấm hình cũ của gia đình. Đối với độc giả, những hình ảnh của quá khứ đã chắp vá lại những mảnh vỡ và những lỗ hổng trong ký ức. Nhìn lại những xấp hình cũ, những chữ viết trên hình mà cảm thấy như được sống lại cái thuở xa xưa. Năm tháng đến rồi đi, và những khoảnh khắc sống nhớ về quá khứ chỉ còn đọng lại trên những hình ảnh cũ và một phần của trí nhớ - mà dường như nó cũng đã và đang tan biến rồi mất dần - trong ký ức".
Thanh Tâm Tuyền: Mưa Ngủ
Tặng Trần Thanh Hiệp
đừng giận anh em hỡi mưa trời còn thương anh.
Thảo Trường: Rút Ruột
Cơ khổ, từ ngày chạy sang nước Mỹ đến nay được hơn mười năm, mà đã trải qua ba lần nằm bệnh viện, ấy là chưa kể mấy lần đau ốm nhì nhằng được chẩn đoán xét nghiệm định bệnh rồi cấp thuốc về nhà điều trị. Hai lần nhập viện trước do bảo hiểm sức khoẻ đài thọ vì hồi đó còn đi làm có thu nhập và có bảo hiểm. Thời gian sau vì tuổi già sức yếu không hãng xưởng nào mướn nên không có bảo hiểm, nhưng cũng may trời thương sao đó ít ốm đau. Cái tuổi gì kỳ cục, khi nước Mỹ ấn định sáu mươi được gọi là già thì mới năm mươi mấy, leo mãi đến ngày đủ lục tuần thượng thọ thì “nhà nước ta” đổi luật ấn định lại sáu mươi lăm mới được coi là già, thế là ông lão lại phải cố gắng sống lâu thêm năm năm nữa để được đủ tiêu chuẩn lên lão làng lãnh cái thẻ medicare.
Cái số nó vất vả như thế nên phải chịu. Bao giờ cũng chậm chân. Bao giờ cũng là kẻ đến sau. Ở tù cộng sản thì lọt sổ, ra trại gần chót, sang tới Mỹ thì người ta đã ổn định cả rồi mình mới tập tành lái xe cho quen với xa lộ và tốc độ. Đi làm, đóng thuế chưa được 30 trong khi người ta đòi phải đạt đến 47 credits mới là đủ tiêu chuẩn tối thiểu để được quĩ xã hội giúp đỡ. Ở Mỹ đau ốm bệnh tật rất tốn kém, sức người thường chịu không nổi, thời trẻ có việc làm kiếm được tiền chật vật đóng bảo hiểm sức khoẻ phòng khi ngã bệnh còn có chỗ để mà đến xin điều trị, bằng không kể như lo âu, có khi... không dám đau ốm! Cho nên phải nhẫn nhịn sống chờ mất mấy năm mới tới tuổi già để được ốm đau bệnh tật một cách dễ chịu thoải mái, vì mọi việc khi ấy đã có... nhà nước lo.
Sách Mới: Văn Hoá Văn Chương Việt Nam Của Nguyễn Hưng Quốc
Giới Thiệu Sách Mới
Sách dày 244 trang, giá $20. Liên lạc : unclvv@hotmail.com
Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022
Ngô Nhân Dụng: Mỹ kiềm chế Trung Cộng trên mặt trận kỹ thuật
Trong tháng Tám, chính phủ Mỹ cấm bán cho các công ty Trung Quốc những chương trình (phần mềm) để tự động thiết kế các chất bán dẫn cực nhỏ. Báo chí Trung Cộng đả kích, coi đó là một “cú đấm” nặng nề trong cuộc đấu giữa hai nước trên võ đài sản xuất “chíp.”
Trận đấu đã diễn ra với nhiều đòn nhỏ hơn, nhưng liên tục và thường xuyên. Tháng Sáu năm nay, bà Gina Raimondo, bộ trưởng thương mại Mỹ mới đe dọa có thể “đóng cửa” bất cứ nhà sản xuất chất bán dẫn nào ở Trung Quốc! Bởi vì, bà nói, “Tất cả các con “chip” chế tạo ở Trung Quốc và trên thế giới hầu như đều được làm bằng dụng cụ hoặc phần mềm vi tính của Mỹ.” Mỹ và các nước Âu châu đang “cấm vận” các công ty vũ khí của Nga. Nếu các công ty Trung Quốc bị bắt quả tang bán chíp cho Nga, chính họ sẽ không mua được chíp để dùng!
Các nhà sản xuất “chíp” bên Trung Quốc đều nhờ vào công nghiệp thông tin Mỹ trong hai lãnh vực. Thứ nhất là các thiết bị sản xuất, viết tắt là SME (semiconductor manufacturing equipment). Thứ hai là “phần mềm,” EDA (electronic design automation) là những chương trình tự động thiết kế các con chíp. Năm 2008, Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra kế hoạch 15 năm (2006 - 2020), đặt ưu tiên phát triển các EDA.
Việc chế tạo các con chíp cần đến 300 thứ máy móc, bộ phận và vật liệu, thường do hàng chục nước cung cấp, tất cả đều sử dụng các sáng chế của Mỹ. Làm chủ bản quyền sáng chế cùng với các máy móc để chế tạo và các vật liệu, các công ty Mỹ nắm những chìa khóa trong việc sản xuất chíp khắp thế giới. Một kỹ thuật người ngoài ít khi để ý đến là “Lithography,” một tên quen thuộc trong ngành ấn loát. Trong công nghiệp tin học, Lithography là phương pháp đặc biệt để “in” các “mẫu” chíp lên các miếng silicon. Nước Mỹ nắm bản quyền phần lớn các máy móc và kỹ thuật dùng trong “kỹ thuật in ấn” này. Chính phủ Mỹ có thể cấm xuất cảng Lithography cho bất cứ nước nào nếu họ bán cho các công ty Nga hay Trung Quốc đang bị cấm vận.
Trong nghề sản xuất chất bán dẫn, các xí nghiệp chạy đua để chế ra những con chíp càng nhỏ càng tốt. Từ năm 2020 Mỹ đã cấm bán cho Trung Cộng những máy dùng “tia cực tử ngoại” EUV, extreme ultra violet, có khả năng chế những chíp dưới 14nm (nano mét, một phần tỷ của một mét).
Nguyễn Văn Tuấn: Việt Nam có gì mới? Việt Nam có gì đáng ngạc nhiên? (*)
RFA: Theo dõi Nhân quyền - VN trả đũa LS Võ An Đôn vì dám dùng luật pháp bảo vệ các nhà hoạt động!
Luật sư Võ An Đôn sau khi không được hành nghề luật sư chuyển sang làm nông. FB Võ An Đôn |
Tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền khẳng định, việc ngăn cản luật sư Võ An Đôn đi nước ngoài cho thấy chính phủ Việt Nam có thể dùng mọi thủ đoạn bẩn thỉu để bịt miệng số ít các luật sư còn lại dám bảo vệ các nhà bất đồng chính kiến.
Ông Võ An Đôn, người bị tước bằng luật sư hồi năm 2017, bị cấm xuất cảnh cùng với vợ và ba con khi đang làm thủ tục bay sang Hoa Kỳ để tị nạn chính trị vào tối 27/9.
Ông Phil Robertson, Phó Giám đốc Phân ban Châu Á của tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch) ngày 29/9 ra thông cáo báo chí cho rằng:
“Việc ngăn cản chuyến đi của Võ An Đôn đến Hoa Kỳ cho thấy hành động phổ biến của hệ thống chính phủ Việt Nam, hạn chế quyền tự do đi lại của các nhà hoạt động dựa trên những tuyên bố mơ hồ về “an ninh quốc gia”.
Thực tế là Hà Nội không muốn Võ An Đôn đi nước ngoài để ông có thể thoải mái nói về các chuỗi dài bị sách nhiễu, phân biệt đối xử và lạm quyền mà ông phải chịu vì lựa chọn đại diện cho những khách hàng nhạy cảm về chính trị tại các phiên tòa bỏ túi của Việt Nam."
Susan B. Glasser & Peter Baker: Lá thư Hoa Thịnh Đốn - Vị Tướng Tham Mưu Trưởng Sau Cùng Của Ông Trump (Bản dịch của Nguyễn Minh Tâm)
Stephen Kotkin: Huyệt mộ của nền chuyên chế Nga (Trần Gia Huấn lược dịch từ The Weakness of the Despot by David Remnick and Stephen Kotkin)
Chuyên gia về Stalin đánh giá Putin, Nga và Phương Tây
Stephen Kotkin là một trong những học giả lão luyện về lịch sử Nga. Tác phẩm lừng danh của ông là bộ Tiểu sử Stalin ba tập: Tập I “Nghịch lý của quyền lực, 1878 - 1928” đã được giải Pulitzer, Tập II “Chờ đợi Hitler, 1929 - 1941”, và Tập III “Thế chiến II” và cái chết của Stalin vào 1953, và di sản của ông xuyên suốt thời Soviet.
Kotkin là Giáo sư lịch sử kiệt xuất đang dạy tại Đại học Princeton, Học viện Hoover, Đại học Stanford. Ông đã công bố nhiều nghiên cứu giá trị. Trong khi Kotkin nghiên cứu về nền công nghiệp kiểu Stalinist tại thành phố Magnitogorsk, Nga, ông đã đưa ra lời cảnh báo thật vô giá về chính quyền Putin, và cội nguồn văn hóa Nga.
Vừa rồi, có cuộc trò chuyện với Kotkin về Putin, về cuộc xâm lược Ukraine, về cách Âu-Mỹ đáp trả, và những gì sẽ xảy ra, bao gồm cả khả năng đảo chính tại Moscow. Cuộc trò chuyện đã được thu video, có chỉnh sửa lại cho phù hợp thời lượng, và đây là nội dung buổi trò chuyện đó.
Hỏi: Chúng ta đã nghe nhiều ý kiến trong quá khứ và cả hiện tại về nguyên nhân những gì đang xảy ra ở Ukraine. George Kenna cho rằng lỗi lầm chiến lược là do NATO đông tiến. John Mearsheimer khẳng định Mỹ phải chịu trách nhiệm chính. Vậy, chúng ta bắt đầu câu chuyện này bằng những phân tích của ông.
Trả lời: Tôi dành cho George Kenna một sự tôn trọng lớn, còn John Mearsheimer là học giả tầm cỡ. Nhưng tôi không đồng ý với cả hai. Hai học giả này đã giả định: Nếu NATO không mở rộng về hướng đông, thì Nga không đánh Ukraine.
Những gì chúng ta đang chứng kiến là không đáng để ngạc nhiên. Putin không khác gì so với những mô hình Nga từ thời chưa có NATO. Trong vòng 500 năm qua, Nga đã hành động như thế này rồi. Nga là chuyên quyền. Nga là trấn áp. Nga là sức mạnh quân sự. Nga là nghi ngờ nước khác. Nga nghĩ xấu về phương Tây. Nga thù oán phương Tây. Đây là nước Nga mà chúng ta đã biết. Nước Nga không phải mới xuất hiện hôm qua, hay từ thập kỷ 90s.
Nguyễn Hưng Quốc: Để Nhớ 7 Năm Ngày Võ Phiến Mất - Những Năm Tháng Cuối
Mỗi lần có dịp qua Nam California, một trong những người đầu tiên tôi đến thăm bao giờ cũng là Võ Phiến (1925-2015). Chủ yếu là vì tình thân. Tôi quen với khá nhiều người cầm bút Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, nhưng người tôi gần gũi nhất có lẽ là Võ Phiến. Gần, chủ yếu là vì, trong thời gian viết cuốn Võ Phiến (1996), tôi đọc ông nhiều và rất kỹ; và cũng vì, trong suốt thời gian chuẩn bị tài liệu cho cuốn sách ấy, kéo dài cả mấy năm, tôi và Võ Phiến thường xuyên liên lạc thư từ với nhau. Thư, thoạt đầu, khá khách sáo; sau, cứ dần dần thân thiết. Sự thân thiết, thoạt đầu, giống như tình bạn, thứ bạn vong niên trong văn nghệ, dần dần, giống như tình gia đình: Tôi xem Võ Phiến như một ông bác. Khi đã xem như bác, việc thăm viếng trở thành một cái lễ, một thứ bổn phận.
Mà kể cũng lạ. Trong giới cầm bút nổi danh trước năm 1975 sau này sống ở hải ngoại hầu như chỉ với Võ Phiến là tôi xem như một ông bác. Với những người khác, ngay cả với Mai Thảo, chỉ nhỏ hơn Võ Phiến hai tuổi và lớn hơn tôi đến 30 tuổi, tôi chỉ xem như là anh. Nói chuyện với Mai Thảo, theo đề nghị của chính ông, tôi gọi bằng “anh” và xưng “em”. Không những vậy, có lúc tôi còn xem ông như một đứa em nữa là khác. Đó là những lần, lúc tôi còn ở Paris, ông bay từ California sang chơi. Sau khi ăn uống hay đi dạo phố, đưa ông xuống trạm xe điện ngầm để về nhà Trần Thanh Hiệp, nơi ông ở trọ, sau khi dặn dò đường đi nước bước, rồi nhìn cái ánh mắt lúc nào cũng mơ mơ màng màng, cái dáng người cao lêu nghêu và cái bước chân hơi liêu xiêu của ông, tự dưng tôi thấy bất an. Sợ ông đi lạc. Sợ ông băng qua đường ẩu, xe đụng. Sợ vu vơ đủ thứ. Như sợ cho một đứa em ngơ ngác giữa phố lạ. Những lúc ấy, tôi quên bẵng là ông đã từng qua Paris nhiều lần và rất giỏi tiếng Pháp. Với Võ Phiến, chưa bao giờ tôi có cảm giác ấy. Nhìn ông và nói chuyện với ông, tôi có cảm giác như đang đối diện với một công chức tỉnh lẻ hiền lành. Từ dáng dấp đến vẻ mặt, có vẻ gì hơi hơi thật thà, hơi hơi chất phác, nhưng đôi mắt của ông thì khác: Lúc nào cũng tinh anh, cũng nhanh nhẹn, toát lên vẻ gì vững vàng, có thể đương đầu với mọi tình huống và mọi bất trắc.
Trùng Dương: Thăm lại mộ thuyền nhân Việt ở Đông Nam Á
Anh bạn nhà báo Lưu Dân bên Úc gửi cho bản tin phổ biến cuối tháng Tám vừa qua trước ngày nghỉ gọi là Quốc khánh của Hà Nội, tựa là“Khuyến cáo du khách Việt không nên đến một số khu vực tại Indonesia, Philippines và Malaysia”. Lý do: “Tổng cục Du lịch Việt Nam cho biết khuyến cáo này nhằm đảm bảo an toàn cho khách du lịch outbound (khách trong nước ra nước ngoài).”
“Để đảm bảo an toàn cho khách du lịch và tránh phát sinh những vấn đề về chính trị, ngoại giao, đề nghị Hiệp hội Du lịch Việt Nam, Liên chi hội Lữ hành Việt Nam thông tin, khuyến cáo các doanh nghiệp lữ hành tạm thời không đưa khách đến 3 địa điểm trên,” thông báo của Tổng cục Du lịch Việt Nam cho hay.
Đọc bản tin, tôi không khỏi bật cuời. Vào thời buổi Internet phát triển vượt bực và tạo cơ hội cho mọi người có dịp tiếp cận với đủ loại thông tin và kiến thức của Thế kỷ 21 này, bất kể các nỗ lực ngăn chặn mà tôi gọi là “lấy thúng úp voi” của chế độ, mà nhà nuớc, qua Tổng cục Du lịch VN, vẫn còn đối xử với người Việt trong nước như một lũ con nít không biết gì.
Cái mà họ thực sự quan tâm không phải là “an toàn cho du khách”, mà chính là cho thế đứng của chế độ tư bản đỏ song vẫn độc tài của họ đấy thôi.
Chuyện thuyền nhân VN vào cuối thập niên 1970 và suốt thập niên 1980 có mấy ai mà không biết, nếu muốn. Chỉ cần đánh cụm từ “thuyền nhân Việt Nam” hay “Vietnamese boat people” trong bất cứ hộp Search của bất cứ browser nào—Safari, Google, Microsoft Edge, Firefox, Omega, Duckduckgo, vv…--là thấy hiện lên đầy các tài liệu, hình ảnh và phim liệu về thảm kịch kéo dài gần hai thập niên này. Cho là trong nước những trang Web này có bị chặn thì vẫn có vô vàn các cách khác để tiếp cận thông tin trên Mạng. Người Việt trong nước, khả năng kỹ thuật điện toán nghe nói nhiều khi còn hơn cả nhiều người hải ngoại nữa.
Tại sao phải đến tận nơi chôn cất các nạn nhân vượt biển đi tìm tự do không may bị bỏ mạng tại các địa điểm như Galang (Indonesia), Bidong (Malaysia) và Palawan (Philippines)? Các du khách trong nước muốn tới tận các nơi này thăm viếng thực ra phần lớn chính là thân nhân của các nạn nhân vượt biển muốn viếng người thân để vun đắp, sửa sang mộ phần và thắp lên một nén hương tưởng nhớ. Cấm đoán họ vì những lý do “an toàn” đâu đâu là một lời dối trá không che dấu được ai, nếu không nói là một sự tàn nhẫn, táng tận lương tâm đối với những người không quên được thân nhân đã chết thảm trên đường đi tìm tự do mấy thập niên trước.
Tam Mao: Lạc Đà Khóc (Nguyễn Văn Thực dịch từ nguyên tác chữ Hán)
Lạc Đà Khóc
哭泣的駱駝
(Khốc Khấp đích Lạc Đà)
Tam Mao
(1943 – 1991, Đài Loan)
![]() |
Hình minh hoạ, Sam Williams, Pixabay |
Lời Người Dịch : Bối cảnh địa lý và lịch sử của bài này xin xem chú thích (1); về tác giả Tam Mao xin xem chú thích (2). Quý độc giả nên đọc chúng trước khi đọc chính bài văn này.
Tác giả dùng dấu phẩy nhiều hơn dấu chấm, có lẽ tác giả chịu ảnh hưởng lối hành văn ”hành vân, lưu thuỷ/mây bay, nước chảy” của văn chương Trung Hoa xưa. Các tác giả hiện đại cũng hay chấm câu kiểu này, khác người Việt chịu ảnh hưởng lối chấm câu cứng cỏi, rạch ròi của Pháp. Người dịch giữ lại lối chấm câu này của tác giả.
Các nhân vật trong bài văn này, hiểu ngầm là họ nói tiếng Tây Ban Nha khi nói chuyện với tác giả Tam Mao, còn ngôn ngữ nói thường ngày với nhau của dân ở đó, chính là Tiếng Ả rập Hassaniya.
****
Hôm nay, đã không biết bao nhiêu lần, tôi chợt tỉnh giấc trong căn phòng tăm tối, ngoài đường chẳng có tiếng người, tiếng xe cũng không. Chỉ có tiếng đồng hồ báo thức trên bàn tích tắc trong trẻo mà vô tình mỗi lần tôi thức giấc.
Rồi tôi cũng tỉnh hẳn, những chuyện xảy ra hôm qua, không phải chỉ là cơn mộng dữ rồi qua. Mỗi lần tôi thức giấc, trí nhớ lại bắt tôi nhớ lại những hình ảnh chạy loạn xạ như chạy trước ống kiếng, về những chuyện mới xảy ra đây thôi, ở nơi ấy, của một tấn thảm kịch khiến tôi những muốn khóc thét lên được.
Tôi khép mắt lại, những khuôn mặt của anh Bassiri, của anh Afeluat và của cô Shahida/Sahiđa, với vẻ mặt tươi cười mà như không cười, cứ chập chờn như sóng sóng điệp trùng trước mặt tôi. Tôi bật mình dậy, bật đèn sáng, tôi nhìn tôi trong kiếng, chỉ trong một ngày mà tôi, lưỡi đã khô, môi đã rộp, hai mắt sưng húp, hốc hác quá chừng.
Khi tôi mở cánh cửa sổ gỗ hướng ra phía đường, sa mạc phía ngoài khung cửa sổ, hoang vắng y như một vùng băng tuyết, chẳng có lấy một bóng người. Đột nhiên bị sa vào cảnh trí mà mình không ngờ thê lương đến như thế, tôi đâm sững sốt, ngây người nhìn đăm vào trời đất dửng dưng của vùng cát trắng mênh mông, và chẳng còn biết mình đang ở nơi nao.
Tam Mao: Lạc Đà Khóc (Nguyễn Văn Thực dịch từ nguyên tác chữ Hán) (Phần 2)
Tôi còn chưa kịp nhảy dựng lên, anh José đã đập bàn cái rầm, đứng lên toan xông lại núm lấy gã để đấm. Mọi người bỗng nhiên nhìn vào chúng tôi. Tôi, trong tuyệt vọng, níu anh José lại để anh khỏi xông tới. “Hắn chỉ là một thằng vô học, lỗ mãng, anh hơi đâu mà đôi co với thằng chã mà làm gì!”
“Cái thằng ăn nói quàng xiên như thế, mà anh bảo em bỏ qua cho được à? Theo như hắn ta, những người không thần phục sự thống trị của ngoại nhân, thì cũng như đám ruồi xanh phải giết chết hết. Các bạn, người Đài Loan, ngày xưa đã kháng chiến chống Nhật, hắn có biết chăng?” Anh José hét, còn tôi, tôi dộng chân xuống đất, rồi đẩy anh José ra ngoài,
“Em không tán thành chủ nghĩa thực dân, nhưng, vì thể diện của Tây Ban Nha, chúng ta phải ăn nói làm sao cho xuôi, chứ anh lại đánh lộn với chính đồng bào của anh, thì anh sẽ bị kết án là kẻ không yêu nước, thương đồng bào của anh, vậy thì có ích lợi gì đâu?”
“Con sâu làm rầu nồi canh… hừ, như thế thì làm sao mà người Sahwari ưa chúng ta cho được?” Anh José trở nên buồn bã thực sự. “Bên mười, bên chín rưỡi còn dư, một đàng quân du kích gọi chúng ta là chó, một đàng nghe những lời tương tự từ miệng những người của chính phe mình, anh những muốn độn thổ luôn. Thiệt là khổ! “
“Lúc đầu chuyện này có thể giải quyết trong hoà bình. Nếu Ma rốc không tính chuyện chia cắt, họ sẽ không gấp gáp đòi độc lập kiểu này.”
“Tam Mao, em phải quan sát kỹ tình hình chung quanh, em phải rời khỏi đây ngay, và tìm một nơi nào đó mà tránh bạo loạn, hết loạn rồi trở lại có được không?”
“Em?” Tôi cười to chế nhạo anh José. “Em không đi đâu hết. Tây Ban Nha còn quản trị nơi này một ngày, em sẽ ở lại một ngày, ngay cả khi Tây Ban Nha tháo chạy, chưa chắc em sẽ chạy theo họ.”
Đêm hôm đó có lệnh giới nghiêm trên toàn thị trấn, loạn lạc thì cũng giống như nước lũ tràn xuống đồng bằng thôi, rồi lại rút đi, ban ngày trên đường, cảnh sát Tây Ban Nha cầm súng chỉa vào người bộ hành, người nào người nấy cứ tựa thân vào tường mà vái lia vái lịa, bị ra lệnh phải cởi quần áo ra để cảnh sát khám xét. Sáng sớm nên chẳng có người trẻ tuổi nào, chỉ thấy có ông già bà lão, giơ hai tay lên, mắt hấp háy, để cho người ta sờ trên, nắn dưới, cái kiểu lục soát này làm cho người ta tức tối, mà chẳng mang lại kết quả nào. Du kích, bộ họ ngu đến cỡ đeo súng khơi khơi để bị khám xét hay sao?
Tam Mao: Lạc Đà Khóc (Nguyễn Văn Thực dịch từ nguyên tác chữ Hán) ( Phần 3 -Tiếp theo và hết)
“Ma rốc ư? Nếu Liên Hiệp Quốc nói rằng phải trao Tây Sahara cho dân tộc chúng tôi tự quyết lấy thì Ma rốc không cần phải sợ hãi. Ma rốc, họ tự cho họ là ai? Còn nếu không, Tây Ban Nha sẽ phải đưa Ma rốc ra tòa án La Haye!”
Vào ngày 17 tháng 10, sau không biết bao nhiêu ngày tranh tụng về vấn đề Tây Sahara, và bị thúc dục rất nhiều lần, c uối cùng Tòa án Quốc tế ở La Haye mới đưa ra phán quyết đã được chờ đợi từ lâu.
“Chúng ta đã chiến thắng! Chúng ta đã chiến thắng! Hy vọng đã vươn lên, hoà bình đã đến cho dân tộc Sahrawi !“ Người Sahrawi trong thị trấn khi nghe đài phát thanh như thế, họ lấy hết mọi thứ có thể đập được đưa ra đập, và nhảy và la hét như điên, người Tây Ban Nha và Sahrawi, khi gặp nhau, bất kể họ có quen biết hay không, cứ ôm nhau. Họ cùng cười, cùng nhảy múa và ăn mừng như điên trên khắp đường phố.
“Em có thấy không: nếu Tây Ban Nha giải quyết được chuyện sống chung hòa bình với nhau trong tương lai, chúng ta sẽ ở lại đây?“ Anh José ôm tôi cười sung sướng, nhưng tôi vẫn lo lắng, không hiểu sao tôi cứ cảm thấy thảm họa đằng nào cũng sắp xảy ra.
“Mọi chuyện sẽ không đơn giản như vậy, và đây không phải như con nít chơi trò chơi gia đình.” Tôi vẫn không chịu tin.
Vào ngay buổi tối hôm Toà án La Haye đưa ra phán quyết, xướng ngôn viên của Đài phát thanh Sahara đột nhiên đau đớn đưa tin: “Vua Hassan của Ma rốc kêu gọi quân tình nguyện tập họp lại, và bắt đầu từ ngày mai, họ sẽ tiến quân một cách hòa bình về phía Tây Sahara.”
Anh José vỗ bàn và bật dậy.
“Quyết chiến!” Anh hét lên, và tôi, tôi vùi mặt vào lòng mình.
Điều kinh hoàng là quỷ vương Hassan chỉ mong kiếm được 300.000 người tình nguyện, thế mà ngày hôm sau đã có 2 triệu người ghi danh xin đi.
Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2022
Ngô Nhân Dụng: Gửi tiếng Việt tặng người Việt tị nạn
Đảng Cộng sản Việt Nam lo lắng giúp người Việt tị nạn hoặc di cư sống ở nước ngoài. Họ lo dân Việt xa quê có ngày sẽ không còn đủ tiếng Việt để xài nữa, dù có cố gắng tiết kiệm, chỉ dần dần xài mỗi ngày một chút cho đỡ tốn. Cho nên, để giúp đỡ hơn 5 triệu người Việt ở 130 quốc gia trên thế giới, Đảng đã chọn ngày 8 tháng Chín làm ngày đề cao Tiếng Việt.
Theo ký giả Sen Nguyen, trên the South China Morning Post ở Hồng Kông ngày10 tháng Chín, 2022, một ông phó thủ tướng tên là Phạm Quang Hiêu (Hiếu, Hiệu, hoặc Hiểu, …), nói đã có một “kế hoạch 8 năm” nhằm viện trợ tiếng Việt cho đồng bào ruột thịt!
Trong khi chờ đợi “kế hoạch 8 năm” được thi triển, bà con di cư tị nạn muốn nếm thử một chút ít “tiếng Việt Cộng” có thể tìm đọc ngay trên báo Nhân Dân, là Báo Nhân Dân ngày 19 tháng 9 năm 2022, có một bản tin về “tai nạn giao thông nghiêm trọng” hôm trước. Một chiếc “ô-tô tải” do một anh tên Triều lái đã tông vào một “xe mô-tô” do một anh khác lái chở theo một Việt kiều từ Mỹ về chơi.
Thay vì viết anh Triều “lái” chiếc xe, “Tiếng nói của Đảng, Nhà nước ...” đã viết rằng chiếc xe do anh “điều khiển lưu thông.” Người lái chiếc mô-tô cũng được mô tả là “điều khiển” chiếc xe gắn máy. Sau đó, chiếc ô-tô tải bị lật nhưng lại đụng vào một chiếc xe đạp do một “học sinh lớp 10 điều khiển.” Không nói “Lái xe,” xe hơi, xe bình bịch hay xe đạp, phải nói “điều khiển.”
Thêm một chữ nữa: “va chạm.” Báo Nhân Dân viết tiếp, “Sau khi va chạm vào mô-tô,” chiếc xe tải “tiếp tục va chạm” vào chiếc xe đạp, chúng tôi in chữ nghiêng. Thông thường người Việt dùng hai chữ “va chạm” để tả hai vật hay hai người đụng chạm hoặc va nhau, một cách nhẹ nhàng. Nhưng trong báo Nhân Dân các “va chạm” đó làm chết hai người!
Trên cùng trang nhất tờ báo này, thấy “vụ việc một du khách nước ngoài va chạm với đoàn xe lửa Lào Cai-Hà Nội,” may mắn thoát chết! Nhưng “Đoàn tàu … va chạm với du khách” đã “phải dừng lại giải quyết sự cố, tuyến đường … ùn tắc.” Tốt nhất, bà con ở nước ngoài, dù gặp cảnh “sự cố ùn tắc” cũng nên tránh không “va chạm” với chữ nghĩa của các ông cộng sản.