Thứ Sáu, 21 tháng 1, 2022

Yến Phương: Dốt như Tuyên giáo…

 Chắc chỉ có một mình Tuyên giáo Trung ương là trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, thông kim bác cổ đến mức có thể phán xét được cả tiền nhân !


"Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương"

Nguyễn Trãi – Bình Ngô Đại Cáo


Từ những lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, thầy cô thường giảng rằng : Việt Nam là đất nước có bề dày lịch sử hơn 4000 năm văn hiến ; cha ông ta đã có những trận chiến oai hùng chống giặc phương Bắc để bảo vệ Tổ quốc. "Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời xây nền độc lập – Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương" (Nguyễn Trãi – Bình Ngô Đại Cáo).


Lịch sử, với tôi, là một bức tranh nhiều hình ảnh và màu sắc. Ở đó, tôi không chỉ được một lần "sống lại" với những trận chiến oai hùng của cha ông, mà còn có dịp tìm hiểu rõ hơn những ẩn khuất, những điều mà trường học chưa chắc được phép dạy.


Có người nói lịch sử thuộc về phe chiến thắng, điều đó không sai, nhưng cũng có thể chưa đúng hoàn toàn. Bởi, dù có che đậy như thế nào, guồng máy của cuộc sống với sự tiến bộ của "thế giới phẳng", của 4.0, rồi lịch sử cũng sẽ dần trở về đúng với vai trò của nó.


Đó là một Nguyễn Trãi với Lệ Chi Viên. Đó là việc nhìn nhận lại ít nhiều vai trò của Hồ Quý Ly. Đó là việc suy xét xem Nguyễn Ánh – Gia Long có thật sự là "tội thần" với đất nước ? Đó là việc minh oan cho Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt. Và đó còn là việc nhìn lại công – tội thật sự của Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký.


Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2022

Ngô Nhân Dụng: Tập Cận Bình phải học làm chíp

Thế kỷ trước, kinh tế muốn chạy được cần phải có dầu lửa; bây giờ thì ai cũng cần chất bán dẫn. Hiện Trung Quốc chỉ sản xuất được 17% chất bán dẫn cần dùng trong nước (semiconductors bên Trung Quốc gọi là ‘bán đạo 半导,’ chữ đạo nghĩa giống như dẫn). Kế hoạch 5 năm mới (2021-2025), nhấn mạnh, “Tự túc về kỹ thuật là điểm tựa chiến lược để phát triển quốc gia.”

Vì vậy ông Tập Cận Bình thúc đẩy việc chế tạo các chất bán dẫn tân tiến nhất. Năm 2014, Bắc Kinh đổ ra $22 tỷ đô la đầu tư cho các công ty làm chíp, năm 2019, lập thêm một quỹ $30 tỷ, các tỉnh và thành phố đều bỏ thêm tiền vào, theo Yoko Kubota trên nhật báo The Wall Street Journal ngày 10 tháng 1, 2022.

Với những ngân sách lớn như thế, trong 7 năm qua hàng chục ngàn công ty đã đăng ký chế tạo chất bán dẫn hoặc các công nghiệp liên hệ. Nhưng kết quả không đúng như Tập Cận Bình trông đợi. Trong ba năm vừa rồi, đã có 6 công ty lớn, sau khi được trợ giúp $2.3 tỷ mỹ kim, bắt đầu hoạt động rồi đóng cửa sớm, mà không làm ra một con chíp nào cả. Kubota tìm hiểu hai công ty quan trọng ở Vũ Hán (Wuhan, 武汉) và Tế Nam (Jinan, 济南).

Công ty ở Vũ Hán mang tên là Hoằng Tâm (Hongxin, 弘芯, viết tắt HSMC) đã chính thức giải tán vào tháng Sáu vừa qua. Công ty ở Tế Nam là Tuyền Tâm (Quanxin, 泉芯, viết tắt QXIC), đã ngưng hoạt động chờ thanh toán.

Một người đã giúp cả hai công ty trên ngay từ đầu, có lúc đã đóng vai chỉ huy. Nhân vật này, Cao San (Cao Shan) kinh doanh trong ngành chất bán dẫn từ năm 2005, đã qua Đài Loan tuyển mộ các chuyên viên cho cả hai. Cao San là một tên giả, để đánh lừa chính phủ Đài Loan, họ vẫn theo dõi những hoạt động của Trung Cộng mua chuộc nhân tài kỹ thuật. Tân Trúc, bên cạnh Đài Bắc hiện là thủ đô chất bán dẫn của thế giới.

Nguyễn Đức Tùng: Một Bông Hồng Cho Phạm Đoan Trang

Hình minh hoạ Image by Rosalia Ricotta, Pixabay

Cám ơn nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Anh đã nói thay cho tất cả chúng tôi.

…Khuôn mặt em như một bờ vai

Để dân tộc gối đầu lên

Ý Nhi

 

1.

Linh hồn đất nước đã bay đi

Bầu trời khô hạn

Sài Gòn Hà Nội mùa đại dịch chưa qua

Người chết đêm khuya chưa kịp chôn

Chúng đã nôn nóng giở trò

Gởi quà mừng Giáng sinh dân tộc

Bằng đám rước dâu ư?

Không

Bằng tiếng pháo bông?

Không

Bằng tiếng khóc

Của người mẹ già tám mươi tuổi

Tôi cúi xin anh chị bên đường

Một bông hồng cho Phạm Đoan Trang


Phan Lạc Phúc: Văn Cao. Giấc Mơ Một Đời Người

Tranh Đinh Cường, minh họa nhạc phẩm Thiên Thai của Văn Cao

 Đầu năm 1995, có người trao cho tôi một cuốn video mà tôi mong đợi đã từ lâu. Cuốn băng về Văn Cao: “Giấc Mơ Của Một Đời Người”. Từ bữa ấy tới nay, đã hai, ba lần xem đi xem lại cuốn băng này mà lần nào xem xong tôi cũng không tránh khỏi thở dài. Một con người tài hoa như vậy, tâm hồn lớn lao như vậy, có đóng góp như vậy mà cuối đời, sao mà tẻ lạnh, buồn tênh. Một ông già lụm cụm, râu tóc bạc phơ, một mình trong gian phòng vắng, ngoài trời mưa bay, cây bàng khẳng khiu, những chiếc lá cuối cùng đã rụng. Văn Cao nhìn “cây bàng mồ côi mùa đông” trong khi chiếc đồng hồ trên tường không ngừng nghỉ, điểm những giọt thời gian tích tắc, tích tắc. Những tiếng tích tắc ấy vang lên mênh mông trong gian phòng vắng như một câu hỏi mơ hồ nhưng khắc nghiệt: đến bao giờ.

Đến bao giờ xuất hiện dấu chấm hết cho một đời người, bởi vì không ai tránh khỏi: con người sinh ra là để chết (l’homme, un être mortel). Những tiếng tích tắc ấy như những giọt cường toan nhỏ xuống lòng người.


Trần Mộng Tú: Câu Hỏi Cuối Cùng

Chó là một loài gia súc được thương yêu và thân mật với người nhất, vì chó thông minh và thân thiện. Ngoại trừ chó săn và chó dùng trong quân đội để phụ với các binh sĩ trong lãnh vực trinh sát, hành quân, thì không được thân thiện lắm vì nó được huấn luyện cứng rắn ngang với một binh sĩ, nhưng loại chó này cũng rất chí tình với chủ, nó có hữu ích về mặt thi hành nhiệm vụ ngang với một quân nhân.

Ngày cuối cùng kết thúc sứ mạng của các chiến sĩ Hoa kỳ ở Iraq rồi cũng phải đến. Vào ngày thứ bẩy 17 tháng 12 năm 2011, tổng thống Mỹ chào mừng những chiến sĩ cuối cùng vừa rút ra khỏi mặt trận Iraq sau gần chín (9) năm trong nắng, cát nóng và gió Trung Đông. Tổng cộng, Hoa Kỳ mất 4500 binh sĩ và hơn 33 ngàn binh sĩ khác bị thương. Những chiến sĩ hy sinh mạng sống này trung bình ở tuổi 26; gần 1,300 người ở tuổi 22 hoặc trẻ hơn và 511 người trên tuổi 35.(*)

Hình minh hoạ janeb13Pixabay

Tuy nhiên, người ta quên liệt kê, song song cùng với các chiến sĩ này, một lớp chiến sĩ khác cũng vào sinh, ra tử trong cát nóng và gió chướng. Đó là những chiến sĩ bốn chân, được mệnh danh là “Quân Khuyển”, tức là “lính chó” (soldier dogs). Con số những chú chó anh hùng tham gia vào cuộc chiến này lên đến 1000 con và bao giờ chúng cũng ở tiền tuyến.

Chó được tuyển vào Quân Khuyển phần đông thuộc giống Belgian Malinois và German Shepherds, một số nhỏ là Labrador.

Nguyễn Văn Thà: Thánh Nữ

 1. Dẫn ngôn

Hình một người nửa nam nửa nữ trên một bình gốm Hy Lạp cổ đại, Wikipedia

Thần thoại Hy Lạp về người tri kỷ, hay về chuyện một con người trở thành những con người và ngược lại

Người ta kể rằng vào thời hồng hoang, khi con người mới được tạo ra, con người có hình dạng khác với người ngày nay. Trong “The Symposium: Chuyện trà dư tửu hậu”, triết gia Platon mượn lời Aristophanes, một kịch tác gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ, kể truyện về những người tri kỷ như sau:

“Theo thần thoại Hy Lạp, con người ban đầu mới được tạo ra, có bốn tay, bốn chân và một cái đầu với hai khuôn mặt. Thần Chủ tể Zeus/Jupiter thấy thế, đâm lo sợ về sức mạnh của họ, và để ngăn ngừa tai hoạ về sau, thần đã chẻ dọc con người thành hai phần, và bắt họ phải trọn đời tìm kiếm nửa-kia của mình.” 

Quả thật, cũng theo thần thoại kể trên, trong Thiên nhiên có ba giới tính: Đàn ông, đàn bà và androgynous: nghĩa đen là đàn ông+phụ nữ hay là nửa nam nửa nữ, trong tiếng Hy Lạp. 


Mỗi giới có hai bộ sinh dục, nghĩa là mỗi đàn ông có hai bộ sinh dục đàn ông và mỗi đàn bà có hai bộ sinh dục đàn bà, nằm đối xứng hai bên thân thể, trong khi người nửa nam nửa nữ có một bộ sinh dục nam ở một nửa dọc thân thể cộng với một bộ sinh dục nữ nằm đối xứng ở nửa dọc thân bên kia. 


Giới tính của con người có liên quan đến nguồn gốc của họ: đàn ông là con của Mặt trời và đàn bà là con của Trái đất, trong khi androgynous là con của Mặt trăng, được sinh ra từ sự hôn phối giữa Mặt trời và Trái đất. 



Lê Chiều Giang: Cá Vàng

Tranh Đinh Cường

“Sao lòng ta bỗng rộn ràng

Như những toa tàu sắp chạy

Thăm những nhà ga sắp hồi sinh

Những nhà ga sắp thở…”

[Đinh Cường 1969]


 Anh Đinh Cường gọi phone cho tôi chỉ hỏi:” Làm sao để thành ...Cá?”.


Cá bơi xuôi lội ngược, vẫy vùng trong biển lớn, hay quanh quẩn trong hồ ao? Cá đẹp óng ánh bơi ngược dòng, hay lừ đừ chịu trận trong lưới ngày, và ngay cả đang giãy dụa chết bởi những lưỡi câu lờ lững?


Không phải, Anh hỏi tôi về cá khác. Cá Vàng.


Năm 1997, anh Trần Công Sung từ Paris viết bài về chuyến ghé thăm một số bạn bè sống ở California và một vài tiểu bang khác.


Tạp Chí Thế Kỷ 21 gửi xuống San Diego bài viết của Trần Công Sung viết riêng cho Nghiêu Đề, chỉ bởi từ câu nói đùa của anh:” Suốt bao năm, Giang ngắm nhìn tôi như thích một con Cá Vàng”.


Anh Trần Công Sung viết lời ngợi ca, khen tặng tất cả những “Vợ hiền” trên trái đất. Dù có thấp thoáng chút hồn thơ mộng, vẫn không dám chểnh mảng cái trách nhiệm khó khăn muôn đời của “Hội phụ nữ” chúng tôi: Bằng mọi gíá, luôn xây dựng, vun xới quyết liệt cho một gia đình ấm êm, và hạnh phúc


Cuối cùng, Anh Nghiêu Đề đau ốm buông bỏ hết mọi thứ, rồi ra đi. 


Mặc Thu: Mì Quảng Của Bùi Giáng

 

Lần đầu tôi gặp Bùi Giáng vào năm 1957, tại Sài Gòn. Khi ấy, mỗi chiều tối, gần như thường lệ, Đinh Hùng và tôi gặp nhau ở Câu Lạc Bộ Văn Hóa, đường Tự Do (Catinat cũ) để uống bia. Quán này của anh chị Phạm Xuân Thái, thường tụ họp khá đông giới văn nghệ sĩ của thủ đô miền Nam. Anh Phạm Xuân Thái lúc ấy đã rời chức bộ trưởng Bộ Thông Tin. Anh đại diện giáo phái Cao Đài trong chính phủ Ngô Đình Diệm.

Quán này có hai tầng tiếp khách. Tầng trên lầu và tầng dưới. Tôi và Đinh Hùng thường ngồi ở cái bàn nơi góc cửa ra vào, tầng dưới. Nhiều khi cùng ngồi với chúng tôi, có nàng thơ bé nhỏ (chừng 16, 17 tuổi) người miền Nam học trường Pháp, Marie Curie. Nàng tên Diệu Hiền (có lẽ chỉ là bút hiệu). Diệu Hiền có nét đẹp thánh thiện, luôn mặc quần áo trắng, tóc buông lơi ngang lưng, không chút phấn son. Diệu Hiền làm thơ, bằng tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Việt. Trong thơ nàng thường tự xưng là “Người yêu của Chúa” và thường nói với chúng tôi “không thể yêu ai, ngoài Chúa”; gia đình Diệu Hiền theo đạo Công Giáo gốc đã từ mấy đời. Câu chuyện Diệu Hiền, tôi sẽ nói ở một đoạn sau trong hồi ký này.

 

Trở lại Câu Lạc Bộ Văn Hóa. Tuy làm chủ, nhưng anh chị Phạm Xuân Thái ít khi xuất hiện. Đôi lần, chị Thái từ nhà trong đi ra phố, ngang qua bàn chúng tôi, khẽ mỉm cười, nghiêng đầu chào. Chị có dáng lả lướt, thanh tao, mơ hồ một nét liêu trai. Nếu khách là kẻ đa tình, không thể không ngơ ngẩn nhìn theo. Cái dáng đẹp ấy có thể dìm chết khách vào trong mộng.

 

Một buổi, Đinh Hùng bảo tôi:

 


NguyễnPhúc Bửu-Tập: Một Kỳ Án Trong Văn Học Thế Giới Thế Kỷ Thứ 20 Giải Mở - Cái Chết Của Saint-Exupéry

Người Việt Nam ta ở tuổi trên dưới 70, lúc trẻ có học tiếng Pháp, chắc không ai xa lạ với hai tên ông Phạm Duy Khiêm và ông Bùi Xuân Bào. Ông Phạm Duy Khiêm tác giả cuốn Légendes des Terres sereines (Truyền Kỳ Mạn Tiên), thuật chuyện nàng ‘thiếu phụ Nam Xương” và chuyện “ngày xưa có anh Trương Chi, mặt thì thật xấu, hát thì thật hay” bằng giọng văn tiếng Pháp trong và mát như nước suối Evian. Ông Bùi Xuân Bào đến sau, văn chương trau chuốt óng ả, viết bản luật án về Saint-Exupéry làm sống văn nhân nước Pháp suốt phần sau của thế kỷ thứ 20, trong giới người trẻ Việt Nam.

Giữa tháng Tư năm 2004 vừa qua, báo The New York Times ở Mỹ và Le Monde ở Paris thông tin là xác chiếc máy bay do sĩ quan không quân Antoine de Saint-Exupéry lái được vớt lên từ một nơi gần cửa biển Marseille, thuộc biển Méditerranée (Địa Trung Hải). Danh số (serial number) của máy bay đúng là con số sản xuất của chiếc máy bay mất tích ngày 31 tháng Bảy năm 1944. Như vậy một điều kỳ án trong văn học thế giới đã gây thắc mắc đúng nửa thế kỷ vừa được giải mở. Ta thử lược đọc lại chút tiểu sử của Saint-Exupéry.


Antoine de Saint-Exupéry (từ sau viết gọn St-Ex) sinh năm 1900 tại Lyon, nước Pháp, thuộc một gia đình quý tộc đã suy kém. Từ nhỏ ông thích phiêu lưu, muốn trở thành một thủy thủ. Sức học kém, ông thi trượt vào trường Sĩ quan Hải Quân (Ecole Navale). Chế độ thi cử nước Pháp rất khắc nghiệt, nhiều lúc trớ trêu, như đã đánh trượt văn hào André Gide khỏi kỳ thi Tú tài, và nữ sĩ Françoise Sagan không qua nổi bằng Tú tài Hai, Bac Philo! Vừa đến tuổi quân dịch, St-Ex chọn binh chủng Không quân. Được bằng cấp lái phi cơ năm 22 tuổi. Thập niên ’20 thế kỷ trước là thời kỳ thám hiểm các đường bay, bắt đầu là các chuyến bay bưu tín. Năm 1926, St-Ex xin gia nhập hãng Latécoère, tình nguyện vào toán phi công khai phá đường bay đem bưu kiện xuống Phi châu và vượt Đại Tây dương xuống Nam Mỹ. Vào thập niên ’30, St-Ex chính thức trở thành phi công thám hiểm các đường bay mới của hãng hàng không quốc gia Air France và được chỉ định làm phát ngôn viên của hãng. Đồng thời ông cộng tác với báo Paris Soir, viết những bài phóng sự về các đường bay mới mở. Thế chiến thứ Hai chợt nổ, tuy đã nhiều lần bị thương trong các phi vụ thám hiểm trước, ông tình nguyện gia nhập đoàn phi công trinh sát, hoạt động thám hiểm hậu cần của địch quân Đức quốc xã. Nước Pháp thất trận. Ông trốn qua được Hoa Kỳ. Năm 1943, ông gia nhập Lực lượng Giải phóng Đồng minh ở Bắc Phi, lại trở thành phi công trinh sát. Phi vụ cuối cùng của ông vào ngày 31 tháng Bảy năm 1944. Phi công và phi cơ được báo cáo là mất tích.


Thứ Sáu, 7 tháng 1, 2022

Tiểu Ký: Phụ tử tình thâm - HAI ĐẠI NHẠC SĨ HỌ TRẦN

Giới âm nhạc Việt Nam và quốc tế mới mất thêm một thiên tài: nhạc sĩ Trần Quang Hải đã ra người thiên cổ ngày cuối năm 30 tháng 12, 2021 tại Paris.  Phu nhân của nhạc sĩ là ca sĩ nổi tiếng Bạch Yến, tuổi đã lớn nhưng tiếng hát vẫn rất ấm và cao vút, kỹ thuật rất đáng khâm phục…

Trần Quang Hải (trái) và Trần Văn Khê, 2014

 Giáo sư Trần Quang Hải đã trình diễn hàng ngàn buổi tại nhiều quốc gia; tham gia hàng trăm đại hội liên hoan quốc tế nhạc truyền thống; giảng dạy tại nhiều trường đại học; sáng tác hơn 400 bản nhạc cho đàn tranh, đàn môi, muỗng, hát đồng song thanh, nhạc tùy hứng... Ông  cũng thực hiện 23 đĩa nhạc truyền thống Việt Nam, viết 3 quyển sách, làm 4 DVD, 4 phim và hội viên của trên 20 hội nghiên cứu thế giới.

"Con đường nghiên cứu của tôi nhắm về sự giao lưu các loại nhạc cổ truyền tạo thành loại nhạc thế giới (world music), pha trộn nhạc tùy hứng, jazz, nhạc đương đại với nhiều loại nhạc khí và kỹ thuật giọng hát để tạo thành một loại nhạc hoàn toàn mới lạ" - giáo sư Trần Quang Hải chia sẻ trên blog cá nhân của ông.


Ts Phạm Trọng Chánh: Kỷ Niệm Với Nhà Nhạc Học Trần Quang Hải (1944-2021)

 GSTS Trần Quang Hải vừa qua đời tại Paris ngày 29-12-2021. Lần cuối cùng gặp anh, anh nói với tôi như trăn trối cho biết anh đang chữa trị ung thư máu, bị thận và tiểu đường, không biết sẽ ra đi lúc nào, hôm nay anh đi ngủ và anh bình thản ra đi lúc 0 giờ 46. Gần năm mươi năm thân thiết với anh, anh xem tôi như em trai, tôi có khuôn mặt giống anh và Bác Khê nên đi đâu ai cũng hỏi : Anh có phải em anh Hải con Bác Trần Văn Khê không ? Tôi đáp : Tôi là học trò Bác Khê, Ai cũng nói : Học trò sao giống Thầy thế ! Những buổi gặp mặt chung với mọi người, anh cũng đùa với mọi người tôi là em của anh. 

Hình chụp tại Paris năm 2012. Từ trái: Trần Quang Hải, một người bạn, tác giả bài này Phạm Trọng Chánh.


Tôi chia xẻ cùng anh nhiều kỷ niệm từ những năm 1970, tôi học đàn, học nhạc với Bác Khê, anh phụ tá Bác hướng dẫn tôi, tôi học bài Phong Xuy Trích Liễu của Nguyễn Tri Khương, truyền thống gia đình anh, tôi dự định soạn luận án về Hát Bội tại trường EHESS Sorbonne, học thêm mấy năm Hán Nôm. Nhưng sau khi tìm kiếm tài liệu kho sách Hán Nôm về các tuồng tích cổ Việt Nam tại thư viện Quốc Gia Paris thì mới thấy đề tài này không dễ chút nào, vì quá phong phú. Tại thư viện lưu trữ đầy đủ từ những bản tuồng Hán Nôm Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh, Bùi Hữu Nghĩa… cho đến những bài hát cải lương ngày xưa bán ở chợ, cả một kho tàng văn hóa Việt Nam bị quên lãng, có những vở tuồng như Quần Phương Hiến Thụy và Vạn Bửu Tình Trường gồm một trăm hồi từng diễn cả trăm ngày nơi Duyệt Thị Đường cung điện Huế. Ngày nay hầu hết chúng ta chỉ biết đến kho tàng văn hoá thi ca, còn kho tàng kịch nghệ Hát Bội gần như bị quên lãng. Khai thác kho tàng văn hoá ấy phải là công sức một Viện Nghiên Cứu trong một thời gian dài, phải tinh thông Hán Nôm, còn việc làm luận án chỉ là việc cỡi ngựa xem hoa, tôi thấy khó và lâu dài quá. Trong khi đó về Giáo Dục thời Pháp thuộc, và Giáo Dục miền Nam có đầy tài liệu tiếng Pháp, tiếng Việt, tôi đành quay sang soạn luận án Tiến sĩ về Giáo Dục với GS Lê Thành Khôi. 


Xong việc học tôi tham gia nhiều loại hoạt động khác. Công việc đại diện thương mại lúc còn sinh viên lại dẫn tôi vào con đường kinh doanh, lập công ty kinh doanh nữ trang, đá quý… cho đến khi hưu trí, tôi không say mê làm giàu, công việc chỉ cần làm đủ sống thong thả. Công việc làm phụ tá cho họa sư Lê Bá Đảng lại dẫn tôi đến thú đam mê học trường Mỹ Thuật và Điêu Khắc, thế là đủ thú vui cầm thư thi họa, viết nghiên cứu trở thành thú vui tiêu khiển. Việc tiếp xúc với GS Hoàng Xuân Hãn để học hỏi thêm Hán Nôm lại đưa tôi vào con đường nghiên cứu Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du và các nhà thơ cổ điển Việt Nam, dịch thơ lục bát các tác phẩm thi ca vĩ đại của nhân loại như Odyssée, Iliade của Homère, Thần Khúc của Dante và Tiểu Thuyết Hoa Hồng của Guillame de Lorris và Jean de Meun.


Học trò người Việt của Gs Khê, ngoài tôi chỉ có anh Nguyễn Thuyết Phong, cho đến khi xong luận án Tiến Sĩ về Âm Nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh sang Mỹ dạy học. Tôi vẫn thường gặp anh Hải và có mặt trong các buổi anh và Bác Khê diễn thuyết, trình diễn. Có một lần đi diễn tại Đức anh đàn môi, đánh muỗng và tôi trình diễn đàn tranh.


Anh Trần Quang Hải sinh năm 1944 tại xã Linh Đông, quận Thủ Đức Sài Gòn. Con trưởng Giáo sư Trần Văn Khê (1921-2015) và bà Nguyễn Thị Sương (2021-2014) nguyên giáo sư Anh Văn trường Trung Học Gia Long, Sài Gòn. Dòng dõi Nguyễn Tri Phương và gia đình quê quán làng Vĩnh Kim, nổi tiếng nhiều đời nghề  Âm Nhạc. Hậu duệ đời thứ 5 nhạc sĩ cung đình Trần Quang Thọ (1830-1890), đời thứ 4 tư Trần Quang Diệm nổi tiếng đàn tỳ bà, ông nội là Trần Quang Triều, nổi tiếng đàn kìm và dây tố lan. Bà cô anh là Trần Ngọc Viện là người lập gánh Cải Lương Đồng Ban đầu tiên. 


Anh là trưởng nam gia đình có bốn anh em, hai trai hai gái. Em anh là anh Quang Minh ở Việt Nam và chị Thủy Tiên, Thủy Ngọc ở Paris.


Anh xem tôi là người thân trong gia đình, ngày cháu Minh Tâm ăn thôi nôi, khoảng năm 1974, tại Limeil Brévanne, ngoại ô Paris, tôi là người thân được anh mời đến, chị vợ đầu tiên của anh phụ trách bếp danh tiếng Le Table de Mandarins, Paris, tiệm ăn Việt lâu đời và sang trọng Quận 6, trước trường Mỹ Thuật Paris, nơi các ca sĩ Cao Thái, Bích Chiêu, Bạch Yến.. thường đến hát. Anh quen với chị khi đến trình diễn, đánh đàn nơi này và tiến tới hôn nhân.  Nhưng rồi không thuận nhau, chị chia tay đi tu nơi Làng Mai Thầy Nhất Hạnh và mất mấy năm sau vì bệnh ung thư. Cháu Minh Tâm lớn lên học nhạc với ông Nội và với Cha, nhưng lại nổi tiếng về nghề nấu ăn của mẹ, viết sách Nouille d’Asie và dạy nấu ăn Việt trên Internet. Gặp anh Hải lần cuối tôi nói với anh : “Các con tôi thường khoe và đãi ba mẹ bằng những nón ăn học của cô Minh Tâm”.

 Anh cười : “Minh Tâm nấu ăn ngon như mẹ cháu”. Những năm sau này anh Hải thường chụp ảnh trên Facebook gửi cho tôi xem những món ăn anh nấu mỗi ngày trình bày rất mỹ thuật cùng với chị Bạch Yến.


Anh Hải học trung học Pétrus Ký và tốt nghiệp đàn vĩ cầm với Gs Đỗ Thế Phiệt, sang Pháp năm 1961 anh vào học với giáo sư danh tiếng thế giới đàn vĩ cầm Yehudi Meuhim, nhưng giáo sư bạn thân của cha anh lại khuyên anh rằng, đàn vĩ cầm có nhiều người học, có thêm một người danh tiếng nữa cũng thừa, hãy trở về học với cha là Giáo sư Trẩn Văn Khê kế nghiệp con đường vẻ vang của cha. Anh Hải nghe lời khuyên trở về học với cha tại Trường Đại Học Sorbonne ngành Âm Nhạc Dân Tộc Học và Trường  Cao Đẳng Khoa Học Xã Hội  Paris, EHESS. Hàng trăm công trình nghiên cứu về âm nhạc Việt Nam của anh được Đại Học Sorbonne công nhận, và cấp bằng Tiến Sĩ Âm Nhạc Dân tộc thay luận án. Anh vào làm việc tại CNRS, Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Pháp và Viện Bảo Tàng Con Người, Musée de l’Homme Paris từ năm 1968 đến năm 2009 về hưu trí. Anh tập họp và giới thiệu các công trình nghiên cứu trong sách anh xuất bản tại Pháp và Mỹ : 50 năm nghiên cứu nhạc truyền thống Việt Nam và  Hát đồng song thanh.


Anh xuất bản 23 đĩa nhạc, được Prix du Disque của Accadémie Charles Cros năm 1983 và được Prix Cristal của CNRS năm 1995.  4 DVD hát song thanh, 2 DVD Âm nhạc Việt Nam. Năm 2000 và 2009, một phim về cuộc đời nghiên cứu âm nhạc của anh, và hàng trăm bài viết trên các tạp chí Âm Nhạc thế giới. Anh được Tổng Thống Pháp Jacques Chirac trao Huân Chương Hiệp Sĩ Danh Dự năm 2002, Huân Chương Danh Dự Lao Động Đại Kim năm 2009, tưởng thưởng những công việc truyền bá văn hoá của anh.


Về Việt Nam anh giúp đỡ hồ sơ cho các công trình: Cồng chiêng Việt Nam, Đờn ca tài tử, nhạc Cung Đình… được Unesco công nhận là di sản Văn hoá quốc tế. Anh còn là thành viên Hội đồng Âm Nhạc Truyền Thống Quốc Tế và nhiều Hội Âm nhạc khác.


Ngoài công việc làm chính thức, anh thường đi trình diễn khắp nơi trên 3500 buổi diễn trên 70 quốc gia trên thế giới, chưa kể những tiệc cưới, những buổi gặp mặt các hội hè người Vịệt tại Paris, diễn tại các trường học cho học sinh từ Paris đến các tỉnh. Ai mời anh cũng đi chẳng nề hà gì công lao chi phí.. Từ trình diễn với cha và với cô em họ Hoàng Mộng Thúy hát dân ca.  Từ năm 1978 anh kết hôn cùng ca sĩ Bạch Yến nổi tiếng với bản Đêm Đông, chị chuyển sang hát các làn điệu dân ca cùng anh và theo anh đi khắp các chân trời. Chị Bạch Yến rất thương yêu cháu Minh Tâm, một lần tôi hỏi thăm chị khoe : Cháu bây giờ lớn 60 kí !


Hôm nay, anh đã ra đi, những kỷ niệm vui bao năm gặp gỡ, với anh lúc nào cũng vui cười tươi hài hước, gặp anh, gặp Bác Khê, Bác Trạch về là vui cả tuần. Anh Hải đã ra đi, tôi vẫn mường tượng anh đi lưu diễn nơi xa, nơi thảo nguyên Mông Cổ, anh hát bằng song thanh bằng môi và bằng bụng, chiếc đàn môi  trên miệng anh những âm thanh lạ lùng vùng cao nguyên, và đôi muỗng của anh vui vẻ nhẹ nhàng như những trò chơi trẻ em, rồi trở về quê hương với những bản đàn bầu, đàn tranh, đàn cò, đàn tỳ bà, đàn nguyệt, cây đàn nào anh cũng thông thạo. “Nghề chơi cũng lắm công phu”,  nghề chơi nào của anh cũng công phu ít ai sánh kịp.


Paris ngày 3-1-2022



TS. Đinh Xuân Quân: Indonesia Thay Đổi Lập Trường Về Biển Đông?

 Theo các cơ quan truyền thông quốc tế và tờ Jakarta Post thì ngày 29/12/2021 phó đô đốc Aan Kurmia, đứng đầu Cơ quan An ninh Hàng hải Indonesia (gọi tắt là Bakamla), đã gửi lời mời đến các đồng nhiệm Brunei, Malaysia, Philippines, Singapore và Việt Nam tham dự một cuộc họp vào tháng 2, 2022 với mục tiêu chính là « đưa ra một cách tiếp cận phối hợp » về các vấn đề ở Biển Đông (BĐ)  « cách ứng phó trên thực địa khi chúng ta phải đối mặt với cùng ‘‘xáo trộn’’ ».

Đề xuất này của lãnh đạo Cơ quan An ninh Hàng hải Indonesia được các quốc gia ven Biển Đông hưởng ứng. Theo ông Thomas Daniel, nhà nghiên cứu tại Viện Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế Malaysia (ISIS), đề nghị nói trên của Jakarta là « táo bạo và rất đáng quan tâm ». Ông Satya Pramata, một quan chức cao cấp trong chính phủ Indonesia, một cựu thuyền trưởng trong lực lượng tuần duyên, cho biết một cuộc họp như vậy sẽ là « cơ hội tuyệt vời để Cảnh sát biển ASEAN và lực lượng thực thi pháp luật hàng hải trao đổi và hợp tác ».

Theo tờ The Diplomat ngày 29/12, nhà báo Sebastian Strangio, chuyên theo dõi về các vấn đề Đông Nam Á, nhận định : Lời kêu gọi đoàn kết nói trên của Indonesia có thể là tín hiệu cho thấy Jakarta « công nhận rõ ràng mức độ nghiêm trọng của thách thức mà Trung Quốc đặt ra trong vùng đặc quyền kinh tế của đất nước, mà quốc gia này không có khả năng xử lý một mình. Đây có thể là dấu hiệu đầu tiên cho thấy các nhà hoạch định chính sách Indonesia - hoặc ít nhất là những người nắm rõ nhất với tình hình thực tế ở khu vực Natuna - đang thức tỉnh trước thái độ phủ nhận (mối đe dọa Trung Quốc) suốt thập kỷ qua ».

Ai cũng biết khó mà 10 thành viên khối ASEAN gồm Miến Điện, Cambodia, Lào và Thailan, và các nước khác là Indonesia, Philippines, Malaysia, Brunei, Singapore và Việt Nam có thể đạt được đồng thuận trong vấn đề Biển Đông.  Trung Quốc đã khai thác thành công chỗ yếu của khối này là nguyên tắc “đồng thuận của ASEAN” để ảnh hưởng đến lập trường chung ASEAN về Biển Đông, cũng như việc thương thuyết về Bộ Quy tắc Ứng Xử ở Biển Đông - COC


Ngô Thế Vinh: Đi Tìm Chân Dung Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn Với Thông Điệp Mùa Xuân

Dẫn nhập – Chiến tranh, không phải là chấp nhận hiểm nguy, không phải là chấp nhận giao tranh. Ở một thời khắc nào đó, với người chiến binh, là sự chấp nhận thuần túy và giản đơn cái chết.La guerre, ce n’est pas l’acceptation du risque, ce n’est pas l’acceptation du combat. C’est, à certaines heures, pour le combattant, l’acceptation pure et simple de la mort.A. de Saint-Exupéry (Pilote de guerre)


*


Hình 1:trái, Di ảnh Y sĩ Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, Y sĩ trưởng Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù tử trận tại chiến trường Khe Sanh ngày 11/4/1968; phải,Chân dung Nghiêm Sỹ Tuấn qua nét vẽ của Y sĩ Đại úy Lê Văn Công, Quân Y Hiện Dịch khóa 15 YKSG, Virginia, USA 2018.[size 6 x 20” acrylic on canvas, sưu tập Ngô Thế Vinh]


TIỂU SỬ


Nghiêm Sỹ Tuấn, bút hiệu là Yển Thử, [bút hiệu này chỉ được dùng một, hai lần cho mấy bài thơ 28 Sao trên báo Tình Thương], sinh ngày 7 tháng 2 năm 1937 (tuổi Bính Tý) tại Nam Định, Bắc phần trong một gia đình thanh bạch và đông anh em. Cắp sách tới trường muộn màng ở tuổi 14. Hoàn tất học trình Trung học và Đại học trong khoảng thời gian 14 năm. Những năm học Y khoa, Nghiêm Sỹ Tuấn là Thư ký tòa soạn báo Sinh viên Y Khoa Tình Thương từ số ra mắt tới số 13 [khoảng thời gian từ 01-1964 tới 01-1966] khi Anh ra trường, là tác giả nhiều bài viết sâu sắc, mang nặng những suy tư về các vấn đề văn hóa, xã hội và vận mệnh đất nước.



Trần Mạnh Toàn: “Bầy lan run rẩy mộng”

bướm trắng bay đi...

bầy lan run rẩy mộng

gai rừng khuya xé rách cánh bơ vơ

 (Vũ Hoàng Chương, Nhịp Cầu, Văn, số 14, 7.7.64)


 Hình TMT-2020


Lần tìm về thái độ của Nhất Linh trước khi nhập cuộc - nghĩa là khi người tiến về một đối cực mà hành động càng làm rõ điều chân lý chỉ là cái nhìn hài lòng từ mỗi phía - người ta cảm thấy nỗi dao động khác thường của người khi buộc phải bước về hướng đối nghịch với con đường mình đang theo đuổi. Bướm Trắng, viết xong vào tháng 3.1939, không chỉ là bước tiến của văn chương vào cõi sâu thẳm tâm hồn của con người muôn thuở, mà ở một khía cạnh, phát giác phản ứng gần như tuyệt vọng của con người trước sự ám ảnh hay đe dọa thúc bách cận kề. Trong cái tĩnh báo hiệu cái rất động, Nguyễn Gia Trí - người tương tri của Nhất Linh cả về nghệ thuật lẫn dấn thân, đã mách bảo tâm trạng của một lớp người như thế. (1) Sự ra đời của tác phẩm trong tình thế căng thẳng đương thời có thể nghĩ là cố gắng lặn sâu vào cõi văn chương như cách ứng phó trước sự mời gọi thiết tha của thời cuộc trước khi là kết quả của việc chiêm nghiệm những dằng co bất định trong tâm hồn người.  Trong tâm trạng đó, văn chương - mà đây là Bướm Trắng - còn là chứng tích của một nỗ lực vượt thoát nhưng vô hiệu đồng thời báo trước những đau khổ trong cơn thử thách, những cay đắng trong nỗi dằn vặt - dù có ý nghĩa của việc thanh tẩy - sẽ bám chặt lấy người mà những địa danh như 12 Yersin, 7 và 11 Yagut, 19 Đặng Thái Thân Đalat, suối Đa-mê... trở thành vị trí để người hằng đêm đối bóng. Những cao điểm để chiếc bóng thêm cô liêu dù hương lan rừng có nguôi lòng tỏa ngát. Hiểu theo cách riêng, Bướm Trắng đã tiên định được hướng tâm hồn thăng hoa khi đề cập trường hợp con người sa ngã. Cái chết, sự thất bại hay tan vỡ đều đặt con người vào thế khốn cùng khi họ, dưới một hình thức riêng, tự nguyện chấp nhận chúng. Trương - người thanh niên trong truyện - rơi vào tình trạng chịu đựng " cái khổ sống gượng này còn lớn gấp mấy cái khổ tiếc đời trước kia " (2) và chỉ thoát ra khỏi bi kịch này khi nỗi ám ảnh về bệnh không còn và ý niệm hạnh phúc giản dị lại trở về với chàng. Như vậy, ở một khía cạnh, đau khổ, thất vọng - sau khi tàn phá con người- rút cuộc, lại đem đến tác dụng của việc rửa sạch tâm hồn, mở lại hy vọng về một viễn ảnh dung dị thuần khiết. Rồi đến khi luống đậu nở hoa trắng có những con bướm rất xinh ở đâu bay về ...(3)


Lê Hữu: Chim sáo nâu và chàng nhạc sĩ

Chim sao nau.jpg
Ảnh: yeuchim.net

 “Cô ca sĩ qua đời, bài hát ấy cũng qua đời.” 

Ông bạn tôi, nhạc sĩ sáng tác Phan Tần, thốt lên câu ấy với giọng lừng khừng.

“Làm gì có chuyện bài hát qua đời,” tôi nói, “không người này hát thì cũng có người khác hát vậy.” 

“Thế nhưng bài ấy thì chỉ có Phương Nhi, không tiếng hát nào thay được.” Chàng nhạc sĩ lắc đầu, giọng thẫn thờ. “Người đời có tiếc thương cô ca sĩ thì cũng tiếc thương bài hát ấy, có tưởng nhớ đến cô thì cũng tưởng nhớ đến bài hát ấy.”

Tôi chưa nghe ai nói lạ vậy, nhưng ngẫm nghĩ thì cũng có lý. Có những bài hát người ta không muốn nghe ai hát nữa từ khi tiếng hát gắn liền với những bài ấy đã về trời.

“Bài hát qua đời” ấy là bài “Bến cũ đò xưa”, mang âm hưởng dân ca Nam bộ. Nói vừa dứt tiếng, tác giả bài hát ôm cây đàn guitar cất giọng ồm ồm.

Chiều nay trên bến xưa

hắt hiu bóng con đò

Bến cũ cây già

tôi về nghe mưa khóc hoài con sáo bay xa…

Chim sáo bay xa rồi

trăng cũng bỏ tôi ngồi
giữa bến đời sầm sập mưa rơi…

Mưa “sầm sập”, ít nghe ai nói vậy, hẳn là mưa to gió lớn. Liệu cái “bến đời” heo hút của chàng nhạc sĩ có chịu nổi những gió mưa tơi bời?

Giọng Phan Tần nghe rưng rưng cảm xúc. Có điều chàng nói đúng, người ta không muốn nghe ai khác hát bài ấy ngoài Phương Nhi, kể cả tác giả bài hát. “Bến cũ đò xưa” hay những bài “Lý con sáo Bạc Liêu”, “Phải lòng con gái Bến Tre” thì chỉ có Phương Nhi. Không ít ca sĩ từng thử sức với những bài ấy, gồm cả những giọng hát chuyên trị dân ca, nhưng kể từ khi Phương Nhi cất tiếng thì những bài hát này đã ở lại với cô và gắn liền với tên cô.


Trịnh Thanh Thủy: Nguyễn Đình Toàn, người gõ cửa ký ức

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn


Là một người Việt ly hương, hình như ai cũng có đôi lúc nhớ quê, hình dung lại nơi mình từng sinh ra, quay quắt thương cái chốn mình đãđi về trong tháng ngày quá khứ. Chỉ cần một hình ảnh, một cơn mưa, một vạt nắng, một nhành hoa thơm ngái hương vị quê nhà là lòng người lại bồi hồi tưởng tiếc.Nhất là khi đọc một bài thơ, nghe một khúc nhạc, hát lên một ca từ sóng sánh những âm vang kỷ niệm xưa, ai mà không tự dưng nhè nhẹ mở toang cánh cửa kýức của lòng mình. Tôi đã làm điều đó khi đọc các bài thơ trong tuyển tập "Thơ và ca từ" của tác giả Nguyễn Đình Toàn.

Là một nhà văn, ông viết dưới nhiều dạng,tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói, bút ký. Tác phẩm Áo mơ phai của ông đoạt Giải Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng hòa năm 1973. Ngoài ra ông còn là một thi sĩ kiêm xướng ngôn viên của đài phát thanh VTVN trước năm 1975. Chính ông đã phổ những bài thơ của mình thành những bài nhạc được nhiều người yêu thích. Người bạn rất thân lâu năm của ông là Thi sĩ Thành Tôn đã gom góp những bài thơ của ông thành một tập thơ in riêng tặng ông. Gần đây, bạn bè thương mến ông, đãchung lưng giúp ông thiết kế và xuất bản để đứa con tinh thần, tuyển tập "Thơ và Ca từ" được ra đời.


Trùng Dương: Sách - Kinh nghiệm kiến quốc trong thời chiến của Việt Nam Cộng Hoà, 1955-1975

 Tổng thống Kennedy có lần đã nói: “Chiến thắng có cả trăm ông cha và thất bại trở thành mồ côi” (Victory has a hundred fathers and defeat is an orphan). Người Việt Miền Nam, dù lưu vong hay còn ở quê nhà, thẩy đều đã trở thành “mồ côi.” 

Nhiều thập niên qua, chúng ta đã sống trong thầm lặng, chịu đựng bị hiểu lầm, cố gắng dồn mọi nghị lực vào việc xây dựng lại đời sống trên mảnh đất quê hương thứ hai, nuôi dậy con cái, vun sới gia đình, và có một dạo còn cung cấp cho người thân, bằng hữu còn kẹt lại sống thiếu thốn mọi sự. Vào giờ rảnh rỗi và dịp cuối tuần, chúng ta tập hợp nhau, người bàn chuyện quang phục quê hương; kẻ nói chuyện bảo tồn lịch sử và văn hóa đã và đang bị cộng sản tàn phá, hủy hoại ở quê nhà --cũng là một hình thức quang phục quê hương khi các giá trị dân tộc và nhân bản đang trên đà thoái hóa nơi quê nhà. Những hoạt động này đã giúp nối kết người Việt hải ngoại không chỉ ở Mỹ mà còn ở khắp thế giới lại với nhau.

Các nỗ lực bảo tồn văn hóa và lịch sử của người Việt hải ngoại thường nhỏ giọt, riêng lẻ, phần lớn do cá nhân bỏ tiền túi ra thực hiện. Thảng hoặc, có những trường hợp nhận được tài trợ như nhà văn Võ Phiến được một tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội tài trợ đi sưu tầm tài liệu và thực hiện bộ “Văn Học Miền Nam Tổng Quan” vào đầu thập niên 1980. Dù vậy, kết quả của những nỗ lực này phải nói là phong phú, xuất hiện dưới hình thức sách báo, băng đĩa nhựa, hình ảnh, bầy bán khắp nơi. Những tác phẩm bị cộng sản cấm đoán, tịch thu, đốt hủy cũng đã được chụp và tái bản ở hải ngoại, ngay cả những bộ sách của thời tiền chiến được tái bản ở Miền Nam trước 1975 cũng theo chân chúng ta ra hải ngoại. Và hồi ký đủ loại đề tài phong phú của nhiều người viết thuộc mọi thành phần trong và ngoài nước, đặc biệt là các hồi ký của nhiều người đã từng là đảng viên cộng sản nay tỉnh ra. Từ ngày kỹ thuật Internet ra đời cách đây 25 năm, sinh hoạt văn hóa này càng nở rộ (*). Dù vậy, các ấn phẩm vẫn chỉ thu hẹp phần lớn trong phạm vi tiếng Việt, hạn chế đối với các thế hệ trưởng thành hoặc sinh ra và lớn lên ở hải ngoại.


Giới thiệu Sách mới

Văn Học Press

22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978

email: vanhocpress@gmail.com • Facebook: Van Hoc Press


PR 1/6/2022

SÁCH MỚI


                                                            Trân trọng giới thiệu:



VIỆT NAM CỘNG HÒA

1955-1975

Kinh Nghiệm Kiến Quốc


Chủ biên:


VŨ TƯỜNG & SEAN FEAR


VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2022


                                          ***


Giới thiệu tác phẩm


Việt Nam Cộng Hòa, 1955-1975: Kinh Nghiệm Kiến Quốc là ấn phẩm đầu tiên do Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ tổ chức thực hiện, bắt đầu từ một Hội thảo ở Đại học California, Berkeley vào tháng 10 năm 2016. Bản tiếng Anh của sách tên là The Republic of Vietnam, 1955-1975: Vietnamese Perspectives on Nation Building, được xuất bản bởi Chương trình Đông Nam Á của Đại học Cornell năm 2019, đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ giới nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Việt Nam. Chúng tôi mong bản tiếng Việt sẽ giúp ích cho người Việt ở khắp thế giới và ở Việt Nam có thêm hiểu biết về Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi bản tiếng Anh được xuất bản, bốn tác giả trong sách, ông Phạm Kim Ngọc, Giáo sư Cao Văn Thân, ông Bùi Quyền và Giáo sư Vũ Quốc Thúc, đã qua đời. Chúng tôi biết ơn đóng góp của họ cho sách và cảm thấy hân hạnh đã kịp giúp họ để lại một chút gì đó cho thế hệ sau.