Thứ Tư, 20 tháng 5, 2020

Christina Zhou: Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ tồn tại thêm được bao lâu? (Gia Huy biên dịch)

Cộng sản Trung Quốc – gần đây đã kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của mình – là một trong những chế độ độc đảng kéo dài nhất trong lịch sử hiện đại. Liệu ĐCSTQ có thể tiếp tục duy trì quyền lực của mình trong thời gian tới, hay sẽ biến đổi thành một mô hình khác?

ĐCSTQ dùng phương thức “hy sinh bách tính, chèn ép nhân quyền, huỷ hoại sinh thái” để phát triển kinh tế. (Ảnh minh hoạ từ Shutterstock)
Các nhà phân tích nói rằng mặc dù không có giới hạn thời gian đối với các chính phủ độc tài, nhưng sự cầm quyền độc đảng của ĐCSTQ có thể không bền vững về lâu dài bất chấp khả năng ứng phó và sự đặc thù trong quá khứ của nó so với các chế độ khác.

Nhưng để biết khi nào và làm thế nào cuối cùng Trung Quốc có thể thực hiện cải cách chính trị, thì đầu tiên quan trọng phải hiểu được làm thế nào ĐCSTQ duy trì được quyền lực trong thời gian dài như vậy.

Làm thế nào ĐCSTQ tồn tại lâu như vậy?


Rory Truex, trợ lý giáo sư về các vấn đề quốc tế và chính trị của Đại học Princeton, đã nói với đài ABC rằng ĐCSTQ đã biết cách giảm thiểu nguy cơ từ hai mối đe dọa chính đối với các chế độ độc tài: các cuộc đảo chính và các cuộc cách mạng.

Trân Văn (VOA): Vì sao có phong trào ‘người nghèo xin không nhận’

Một áp phích tuyên truyền cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 ở Việt Nam. (Ảnh chụp màn hình Tuổi Trẻ Online)

Cuối cùng, thực tế đang chứng minh, dự đoán của công chúng: Gói hỗ trợ những cá nhân cũng như các doanh nghiệp gặp khó khăn do COVID-19, trị giá 61.580 tỉ, sẽ tạo ra đủ loại scandal - hoàn toàn chính xác.

Những diễn biến liên quan đến gói hỗ trợ này buộc người ta phải tự hỏi: Đảng viên đang giữ vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền của tất cả các cấp tại Việt Nam có tim hay không?

***

Đầu tháng tư vừa qua, chính phủ Việt Nam loan báo, ngoài hai gói hỗ trợ trị giá 280.000 tỉ đồng để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện nhiệm vụ ‘kép’ vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế, xã hội, họ sẽ chi thêm 61.580 tỉ để giúp các cá nhân và những cơ sở kinh doanh nhỏ đang lâm vào cảnh khốn cùng do COVID-19 gây ra. Tùy trường hợp mà những đối tượng này sẽ được trợ cấp một lần 500.000 đồng hay từ 1 triệu đến 1,8 triệu đồng/tháng (1).

Lúc đó, ông Nguyễn Xuân Phúc – Thủ tướng Việt Nam, nhấn mạnh lý do tại sao phải sử dụng 61.580 tỉ làm gói hỗ trợ thứ ba: Mấy tháng nay, nhiều người khổ lắm rồi, nhiều gia đình khó lắm rồi (2).

Đáng chú ý là dù ý thức rất rõ: Nhiều người khổ lắm rồi, nhiều gia đình khó lắm rồi! – song hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam vẫn hết sức ung dung trong việc phát trợ cấp.

Lý Quí Trung: Việt Nam có muốn trở thành công xưởng của thế giới?

The LEADER - Một khi các nhà máy, công xưởng làm gia công cho Mỹ và các nước đồng minh dời ra khỏi Trung Quốc sau đại dịch, cái mác “công xưởng của thế giới” cũng có thể chia sẻ thêm cho nhiều quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam - một ứng cử viên nặng ký nhất vì nằm sát với Trung Quốc nên việc di dời rất thuận tiện.

Doanh nhân Lý Quí Trung, nhà sáng lập Phở 24
Câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có muốn gắn cái mác này hay không?

Biệt danh “công xưởng của thế giới” gắn liền với hình ảnh công nhân giá rẻ, lấy công làm lời, không tranh giành vinh quang với các thương hiệu đình đám toàn cầu. Trung Quốc đúng ra đã làm rất tốt vai trò này để âm thầm chyển mình thành người khổng lồ trên bàn cờ kinh tế toàn cầu. 

Nhật Bản và Hàn Quốc trước đó ở một khía cạnh nào đó cũng đi lên từ bước đệm làm gia công, sản xuất cho người khác, đến nay thì ai cũng biết, các thương hiệu xe hơi và vô số hàng điện tử, kim khí điện máy của họ tung hoành khắp nơi trên thế giới.

Nhưng tình hình bây giờ có khác, khi mọi thứ đều có thể thay đổi qua một đêm. Mới đó mà hàng trăm, hàng ngàn nhà máy đang làm gia công ngon lành cho Mỹ và các nước đồng minh có thể sẽ rút khỏi Trung Quốc, để lại ít nhiều khó khăn cho nền kinh tế nước này. Thế trận “công xưởng của thế giới” chưa bao giờ bị lung lay như hiện nay, hay nói một cách khác, sẽ không có một công xưởng nào trên thế giới còn an toàn cả.

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2020

VOA Tiếng Việt: Mỹ quyết tâm đưa chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc - Cơ hội ‘trăm năm có một’ cho Việt Nam?

Một công nhân tại công ty dệt may Maxport ở Hà Nội trong tấm ảnh chụp ngày 15/5/2019. Việt Nam đang nắm bắt "cơ hội trăm năm có một" để trở thành nhà cung ứng khi Mỹ dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc.

Chính quyền Tổng thống Donald Trump đã tìm cách đưa chuỗi cung ứng toàn cầu của Mỹ ra khỏi Trung Quốc kể từ khi cuộc chiến thương mại giữa Washington và Bắc Kinh bắt đầu từ giữa 2018 nhưng quyết liệt đẩy mạnh việc này sau cú sốc do đại dịch virus corona bắt nguồn từ Vũ Hán, trong đó Trung Quốc đóng vai trò then chốt trong nhiều chuỗi cung ứng.

Cuối tuần trước, Thượng nghị sỹ Mỹ Lindsey Graham nói rằng “vụ virus corona là một lời cảnh tỉnh đau đớn rằng (Mỹ) quá phụ thuộc vào các quốc gia như Trung Quốc về các thiết bị y tếquan trọng.”

Các nhà lập pháp Mỹ, theo Reuters cho biết, đang đưa ra các đề xuất để thúc đẩy các công ty Mỹ chuyển hoạt động hoặc chuyển nhà cung cấp chính ra khỏi Trung Quốc trong khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đang làm việc với các cơ quan khác và chính phủ nước ngoài để đa dạng hoá chuỗi cung ứng của Mỹ ra khỏi Trung Quốc.

Hôm 29/4, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo cho biết Hoa Kỳ đang cộng tác với “các quốc gia bạn bè” trong khu vực Thái Bình Dương, trong đó có Nhật, Úc, New Zealand và Việt Nam, để“thúc đẩy kinh tế toàn cầu” và tìm cách tái cấu trúc “chuỗi cung ứng nhằm ngăn chặn điều tương tự (sự gián đoạn do đại dịch COVID-19) xảy ra lần nữa.”

Truyền thông trong nước cũng như các chuyên gia cho rằng đây là cơ hội cho Việt Nam.

TS Phạm Quý Thọ gửi tới BBC từ Hà Nội: Đại hội 13 - Đã đến lúc Việt Nam dám buông mô hình Trung Quốc?


Đại dịch COVID-19 đang làm thay đổi trật tự thế giới, làm căng thẳng sự đối đầu chế độ chính trị khác biệt ý thức hệ: Trung Quốc và Phương Tây. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc, mặc dù sự lựa chọn sẽ là một khó khăn.

Để đi tìm câu trả lời, tôi xin đề cập hai ‘công thức chính trị’ sau đây về quá trình vận hành mô hình chế độ toàn trị trong hai giai đoạn lịch sử nhằm khái quát tính tất yếu thay đổi, và hơn thế, bối cảnh hiện nay mở ra cơ hội cải cách xoay chuyển với Việt Nam, mà Đại hội 13 là một thời điểm.

Trước hết, về công thức chính trị đến từ phương Tây của Lenin, Vladimir Lenin (1890 – 1924) là lãnh tụ cách mạng vô sản Nga, người vận dụng chủ nghĩa Marx trong điều kiện nước Nga tư sản đầu thế kỷ 20. Ông cùng với Friedrich Engels (1820 - 1895), trưởng thành từ xã hội tư sản Đức, sau này qua quốc gia tư bản khác là Anh quốc hoạt động, được coi là hai nhà tư tưởng về học thuyết nhà nước nói chung và nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng.

Theo Lenin, nước Nga Sa hoàng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là ‘mắt xích yếu nhất’ của chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản… Ông lãnh đạo đảng Bolshevik tiến hành thành công cuộc cách mạng tháng 10 Nga và thành lập nên nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Đó là chính quyền xô viết, một mô hình thể chế chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại được thiết lập để xây dựng và tiến tới xã hội cộng sản.

Công thức biểu tượng, mô hình sụp đổ


Đinh Hoàng Thắng: Có những “bên thua cuộc” khác

Hệ tư tưởng trong chiến tranh Việt Nam nhiều khi chỉ là lớp vỏ bên ngoài. Ta – Tây – Tàu, giữa đồng chí cùng “phe” vẫn thấu thị được bản chất các sáo ngữ. Sau chiến tranh, những tưởng ý thức hệ hết chỗ đứng. Nhưng không! Cứ mỗi thập kỷ qua đi, dưới lá bài “cùng chung vận mệnh”, một dạng hệ tư tưởng trá hình, Bắc Kinh lại đạt được những bước tiến mới trên con đường độc chiếm Biển Đông và bành trướng xuống Đông Nam Á. Cái “vỏ” bốn tốt và mười sáu chữ vàng liệu có cứu được Việt Nam thoát khỏi cuộc xung đột mới trên đất liền hoặc ở tận mãi ngoài các đảo xa?

“Ông Liên Xô bà Trung Quốc…”


45 năm về trước, ngày 15/5/1975, tại một cuộc mit-tinh lớn ở Hà Nội, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn khẳng định, thắng lợi từ cuộc kháng chiến của Việt Nam “cũng là thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa”. Mặc dầu tuyên bố thế, nhưng vốn “đi guốc trong bụng” Trung Quốc và Liên Xô nên ông Lê Duẩn biết rất rõ, 30/4/1975 chính là ngày mà ý chí độc lập của người Việt đã cho “đo ván” những kẻ muốn lợi dụng ý thức hệ để chia cắt đất nước, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc phân tranh dai dẳng.

Chỉ cần “soi” các mục tiêu sâu xa của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc suốt thời kỳ chiến tranh, có thể thấy anh Cả lẫn anh Hai hẫng hụt như thế nào trước các hiệu ứng ngày 30/4/1975. Bắc Kinh từ 1954 bằng mọi cách đã thao túng Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, với mục tiêu kéo dài, nếu có thể thì vĩnh viễn, chia cắt giải đất hình chữ S, biến nó thành khu đệm để Trung Quốc làm quân bài ngã giá với Mỹ hay cạnh tranh với Liên Xô. Mục tiêu xa hơn nữa là trong quá trình “chống lưng” cho Việt Nam và các lực lượng cộng sản châu Á, Trung Quốc luôn luôn rắp tâm dọn đường để đưa hàng triệu nông dân từ đại lục tràn ngập lãnh thổ Đông Nam Á.

Liên Xô, khiêm tốn hơn, chẳng có tham vọng lãnh thổ hay di dân. Tuy nhiên, khi đấu tranh võ trang ở miền Nam có dấu hiệu mạnh lên, lo sợ ảnh hưởng đến đường lối “chung sống hoà bình”, Mátxcơva đã đe Hà Nội chớ giải phóng nửa nước bằng con đường bạo lực! “Đốm lửa” ấy có thể thiêu rụi cả “cánh đồng” cách mạng. Đấy cũng là căn nguyên của cuộc sát phạt “xét đi… xét lại” gây báo tang thương cho một bộ phận tinh hoa trong nội bộ cộng sản Việt Nam. Nhưng với diễn tiến các sự kiện, về sau Mátxcơva đã lần lượt cho hàng loạt đoàn tàu chở đầy ắp các thiết bị và khí tài quân sự sang Hà Nội để viện trợ cho chiến trường.

Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ: Bác kháng nghị án tử hình Hồ Duy Hải là khai tử Pháp chế xã hội chủ nghĩa (Kỳ 2)

Chánh án Nguyễn Hòa Bình trong phiên giám đốc thẩm Hồ Duy Hải, ngày 5/5/2020. Photo PLO

Hội đồng thẩm phán xét xử trái pháp luật khi chỉ dựa trên chứng cứ gián tiếp


Bản chất của tố tụng hình sự là xác định có hay không có tội phạm, xác định kẻ phạm tội trong trường hợp có tội phạm. Việc xác định phải dựa trên chứng cứ. Không có chứng cứ hoặc chứng cứ không đủ thì không thể xác định có tội phạm và kẻ phạm tội. Lẽ dĩ nhiên, để được coi là chứng cứ thì phải được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.

Chứng cứ trong một vụ án hình sự gồm chứng cứ trực tiếp (phương tiện gây án, tài sản bị cướp, hình ảnh, giọng nói của kẻ đang thực hiện hành vi phạm tội, dấu vết sinh học (dấu vân tay, vết máu…) và chứng cứ gián tiếp (lời khai). Chứng cứ trực tiếp là cái phản ánh khách quan nhất tội phạm và kẻ phạm tội vì không bị điều chỉnh, tác động bởi ý chí chủ quan cũng như tâm, sinh lý của con người. Do đó, chứng cứ trực tiếp có tính chất quyết định trong việc giải quyết vụ án hình sự. Nói cách khác, không có chứng cứ trực tiếp thì không thể xác định được ai là kẻ phạm tội. Thực tế cho thấy không có lời khai của bị can, bị cáo, nhất là trong điều kiện bị can, bị cáo thực hiện “quyền im lặng” được quy định gián tiếp trong Bộ luật hình sự 2015 (1), các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể xác định được kẻ phạm tội dựa trên các chứng cứ trực tiếp.

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2020

Trịnh Y Thư: Tản văn, Tùy bút và Ký giống, khác nhau chỗ nào?

Có người bạn văn email hỏi tôi: Tản văn, Tùy bút và Ký giống, khác nhau chỗ nào. Câu hỏi khá bất ngờ và, kỳ thực, tôi không biết rõ lắm, bèn tìm kế hoãn binh, bảo chị đợi tôi trả lời trong một bài viết, thay vì vài câu email sơ sài cho qua. Nhận lời xong, tôi mới biết mình dại, vì không dễ dàng trả lời cho thỏa đáng câu hỏi này chút nào. Thôi thì, đành cố tới đâu hay tới đó, có chi bất cập, sai trái, mong các bạn góp ý và chỉnh sửa lại cho đúng.

Giữa ba thể loại, có lẽ Ký dễ phân biệt nhất. Ký cũng là một thể loại văn học phổ biến trong văn học Tây phương, nên tôi có nhiều phương tiện tra cứu hơn. Vì thế, xin nói trước về Ký.

Ký là tên gọi chung cho một nhóm thể tài chữ nghĩa văn xuôi nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài văn học, như báo chí, chính luận, ghi chép… Chủ yếu của Ký là ghi chép theo dạng tự sự, miêu tả nhiều hơn là phân tích nội tâm. Ký có nhiều thể loại: Hồi ký, Bút ký, Du ký, Ký sự, Phóng sự, Nhật ký, v.v…

Ký nói chung khác với Truyện ở chỗ Ký không đưa ra một xung động nội tại. Phần khai triển của tác phẩm chủ yếu mang tính miêu thuật. Đề tài và chủ đề Ký trình bày cũng khác, so với Truyện. Trong khi Truyện khai triển tính cách cá nhân con người (bằng cách xây dựng nhân vật) trong tương quan với hoàn cảnh và bối cảnh, thì Ký chỉ chú trọng đến chính bản thân môi trường, mà xem nhẹ tính cách của nhân vật (nếu có) trong đó.

Bởi thế, Ký chủ ý miêu tả tính cách xã hội hoặc dân tộc, nghiêng nhiều về mặt báo chí, chính luận, biểu thị bởi sự quan tâm mang tính thời sự, chính trị. Đặc điểm của Ký là tính tư liệu, tái hiện tính chính xác của sự kiện, của hiện tượng có thực; (Hồi ký chiến tranh Tháng ba gãy súng của nhà văn quá cố Cao Xuân Huy là một thí dụ.) Nội dung của Ký ở đây không hẳn chỉ có những miêu thuật khách quan, mà còn bao gồm những lý giải, đánh giá chủ quan, thậm chí tâm tình riêng của tác giả. Ở đây, Ký giao thoa với Truyện, và bởi thế, có thể xem những tác phẩm như vậy là Ký Văn học.

Bửu Lịch: Vài Giai Thoại Về Đào Duy Anh Và Trần Đức Thảo

Sau đây là vài giai thoại về Đào Duy Anh và Trần Đức Thảo phần lớn căn cứ trên hai tác phẩm Nhớ nghĩ chiều hôm (Đào Duy Anh) và Những lời trăng trối (Trần Đức Thảo). 

Đào Duy Anh được nhiều người biết đến và còn mang ơn nữa, do ông là tác giả Hán Việt tự điển, Pháp Việt tự điển chưa kể các tác phẩm văn học, sử học... mọi người cần xử dụng, từ học sinh, sinh viên đến thầy giáo, và giới trí thức, văn nghệ...

Dưới đây căn cứ trên sách vừa kể tôi muốn nói đến công lao mênh mông của ông trong việc sưu tập, gom góp tài liệu từ Nam chí Bắc, từ đồng bằng đến rừng núi, từ thành thị đến làng xóm... trong điều kiện thể trạng rất ốm yếu vì mang bệnh phổi khá nặng. Ngoài ra vì chiến tranh phải di tản liên tục cho nên nhiều tài liệu mất, bị đốt cháy. Những tài liệu nhìn qua chỉ là những gom góp sơ sài, nông cạn, lỗi thời, vậy mà quý hơn vàng đối với một nhà khảo cứu say mê, nhiệt thành. Mớ tài liệu này có thể tìm tại bất cứ tại thư viện nào, ngay tại ngoại ô Paris. Tội nghiệp cho giới trí thức VN nói chung. Tình trạng này cũng chung cho cả miền Nam. Suốt trên đường Lê Lợi có mươi nhà sách chỉ có sách loại “thường thường”, tôi nghĩ không đáp ứng đầy đủ cho người có trình độ cao. Riêng tôi thường mua sách ở nhà Việt Bằng, chủ nhân là bạn thân, một hôm tôi đề nghị anh ta mua ít sách IC, Information et Culture của Pháp, giá rẻ dễ phổ biến. Nhiều sách có giá trị được IC ấn loát theo tinh thần này. Kết quả, sách IC bán chạy như tôm tươi! Việt Bằng chắc cám ơn tôi! 

Một giai thoại, Dương Thu Hương, nữ sĩ và chiến sĩ, thoạt đầu chắc thù hận miền Nam. Lúc vào Sài Gòn, bà nhìn thấy sách la liệt trong nhà sách, ngoài vỉa hề, trên đường phố... Quá xúc động, bà ngồi xuống lề đương ôm mặt khóc ! Lúc đó bà mới ý thức là mình mình bị tuyên truyền nhồi sọ một cách quá sai lệch từ kinh tế, đến chính trị, văn hoá giáo dục... của miền Nam. Trong Nam hoàn toàn tự do từ tưởng, miễn đừng giết nhau, hại nhau vì bất đồng ý kiến! Ngoài Bắc là trật tự bất động, một chiều. Trong nhà sách miền Bắc chỉ có : sách đỏ của đồng chí Mao, vài quyền sách mỏng dính của Bác yêu quý, sách tuyên truyền, sách tôn vinh lãnh đạo, đầy tớ của dân… Ông Hồ Chí Minh được ca tụng như một văn hào lỗi lạc. Trước mặt bá quan của đảng cọng, nhà thơ Xuân Diệu không ngớt nâng bi, nịnh hót bác, nhưng sau lưng bác, hãy nghe anh ta thổ lộ tâm tình “Thơ của bác không phải là thơ, là vè thì đúng hơn. Các anh biết tôi phải ca tụng vì miếng cơm, manh áo, có gì lạ”. Thật tủi nhục không những cho trí thức, còn cho cả mọi tầng lớp dân chúng !

Đàm Duy Tạo: Chương 31 Kim Vân Kiều Đính Giải

CHƯƠNG 31
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp 
hiệu đính và phổ biến năm 2020
* * * * *
CÂU 3131 ĐẾN CÂU 3186
“Chút trinh cầm vững, muôn phần kính thêm”


3131. Nhà vừa mở tiệc đoàn loan, [1]
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là. [2]
3133. Cùng nhau giao bái một nhà, [3]
Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi.
3135. Động phòng dìu dặt chén mồi, [4]
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xư .
3137. Những từ sen ngó đào tơ, [5]
Mười lăm năm mới bây giờ là đây !
3139. Tình duyên ấy hợp tan này,
Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao.[6]
3141. Canh khuya bức gấm rủ thao, [7]
Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.
3143. Tình nhân lại gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
3145. Nàng rằng: Phận thiếp đã đành,
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi !
3147. Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may.[8]
3149. Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi !
3151. Những như âu yếm vành ngoài,
Còn toan mở mặt với người cho qua.
3153. Lại như những thói người ta,
Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa.

RA MẮT SÁCH THỜI ĐẠI DỊCH COVID 19

Thư Mời

May 15, 2020
Thân gởi:

1). Lê văn Khoa

2). Đỗ Tiến Đức

3). Phạm Phú Minh

4). Nguyễn Văn Sâm

5). Trần Huy Bích

6). Phạm Lệ Hương

Tôi đã có cuốn Phong Tục, Tập Quán Miền Nam trong tay.
Xin hẹn gặp các anh/chị tại bãi đậu xe trước cửa Nhà sách
Tự Lực sáng ngày Thứ Bảy, 16 May vào khoảng 10:00-10:30 A.M.
để trao sách tặng các anh/chị.

Vy Thanh/Nguyễn Văn Thùy

*

Sáng ngày 16 tháng 5, 2020, từ 10 giờ các người được mời lai rai đến địa điểm hẹn trong thư mời. Đến đúng 10 giờ 30 có bốn trong sáu người được mời có mặt, là Phạm Lệ Hương, Trần Huy Bích, Đỗ Tiến Đức và Phạm Phú Minh. Cộng với hai ông bà Vy Thanh Nguyễn Văn Thùy (tác giả), buổi Ra Mắt Sách thời Covid 19 tại bãi đậu xe trước nhà sách Tự Lực gồm tất cả là sáu người.

Buổi ra mắt sách kết thúc lúc 10:45, sau khi bốn người khách mời được tác giả tặng mỗi người một cuốn PHONG TỤC TẬP QUÁN MIỀN NAM.

Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2020

Từ Mai Trần Huy Bích: Ít Điều Cần Biết Về Nhà Giáo Dục Chu Văn An

Tượng Chu Văn An trên bàn thờ tại Văn miếu – Quốc tử giám Hà Nội
(Những chữ Hán trên đôi câu đối sẽ được giải thích ở cuối bài)
Trong ít hôm vừa qua, cộng đồng mạng người Việt huyên náo hơn mức bình thường.

Một YouTube được đưa ra, trong đó người thực hiện và trình bày đánh giá Chu Văn An, một nhà giáo dục được tôn kính từ thế kỷ 14 là “rất tệ,” là “tối,” rồi đưa tới một lời miệt thị rất nặng, “thằng cha đó là một thằng cà chớn.” Phản ứng lập tức đến từ rất nhiều phía, bộc lộ một niềm phẫn nộ tới cùng độ. Trong những phản đối ấy có một vài quá đáng, tuy lăng mạ mạnh mẽ nhưng chưa vạch được rõ người đưa ra lời phê phán đã sai ở những điểm nào. Giữa hàng trăm, hàng ngànlời buộc tội, người viết những dòng này đọc được một lời bênh. Nhưng người bênh có một điểm sai, tưởng Chu Văn An làm đến chức Tể tướng và có quyền rất lớn trong triều Trần. Để đạt được một nhận định vô tư và khách quan, bài này xin được duyệt lại sử sách Việt Nam các đời trước, xem tiền nhân đã chép về Chu Văn An ra sao, cùng tìm hiểu thêm xem trong thời của ông (qua bốn triều vua Trần Minh tông, Hiến tông, Dụ tông, Nghệ tông), Chu Văn An đã có vị trí như thế nào. 

Để làm được việc ấy, chúng tôi xin chép nguyên văn hay tóm lược những đoạn viết về Chu Văn An trong:

--Hai bộ chính sử: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (từ sau xin gọi tắt là Toàn Thư, bộ sử của nhà Lê, do Ngô Sĩ Liên và một số sử quan sau ông biên soạn), và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (từ sau xin gọi tắt là Cương Mục, bộ sử của nhà Nguyễn, do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn).

Thy an: Ở một nơi nào đó

Hình minh hoạ, FreePik
một góc vườn hay góc đời
gom biết bao âm thanh kỳ lạ
ngày gió đêm mưa
có tiếng kêu của tiền nhân
trong lời thì thầm của lịch sử
giọt mưa rơi trên quê người
biết bao giờ tạnh trên tay

ở khung cửa thắp mấy ngọn đèn
một nửa ở đây, một nửa ở kia
một nguyên vẹn của em và của tôi
trên mấy tầng ngôi nhà nóc xám
ngơ ngác hỏi lòng ngày tết Chuột
tro tàn rơm rạ dưới chân im lặng
giữa những lời hỏi thăm, chúc tụng, lãng quên

Nguyễn Đức Tùng: Phạm Thiên Thư, Có Ngần Ấy Thôi

gởi Kathy Hoang


Thơ Phạm Thiên Thư là thơ để ngâm, để hát, là chanson poétique.

Tiếng em hát giữa giáo đường
Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng

Đúng ra, thơ ông có điệu nói lẫn điệu hát. Là tu sĩ Phật giáo nhưng vẫn nhắc đến Chúa: đó là tinh thần tự do của Phạm Thiên Thư. Nhiều người cho rằng thơ ông được phổ biến là nhờ ca khúc do Phạm Duy phổ nhạc, hoặc vì ông là thi sĩ kiêm thiền sư, những cái ấy đều có thể đúng cả, nhưng thơ không hay thì không ai nhớ. Vậy phải có mấy thứ cùng lúc: văn hóa và văn bản. Nhà phê bình Đặng Tiến có một nhận xét thú vị rằng câu "rằng xưa có gã từ quan" là câu thơ được nhớ nhiều nhất. Điều đó quả nhiên đúng, nhưng tôi nghĩ có lẽ vì nó được phổ nhạc, và là câu mở đầu của bài hát. Nếu Phạm Duy chọn câu khác, ví dụ câu thứ nhất của Động hoa vàng "Mười con nhạn trắng về tha", thì biết đâu câu ấy lại nổi tiếng hơn?

Bạn nói vậy hoá ra câu "rằng xưa" ấy không có giá trị gì? Cũng không phải thế. Đó là câu nghe qua cũng tầm thường, nhưng với lối nói lửng lơ, nhiều hư từ, của người Việt, nó lại gợi ra nhiều thứ. Nó mở ra, mông lung. Bùi Giáng có nhiều câu như vậy. Một chữ thành công phải đúng thời điểm, mở đúng cánh cửa. Mà một cánh cửa chỉ có một người mở. Nhưng trước hết nó phải kết tụ tiếng nói của dân tộc, như một thứ "tổng kết thời đại." Ở miền Nam ai không thấy cảnh nữ sinh áo dài tha thướt ùa ra cổng giờ tan trường, nhưng phải đến Phạm Thiên Thư, thơ mới bật ra bốn chữ:

Bùi Văn Phú: 30/4 quê hương thống nhất hoà bình rồi sao

Tác giả và gia đình tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Tôi sinh ra trong miền Nam, sau ngày thày u tôi di cư vào Nam năm 1954.

Ngày còn bé chưa biết chiến tranh là gì. Đến năm 10 tuổi thấy đám tang ông chú họ với quan tài phủ cờ, nến lung linh, nghe nhiều tiếng khóc lóc thảm thương sao buồn quá.

Chú là sĩ quan dù, chết trận ở Đồng Xoài. Thày tôi và bố chú đi nhận xác ở Tổng Y viện Cộng hoà. Nghe thày kể khi đi phải mang theo tỏi để lúc vào nhà xác đưa lên mũi khử mùi hôi. Nhiều xác chết, không biết chú nằm ở đâu, bố chú khấn nguyện “Con ơi!Nếu con chết thiêng thì ra dấu cho bố biết để nhận con”. Một xác người động đậy và đó là chú.

Đám tang của chú là cái chết đầu tiên từ chiến trường tôi biết, là đám tang lính tôi theo thày u đi lễ tang.

Chiến tranh kéo dài. Nhiều người thân quen tử trận, theo phong tục tập quán là thân bằng quyến thuộc tụ họp cùng tang gia đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn người mới qua đời.

Chú Thuận, chú An cỡ tuổi thày tôi tử trận. U tôi lo lắm vì sợ thày bị thuyên chuyển ra đơn vị tác chiến.

Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2020

Thảo Ngọc: Nguyễn Văn Nghị là ai?


Theo dõi vụ án tại bưu điện Cầu Voi xảy ra vào tối 13/1/2008 tại xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, hai nữ nhân viên bưu điện là Nguyễn Thị Ánh Hồng và Nguyễn Thị Thu Vân bị giết, chúng ta thấy vụ án hình sự này với những tình tiết ban đầu cho thấy là khá đơn giản.

Cơ quan chức năng tỉnh Long An chắc chắn chỉ trong một thời gian ngắn đã có thể xác định được thủ phạm gây án. Vì những dấu vết tại hiện trường như dấu vân tay trên các cửa và trên người 2 nạn nhân, những vệt máu tại hiện trường. Nhất là tinh dịch trên người nạn nhân Hồng, và 2 vật chứng gây án vô cùng quan trọng là con dao và cái thớt dính đầy máu, chưa nói đến lời làm chứng của những người trong vùng.

Cùng với đó là báo chí đã vào cuộc và đồng loạt viết bài về vụ án này.

Báo Công an Nhân dân ra ngày 16/1/2008 có bài: “Vụ 2 nhân viên bưu điện bị giết: Nghi can là bạn trai của nạn nhân”.

Theo đó: “Nghi can chính là Nguyễn Văn Nghị, ngụ tại huyện Cai Lậy (Tiền Giang), có dấu hiệu nghiện ma túy. Nghị là một trong hai bạn trai của nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng. Vào đêm xảy ra vụ án, người dân địa phương thấy Nghị đi xe máy đến Bưu điện Cầu Voi gặp Hồng và Vân.

Ngày 15/1, cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An tiến hành lấy lời khai ba thanh niên quê ở tỉnh Vĩnh Long, tạm trú tại ấp 5, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa (Long An) do có mối quan hệ với hai nạn nhân bị giết.

Đối tượng đang bị câu lưu là Nguyễn Văn Nghị, ngụ tại huyện Cai Lậy (Tiền Giang), là bạn của ba thợ bạc tiệm vàng K.L., có dấu hiệu nghiện ma túy. Nghị là một trong hai bạn trai của nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng.

Phạm Đình Trọng: Mười bảy bàn tay Hội đồng Thẩm phán Toà án tối cao đồng phạm với cái ác

Hơn mười hai năm đã qua từ đêm cái ác hiện hình 13.1.2008, hai cô gái Ánh Hồng và Thu Vân đang rực rỡ tuổi hai mươi bị giết man rợ ngay tại nơi làm việc, bưu điện Cầu Voi, Thủ Thừa, Long An.

Cái ác cầm dao cứa vào cổ cao ba ngấn trắng ngần cô gái hai mươi ba tuổi Ánh Hồng và vung thớt giáng xuống đầu cô gái Thu Vân hai mươi mốt tuổi.

Với những mối quan hệ tình cảm của cô gái nhan sắc mặn mà, cổ kiêu ba ngấn, lập tức nghi can nổi cộm lồ lộ hiện ra và cơ quan điều tra đã hành động kịp thời, đúng nghiệp vụ, nghi can nổi cộm bị bắt. Với những tang chứng, vật chứng còn đầy đủ nơi cái ác ra tay. Việc chứng minh tên tuổi cái ác chỉ còn một bước ngắn.

Bỗng như có quyền lực từ trên cao lệnh xuống những cảnh sát điều tra làm án, lệnh xuống cả những quan tòa xử án. Cơ quan điều tra lập tức răm rắp chuyển hướng tìm tội phạm và cơ quan tư pháp nối gót sự răm rắp đó, chấp nhận ngay bản kết luận điều tra đầy sai trái, khuất tất của cảnh sát điều tra.

Cơ quan điều tra đang tỉnh táo và quyết liệt làm đúng phận sự, đúng bài bản nghiệp vụ, đang trên con đường đi tới ánh sáng công lý bỗng mau lẹ mụ mị ngoặt sang con đường tối tăm, sai trái, mờ ám. Từ đây cuộc điều tra hoàn toàn diễn ra trong bóng tối.

Trong bóng tối, không ai nhìn thấy bàn tay mở khóa nhà tạm giam thả nghi phạm chính Nguyễn Văn Nghị, kẻ dính líu nhiều nhất, rõ nhất đến án mạng. Mở đường cho nghi phạm rõ nhất Nguyễn Văn Nghị chạy trốn biệt tăm vào hư vô, bàn tay đó cũng mở đường đưa vụ án vào khuất tất, gian dối, sai trái và tội ác.

Kẻ giết người đột phát, không có ý đồ từ trước nên hớ hênh để lại đầy rẫy dấu vết, chứng cứ. Để lại tất cả tang vật. Để lại dấu vân tay ở vật gây án. Để lại cả tinh dịch trên người cô gái mà kẻ giết người si mê.

Trong bóng tối, không ai nhìn thấy bàn tay vội vã thu lượm những tang vật gây án mang đốt phi tang. Cái thớt, con dao còn in hằn dấu vân tay kẻ giết người nhưng thớt đã thành than, dao thì biến mất. Tinh dịch kẻ giết người để lại trên người cô gái bị giết đã bị cảnh sát điều tra cố tình bỏ qua, không được xét nghiệm xác định cá thể của tinh dịch. Chứng cứ xác đáng nhất đó đã bị chôn sâu cùng thi thể cô gái xấu số.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nước & Dân


Cái nước mình nó thế.

Đúng 9 giờ sáng ngày 10 tháng 10 năm 1972, tôi có mặt tại Trung Tâm Xã Hội Sài Gòn để trình diện nhập ngũ. Tới trưa, tôi được đưa vào Nguyễn Tri Phương. Đây là nơi tiếp nhận tân binh để đưa đi huấn luyện. Những thằng trong hạn tuổi quân dịch như tôi, theo luật Tổng Động Viên (sau Mùa Hè Đỏ Lửa) thì nhiều vô số nên cả đống phải nằm chờ khá lâu ở cái trại chuyển tiếp này.

Tôi ghét tất cả các trại lính và mọi thứ quân trường (Quang Trung, Thủ Đức, Lam Sơn …) mà mình đã trải qua nhưng riêng Nguyễn Tri Phương thì có một “điểm son” đáng được ghi nhận: nơi đây có một cửa hàng cho mướn sách truyện,và không thiếu một tác phẩm nào của Erich Maria Remarque. Tất cả đều được những dịch giả tài hoa của miền Nam (Huỳnh Phan Anh, Cô Liêu, Tâm Nguyễn, Vũ Kim Thư…) chuyển sang Việt ngữ:

All Quiet on the Western Front (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh) 

Three Comrades (Chiến Hữu) 

Arch of Triumph (Tình Yêu Bên Bờ Vực Thẳm) 

Spark of Life (Lửa Thương Yêu Lửa Ngục Tù) 

A Time to Love and a Time to Die (Một Thời Để Yêu và Một Thời Để Chết) 

The Black Obelisk (Bia Mộ Đen) …

Tâm cảm phản chiến của Remarque rất hạp với cái “tạng” ngại chuyện súng đạn của tôi. Nước Đức bất an và tan hoang của ông cũng rất gần với không khí ngột ngạt mà tôi đang hít thở, ngay ở quê hương của chính mình. Tôi lại đang không có́ chuyện chi để giết thời giờ trong khi nằm chờ khoá nên truyện của Remarque tôi đều đọc đi đọc lại (vài lần) và trở thành “rành rẽ ” về nước Đức hơn nhiều quốc gia khác ở Âu Châu.

Tú Anh (RFI): Điểm báo Pháp Covid-19 - Trách nhiệm pháp lý quốc tế của Trung Quốc và WHO

Hệ quả khốc liệt của khủng hoảng Covid-19 vẫn là chủ đề chính trên báo chí Pháp : Hôm nay, Ủy Ban Châu Âu trình bày kế hoạch cứu vãn mùa du lịch. Le Monde nói về hiện tượng nhà nghèo mới ở các nước dân chủ Tây phương và trách nhiệm của Trung Quốc. Le Figaro ngạc nhiên với sức đề kháng của Phi châu, trừ Nam Phi. La Croix đặt câu hỏi khi nào chấm dứt "trò hề" số liệu không chính xác.

Le Monde trình bày những hệ quả khác nhau của đại dịch Covid-19 trên thế giới qua các tựa lớn: Châu Âu trước hiện tượng nhà nghèo mới. Tại Nhật Bản, sinh viên, phụ nữ, lao động hợp đồng ngắn hạn trả giá nặng trong cuộc khủng hoảng. Tại Hoa Kỳ, anh khổng lồ chân đất sét, ngân hàng lương thực hoạt động không nghỉ tay.

Y Sĩ Không Biên Giới lần đầu tiên can thiệp tại Tây Âu


Khủng hoảng viruscorona đã làm hàng ngàn dân Tây Âu lâm vào cảnh khốn khổ. Tại các nước bị tác hại nặng nhất, nhu cầu trợ giúp thức ăn tăng đến 25% hay 30%. Cụ thể là lần đầu tiên hiệp hội Y Sĩ Không Biên Giới MSF, được thành lập vào năm 1971, phải gửi các toán bác sĩ, nhân viên y tế sang Anh, sang Đức.

Tại Luân Đôn, từ hơn một tháng nay, MSF săn sóc, cung cấp thức ăn cho hàng ngàn người vô gia cư, nạn nhân khốn khổ nhất của Covid-19, đa số là nhân viên nhà hàng, quán ba, cà phê bị đóng cửa.

Ở Bruxelles, được yểm trợ của Nghị Viện Châu Âu, hiệp hội Y Sĩ Không Biên Giới, cũng lần đầu tiên, mỗi ngày tặng không 1000 bữa ăn cho người bị khó khăn.

Trách nhiệm pháp lý quốc tế của Bắc Kinh và WHO


Theo Le Monde, Trung Quốc và Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO đều có trách nhiệm. Dù Bắc Kinh có bất bình về cách gọi của tổng thống Mỹ Donald Trump "siêu vi Vũ Hán" nhưng đây là con siêu vi Vũ Hán.

Thứ Năm, 14 tháng 5, 2020

Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ: Bác kháng nghị án tử hình Hồ Duy Hải là khai tử Pháp chế xã hội chủ nghĩa (Kỳ 1)

Bà Nguyễn Thị Loan từ Long An ra Hà Nội, nhưng không được vào phòng xử án giám đốc thẩm con trai Hồ Duy Hải. Photo Luật khoa Tạp chí.

Dẫn nhập


Đứng đầu các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự” được quy định tại Điều 7 (Chương II – Những nguyên tắc cơ bản) Bộ luật tố tụng hình sự. Theo nguyên tắc này, “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”.

Một trong những nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự được quy định tại Điều 2 là “không làm oan người vô tội”. Một trong những biện pháp để thực hiện nhiệm vụ này là “thủ tục giám đốc thẩm” quy định tại Chương XXV. Thủ tục tố tụng này nhằm “xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Các căn cứ để kháng nghị được quy định tại Điều 371, gồm: 1. Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; 2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; 3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.