Thứ Sáu, 17 tháng 12, 2021
Phản ứng của quốc tế trước bản án 9 năm tù đối với bà Phạm Đoan Trang
1. Mỹ, Anh, Canada và các nước khác đồng loạt phản đối bản án 9 năm tù đối với bà Phạm Đoan Trang
Nếu chúng ta đang sống trong một xã hội có tự do, có phẩm giá, có công lý, có dân chủ thì những người như Đoan Trang sẽ có một vị trí đáng ngưỡng mộ trong xã hội.Huy Đức***Tôi chỉ lo là có sống được để làm việc [viết sách, góp phần vào cuộc đấu tranh vì dân chủ] hay không, bởi vì với cách đàn áp này thì chắc họ muốn giết hết những người như chúng tôi.Phạm Đoan Trang
Nhà báo tự do Phạm Đoan Trang tại tòa ngày 14/12/2021. Photo screenshot từ ANTV via YouTube. |
Trần Mộng Tú: Nếu Em Già
Hình minh hoạ S. Hermann & F. Richter, Pixabay |
em hứa với anh
em sẽ không tô môi son đỏ nữa
em sẽ cho đi những đôi giầy cao gót
em sẽ không còn mặc áo hở vai
Nếu em già vào hôm nay
em hứa với anh
dù ngoài trời đang lất phất mưa bay
em sẽ không đòi lang thang trên phố
em sẽ không đòi ăn kem trong mùa đông
em sẽ không uống trà xanh trước khi đi ngủ
không trèo lên con dốc sau nhà để hái một đóa hoa
không chạy vội ra sân nghiêng tai nghe trời trở gió
Nếu em già ngày hôm qua, hôm nay và cả ngày mai nữa
em hứa với anh
như những người già thực thụ
em sẽ sống thong thả từng ngày
từ từ vui
và rón rén buồn
cười khẽ khàng
và khóc như sương
Sương như ngọc và trong như lệ
Nhưng anh ạ
có một điều em không thể hứa
sẽ bỏ Thơ khi đến tuổi già
vì trong hồn em có một đóa hoa
vẫn thi thoảng
nở ra từng cánh
rồi khẽ khàng rơi xuống môt câu thơ
rơi rất khẽ
chỉ một mình em biết.
tmt
Sinh Nhật Dec.19. 2021
Ngô Thế Vinh: Dohamide - Giấc Mơ chàm Và Bangsa Champa
Hình 1: từ trái, cây bút chuyên khảo văn minh Champa trên tạp chí Bách Khoa Dohamide, chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, nhà văn Võ Phiến. [hình chụp 1994 tại Little Saigon, tư liệu Ngô Thế Vinh]
TIỂU SỬ
Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau:
“Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu như trình bày với bạn đọc.” [Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]
Phạm Tín An Ninh: Giai nhân tự cổ
(Viết tặng những giai nhân trường Nữ, và để tưởng nhớ một người...) |
“O sinh ra tận mô ngoài Huế
Hà cớ gì trôi dạt tới Nha Trang
Để một “thằng Võ Tánh”phải lang thang
Đem cây si trồng trước sân trường Nữ”
Nhờ bài thơ với bốn câu mở đầu không đâu vào đâu này, tôi bất ngờ nhận được điện thư của một người có tên Van Loubet từ một nơi nào đó gởi ngợi khen và hỏi tôi có phải là cậu bé nhà quê ngày xưa vào Nha Trang, có thời trọ học ở một con hẻm lớn trên đường Phương Sài. Tôi khá ngạc nhiên, vì bài thơ tôi viết vội chỉ để gởi đăng trên Đặc San Võ Tánh&Nữ Trung Học Nha Trang (*), nhân dịp đại hội cựu học sinh hai ngôi trường này tổ chức tại Houston hơn hai năm trước đó, mùa hè năm 2005; và cái tên người gởi, Van Loubet rất xa lạ, có thể chỉ là một nick- name, không phải tên thật. Thấy một số chi tiết trên mẫu điện thư ghi bằng tiếng Pháp, tôi tò mò, tìm hiểu cái họ Loubet, được biết đó là họ của ông Émile Loubet, thủ tướng thứ 45 của nước Pháp và sau đó trở thành tổng thống (năm 1906)! Tôi giật mình, làm sao tôi có thể quen biết với một người thuộc “danh gia vọng tộc” tận bên trời Tây?
Hồi âm và hồi hộp đợi chờ. Mãi đến hai hôm sau, nhận được thư trả lời, tôi mới vỡ lẽ, nhưng rồi lại có thêm nhiều điều ngạc nhiên khác. Người viết thư cho tôi là chị Bích Vân, bà chị cả của “O Huế” trong bài thơ tôi viết. Chị sang Pháp vào những ngày Sài Gòn trong cơn hấp hối, và bảy năm sau, lập gia đình với một người Pháp có dòng họ với ông tổng thống từ năm 1906 này. Chị cho tôi biết đã vô tình đọc được bài thơ “O Huế Ngày Xưa” của tôi trên diễn đàn của trường Đồng Khánh, mà chị là một thành viên. Trước khi chuyển vào trường Võ Tánh-Nha Trang, chị vốn là một nữ sinh Đồng Khánh. Sau đó chị thử vào Google gõ tên tôi thì tìm ra cả trang Web, có cả địa chỉ email của tôi trong đó. Chị còn bảo, sở dĩ chị đoán ra tôi một phần là do nội dung bài thơ, phần khác chính là nhờ cái tên của tôi đã làm chị dễ nhớ. Điện thư chị viết khá dài, lại không có dấu nên khó đọc, nhiều chữ phải đoán mò. Tôi cố đọc đi đọc lại vài lần mong tìm xem có tín hiệu nào về “O Huế” của tôi, nhưng hoàn toàn không thấy. Phía dưới email, chị cho số điện thoại và dặn tôi gọi cho chị vào cuối tuần, khoảng sau bốn giờ chiều thứ bảy, để chị em tâm sự nhiều hơn.
Trịnh Thanh Thủy: Cung Tích Biền điên tỉnh giữa "Một thời nên vắng mặt"
Lâm Vĩnh Thế: Những Sắc Thái Riêng Biệt Trong Tín Ngưỡng Dân Gian Miền Nam
Người Việt Nam nói chung là một dân tộc rất coi trọng tín ngưỡng. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong nhà, người Việt Nam còn thờ phượng rất nhiều thần linh trong nhiều cơ sở tôn giáo khác nhau, trong đó Đình là một cơ sở mang đặc tính văn hóa tiêu biểu của người Việt. Mỗi làng, đơn vị dân cư căn bản của người Việt, đều có một ngôi đình để thờ Thành Hoàng bổn cảnh, vị thần được sắc phong của vua có nhiệm vụ che chở cho dân làng.
Tổ tiên của người Việt vùng Đồng Bằng Đồng Nai - Cửu Long (sau đây sẽ viết tắt là ĐBĐNCL), những lưu dân từ Đàng Trong đã vào khai phá, lập nghiệp ở vùng này trong các thế kỷ 17 và 18, cũng đã tiếp tục truyền thống văn hoá Việt này. Họ cũng lập làng, dựng đình và thờ Thành Hoàng. Tuy nhiên, cũng giống như trong các nét văn hoá khác trong vùng ĐBĐNCL, những lưu dân này đã tạo ra những biến đổi trong văn hoá Việt về phương diện tín ngưỡng.[1]
Bài viết này cố gắng ghi lại những sắc thái riêng biệt của văn hoá tín ngưỡng dân gian trong vùng ĐBĐNCL.
Những Cơ Sở Của Biến Đổi Văn Hóa
Biến Đổi Tâm Thức Của Những Lưu Dân
Theo dòng Nam Tiến của dân tộc, những lưu dân Đàng Trong trong quá trình xuôi Nam này, do hoàn cảnh phải đương đầu với những khó khăn lớn lao về mọi mặt, đã phải tự tạo cho mình một bản lãnh anh hùng độc đáo, dám nghĩ, dám làm, hoàn toàn không quá câu nệ vào tập tục truyền thống. Cá tính phóng khoáng này, mà người viết xin tạm gọi là vượt qua tâm thức lũy tre xanh, một phần nữa cũng do ảnh hưởng địa lý của vùng đất mới đem lại. Cái không gian mênh mông, hùng vĩ, như của thời hồng hoang, (mà Châu Đạt Quan, sứ thần nhà Nguyên (thế kỷ 13), đã mô tả trong quyển Chân Lạp Phong Thổ KỶ của ông như sau: “Trên các dải đồng hoang, hàng trăm ngàn trâu rừng tụ họp thành bầy, đàn” [2]) của ĐBĐNCL làm sao không ghi lại những dấu ấn đậm nét trong tâm thức của những lưu dân này. Cụm từ “địa linh nhân kiệt” mang một ý nghĩa vô cùng thực tiễn trong trường hợp này.
Nguyễn Đức Tùng: Cuốn Sách Đầu Tiên
Thứ Sáu, 10 tháng 12, 2021
CHIA BUỒN
Đã từng là :
Giám Đốc Trung Tâm Sinh Ngữ thuộc Viện Đại Học Sài Gòn
Giáo sư trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Professor of Linguistics Emeritus, Texas Woman’s University
Chủ biên Tập san VIỆT HỌC Journal
Đã đóng góp nhiều bài vở giá trị cho Diễn Đàn Thế Kỷ trong các năm qua
đã qua đời vào ngày 3 tháng 12 năm 2021, tại Laguna Woods, Orange County, California.
Hưởng thọ 81 tuổi.
Diễn Đàn Thế Kỷ thành kính chia buồn cùng tang quyến và cầu chúc Linh hồn Phêrô Đàm Trung Pháp sớm được hưởng nhan Thánh Chúa.
Tuấn Khanh: Cô gái vót chông, hay là hội chứng “khổ dâm” Việt-Mỹ
Trần Mộng Tú: Nữ Thi Sĩ AiDa và Thơ
Ai-Da và Bố Aidan Meller |
*Song Thao: Trường Kỳ - Sống Để Ăn
“Sống để ăn” là châm ngôn của ông Trường Kỳ. Thời ở Việt Nam trước năm 1975, ông là “vua hippy”, “vua nhạc trẻ”, nghênh ngang một cõi. Tôi không thích chế độ quân chủ nên không quen ông vua này. Qua tới Montreal, ông…thoái vị để làm một ông vua khác, “vua đớp hít” tôi mới quen ông. Ông hú là có tôi, tôi hú là có ông. Nói vậy nhưng chuyện ông hú thì lia chia mà tôi hú thì như lá mùa thu. Tôi theo sao kịp đức tính đớp hít của ông!
Nhà ông vua đớp hít không có phòng ăn. Ông cho biết phòng ăn của ông nằm ở hai tiệm, tiệm Phở Dakao cho buổi sáng và tiệm Kiều Anh cho buổi chiều tối. Cả hai tiệm đều chỉ cách nhà ông vài bước chân. Chính vì hai cái phòng ăn này mà ông nhất định không chịu di chuyển nhà mặc dù ông có thừa khả năng ở một chỗ tiện nghi hơn là cái appartement phải leo chiếc cầu thang thẳng đứng như đường lên trời.
Tiệm Phở Dakao do một ông Đốc sự Hành chánh làm chủ. Phở bò của ông này có vè giòn rất ngon. Ông vua đớp hít hầu như ngày nào cũng đóng đô ở đây. Gặp ngày ông ể mình, không thân hành ra được thì ông Đốc sự Hành chánh cho người bưng phở tới tận nhà cho ông thời. Ngày nào cũng phở, có là vua đớp hít cũng muốn đổi món, có thể vì vậy nên ngoài món phở bò nổi tiếng, ông Phở Dakao đã phải thêm vài món bún trong đó có bún thang mà tôi đồ chừng do ông Bắc kỳ tên Kỳ đề nghị. Hồi chúng tôi còn viết cho tờ báo tuần Thời Báo ở Montreal, Toronto và Vancouver, tòa báo ở Montreal thường gửi báo biếu tại tiệm này để chúng tôi tới lấy. Riêng ông Trường Kỳ còn được nhà báo gửi nhuận bút bằng tiền mặt cho ông Đốc sự trao giùm. Chuyện tiền bạc là chuyện thầm kín, tôi không biết rõ là ông Đốc sự có phải trao không hay giữ để trừ dần vào tiền phở. Ông Đốc sự nấu phở nhưng ông Trường Kỳ là cố vấn tối cao. Bát phở mỗi ngày được ông Trường Kỷ đóng dấu phê chuẩn. Cái miệng sành ăn được ông chủ tiệm tin tưởng tuyệt đối. Có lần, ông chủ tiệm muốn thử tài ông thần đớp hít, lẳng lặng bỏ thêm một thứ gia vị vào bát phở. Ông Trường Kỳ nếm qua phát hiện ra liền. Và gọi tên thứ gia vị lạc loài này ra ngay. Tiệm phở Dakao là chốn lui tới của giới sành phở tại Montreal một phần là nhờ ông vua đớp hít giới thiệu. Sau thời gian đóng cửa vì dịch covid, tiệm đã vĩnh viễn phẹc-mê-bu-tích.
Gió ViVu: Mùa Giáng Sinh Buồn
Hình minh hoạ, Gerd Altmann, Pixabay |
Nguyễn Đình Toàn : Khi em về
Hình minh hoạ, Uschi Dugulin, Pixabay |
Khi em về trời xanh và gió mát
Con đường mòn thơm lá mục quê hương
Vườn cải ngồng đỗ ong bướm về sân
Anh nằm đấy buổi trưa và tiếng nắng
Mặt đất mềm bước chân em chợt nặng
Lá tre vàng dồn thổi mùa thu đi
Luống huệ ấy xòe những vồng hoa trắng
Và đầy thềm lá rụng liếp phên che
Quê mẹ đấy ưu phiền nhiều quá lắm
Hàng cau già mo thương bẹ quắt queo
Anh nằm đếm những ngày rồi những tháng
Đi qua dần khi nước mắt buông theo
Kỷ niệm cũ vẫn còn nguyên vẹn đó
Trời tháng giêng, tháng bảy buồn như nhau
Gió vẫn thơm mùi hoa bưởi, hoa ngâu
Rồi tết đến, rồi lòng anh nhớ quá
Khi em về bước xưa chừng xa lạ
Và cỏ hoa tất cả đã vắng im
Giấc ngủ ấy một đời anh ao ước
Từ máu mình hoài rứt khỏi đường tim
Em đừng khóc, đừng buồn, đừng nhìn nữa
Cứ cúi đầu, cứ thế, rồi ra đi
Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết
Và dấu giầy mai sẽ lá sương che.
NĐT
Ngô Nguyên Dũng: Đọc "Rừng Núi Bạt Ngàn", truyện dài của Hoàng Nga
"Rừng Núi Bạt Ngàn" là truyện dài đầu tiên sau một loạt tám tập truyện được độc giả đón nhận với nhiều ưu ái dành cho ngòi bút Hoàng Nga. Không gian truyện là một huyện lỵ miền Đông Nam phần. Thời gian là những tháng năm thời bao cấp sau chính biến 1975. Và, đáng lẽ, cũng là chuỗi ngày mười tám thơ mộng, rực rỡ nhất của thời thiếu nữ gắn bó với gia đình, bạn bè, trường lớp và ngôi nhà:
"Căn nhà nằm mặt lộ, trên con đường bé xíu nhưng mang cái tên của một trong những con đường lớn của Sài Gòn. Ngày chúng tôi về huyện lỵ đó, điều gì cũng làm tôi buồn, cũng làm tôi không thích, chỉ trừ khuôn viên căn nhà có những hàng móng tay màu hồng chạy dọc theo lối đi, dậu huỳnh anh vàng nằm trước ngõ, bụi tướng quân trắng trang trọng nằm khuất sau cây bơ, chùm trắc bách diệp bên thềm và hàng cau non trước hiên trổ hoa thơm ngát. Không biết bao nhiêu lần tôi đã mang hình ảnh thơ mộng của khuôn viên này vào truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ của mình. Và có lẽ đó cũng là những hình ảnh ít đau buồn nhất còn lại trong ký ức tôi." (Tr. 55)
Truyện có nhân vật chính xưng "tôi" và những người trong gia đình của "tôi". Không một ai được nêu danh, mà chỉ là những "ba tôi", "mẹ tôi", "ông anh", "hai thằng em", "con em kế", "ông anh nuôi", "thằng em nuôi", ngoại trừ con chó có cái tên ngộ nghĩnh là Bi Lèm và những nhân vật phụ như bà Hai cán bộ, bà Hai trung lập, bà Năm, ông Bảy Cúc, ông Hai Xồi, bác Tư Nùng, v.v…
Truyện bắt đầu bằng:
"Sau 75, nhà tôi đi làm rẫy, như nhiều người trong cả nước đi làm rẫy. Nhưng mãi hơn một năm sau khi thi đại học, cao đẳng, rồi xuống trung cấp, trung học vẫn ạch đụi, không vô được cái nào hết ráo, tôi mới bắt đầu khăn gói vào rừng vì cái rẫy nằm tuốt trong… rừng.
Lâm Vĩnh Thế: Đánh Giá Tài Liệu Trong Việc Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam Cộng Hòa
Sách báo Anh ngữ đã được xuất bản về Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và về Chiến Tranh Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ vừa qua chiếm môt số lượng có thể nói là khổng lồ. Gần đây hơn, trong khoảng thời gian độ hai mươi năm qua, chúng ta thấy xuất hiện khá nhiều sách báo Việt ngữ đã được xuất bản tại hải ngoại về nhiều vấn đề, sự kiện, biến cố trong các lãnh vực chính trị, quân sự của VNCH trước năm 1975. Một phần rất lớn những cuốn sách và bài báo thuộc loại này do những vị đã từng có hoạt động trong chính quyền hoặc quân lực VNCH (QLVNCH), ngay cả có tham dự vào chính các biến cố chính trị, quân sự đó. Các tác giả, do đó, thường có khuynh hướng ghi lại các biến cố với khá nhiều chi tiết. Tuy nhiên, đa số các tác giả đều viết lại các biến cố theo ký ức của mình, nhiều khi không dựa vào bất cứ tài liệu nào nên sự chính xác của các chi tiết mà họ ghi lại không cao lắm. Bản thân tác giả bài viết này đã thực hiện khá nhiều cuộc nghiên cứu về lịch sử của VNCH, đặc biệt chú trọng vào giai đoạn 1963-1967, và Đệ Nhị Cộng Hòa. Trong quá trình nghiên cứu, người viết không tránh khỏi phải đọc khá nhiều những tài liệu nói trên. Bài viết này được soạn thảo để chia sẻ với độc giả những kinh nghiệm trong việc đánh giá tài liệu có liên quan đến lịch sử của VNCH.
Những Đòi Hỏi Đối Với Người Nghiên Cứu Sử
Trong bất cứ thời đại nào và tại bất cứ quốc gia nào, người làm công tác nghiên cứu và ghi chép lại lịch sử cần phải công bằng, vô tư và khách quan. Tại sao vậy? Bởi vì mục tiêu của họ là ghi lại một cách trung thực và chính xác các sự việc, biến cố đã xảy ra trong quá khứ để cho trong tương lai khi có người muốn tìm hiểu thì có thể biết được sự thật.
Muốn ghi lại một cách trung thực và chính xác sự kiện lịch sử, đòi hỏi đầu tiên là nguời nghiên cứu phải có một sự hiểu biết khá đầy đủ về giai đoạn lịch sử mà mình định nghiên cứu. Sự hiểu biết này phải được thể hiện trên một số lãnh vực: ngôn ngữ, văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế và quân sự. Về ngôn ngữ, người nghiên cứu lịch sử phải hoàn toàn làm chủ được (mastering) ngôn ngữ của tài liệu, hiểu thật rõ thông tin chứa đựng trong tài liệu. Không những thế, người nghiên cứu còn phải có khả năng nắm được những biến đổi của ngôn ngữ về ngữ vựng (kể cả tiếng lóng), về chính tả, về văn phong, vv. dưới ảnh hưởng của những đổi thay về văn hóa, xã hội, và chính trị. Có như thế, người nghiên cứu mới có khả năng phát hiện được những tài liệu ngụy tạo. Về mặt văn hóa, xã hội, người nghiên cứu cũng cần phải có những hiểu biết về hệ thống giáo dục, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của con người trong giai đoạn lịch sử đó để có thể hiểu được cách hành xử, ứng phó cũng như hành động của các đối tượng nghiên cứu. Sau hết, người nghiên cứu cũng phải có hiểu biết đầy đủ về hệ thống tổ chức và điều hành của bộ máy chính trị, kinh tế và quân sự của quốc gia trong giai đoạn lịch sử đó để có thể hiểu được các tài liệu về chính sách, đường lối cũng như những kế hoạch, chương trình đề ra trong giai đoạn đó. Bên cạnh đòi hỏi sự hiểu biết về bộ máy chính quyền như vừa nói, người nghiên cứu cũng phải rất quen thuộc với tên họ của các nhà lãnh đạo cũng như các chính trị gia, các tướng lãnh và các nhân sĩ trong giai đoạn lịch sử đó.
Nguyễn Công Khanh: Qua Thiên Sơn… Đi Trên Đường Tơ Lụa Cũ, Mới
“Qua Thiên Sơn kìa ai chén rượu vừa tàn…” Đó là một câu trong Hòn Vọng Phu, bản trường ca bất hủ của nhạc sĩ Lê Thương, gồm ba bài sáng tác từ năm 1943 đến 1947. Một trong những bản trường ca đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam.
Lê Thương đã nghiền ngẫm đề tài người chinh phu từ lâu trước khi sáng tác. Theo Net, nhạc sĩ đọc thuộc “Chinh Phụ Ngâm”, cả nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản dịch chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm. Ngoài ra, Lê Thương đã bắt gặp nhiều hình tượng người chinh phụ ngoài đời thực. Nàng Tô Thị bồng con chờ chồng đến nỗi hóa thành đá ở Lạng Sơn, người chinh phụ trên núi Đá Bia, ở Phú Yên, phía đông đèo Cả, thậm chí là cả Vọng Phu Thạch ở Trung Quốckhi ông vượt qua biên giới Việt Trung. Tất cả những hình tượng này đều khiến Lê Thương đưa ra một chiêm nghiệm: Dù ở phương trời nào, chiến tranh luôn gây ra nỗi đau đè nặng lên người phụ nữ. Cảm xúc đó đã khiến nhạc sĩ xúc động sâu sắc để viết bộ ba bài hát Hòn Vọng Phu.
Đoàn Thị Điểm đã viết trong đoạn mở đầu Chinh Phụ Ngâm:
“Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh”
Tất cả những cảnh bi hùng trong Chinh Phụ Ngâm đều đã ẩn hiện trong trường ca Hòn Vọng Phu của Lê Thương:
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Do Hội Đồng Hoằng Pháp xuất bản 2021. “Khó có ai có cái nhìn sâu sắc và đầy đủ về Nghiệp như Hòa Thượng Tuệ Sỹ” –Thích Như Điển |
Thứ Sáu, 3 tháng 12, 2021
Ngô Nhân Dụng: Đàn áp cô Bành Soái
*Song Thao: Đùa Với Luân Hoán
Lale Gül: Tôi sẽ sống (Nguyễn Hiền dịch)
Tôi sẽ sống
Nguyễn Đức Tùng: Đỗ Quyên, Cho Ta Khóc Một Hệ Người
Đỗ Quyên làm thơ như sống chính cuộc đời mình. Thơ trữ tình và trường ca là công việc chính yếu của anh, mặc dù không phải là tất cả, và trong nhiều năm kể từ thời thanh niên, anh đã dành những nỗ lực quý báu nhất cho chúng. Anh hiểu rằng con người có thể làm được nhiều việc cho nhau, bày tỏ mối quan tâm rõ ràng đối với các vấn đề xã hội, chính trị, trong khi đó, một cách không hoàn toàn hiển nhiên, anh lại thuộc về chủ nghĩa hậu hiện đại. Đỗ Quyên thực ra là một trong những người góp phần phát triển khuynh hướng ấy trong thơ Việt, một cách chừng mực, ngay từ những năm chuyển tiếp của hai thế kỷ, thời kỳ dồn dập biến động: cách mạng, tan rã, chết chóc, lưu vong. Đến nay anh vẫn trung thành với chọn lựa của mình, với những biến đổi nào đó, tất nhiên.
Hôm nay
dương lịch
Mồng Năm tháng Năm
Mắt xen qua ba bông hồng sẽ không bao giờ nở được
Tôi ngồi
lập danh sách các bạn văn có thể vay tiền
Lúc này
em đừng về
Hồng thắm đấy
nhưng sẽ không bao giờ nở
Đi tìm khuynh hướng nghệ thuật của một nhà thơ, hay của một thời kỳ, bạn có thể nhìn vào nhịp điệu. Nhịp điệu là nơi xảy ra những thay đổi trước tiên, đó là nơi người viết bắt đầu tham dự vào trò chơi ngôn ngữ. Một nhịp điệu thơ mới không từ trên trời rơi xuống, nó được sinh ra từ nhận thức mới, tư tưởng mới, đến lượt chúng những nhận thức và tư tưởng ấy phải bắt rễ từ các thay đổi rộng lớn và sâu xa trong xã hội, văn hoá. Chẳng hạn, thơ mới thời kỳ 1930 đi kèm với cái học phương Tây, luồng gió mới của thời đại, thơ tự do những năm 1960 từ những thay đổi về đất nước, do chiến tranh.
Gộp hết thiên thu lá rụng không ghi hết lỗi chúng ta với mùa thu
Nghĩ vàng về những mùa thu thực ra không màu vô sắc
Buồn quá lố bao mùa thu nhộn nhạo
Như các cô gái blonde óc hẹp đùi dài
dâm tình không quản ngại mà lưỡi lười vận động
Với mùa thu chúng ta ú ớ ngu đần
Ngự Thuyết: Home
Xuân Sương: Edith Piaf - Không có gì hối tiếc
![]() |
Hình Studio Harcourt, Public domain, via Wikimedia Commons |