Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Cánh Cò - “Thủ trưởng” cưỡng dâm

Cánh Cò - 
Chỉ trong vòng một tuần lễ, báo chí Việt Nam bỗng nhiên bán chạy như tôm tươi, đặc biệt là tờ nào có loan nơi trang nhất vụ kiều nữ Hải Dương cưỡng dâm tài xế taxi của các hãng Mai Linh, Hoàng Hải, Hoàng Minh. . . Bài báo đầu tiên đưa tin này là tờ Người Đưa Tin của Hội Luật gia Việt Nam, có văn phòng tại Hà Nội và bài viết này của tác giả Diệu Nam. Bài báo viết:
“Tại bãi đỗ xe của hãng Mai Linh trước cửa Bệnh Viện đa khoa tỉnh Hải Dương, tài xế X chia sẻ: “Ban đầu, thủ đoạn của N hết sức đơn giản. Khi tài xế lái xe đến đón, N thường yêu cầu đánh xe vào trong sân của biệt thự. Sau đó yêu cầu tài xế lên phòng ngủ xách hàng loạt đồ nặng từ phòng ngủ của ả từ tầng 3 xuống. Lúc đó ả đã ra khóa cửa và cho thuốc kích dục vào nước mời tài xế. Xách quá nhiều đồ, mệt, nên hầu như tài xế nào cũng uống vài ngụm nước. Sau những câu chuyện tếu táo, thuốc kích dục trong nước ngấm, tài xế đờ đẫn, kiều nữ này bắt đầu thỏa mãn dục vọng của mình”.
Như để chứng minh là câu chuyện có thật, Diệu Nam đưa ra một nhân vật có tên là D với các chi tiết như sau:
“Sáng sớm, ả kiều N gọi cho D vào đón, nhưng đã vào chẳng có đường ra. Sau 2 ngày bị N lạm dục, D lê lết bò ra cửa kêu cứu. Do nhà rộng, cửa đóng kín, chẳng ai nghe tiếng D. Phải gắng hết sức D mới bấm được số của quản lý cầu cứu. Khi quản lý đến, D như kẻ mất hồn, thều thào: "Cứu em với, em chết mất, nó bắt em quan hệ hơn 30 lần rồi".
Vấn đề đặt ra: Tuy tờ báo chụp tấm ảnh căn nhà của người bị tố cáo là dâm nữ tên Ngọc (hay nạn nhân) tuy nhiên bài báo không chứng minh được tài xế tên gì, chạy cho hãng nào, thời gian cụ thể bị cưỡng dâm và nhất là anh ta có báo cáo vụ việc cho công an hay không nếu sức khỏe bị suy kiệt như “nạn nhân” D như mô tả.
Hậu quả nhãn tiền: Căn nhà trong tấm hình đã được nhận dạng là của bà Phạm Thị Thanh N. (mà bài báo của Diệu Nam viết là Ngọc) một Việt kiều Mỹ, chủ căn nhà trong ảnh mà bài báo đăng tải. Bà Thanh N đã gọi cho hãng tin VTC sau khi đọc được bài này và cho biết bà đã sang Mỹ được 14 năm, có chồng và hai con, hiện sống tại Texas. Bà N khẳng định không hề có bất cứ một tài xế taxi nào bị cưỡng dâm như vậy cả. Bà nói sẽ về Việt Nam và làm cho rõ chuyện này và có thể sẽ khởi tố tờ báo về tội mạ lỵ công dân.
Câu chuyện chưa ngã ngũ nhưng người ta có thể nhìn thấy những yếu tố lá cải quá lớn trong bài báo của Người Đưa Tin. Kích động dục tính qua câu chuyện không khác mấy với những mẩu chuyện dâm thư đầy dẫy trên mạng Internet. Nhưng khác với Internet, vốn khó truy được người viết hay post lên mạng, nếu được cũng mất khá nhiều thời gian và công sức, nhưng đối với một tờ báo, dù là của nhà nước hay một hội lớn như Hội luật gia Việt Nam thì cơ quan chủ quản không còn đường thoát, ngoại trừ con đường hối lộ để chạy tội.
Qua câu chuyện này người đọc báo có quán tính bầy đàn sẽ rung đùi thích chí. Người đứng đắn sẽ lắc đầu ngao ngán, người ưu tư cho văn hóa Việt sẽ tuyệt vọng vì một nền báo chí đã bị tinh trùng và nội y bao phủ.
Còn người trong nghề thì sao?
Họ sẽ theo gương nhà báo cung đình Xuân Ba viết bài phóng sự chuyến viêng thăm các nhân vật đỉnh cao của Việt Nam trên tờ Tiền Phong để tránh mang tiếng là lá cải chăng?
Nếu Người Đưa Tin giật tít: “Hoang mang kiều nữ có sở thích... cưỡng hiếp lái xe taxi” đang dậy sóng dư luận thì một bài khác của Xuân Ba trên tờ Tiền Phong lại có vẻ hiền lành, ngoan ngoãn với cách viết rất kinh điển của một nhà báo có kinh nghiệm viết cho cung đình nhiều chục năm qua.
Vấn đề đặt ra là cái tít: Thủ tướng Hun Sen thăm “thủ trưởng” cũ Lê Khả Phiêu và Lê Đức Anh. Hai chữ thủ trưởng được báo Tiền Phong cẩn thận đặt trong ngoặc kép.




Nhưng dù bị đặt bên trong ngoặc kép như vậy hai chữ này cũng “bức xúc” tung ngoặc chạy ra. Vừa chạy vừa la to: “Ối làng nước ơi Việt Nam sỉ nhục Thủ tướng Hun Sen của Campuchia”!

Bài viết của Xuân Ba khó thể được gọi là một bài báo. Nó là một bài “tán” đúng nghĩa khi mặc dù được nằm nơi trang nhất của tờ báo, thay vì viết theo thể phóng sự của báo chí tác giả đã sử dụng những câu văn mà khi đọc lên người đàng hoàng không thể không nhăn mặt.
Với một lô một lốc những gì ông Hun Sen được đào tạo, giúp đỡ từ Việt Nam để leo lên ghế thủ tướng, nhà báo Xuân Ba đã giúp cho nhân dân Campuchia vốn đang biểu tình chống ông vì đã cầm quyền quá lâu, quá lệ thuộc vào Việt Nam và nhất là đã thỏa thuận cho Việt Nam lấn chiếm biên giới ở các tỉnh Tây Nam biết thêm những gì mà có thể họ còn lờ mờ vê ông Thủ tướng thân “duồn” nầy.
Là nhà báo nhưng ông Xuân Ba không ý thức được sự cao đạo, khiêu khích thậm chí khinh bỉ khi dùng từ “thủ trưởng” để nói về một thủ tướng đương nhiệm của nước bạn.
Cái sự nhơn nhơn vô ý thức đó của ông đã di truyền từ hệ thống mà ông là cây viết

cốt lõi của nó. Ông có thể biết nhưng bất cần. Ông cần hai ông Phiêu và Anh hơn vì hai ông này sẽ vỗ đầu ông mà kêu lên “ngoan đấy” nhưng ông Hun Sen thì không thể ban cho ông chút lợi lộc nào.

Bài báo của ông Xuân Ba toát lên một sự thật: Việt Nam luôn coi Campuchia là nước chịu ơn vì lãnh đạo của nó thừa nhận và hành động công khai như vậy. Tuy nhiên là báo chí, tờ Tiền Phong không thể giật một cái tít có thể gây chiến tranh và chí ít có thể gây bạo loạn trong đất nước Campuchia.
Lãnh tụ đối lập Sam Rainsy của Campuchia đã bỏ bao nhiêu tiền cho nhà báo Xuân Ba để ông này giật cái tít và viết một bài báo sặc mùi quỳ gối của Hun Sen như thế?


Báo chí là khuôn mặt văn hóa một quốc gia nên khi đọc bài của tờ Người Đưa Tin người ta thấy Việt Nam khó thoát ra khỏi căn nhà thổ mang cái tên rất mỹ miều: thuần phong mỹ tục.

Báo chí là khuôn mặt chính trị của một quốc gia nên qua bài báo của Tiền Phong khuôn mặt chính trị ấy đã lộ ra sự lỗ mãng khó tha thứ. Khi đặt một nguyên thủ quốc gia nước bạn trong vai trò một “anh lính” dưới quyền thì nó không còn là khiếm khuyết nữa. Nó đại diện cho một thứ quyền uy mà nhiều người, cũ cũng như mới, trong Bộ chính trị thèm khát: Thủ trưởng của chư hầu.




Mít Tờ Đỗ - Nỗi buồn góa phụ


Mít Tờ Đỗ - 

Chồng bà ngã xuống trong một cuộc chiến chống ngoại xâm. Nhưng số phận nghiệt ngã của đất nước, cũng là của chính gia đình bà, đã khiến bà suốt gần 40 năm qua luôn sống trong lặng lẽ, với nỗi đắng cay và lo âu thường trực.


Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Giải phóng vô. Đất nước thống nhất. Sài Gòn, cũng như trên toàn miền Nam, “có triệu người vui, cũng có triệu người buồn”.

Với góa phụ trẻ Huỳnh Thị Sinh, bà không còn tâm trí để mà buồn. Bao trùm bà lúc này là một nỗi lo sợ. Chồng bà tử trận cách đấy hơn một năm. Mất xác. Từng được vinh danh.

Nhưng giờ đây, cuộc hân hoan ngoài kia không có phần cho bà, dù chồng bà đã ngã xuống trong một trận chiến bảo vệ mảnh đất Việt Nam trước sự xâm lấn của ngoại bang.

Từ căn hộ trên lầu 2 chung cư Nguyễn Kim, bà lặng lẽ nhìn những đoàn người chiến thắng đang vui mừng, và những con người thua cuộc đang nhớn nhác. Rồi bà lôi những tấm hình của chồng ra đốt hết, vì sợ chúng sẽ làm liên lụy tới cuộc sống của bà, lúc này đang còn phải nuôi ba con gái, đứa lớn nhất lên 10, đứa bé nhất mới 4 tuổi.

Bà phải sống vì ba đứa con.

“Hình ông xã cô nhiều lắm, nhưng hồi đó đốt hết rồi, vì sợ rắc rối”, 38 năm sau ngày chiến tranh kết thúc, bà Sinh nói với tôi trong căn nhà tạm cư ở quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, khi tôi ngỏ ý muốn sao chụp một số tấm hình để làm tư liệu.

“Bây giờ, mong muốn lớn nhất của cô là có căn nhà nhỏ, để nhang khói cho ông xã. Chứ ở nhờ trong căn tạm cư này, bạn bè ổng tới thăm, muốn thắp nhang cho ổng cũng không biết thắp vào đâu. Thân xác ổng thì nằm lại ngoài biển rồi ”, giọng bà trầm xuống.

“Đến ngày giỗ ông xã, ngày 19 tháng 1 hằng năm, cô lại bày tạm bàn thờ ra để cúng. Xong xuôi lại cất đi”.

Bỏ mình vì nước

“Hồi đó, dân Bạc Liêu tỉnh lẻ mà lọt vào tầm ngắm của sĩ quan hải quân đẹp trai thì cũng là kỳ tích đấy chứ!”, tôi đùa, chủ yếu làm cho không khí bớt nặng nề.

Bà kể, bà sinh ra ở Bạc Liêu, lúc 11 tuổi thì gia đình chuyển lên Sài Gòn. Hồi ấy bà là nữ sinh trường Nguyễn Bá Tòng. “Ổng gốc Trảng Bàng, là dân học luật, tướng đẹp lắm. Hai người gặp nhau khi học chung tại Hội Việt – Mỹ”.

“Tụi cô yêu nhau, rồi cưới. Hồi đó ổng là thiếu úy hải quân thuộc Giang đoàn 23 Xung phong. Đi miết. Thường thì mỗi tháng về thăm một lần”.

Trong căn hộ chung cư ấy, hai ông bà có với nhau ba người con gái: Ngụy Thị Thu Trang, Ngụy Thị Thu Thủy và Ngụy Thị Thu Tuyết.

Đầu năm 1974, khi cô út Thu Tuyết mới lên 3 thì Trung Quốc lăm le xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa.

“Trước đó, ổng về ở nhà suốt 10 ngày, lúc tàu đậu tại quân cảng để vô dầu, sửa chữa”, bà kể.

Một buổi sáng, Thiếu tá Ngụy Văn Thà xách va li từ biệt vợ con. “Đến chiều ổng lại trở về, nói tàu sửa chưa xong. Nhiều lần như thế, sau rốt mới đi”. Cuộc khởi hành đầy trúc trắc, như điềm báo sẽ có chuyện chẳng lành.

Lần cuối cùng ra đi, người cha trẻ Ngụy Văn Thà không kịp hôn cô út Thu Tuyết mới lên 3.

Rồi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra. Hoàng Sa rơi vào tay giặc Trung Quốc; tàu HQ-10 Nhựt Tảo bị đánh chìm; Thiếu tá hạm trưởng Ngụy Văn Thà bỏ mình vì nước.

“Ngày 18 tháng 1 năm 1974, nhiều người nghe tin đánh nhau ở ngoải nên kéo ra cầu tàu quân cảng chờ. Cô không ra được. Nghe người ta bảo chưa biết tàu mình ra làm sao”, bà Sinh kể. Đến ngày 19 tháng 1, hung tin báo về, chồng bà, Thiếu tá hải quân Ngụy Văn Thà, tử trận ở tuổi 30, mất xác cùng con tàu HQ-10 Nhựt Tảo mà ông chỉ huy.

“Người ta làm lễ truy điệu long trọng cho ông xã cô. Có cả tư lệnh Hải quân tới viếng”. Người chồng quá cố của bà được vinh danh, được truy phong trung tá hải quân dưới thời Việt Nam Cộng Hòa.

Lùa nước mắt vào tim, góa phụ 26 tuổi Huỳnh Thị Sinh gượng dậy tiếp tục đi làm ở nhà băng Việt Nam Thương Tín để nuôi ba cô con gái bé bỏng.



"Nhiều người biết đến ông xã cô"
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, góa phụ Huỳnh Thị Sinh đối diện với một hoàn cảnh mới. Từ chỗ sống với nỗi đau mất chồng, nhưng cũng cảm thấy được an ủi phần nào và đôi khi âm thầm tự hào khi chồng mình đã xả thân trong một trận chiến bảo vệ bờ cõi, giờ đây trong bà là nỗi bất an thường trực.

Không việc làm, ba đứa con thơ, và quá khứ gia đình gắn liền với chế độ cũ, bà không biết tương lai sẽ đưa mình đến đâu. Bà sống trong câm lặng, tủi hờn, xót xa, nhưng không hề oán giận. Bà cam chịu trước sự xoay vần của số phận, một phẩm chất dễ gặp của phụ nữ Việt Nam.

“Năm 1979, cô vô làm hợp tác xã. Khó khăn lắm con ơi. Hồi đó bán đủ thứ, rau, cá, xà bông. Thu nhập không đủ sống, thế mà vẫn sống tới bây giờ”.

Theo thời gian, ba cô con gái họ Ngụy cũng lớn, lấy chồng. “Ba đứa có chồng cả rồi. Buôn bán lặt vặt, chồng làm công nhân, cũng chỉ đủ sống thôi”.

Vậy là bà Sinh đã làm trọn bổn phận của bậc sinh thành, khi con cái lớn khôn, tự lập cuộc sống. Ấy vậy mà khốn khó chưa buông tha.

“Mấy năm trước, chung cư Nguyễn Kim bị giải tỏa. Cô phải ra ở bên ngoài, chờ ngày tái định cư”. Rời căn hộ nơi bà từng sống với người chồng quân nhân mấy chục năm về trước, bà ra ở ké trong một căn nhà tạm cư. Chỗ ở của bà chỉ đơn giản là một căn phòng để ngủ.

“Mỗi tháng người ta hỗ trợ 2,8 triệu đồng, coi như tiền thuê nhà. Bạn bè ổng ngày xưa lâu lâu vận động nhau giúp đỡ. Anh em khóa 12 Hải quân Song ngư, những người còn, nghe hoàn cảnh khó khăn, có giúp chút ít. Lúc cô mổ mắt thì một số người cho được năm trăm ngàn”.

Đã hơn bốn năm kể từ khi chung cư bị giải tỏa, bà góa phụ sống cảnh tạm cư, bất định, mòn mỏi chờ ngày nhận nhà, nhưng không biết bao giờ cái ngày ấy mới đến.

“Người ta không nói ngày nào sẽ giao căn hộ mới. Mà khi có căn hộ mới, mình phải đóng tiền trước người ta mới giao chìa khóa. Cũng không biết có tiền mà đóng hay không nữa”.

“Cô chỉ mong có chỗ ở ổn định, có bàn thờ thắp nhang cho ông xã”.

Bà bảo, mấy năm gần đây, có thêm nhiều người biết đến Hải chiến Hoàng Sa, biết về sự kiện mà chồng bà tử trận, nên cũng có nhiều người hỏi thăm. “Hôm rồi có anh chuyển cho cái thơ, nghe nói ở đâu trên mạng. Cô thì không có biết lên mạng. Đọc thơ, xúc động lắm. Bây giờ nhiều người trên thế giới đã biết chuyện ổng chết trong hoàn cảnh nào, chết vì cái gì”.

Rồi bà bảo: “Ông xã cô chết vì cái đất nước Việt Nam mình. Ổng là người Việt Nam, khi đất nước cần thì ổng chết cho đất nước. Cô chỉ nghĩ đơn giản vậy”.

Bà nói thật giản đơn, nhưng nỗi đau, những éo le nghiệt ngã của số phận bà thì không hề đơn giản, khi mà định kiến vẫn còn, những ngăn trở của một quá khứ ngăn cách bên này - bên kia vẫn còn, 38 năm sau ngày chiến tranh chấm dứt.

Và có lẽ vì thế, mà sau chừng ấy năm đã trôi qua, bà vẫn mang trong người nỗi bất an. “Con có viết gì đó thì cũng khéo một chút, đừng làm người ta giận. Cô ngại lắm”.

Tôi gật đầu, rồi nói với bà: “Hoàng Sa là của Việt Nam. Khi Trung Quốc xâm lược, người Việt Nam mình phải chiến đấu chống lại. Chồng cô đã ngã xuống trong một cuộc chiến chống ngoại xâm như thế. Đó là sự thật. Và điều đó sẽ không bao giờ bị lãng quên".

Tôi muốn nói nhiều nữa, để trấn an bà, để bà có được một chút gì đó gọi là an ủi sau vô vàn những cay đắng. Nhưng làm sao tôi, một kẻ hậu sinh và ngoài cuộc, chỉ trong khoảnh khắc có thể trấn an được góa phụ đã gần 40 năm sống trong âu lo, tủi hờn?

Người góa phụ trước mặt tôi lúc này đây là hiện thân bi kịch của một cuộc chiến tưởng chừng như đã trôi vào quá khứ xa lắc, nhưng thực ra, vết thương của nó vẫn hiện diện trong mọi ngõ ngách, trên từng phận người. Một vết chém xẻ ngang mình đất nước, cắt chia những con người Việt Nam, đẩy họ đứng về những chiến tuyến khác nhau, để rồi, nhiều năm sau khi tiếng súng ngưng bặt, người ta vẫn còn ngại nhau, e dè nhau, nghi kị nhau. Và làm đau nhau.

Đất nước đã thống nhất, nhưng lòng người vẫn cách chia.

Nghe câu chuyện của bà, không hiểu sao tôi lại liên tưởng tới lời Tổng thống Abraham Lincoln trong diễn văn nhậm chức năm 1865, thời điểm nước Mỹ kết thúc nội chiến: “Không ác tâm với ai; luôn nhân ái với mọi người; và kiên định trong lẽ phải, khi Chúa cho chúng ta nhận ra lẽ phải, hãy tận hiến sức mình để hoàn thành sứ mạng được giao; băng bó vết thương của đất nước, chăm sóc các binh sĩ đã dấn thân vào cuộc chiến, và những người vợ góa, những trẻ mồ côi – hết sức mình tạo lập và gìn giữ một sự nghiệp công chính, và một nền hòa bình vững bền, cho chúng ta, và cho mọi dân tộc.”

Ông Lincoln nói về hàn gắn, thế nên, “các chiến sĩ đã dấn thân vào cuộc chiến”, hay “những người vợ góa”, “những trẻ mồ côi” được hiểu là thuộc cả hai phe miền Bắc và miền Nam, bên thắng cuộc cũng như bên thua cuộc.

Chia tay bà góa phụ, tôi bước qua con hẽm nhỏ sâu hút để ra đường Nguyễn Kim. Nắng chói chang. Đường phố náo nhiệt người xe. Những lá cờ phấp phới; những băng rôn rực rỡ; và những dòng khẩu hiệu hừng hực.

“Tinh thần Ngày chiến thắng 30 tháng 4 bất diệt”.

Mít Tờ Đỗ


Nguyễn Ðình Bổn - Định hướng và kiểm duyệt báo chí xuất bản, một cách sát thương dân tộc

 

Nguyễn Đình Bổn - 

Thủ tướng rồi bộ trưởng bộ TTTT tại Việt Nam đã tuyên bố: VN không thể có báo chí, nhà xuất bản tư nhân. Nghĩa là toàn bộ cái quyền đọc, viết phải nằm trong sự kiểm duyệt và định hướng của nhà cầm quyền. Điều này đã, đang và sẽ tạo ra những hệ lụy khủng khiếp, mà tôi cho là có tính sát thương dân tộc.


Ngày nay chúng ta thấy chuyện giết người, cướp của, hiếp dâm... liên tục xảy ra, tội phạm ngày càng trẻ, hành động ngày càng tàn bạo, mất hẳn tính người. Chuyện này chẳng cần đưa ví dụ vì nó xảy ra hằng giờ và báo chí, các trang mạng khai thác tối đa mọi ngóc ngách, nhằm câu độc giả với mục đích cuối cùng là kiếm tiền. Nhiều khi tôi tự nghĩ, có khi nào những cây bút chuyên mô tả và dệt chuyện phản văn hóa đó, những người lãnh đạo các tờ báo đó, nghĩ một chút về lương tâm của người cầm bút, về con cái, gia đình mình, bởi không chỉ các trang mạng chuyên đưa tin giật gân, giờ đây ngay cả các tờ báo từng có tiêu chí đàng hoàng như vietnamnet, Thanh Niên... sau vài lần thay đổi nhân sự cũng nhảy vào khai thác chuyện giết và chuyện cởi!

Điều này ảnh hưởng nhãn tiền và như một qui luật Nhân- Quả vào cuộc sống người dân. Báo chí càng khai thác, cướp hiếp và khiêu dâm càng nhiều, cướp hiếp càng nhiều, báo chí càng có đề tài để viết. Chỉ cần quan sát, chúng ta sẽ nhìn thấy từ cái nền đã đổ vỡ toàn diện của giáo dục, những thế hệ lớn lên, không có một chút lý tưởng nào về nhân bản, không tin ở ý thức công dân bởi từ nhà trường cho đến xã hội và phương tiện giải trí, bày ra cho bọn trẻ nhìn thấy những khốc liệt của tranh đấu giành quyền chức, miếng ăn... bày ra cho bọn trẻ cách thức kiếm tiền nhanh và hưởng thụ, bày ra cho bọn trẻ thấy cuộc sống là những chuỗi bất công nhưng không chỉ cho họ cách thức lành mạnh để xóa bỏ cái bất công đó. Và hệ lụy là sự giả dối lên ngôi, bạo lực bùng phát, tệ nạn lan tràn... 

Chính cách định hướng và kiểm duyệt báo chí xuất bản là một nhân tố quan trọng đưa đến bi kịch này của dân tộc. Những người cầm quyền đã quá nhạy cảm để cấm báo chí tự do nhưng một mặt họ thả ga cho báo chí khai thác những mặt trái của xã hội, ai cũng biết tại VN vào một trang web sex dễ dàng trong khi đó vào các trang "lề trái", thậm chí facebook phải vượt tường lửa!

Về mặt văn hóa đọc, chính không có tự do báo chí và xuất bản nên mức độ suy đồi cũng diễn ra như một bi kịch. Trong khi các sách rẻ tiền, thậm chí có hại như thứ gọi là "ngôn tình" của Trung quốc xuất bản hằng ngày, đưa người trẻ vào những cơn mơ phi thực tế, dìm sâu cái cảm thụ ngôn ngữ văn chương xuống đáy bùn thì các sách kinh điển một số cấm in, một số in ra bị thu hồi và nhiều cuốn chỉ bán lèo tèo vì cái cách nghĩ, cách sống đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách đọc của những thế hệ đi sau. Điều này càng nguy hiểm hơn cả thời "ngăn sông cấm chợ" những  năm trước 1980, vì thời đó các danh tác được in vẫn khá chỉn chu và được đọc một cách mê say... Giờ đây văn chương, cụ thể là sáng tác của các nhà văn được in tại các nhà xuất bản đã đánh mất hoàn toàn giá trị nhân bản và thẩm mỹ. Nó chỉ còn lại là những văn bản méo mó vì người viết phải tự kiểm duyệt sau đó đến lưỡi kéo của các biên tập viên phần lớn là dốt nát và chữ ký của ông TBT luôn sợ mất ghế, trước khi tác phẩm ra đời. Không có một môi trường văn hóa lành mạnh, một không khí sáng tác trong ý niệm tự do tuyệt đối của người nghệ sĩ, những tài năng dần thui chột và tàn lụi, hoặc trở thành dị dạng nếu thỏa hiệp. Đó chính là lưỡi kiếm sát thương một nền văn học nghệ thuật của độc tài và kiểm duyệt!



Có biện luận rằng chính nghệ sĩ phải là người có ý thức sáng tạo tự do tuyệt đối và khi viết anh phải vượt thoát những ràng buộc về mọi mặt cuộc sống, kể cả chính trị. Thế nhưng thực tế một nghệ sĩ tài hoa không phải bao giờ cũng là một dũng sĩ. Xuất bản một cuốn sách không cần kiểm duyệt ở nước ngoài ư? Hay là trên internet? Chuyện này hoàn toàn trong tầm tay người viết, nhưng sau đó là gì? Là mất việc nếu anh đang làm việc ở một cơ quan nào đó. Là phải đối đầu với bao rắc rối nảy sinh từ chính bộ phận kiểm soát của nhà cầm quyền. Và khủng khiếp hơn, là có thể phải đối mặt với tòa án vì những điều luật vô lý khác... trong khi có thể không nhận lại được một sự tưởng thưởng nào, liệu có mấy ai dám chấp nhận sự thật khắc nghiệt này?

Những người cầm quyền tin rằng một chuyện không thật thì khi nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên hệ thống tuyên truyền nó sẽ trở thành sự thật, thành niềm tin. Nhưng chính cái cách vừa ràng buộc, vừa buông lỏng báo chí và xuất bản, xem nó chỉ là phương tiện tuyên truyền và kiếm tiền đã hủy họai nhanh nhất nền văn hóa dân tộc, làm tha hóa đạo đức những thế hệ mới, giết chết từ trong trứng nước những sáng tạo tài hoa khác biệt, làm tha hóa nhân cách hoặc thủ tiêu ý thức sáng tạo của tầng lớp nghệ sĩ khi bắt họ phải chọn lựa, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, là đóng vai một tên tù nhân hay một kẻ đầy tớ! 



Người Buôn Gió - Cuộc chạy đua vào chức thủ tướng và câu chuyện tương lai


Người Buôn Gió -


Chưa có một phó thủ tướng nào trẻ mà được báo giới liên tục nhắc tới như Vũ Đức Đam. Tin trên báo chí tràn ngập về Đam. Đam rê bóng qua các danh thủ, hình tượng Đam mạnh mẽ như kiểu Pu tin của Nga, Đam làm MC với giới trẻ, Đam bàn về đổi mới giáo dục, Đam chỉ đạo công an tăng cường khoa học công nghệ... và hơn hết là Đam nhắc tới vấn đề chủ quyền biển đảo.


 Hình ảnh của Đam khiến các phó thủ tướng khác trở nên mờ nhạt, bởi một Vũ Đức Đam năng động, xông xáo, mạnh mẽ có mặt khắp mọi nơi. Một tầm vóc thể chất và trí tuệ đủ để vượt trội hơn các ứng cử viên khác vốn dĩ mờ nhạt và âm thầm.

Người đàn anh đi trước của Đam là Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phúc hơn Đam ở chỗ là UVBCT, nhưng Phúc đang phải đối đầu giải quyết với nhiều việc gay cấn, nặng nề, lắm điều tiếng hơn Đam. Như việc 230 kg ma túy, việc xả lũ thủy điện, việc buôn lậu.

Hồ Thu Hồng, tức blog Beo phát ngôn nhận xét Vũ Đức Đam là nhân vật yêu mến nhất của năm 2013. Xưa nay Beo vẫn bênh vực phe chính phủ và nhận xét nặng nề về phe Đảng, trong nhận xét này của mình, Beo cũng chê TBT Nguyễn Phú Trọng rất thảm hại ''nhân vật tồi tệ''. Lời nhận xét của Beo về lãnh đạo Đảng thậm chí còn gây gắt hơn cả Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào... thế nhưng Beo vẫn bình chân như vại cầm thẻ xanh đi về giữa Hoa Kỳ và Việt Nam như chơi hội.

Bỗng nhiên Đam được đôn lên nổi bật, Đam được chọn làm những việc lành như thế, bảo sao không được yêu mến như Hồ Thu Hồng phán.

 Trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của quốc hội và hội nghị trung ương trước đó uy tín của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị chao đảo. Nhưng nhờ bản lãnh của một anh ba Nam Bộ từng sống và làm việc trong rừng rú, bưng biền, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trụ được qua đợt sóng gió liên tiếp. Một phần nữa các nguồn kinh tế chủ đạo đang do thủ tướng trực tiếp kiểm soát như ngân hàng, dầu khí. Chính vì hai nguồn kinh tế chủ đạo này mà Bộ Công An dưới sự chỉ đạo quyết liệt của BCT là TBT Nguyễn Phú Trọng và trưởng ban nội chính Nguyễn Bá Thanh đã kiên quyết tấn công vào pháo đài ngân hàng. Tiếc rằng loạt đạn đầu tiên kẻ hứng là bọn Kiên tóc bạc , Xuân Giá ...đến đó là thôi.

Bỗng nhiên Bộ Công An trình thẳng lên BCT và quốc hội thông qua cho BCA được trang bị phi cơ, tàu chiến... với lý do là chống khủng bố, chống tổ chức có vũ trang. Khủng bố ở Việt Nam chắc vài chục năm nữa không qua mặt nổi mấy thằng giang hồ đầu xanh, đầu đỏ, đầu trọc xăm trổ đầy mình đang muốn lấy số má ở các đầu đường thành phố Sài Gòn, Hà Nội.

 Còn tổ chức tội phạm có vũ trang nào mà lớn đến mức độ BCA cần phải trang bị vậy? Chả có tổ chức dân sự nào ở Việt Nam có vũ trang, ngoại trừ Petrovietnam mới đây tập trận trong Nam là một tổ chức dân sự kinh doanh duy nhất từ xưa đến nay tập trận có vũ trang. Nhưng giờ thì chưa ai nói Petrovietnam là tổ chức tội phạm cả. Hãy cứ biết lúc này là vậy.

Cần phải nói thêm quyền điều động tàu thủy, phi cơ của cảnh sát và quyền được nổ súng thuộc về bộ trưởng CA Trần Đại Quang, sau khi đã loại được sự chèo níu muốn có quyền của bên quốc phòng. Quốc hội đã khẳng định quyền nổ súng thuộc về thẩm quyền của Bộ trưởng CA.

 Trước đây vài tháng, người ta băn khoăn về chuyện thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ thế nào? Có khả năng ở lại nhiệm kỳ nữa hay không. Liệu ông Dũng có thể về trong một tình trạng mà TBT Nguyễn Phú Trọng đang hừng hực khí thế chống tham nhũng, khi trưởng ban nội chính Nguyễn Bá Thanh lớn tiếng hô hào '' bắt hết, bắt hết, xử hết ''.

Giờ thì câu trả lời rõ ràng. Ông Dũng chuẩn bị rời chức và tìm người kế nhiệm cho mình. Một sự lựa chọn như Yeslsin đã làm với Putin. Người đang được lựa chọn là phó thủ tướng Vũ Đức Đam và đang được đánh bóng để chuẩn bị kế nhiệm chức thủ tướng.

Nếu vậy chính trường Việt Nam tới đây sẽ thật đặc biệt. Nó có một thể chế giống Nga bây giờ do phe an ninh, kinh tế lãnh đạo .Vừa có một thể chế Đảng cộng sản lãnh đạo truyền thống như Trung Quốc.

 Sau một hồi sóng gió, cuối cùng những chính khách Việt Nam đã tạm dàn xếp xong nhân sự cho nhiệm kỳ tới. Một nhiệm kỳ mang sắc thái rõ nét về hai chế độ trong một nước, song hành, nhuần nhuyễn điều hành đất nước. Đây quả là sự sáng tạo mà khó có nhà bình luận  chính trị nào trên thế giới đoán trước được (riêng Buôn Gió đ. học hành gì, chả uy tín mẹ gì , nên chém gió thoải mái, đúng thì đúng không đúng thì thôi). Tuy nhiên  lựa chọn đó lại là hợp lý cho bối cảnh Việt Nam hiện nay và cũng là của cả người dân Việt Nam niềm tin cũng nửa thế này, nửa thế nọ.

 Khi mọi sự đã được an bài, các vị lãnh đạo khác giờ có thể yên tâm cất nhắc con cái mình vào những vị trí có đà để nắm những vị trí chủ chốt hơn sau này.



Sự đổ vỡ kinh tế, ngân hàng, bất động sản là tiềm ẩn lớn nhất có thể khiến toan tính trên bị trở ngại. Để đảm bảo việc dàn xếp như dự tính, việc trước hết là kiểm soát ngăn chặn được sự đổ vỡ bất động sản dẫn đến ngân hàng. Có thể suy đoán nhiệm vụ cuối cùng của nhiệm kỳ chính phủ Nguyễn Tấn Dũng là giải quyết được vấn đề bất động sản, nợ xấu, ngân hàng...

Một loạt chính sách đã được ban bố. Bán nhà cho Việt Kiều mà visa chỉ 3 tháng, bán nhà cho người nước ngoài, tăng giá điện, xăng, ga... và tới đây là kiểm soát độc quyền kinh doanh vàng. Những giải pháp này được hy vọng là sẽ mang lợi một nguốn vốn để giải quyết các khó khăn cấp bách đe dọa sự toan tính đã được sắp đặt về một nhiệm kỳ mới.

Nước Việt Nam lại trở nên thái hòa, ổn định chính trị bậc nhất thế giới. Bởi những người lãnh đạo tài ba, mềm dẻo luôn có những nước đi tinh tế không giống ai. Một đất nước sẽ có hai thể chế cùng tồn tại.

Sẽ có người đặt câu hỏi, nhân dân sẽ đứng lên, lực lượng dân chủ sẽ trỗi dậy thì sao?

Xin thưa. Đó là một câu hỏi rất hay và có từ rất lâu. Phải những người tài và có tâm như các nhà dân chủ đang xuất hiện sẽ trả lời chính xác hơn người viết bài này.

Một thằng ma ca bông, rách việc, chém gió, cơ hội, lợi dụng, thiếu đạo đức... không đủ tư cách nhận xét về những nhà đấu tranh dân chủ và tương lai của họ. Xin nhường câu trả lời cho các vị khác uyên thâm hơn.




Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013

Phan Thanh Tâm - Người Tù Trong Phòng Giam Tuyết Trắng


 * Phan Thanh Tâm

Chuyện ném xuống biển Nam Hải từ độ cao 10 ngàn bộ một cán bộ cao cấp của Cọng Sản Bắc Việt có biệt danh "The Man in the Snow White Cell" sau hơn bốn năm bị giam trong một phòng lạnh sơn trắng toát bị chê là “không đúng sự thật”, đã khiến nhà báo nổi tiếng Frank Snepp cựu viên chức CIA tại Saigon từ năm 1969 đến 1975, nỗi quạu dằn chai bia xuống mặt bàn. Người chỉ ra sự sai trật là cựu sĩ quan từng liên hệ với CIA khi phục vụ ở Phủ đặc ủy Trung ương Tình báo Việt Nam Nguyễn Tri Tông.

Cựu Đại Úy Nguyễn Tri Tông nói với tác giả cuốn “Decent Interval” (khoảng cách thích đáng) - viết về sự hỗn loạn của Việt Nam Cọng Hoa` năm 1975 - là ông biết rõ nội vụ hơn những điều viết trong sách về người tù đó và là người được lệnh xử dụng trực thăng riêng của Đại sứ Bunker dẫn độ y từ trại Đồng Tâm Mỹ Tho về Saigon. Nguyễn Tri Tông đã dùng còng cột tay mình và tay Nguyễn Tài, tên của cán bộ Cọng sản, trong một chuyến bay đêm đem về giam ở bến Bạch Đằng. Nguyễn Tài đã lạy người đưa mình ra khỏi phòng giam vì tuởng rằng sẽ bị giết vào phút chót của ngày 30/4/75. Để đền ơn, người này về sau được cấp một giấy chứng nhận có công với cách mạng.

Nguyễn Tri Tông tại Củ Chi trước 1975 với nhà báo Zalin Grant

Sách “Lớn Lên Với Đất Nước” của Vy Thanh có nhắc tới sự việc nói trên: dịp may nói chuyện với sĩ quan K. của Phủ đặc ủy Trung ương Tình báo, người đã dẫn độ Nguyễn [văn] Tài từ trại Đồng Tâm ở Mỹ Tho về Saigon. Ông cho biết Nguyễn [Văn] Tài còn sống nhăn cho đến ngày 30-4-75. Giờ chót, Nguyễn Tài hay Nguyễn Văn Tài, bí danh Tự Trọng được người lính gác trại giam số 3 Bến Bạch Đằng tên “Đinh Râu” quê Hóc Môn, từ nóc phòng giam thọc gậy thang xuống giải thoát. Chẳng ai giết Nguyễn Tài, người mà senior official muốn cho chết.

Sách của Frank Snepp năm 1977 viết gì? “Just before North Vietnamese tanks rolled into Saigon, a senior CIA official suggested to South Vietnam authorities that it would be useful if he [Nguyen Van Tai] “disappeared”. Since Tai was a trained terrorist, he could hardly be excepted to be a maganimous victor. The South Vietnamese agreed. Tai was loaded onto an airplane and thrown out at ten thousand feet over the South China Sea. At that point he had spent over four years in solitary confinement, in a snow –white room, without ever having fully admitted who he was” .

Ngoài ra, năm 2000 một tác gỉa khác, A. J. Langguth trong cuốn “Our War. The War  1954-1975 “ cũng có nhắc lại chuyện này. From the CIA office, a senior American agent called the Saigon authorities to suggest that they attend to one loose end before the Communists arrived. Nguyen Van Tai, the North Vietnamese agent Snepp had interrogated, should be made to disappear. The instructions were simple: Lead Tai from  solitary confinement, herd him onto a plane and take him ten thousand feet above the South China Sea. Open the plane door. Push Tai out.

Nguyễn Tài: tài sản quý của đảng

Trong cuốn” Hồi ký Đối Mặt Với CIA”, do Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn Hà Nội, phát hành năm 1999, chính Nguyễn Tài đã trích và dịch lại đoạn văn của Frank Sepp: Ngay trước khi xe tăng Bắc Việt tràn vào Saigon một quan chức cao cấp của CIA đã gợi ý với nhà chức trách Saigon là tiện nhất là y [chỉ Nguyễn Văn Tài] "biến mất". Bởi vì Tài là một tay khủng bố có kinh nghiệm nên khó có khả năng mong đợi y là một người thắng trận rộng lượng. Người Nam Việt đồng ý. Tài bị đưa lên máy bay và bị ném xuống biển Nam Hải từ độ cao 10 ngàn bộ. Đến đây thì ông ta đã trải qua hơn 4 năm bị biệt giam trong một phòng sơn trắng toát và cũng chưa khi nào xác nhận một cách đầy đủ mình là ai.

Điều này chứng tỏ ‘người tù trong phòng giam tuyết trắng” không có bị thủ tiêu như hai tác gỉa Mỹ đã viết. Nhưng Nguyễn Tài là ai? Năm 2004 trong “Khúc khuỷa Đường Đời - Mười năm liên tục đấu tranh để sự thật và lẽ phải được thực hiện”  thuộc loại hồi tưởng và suy nghĩ, đăng trên talawas.org, tác giả cho biết, mình được gỉai thóat khỏi phòng giam ở Bến Bạch Đằng trưa ngày 30/4/75;  sau đúng  4 năm 4 tháng 10 ngày bị cầm tù; đã từng trực tiếp phụ trách an ninh chính trị chế độ; năm 1964 tình nguyện vào Nam; là Ủy viên An ninh Trung ương cục miền Nam; ngày 23/12/1970, bị bắt trên đường đi công tác; lúc đầu còn giữ được tung tích; nhưng sáu tháng sau thì bị lộ.

Nguyễn Tài sau khi được  giải thoát năm 1975


Nguyễn Tài rất có kinh nghiệm trong việc truy lùng ám sát những kẻ phải bị diệt trừ từ năm 1947; là người có cấp bậc cao nhất của miền Bắc vào Nam, đã chỉ huy hơn năm năm các hoạt động tình báo và khủng bố tại Sài Gòn; đã chứng tỏ bản lĩnh trong thời gian bị tra vấn. Dư luận cho rằng, Nguyễn Tài thăng cấp rất nhanh, một phần nhờ tham gia trong đợt đấu tố cha mình, nhà văn Nguyễn Công Hoan và cũng đã tham gia tích cực vào  vụ thanh trừng các phần tử “xét lại”. Cũng có tin nói rằng, từ giữa thập niên 60, Hồ Chí Minh đã điện vào Nam là phải bảo vệ Nguyễn Tài, có  biệt danh Tự Trọng, sinh năm 1926; vì Nguyễn Tài là  tài sản quý của Đảng.

Mùa thu năm 1971, Trần Bạch Đằng, Bí thư Thành ủy Sài Gòn–Gia Định, trong một bức thư qua một tù binh Mỹ được thả, đề nghị trao đổi Tài với Douglas Ramsey, một nhân viên ngoại giao Mỹ, bị Việt Cọng bắt từ năm 1966. Tài trở thành một con bài chính trị cấp cao; đến ngày 30/4/75 thì được giải thoát; gặp lại gia đình sau 11 năm xa cách; về Hà Nội làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ từ đầu năm 1976; không bao lâu thì bị kiểm điểm về một số vấn đề chưa rõ trong thời gian bị địch bắt giam; rồi  được cử làm cục trưởng Tổng cục Hải quan; năm 2002, được tuyên dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời chống Mỹ.

Trên đây là một chuyện xưa cũ của thế kỷ trước, nhưng rất cụ thể và điển hình; cho thấy rằng, rất nhiều sự việc trong hai mươi năm nội chiến từng ngày, tuy được kể lại từ một người trong cuộc; nhưng vẫn không tránh khỏi sai trật. Ấy thế mà các ông thầy bàn, các tay phản chiến, các thành phần thứ ba, thứ tư hay chủ nhật lại thích viện dẫn tài liệu của các cây viết ngoại quốc xa lạ, đầy thiên kiến để hù thiên hạ. Frank Snepp, người thẩm vấn Nguyễn Tài, trong một bữa họp mặt Giáng Sinh ở thủ đô Washington năm 1984, sau khi nghe Nguyễn Tri Tông nói rõ nội vụ mới dịu giọng, “thôi bỏ qua cho”; và phân trần sách chẳng đem lợi lộc gì. Cơ quan CIA đã thắng kiện vì cuốn “Decent Interval” phạm luật, tiết lộ nhiều điều chưa được phổ biến.

Thiên Đàng Hạ Giới

Nguyễn Tri Tông, đã về hưu, qua Mỹ năm 1975, làm việc trong ngành kỹ thuật truyền thông, danh thiếp đề Retired Principal Engineer; trước 1975, giữ chức phó giám đốc thư viện quốc gia; cựu giáo chức, động viên Thủ Đức; phục vụ trong các đơn vị tác chiến ở miền Trung; về làm việc ở Phủ đặc ủy Trung ương tình báo; từng được CIA huấn luyện thành thẩm vấn viên. Nguyễn Tri Tông là cháu đời thứ năm của Nguyễn Tri Phương, vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân đội Pháp ở Đà Nẵng, Gia Định Hà Nội. Tuy bị thương, vị đại thần không cho chữa trị, tuyệt thực đến chết ngày 20/12/1873, thọ 74 tuổi.



Nhờ gặp Nguyễn Tri Tông trong dịp đi theo nhà tôi dự Đại Hội XVII Phan Thanh Giản – Đoàn Thị Điểm tại Hawaii hồi tháng 10 năm 2013 nên tôi biết thêm chuyện người tù Nguyễn Tài. Nhờ là hậu duệ của những vị đại thần cùng thời (người viết bài này là cháu cụ Phan Thanh Giản, anh Tông là cháu cụ Nguyễn Tri Phương), chúng tôi đã trò chuyện cùng nhau trong một niềm tin cậy và cảm thông, và qua đó, trường hợp người tù binh được trình bày ở phần trên một lần nữa được xác định một cách chắc chắn.



Nguyễn Quang Lập - Đường đời không lối rẽ

Nguyễn Quang Lập - 

Hai mươi năm trước tôi làm ở tạp chí Cửa Việt, tờ văn nghệ địa phương thôi nhưng được cả nước biết tới, thích lắm, tự hào nữa. Trước tết khoảng hai tháng bao giờ tôi cũng mò ra Hà Nội, vừa moi bài vở vừa tận hưởng mùa lá rụng và nhấm nháp chút văn hóa Bắc Hà. 



Nhậu ở Hồ Tây, ăn ốc bươu uống bia hơi, bạn văn có thằng Phương là chỗ quen  biết cũ, tôi nói ông có cái gì kha khá ném cho tôi cái dùng số tết với, đang kẹt quá. Thằng Phương ngửa cổ cười khá kha kha, nói ông cũng tin tôi viết được văn à. Tôi vỗ vai nó phát, nói không tin ông thì tin thằng đéo nào. Phương cười khá kha kha, nói chí lý chí lý.

Là nói vậy, chỉ là cách lấy lòng cánh viết lách với nhau thôi, chứ thực tình chẳng hy vọng gì ở nó, xưa nay thằng Phương không mặn chuyện viết lách. Nó khởi nghiệp bằng tin tiến độ, đắm đuối với lối viết “Nét mới” “điểm sáng”, đến khi giới viết lách bất ngờ đổi mới, quyết định nhúng toàn bộ chữ nghĩa vào đời sống, thì nó trơ khấc ra, tự nhiên tắc ngỏm.

Thằng Phương đang nổi tiếng trong cái nghề MC hoa hậu và người mẫu thời trang. Nó không trẻ cũng chẳng đẹp trai (đẹp hơn Đỗ Trung Quân chút chút, hi hi) nhưng cái khoản nói năng, ứng đối lưu loát thì không ai bì kịp.

Thời các đám cưới đang ở tình trạng nửa họp nửa mét tinh, người ta tranh nhau đăng kí nhờ nó làm chủ hôn, có khi trước cả nửa năm. Làm lính như nó thật khỏe re, sáng vác mõm đi tối vác bị về. Cơm rượu no say lại được tiếng hoàn thành xuất sắc công tác dân vận. Chúng tôi cũng nhờ nó mà được trơn mồm ngọt lưỡi, đỏ da thắm thịt.

Làm thằng lính hễ không tài cán gì thì thôi chứ ló ra cái tài nào là lập tức được sử dụng tối đa, vinh dự bao nhiêu cơ cực bấy nhiêu, kể cả cái tài tầm thường là tài cắt tóc.

Có lẽ chỉ cái tài bẻm mép của thằng Phương là xem ra vớ bẩm. Ở hậu phương thì ba ngày tiệc nhỏ năm ngày tiệc lớn, nó đều có chỗ ở chiếu trên. Ra trận cũng khỏi sa vào tầm tên bay đạn lạc. Một mình một cái loa, nó ngồi rung đùi “ bắn” vào tai địch, bắn liên thanh cả giờ không nghỉ, chẳng những địch vuốt mặt không kịp mà đến cố tổ cao tằng địch cũng muốn đội mồ đứng dậy.

Chiến dịch nào thằng Phương cũng có tên trong sổ báo công. Rõ cái mồm ngàn vàng khôn chuộc, tam vinh tứ khoái đều nhờ nó mà nên cả, hi hi.

Cứ nghĩ thằng Phương nói vậy thôi, đời nào nó viết, té ra nó ném vào mặt tôi cái ký Chuyện tình đêm cuối năm chừng mười trang, vỗ đùi tôi đánh bốp, nói chuyện thật chứ không bịa đâu nhé!

Tôi không đọc cứ gật bừa, nói được được hay hay. Thằng Phương thích lắm, ngửa cổ cười khá kha kha, nói tao chỉ phắn ra một mẩu tình đem bán lấy vài trăm uống bia. Mai mốt kẹt tiền tao lại phắn ra một mẩu khác. Toàn chuyện tình máu lửa, vừa hoành tráng vừa ẩm ướt, thách đứa nào gạt của tao được một chữ.

Quen tính thằng Phương và quen thói huênh hoang vui vẻ trong các cuộc rượu của giới văn bút tỉnh chẵn, tôi mỉm cười không nói gì. Về nhà, tôi lẳng lặng gạt đi năm trăm chữ rồi cho in. Cái kí không lấy gì hay lắm nhưng cần cho số tết, cần chút tráng ca làm gia vị trong bữa tiệc ngồn ngộn những trò vui vẻ.

Ngỡ cái ký ba thật bảy bốc phét của thằng Phương sẽ chẳng làm ai xuýt xoa, thế mà có chuyện.
Một đêm mưa gió có một người đàn bà gõ cửa nhà tôi, chị chừng 40 tuổi nhưng thoạt nhìn cứ tưởng trên năm mươi, mặt mày hom hem, chỉ đôi mắt vẫn còn tươi sáng lắm.

Chị đứng dúm dó một gốc nhà, trân trố nhìn tôi, nói anh có phải nhà văn Lập không, tôi nói vâng. Chị nói bài Chuyện tình đêm cuối năm, cái người tên Hương là tui. Tui không phải tên Hương, tui tên Trâm, nhưng chuyện là chuyện của tui với anh nớ.

Tôi giật mình nghĩ bụng ôi thôi bỏ mẹ rồi, cha Phương bịa tào lao cái gì, người ta đến thắc mắc kiện cáo đây. Dường như chị đoán được, vội vã xua tay, nói không không, tui đến đây không phải đôi co chuyện đúng sai. Tui chỉ hỏi anh nớ tên Phương chứ không phải tên Quì phải không. Tôi nói vâng, Quì là bút danh của anh Phương. Chị hét to cha mạ ơi, rứa là đúng rồi. Rồi ôm mặt khóc rống lên.

Chuyện tình của chị với thằng Phương cũng đã hai mươi năm, với thằng Phương đó chỉ là cuộc tình chốc lát, nằm trong danh sách gần năm chục nàng của nó, còn với chị là mối tình đầu.

Cái ký thằng Phương viết thì hay ho lắm, chuyện lần đầu nó gặp chị nó viết giống như phim: “Bỗng từ chiến hào, một nữ du kích lao lên, qua ánh lửa xanh lét của đạn pháo, chị bỗng sáng ngời và lấp lánh”. Chị nói mô có anh, anh Phương gặp tui ở giếng làng. Hi hi thì nó cũng kể rồi.

Chị ra giếng giặt áo quần, thằng Phương đi qua thấy trăng trắng múp múp bèn sà vào ngồi thành giếng cợt nhả đôi câu, đại loại người đâu xinh thế nhẩy, sao giặt áo một mình thế này hả iem, để anh múc nước cho iem, nha iem! Chị nghe rác tai, bê thau áo quần đi thẳng. Thằng Phương nhìn cái mông tròn lẳn của chị, nói đ.mẹ, chết tao cũng giết cho được con này.

Thằng Phương thổi sáo giỏi, phải nói là siêu, nó nói chỉ một cây sáo này thôi tao đã giết được mấy chục con nhà quê rồi. Chắc chị cũng trong số “ mấy chục con nhà quê” đó.

Mấy hôm liền sau đó, tối nào nó cũng ra ngồi tựa thành giếng thổi sáo, chị ra giếng giặt áo nó cũng mặc kệ, cứ mải miết thổi. Hôm sau, hôm sau nữa… tiếng sáo của thằng Phương đã hớp hồn chị đến nỗi nó chưa kịp ngõ lời, chị đã ngã vào lòng nó rồi.

Thằng Phương mô tả cuộc tình trong ba mươi đêm của chị và nó rất hấp dẫn, buồn cười nữa. Nó nói đàn bà kêu la rên rỉ tao biết cũng đã nhiều, nhưng con này nó kêu như mèo kêu chúng mày ạ. Tôi cười, nói ông nói phét. Nó trợn mắt vung tay thề, nói mẹ, tao nói sai trời đánh tao chết liền. Rồi nó nhái lại tiếng mèo kêu của chị, nói ôi anh ơi anh ơi, mau lên mau lên, em sắp sướng rồi. Cả hội cười sằng sặc, tôi cũng cười sằng sặc.

Tôi gọi điện cho thằng Phương, nói tình hình như vầy như vầy. Nó cười khá kha kha, nói tiên sư con mẹ này cũng biết đọc báo à bay. Tôi nói mày liệu hồn nàng còn thương mày lắm đó. Thằng Phương cười khá kha kha, nói tiên sư bố mày, tao tưởng mày thông minh lắm. Tôi nói thì tao đọc bài mày, tưởng mày còn da diết với nàng lắm. Nó lại cười khá kha kha, nói da diết cái củ khẹc.

Mới ngày hai mươi chị đã cúng tất niên, gọi điện rối rít mời tôi ra cho bằng được. Nể quá tôi đành đi. Vào nhà thấy cái ảnh thằng Phương trên bàn thờ, ngạc nhiên quá trời. Chị nói tại khi chia tay, anh Phương nói nếu hòa bình anh không về tìm em thì có nghĩa là anh đã chết. Tôi rủa thầm tổ cha cái thằng láu cá, cắt đuôi êm như nhíp.

Nhìn cái nhà trống hoác như cái trại giữ vịt, biết ngay nhà vắng đàn ông, tôi nói thế từ bấy đến giờ chị vẫn thờ anh Phương à? Chị thở hắt ra, nói thì vẫn.

Chị ngồi bệt, rưng rưng nước mắt nói tui chỉ ân hận không giữ được đứa con cho anh Phương, tôi há hốc mồm. Hóa ra chị có với thằng Phương một đứa con gái, chuyện này nó không biết, chị có gửi cho nó mấy chục lá thư mà chẳng thấy nó hồi âm, chiến tranh loạn lạc chuyện đó cũng dễ hiểu. Con gái chị mất năm mười ba tuổi vì bệnh hoại thư đường ruột, cháu mất khi chưa kịp chụp một cái ảnh nào để chị đặt lên bàn thờ.

Từ đó chị thủ tiết thờ chồng con, kiên quyết không đi bước nữa. Chị gạt nước mắt gượng cười, nói ai cũng kêu tui ngu, mới yêu đương sơ sơ, cưới hỏi chi mà chồng con. Mặc kệ thiên hạ anh ạ, mình đã có con với ai thì đương nhiên người đó là chồng mình chớ.



Tôi nghẹn đắng không biết nói sao.

Tôi lại gọi điện cho thằng Phương, nói tình hình như vầy như vầy, nó nói chết chết chết, tình hình xấu. Tôi nói mày làm sao thì làm, tao đéo biết đâu. Nó nói thôi được, thế này nhé, nhuận bút của tao được bao nhiêu, ba trăm ngàn à, số tết mà bèo thế. Mày cầm giùm tao đưa cho nó, bảo tao gửi vào làm quà tết. Mày phải nói kheo khéo, gái nhà quê hay sĩ diện hão lắm đấy. Mày có thông minh không hả Lập?

Tôi cầm tiền ra vừa đúng lúc chị gói ghém chuẩn bị lên tàu ra Hà Nội. Tôi nói chị ra làm gì. Chị cười như không, nói tui phải chộ cái mặt anh Phương cái rồi chết cũng cam tâm. Tất nhiên chị biết thằng Phương đã vợ con đề huề rồi, nhưng cản không nổi.

Tôi gọi điện cho thằng Phương báo nó giờ tàu chạy để nó ra đón chị. Nó nói chết chết chết, tao đang ăn tết ở Vũng Tàu với vợ con, biết làm thế nào.

Nó nói phét, chị đã nhìn thấy nó nhưng nó nhanh chân lẻn mất, đem vợ con sang trú ẩn ở nhà ngoại. Mồng ba tết chị về nhà, nói chưa chộ mặt anh Phương nhưng chộ được cái lưng anh cũng thỏa mãn lắm rồi.

Rồi chị ngồi lặng lẽ khóc.

Sau đó tôi đem vợ con ra Hà Nội kiếm ăn. Bốn năm sau mới nháo về thăm viếng bạn cũ ở Quảng Trị, có ghé qua thăm nhà chị.

Chị không còn đó nữa, cái nhà cũng bay đâu mất tiêu, hỏi chị đi đâu chẳng ai biết. Cây xấu hổ mọc vống lên trùm lấp cả khu vườn.

Mấy người hàng xóm nói không có ai dám dựng nhà trong khu vườn của chị. Người ta đồn khu vườn ấy có ma. Đêm đêm, trong các lùm cây xấu hổ, ma ngồi nghiến răng ken két.

N.Q.L.



Vũ Quí Hạo Nhiên - Cái Chết “Trên Từng Cây Số” Vụ ám sát nhà văn Georgi Markov



Vũ Quí Hạo Nhiên - 

Thời cuối thập niên 1970, tại Việt Nam có chiếu trên truyền hình bộ phim gián điệp (ở Việt Nam gọi là “phim tình báo”) mang tên “Trên Từng Cây Số.”  Phim dài nhiều tập, do Bulgaria (ở Việt Nam gọi tắt là “Bun”) sản xuất, mỗi tập kể một thành tích của thiếu tá Deyanov, một gián điệp cộng sản Bulgaria hoạt động ngay trong lòng quân đội Đức Quốc Xã.  Cuốn phim chiếu dài cả năm, và là một phim cộng sản hiếm có không bị người miền Nam tẩy chay, ngược lại còn rất thích. Bộ phim ăn khách đến mức cụm từ “trên từng cây số” len lỏi vào biết bao nhiêu bài văn, truyện ngắn, và nhất là các bài báo, các bài phiếm luận tiếng Việt trong và ngoài nước. Cụm từ này hầu như không có trong các bài viết trước năm 1975.


Tuy nhiên, có một điều ít ai biết, là tác giả kịch bản bộ phim truyền hình ấy, ông Georgi Markov, đã đào tẩu qua Anh từ năm 1969, và đã bị gián điệp Bulgaria với sự cộng tác của KGB ám sát vào năm 1978, khi bộ phim đang chiếu tại Việt Nam.

  Georgi Markov (1929-1978) là một nhà văn, một nhà soạn kịch. Ông đã từng được chế độ cộng sản cưng chiều, và là một nhà văn có “dù” che, quen biết với cả Bí thư thứ nhất đảng Cộng Sản Bulgaria, ông Todor Zhivkov. Năm 1969, được sự tin tưởng của cấp lãnh đạo, ông được phép qua Ý thăm gia đình đã di cư sang đấy. Ông đào tẩu và định cư tại Anh.

Đến Anh, ông sử dụng tài văn chương và những điều ông biết về chế độ cộng sản để hoạt động chống lại nhà nước Bulgaria. Ông làm việc cho đài phát thanh BBC (Anh), Deutsche Welle (Đức), và đài phát thanh Âu Châu Tự Do (Radio Free Europe, phát thanh từ Đức). Đặc biệt trên đài RFE, ông phát thanh trên chương trình tiếng Bulgaria một mục mang tên “Tường trình vắng mặt từ Bulgaria” trong đó ông lên án chế độ cộng sản độc tài và tiết lộ nhiều bí mật về sự tha hóa, tham nhũng của giới lãnh đạo, kể cả ông Todor Zhikov.

Điều này làm ông Zhikov, lúc này kiêm luôn chức Chủ tịch nuớc, rất giận. Năm 1972, chính quyền Bulgaria xử Markov khiếm diện sáu năm rưỡi tù về tội phản động. Họ cho người đe dọa ông Markov để áp lực ông ngưng tiết lộ các bí mật về giới lãnh đạo Bulgaria.

Bất chấp những lời hăm dọa, ông Markov tiếp tục phát thanh. Zhikov lại thêm lo lắng khi những chương trình phát thanh của ông Markov gây nên một phong trào phản kháng ngay trong nước. Năm 1977, Zhikov ra lệnh cho giới an ninh bằng bất cứ cách nào phải làm cho ông Markov ngưng phát thanh. Mối lo của Zhikov sau này trở thành sự thật. Các chương trình phát thanh của Markov đã ảnh hưởng tinh thần phản kháng của ông Zhelu Zhelev, một thành viên nhóm “Tuyên Ngôn 78” chống chính quyền Cộng Sản và sau này trở thành tổng thống dân cử đầu tiên của Bulgaria.

Zhikov yêu cầu KGB của Liên Xô giúp thủ tiêu Georgi Markov. Lời yêu cầu này được chuyển lên lãnh tụ cấp cao nhất của KGB, và chính hai nhân vật hàng đầu KGB, ông Yuri Andropov (sau này là Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô) và ông Vladimir Kryuchkov (sau này có tham gia vụ đảo chánh hụt chống ông Gorbachev) đích thân trả lời đồng ý cộng tác, với điều kiện không để lại bằng chứng nào có thể dính Liên Xô vào vụ này. KGB cử tướng Sergei Gobulev qua Bulgaria nhiều lần để làm việc với DS, cơ quan an ninh Bulgaria.

Đầu năm 1978, tại một dạ tiệc tiếp đón nhà văn Georgi Markov do RFE tổ chức tại Munchen (Đức), gián điệp Bulgaria bỏ thuốc độc vào ly rượu của ông. Vụ ám sát này thất bại. Hè 1978, khi ông Markov đi nghỉ mát tại Sardinia (Ý), gián điệp Bulgaria lại mưu sát ông nhưng lại thất bại. Cho đến nay chưa biết lý do vì sao hai vụ này không thành công.

Trưa ngày 7 tháng 9 năm 1978, khi ông Markov đang chờ xe bus để đi làm tại đài BBC, một người đàn ông lạ mặt cầm dù đi tới, cây dù đụng phải đùi ông Markov, rơi xuống vệ đường. Người này nhặt lên, xin lỗi, rồi rời bến xe bus. Buổi chiều, trong lúc làm việc, ông thấy chân mình chỗ bị dù đâm đã sưng lên thành một cái nhọt hơi chảy máu. Ông vén quần cho đồng nghiệp xem và kể lại vụ bị dù đâm chân.

Buổi tối, ông lên cơn sốt, và vợ ông phải gọi điện thoại nhờ đồng nghiệp chở vào nhà thương. Các bác sĩ chẩn đoán ông bị nhiễm độc trong máu, nhưng mọi chữa trị đều không có hiệu quả. Ngày hôm sau, ông lên cơn sốc, và sau ba ngày quằn quại đau đớn, ông qua đời ngày 11 tháng 9 năm 1978.

Cái chết vì nhiễm độc của ông làm Scotland Yard (cơ quan điều tra an ninh của Anh) nghi ngờ. Họ giải phẫu xác ông. Cắt nhọt nơi đùi ông, bác sĩ pháp y tìm thấy một đầu kim bé tí. Khi họ gắp đầu kim này ra thì một hạt kim loại tí hon rơi từ bên trong đầu kim này xuống mặt bàn mổ.

Hạt này nhỏ bề ngang chỉ 1,7 milimét. Bác sĩ chuyển hạt này đến cơ quan chuyên nghiên cứu về vũ khí sinh và hóa học của Scotland Yard. Dưới kính hiển vi, họ thấy hạt này có khoét, có lẽ bằng laser, hai lỗ nhỏ bề ngang chỉ có 0,34 milimét, có lẽ là nơi chứa độc chất.

Thử nghiệm thêm máu của Markov, các bác sĩ pháp y kết luận rằng ông đã bị nhiễm một độc chất gọi là ricin, một hóa chất rút ra từ hạt cây castor oil, độ độc rất cao và không có thuốc chữa. Ricin độc đến mức chỉ có 0,45 miligram đã giết chết Markov.

Chính kỹ thuật giết người tinh vi này làm cái chết của nhà văn Markov nổi tiếng tại phương Tây. Khá nhiều tiểu thuyết gián điệp đã cho chi tiết “bắn thuốc độc vào đối phương dùng một cây dù” vào truyện. Oái oăm thay, tác giả phim gián điệp “Trên Từng Cây Số” chết một cái chết cũng rất là “truyện gián điệp”!

Sau khi Liên Xô tan rã, và theo sau đó là sự sụp đổ của chính quyền cộng sản Bulgaria năm 1989, phía Nga tiết lộ nhiều bí mật về vụ ám sát nhà văn Markov. Hai sĩ quan KGB, Oleg Gordievsky và Oleg Kalugin, thú nhận KGB có đồng lõa trong vụ này. Hai người này còn cho biết, để tránh mọi khả năng KGB bị dính líu, cây dù thủ phạm đã được mua tại Mỹ.



Tuy nhiên, tại Bulgaria thì nhiều chi tiết vẫn còn bí mật. Hồ sơ vụ này trong cơ quan DS đã bị hủy. Tháng 3 năm 1991, trùm gián điệp Bulgaria Vasil Kotsev bị chết trong một vụ tai nạn xe hơi bí hiểm. Tháng 5 năm 1991 tướng Vladimir Todorov, người đã hủy bỏ hồ sơ, bỏ trốn qua Mát xcơ va, nhưng sau đó trở về vì sợ bị Cộng hòa Nga dẫn độ. Tướng Todorov khai rằng hồ sơ dài 3500 trang nhưng lại không có gì, chỉ có những bài báo cắt ra. Ông này bị tù 1 năm 4 tháng về tội hủy hồ sơ. Một người khác đã dính líu đến vụ Markov là cựu Thứ trưởng Nội vụ tướng Stoyan Savov, tự sát trước khi bị ra tòa năm 1992.

Người bị tình nghi trực tiếp giết ông Markov là một kẻ tội phạm người Ý đã từng bị Bulgaria bắt về tội buôn ma túy, Francesco Guilino. Các cơ quan phản gián phương Tây đã tìm được bằng chứng ông Guilino hoạt động cho tình báo Bulgaria với mật danh “Picadilly”. Họ cũng có bằng chứng ông Guilino có mặt tại London trong ngày Markov bị ám sát. Năm 1993, Scotland Yard và an ninh Bulgaria tìm được Guilino tại Đan Mạch và ông Guilino bị gọi lên hỏi cung. Cơ quan phản gián Đan Mạch cũng gọi ông Guilino lên hỏi cung vì bị tình nghi hoạt động gián điệp cho Bulgaria chống Đan Mạch. Hai cuộc hỏi cung không có kết quả, và sau đó ông Guilino đã trốn mất.

Sau khi tổng thống Zhelu Zhelev nhậm chức, ông đã viếng mộ ông Georgi Markov tại Anh và tuyên bố sẽ dùng mọi cách để làm sáng tỏ cái chết của ông Markov. Tổng thống Petar Stoyanov, sau khi đắc cử năm 1997, cũng tuyên bố như vậy, nhưng đến nay vụ án vẫn chưa giải được. Ngay khi chế độ cộng sản Bulgaria sụp đổ năm 1989, những bài phát thanh “Tường trình vắng mặt từ Bulgaria” của nhà văn Georgi Markov đã được in thành sách và trở thành cuốn sách bán chạy nhất nước.







TRẦN DOÃN NHO - VỀ



                       TRẦN DOÃN NHO

        Cứ mỗi lần gần đến Tết, thì tôi lại nghĩ đến chuyện về.

        Về, tức là trở lại. Trái nghĩa với đi. Khi nói về, ta phải hiểu là ta đã đi, đã lìa xa một nơi chốn thân yêu nào đó. Khi nói về là nói đến một hạnh phúc, một thú vui, một ước ao. Về, do thế, trở thành một sức lôi kéo mạnh mẽ, đôi khi không cưỡng lại được. Đi, có thể là bất đắc dĩ. Mà về, thường thì không. Chữ về bao giờ cũng gợi nên một cảm giác thân thiết, một cái gì ấm cúng: mạ đi chợ về, tha về (trả tự do), trở về, xuân về, hè về, về làng, về nước, về nhà, về quê. Ít ra là về mặt chữ nghĩa.


                Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre
                Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè, chào đón người về (Ngày trở về/ Phạm Duy)

       Để mô tả ngày trở về của một người thương binh, Phạm Duy đã sử dụng âm "ề" ở cuối câu, dựa vào chữ về, khiến cho bản nhạc hát lên nghe êm đềm, nao nức. Khung cảnh của một làng quê với lũy tre, với đường đê với vườn rau thân thuộc trong nắng, tất cả hiện ra y như thể để chào đón một người. Cảnh đoàn tụ thật vô cùng cảm động:
                Mẹ lần mò, ra trước ao nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ
                Tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ.

        Người lính đã trở về và sung sướng tìm thấy lại những gì thân yêu nhất trong đời mình và an nhiên thụ hưởng cảnh sống êm đềm xưa cũ. Về ở đây là hội ngộ, gặp gỡ, là hàn gắn những vết thương gây ra do hậu quả của thời gian và chia cách.

        Cũng là trở về, nhưng cách về của một người tù cải tạo sau 1975 hoàn toàn khác hẳn:
                Ta về một bóng trên đường lớn
                Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...
                Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
                Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay. (Ta về/Tô Thùy Yên)

        Cái về này thật lạ. Không lũy tre, không có nắng vườn rau, chẳng có bà mẹ nào lần mò ra trước ao để đón. Về mà như đi. Một cái về lạnh lùng, tức tưởi. Về, đơn thuần chỉ là một chuyển động vật lý: trở lại ngôi nhà của mình. Mặc dù khác với anh thương binh, người tù được trả về chốn cũ với thân thể nguyên vẹn, không phải bước lê vì bị thương, nhưng lòng hoang mang thất tán. Mọi thứ hoàn toàn khác xưa:
                Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
                Nhà thương khó quá, sống thờ ơ
                Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ
              Khách cũ không còn, khách mới thưa... (Ta về)

        Thôi thì vậy cũng được. Cũng bình thường. Nhưng cái này mới kinh khiếp:
                Ta về như bóng ma hờn tủi
                Lục lại thời gian, kiếm chính mình.
                Ta nhặt mà thương từng phế liệu
                Như từng hài cốt sắp vô danh (Ta về)

        Một trở về mất mát. Một trở về tuyệt vọng. Về, không còn mang ý nghĩa uyên nguyên của nó. Nó giống và khác với cái về của một nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Mộng Giác.

        "Thấy khuôn mặt chàng không có gì khác thường, nàng tiếp:
        - Em van anh, cho em được đến đây thăm con. Cho em...
        Chàng ngắt lời nàng:
        - Chỉ sợ đến lúc nó không chịu gặp cô nữa thôi!
        Nàng lịm người vì sợ hãi bất chợt. Lần đầu tiên nàng nghĩ đến cảnh huống đau xót ấy. Tưởng nàng không tin vì quá tự tín, chàng nói dỗi:
        - Vả lại, cần gì cô phải xin. Cô là chủ hộ. Cô muốn làm gì trong nhà này mà chẳng được.
        Nàng mím môi lại. Không nói năng, nàng chụp lấy cây bút bi, ký vào phần ý kiến của chủ hộ. Cây bút bi để lâu ngày không ra mực, nàng phải dí đầu bút lên lòng bàn tay nhiều lần. Chữ ký của nàng run rẩy, nét gạch bên dưới không được ngay, trông giống như một chữ ký giả mạo.
        Chàng lấy giọng khách sáo:
        - Nhờ cô mà tôi được tạm trú trong nhà của mình. Cảm ơn cô.
        Phần nàng, nàng trở lại van lơn:
        - Em van anh, cho em được ở tạm đây với con cho đến sáng mai. Em ao ước được ôm con ngủ trọn một đêm. Em van anh!
        Giọng nàng rạn đi, pha lẫn nước mắt. Chàng cảm động nhưng vẫn cố cứng cỏi:
        - Tại sao lại xin tôi? Xin một người tạm trú để được tạm trú? Có ai xin phép một khách qua đường để ngủ tạm trong cái quán trọ?" (truyện ngắn Ngày về không nắng, "Xuôi dòng", tập truyện, trang 68)

        Tô Thùy Yên trở về thấy mất mình, nhân vật trong truyện trở về thấy mất vợ, mất nhà (tạm trú trong nhà của mình mà vợ  - tuy đã bỏ đi lấy chồng khác - là chủ hộ).

        Tôi nhớ một chuyện khác thời xưa: chuyện Tô Tần. Tần là người thời chiến quốc bên Tàu, giỏi biện thuyết, có tham vọng dùng miệng lưỡi của mình để kiếm công danh. Không có tiền, ông xin mẹ già bán gia tài để làm lộ phí đi các nơi du thuyết. Cả nhà ai cũng can ngăn, nói rằng: "Tại sao không chịu cày cấy, buôn bán làm ăn mà chỉ muốn đem mấy tấc lưỡi để kiếm giàu sang, bỏ cái nghiệp đã thành cầu cái lợi chưa được, sau này nghèo túng còn hối sao được?"

        Tần không nghe, cứ đi. Và đúng như lời khuyên can, sau nhiều năm tháng đi đây đi đó không được gì, nghèo đói phải trở về nhà. Thấy vậy, mẹ già mắng nhiếc, vợ đang dệt cửi ngồi yên, không thèm nhìn cũng chẳng thèm chạy ra chào hỏi. Đói quá, Tần xin chị dâu cho ăn cơm, chị dâu không cho. Tần chảy nước mắt tự trách mình. Đó là cái về của một người thất bại.

        Nhưng Tần không chịu. Lại ra đi. Và lần này thành công lớn. Khi về, có võng lọng, có lính hầu, tiền rừng bạc bể. Mẹ già chống gậy ra đường xem. Chị dâu và vợ hỗ thẹn không dám nhìn lên, phủ phục ở ngoài ngõ đón. Tần ngậm ngùi than: "Tình đời xem ấm lạnh, giá người thành thấp cao."

        Hai lần về, hai khung cảnh, hai tình cảm, hai vở kịch. Thì thế. Và phải như thế. Nếu không như thế thì thành chuyện thần tiên mất rồi. Thời nào cũng có những Tô Tần, tuy mức độ có khác nhau. Giá của một Việt kiều trở về tất cao hơn nhiều so với giá của một người tù trở về. Hàng năm, Tết đến là có hàng trăm ngàn Việt kiều về lại quê hương. Trở về theo kiểu "vinh quy bái tổ,” "áo gấm về làng." Nói tất cả thì không hẳn đúng. Nhưng đa số đều về với tâm thức của những người "được" chứ không phải là của những người "mất." Họ không trở về để  "lục lại thời gian kiếm chính mình" như Tô Thùy Yên, cũng không như người thương binh của Phạm Duy muốn trở về với đời sống bình dị. Mà về với tâm thế của một Tô Tần thành đạt. Dù rằng để được như thế, họ phải đánh đổi bằng cách cật lực làm ngày làm đêm, làm ca hai, ca ba, làm overtime, làm 2, 3 job. "Về", đôi khi, là một gánh nặng. Bổn phận, danh dự, thể diện vân vân. Có lẽ vì thế mà có người không dám về. Hay chưa thể về. Tôi có một người bạn qua đây từ tháng 4/1975. Cho đến giờ này, anh chưa về lại Việt Nam lần nào. Vì sợ Cộng Sản? Không. Vì không có tiền, anh cho biết. Tại sao lại không có tiền, anh qua đây đến gần 30 năm mà? Đúng ra là không đủ tiền. Vậy thì bao nhiêu mới đủ? Anh ngần ngừ một lát rồi trả lời: "Tôi cũng chẳng biết bao nhiêu thì đủ. Nào phải xây lăng, đắp mộ bên nội rồi bên ngoại, xây nhà từ đường rồi biếu tiền cho ông chú, bà dì, bà o, rồi em út cháu chắt, rồi bà con xa bà con gần rồi bạn bè, đàn em cũ. Rồi du hí, chơi bời, vân vân và vân vân. Chẳng lẽ đi Mỹ mấy chục năm trở về để bị mang tiếng keo kiệt."  Đại loại anh lý luận như vậy. Rốt cuộc, loay hoay mãi, hết hẹn năm này về rồi sang năm, chưa bao giờ anh "về" được.

        Tôi chẳng dám khuyên gì anh bạn. Vì từ ngày sang đây, tôi cũng chưa có dịp về. Tiền là một lẽ. Sợ hãi vu vơ là một lẽ khác. Nhưng lý do chính là tôi biết tôi chẳng tìm thấy gì vui trong việc về. Tôi đã từng kinh qua việc "về nhà" từ trại cải tạo độ nào. Được ra khỏi nhà tù thì mừng, tất nhiên. Nhưng về nhà rồi chẳng thấy gì vui. Gia đình tôi còn nguyên vẹn, không trở thành bi kịch như nhân vật trong truyện của Nguyễn Mộng Giác ở trên. Nhưng không khác mấy với "ta về" của Tô Thùy Yên. Cảnh còn đó, người còn đây, nhưng mọi tương quan đã khác. Phải tập làm quen với mọi thứ, kể cả với người thân trong nhà. Một anh bạn tôi, ra đi từ tháng 4/1975. Sau gần hai chục năm, anh trở về với tâm trạng hăm hở muốn tìm lại những kỷ niệm cũ. Anh đi thăm nơi này nơi nọ, những chỗ đã từng ghi dấu những ngày vui xưa của anh. Những tưởng sẽ tìm lại nguyên vẹn những gì xưa cũ. Nhưng tất cả đã mất, mất hẳn. Anh không tìm thấy gì hết ngoài một cảm giác lạ hoắc y như thể anh tới một nơi xa lạ. Cảnh, người và anh đều lạ lẫn nhau. Thế rồi cuối cùng, anh ngong ngóng ngày về lại Mỹ, nơi mà trước đây khi ra đi với tâm trạng của một kẻ bị lưu đày. "Về" Mỹ! Về Mỹ, chứ không "đi" Mỹ. Và cảm giác "về" Việt Nam trở thành "đi" Việt Nam.

        Có lẽ cũng chẳng phải một mình anh bạn có cảm giác như vậy. Nhiều người "về" Việt Nam rồi "về" lại Mỹ. Không về Mỹ sao được? Con đó, cháu đó, công ăn việc làm ở đó, tương lai ở đó, tiền hưu bổng ở đó. Đi, đâm ra cũng là về. Và về, đâm ra cũng là đi. Viết đến đây, tôi nhớ một câu chuyển kể của thầy Nhất Hạnh. Có hai vợ chồng nọ lấy nhau vì tình. Như mọi cặp vợ chồng khác, lúc đầu họ sống rất hạnh phúc. Nhưng sau một thời gian, người vợ mất hết vẻ tươi mát và người chồng mất hết sự dịu dàng và ngọt ngào. Họ phải sống với nhau như một điều bắt buộc. Vì sợ tai tiếng. Vì sợ làm hai gia đình buồn... Ông chồng chẳng cảm thấy hứng thú gì khi về nhà thấy mặt vợ. Và ngược lại, bà vợ cũng chẳng thấy vui vẻ gì khi đợi chồng về. Hai người bắt đầu đi tìm niềm vui riêng. Bà dành nhiều thì giờ lo việc chùa chiền. Còn ông thì lấy cớ cần phải học thêm về ngành chuyên môn nên hết giờ làm nấn ná tìm cách ở lại sở. Tóm lại, chẳng ai muốn về nhà. Hai chữ "về nhà" thân thương mất hết ý nghĩa. Nhà vốn được hiểu như là một "tổ ấm," bây giờ là "tổ lạnh." Về nhà thành ra "đi" nhà.

Hay nói theo cách diễn đạt của Albert Camus, thì quê nhà (le royaume) (*) trở thành chốn lưu đày (l'exile). Truyện ngắn "La femme adultère" (trong tập truyện L'Exil et le Royaume) mô tả tâm trạng phức tạp của một người đàn bà tên là Janine. Janine theo chồng đi bán hàng ở một thành phố Á Rập nằm trong sa mạc. Nhìn thấy sa mạc lần đầu, nàng bị cuốn hút ngay vào cái lạ lùng, hoang vắng và yên lặng của nó. "Bên trên sa mạc, sự yên lặng mênh mông như không gian." Nàng cảm thấy như  đó là một vương quốc mơ ước vĩnh cửu của nàng. Đêm đó, trong phòng khách sạn, nằm bên người chồng đang say sưa ngủ, nàng ray rứt xót xa. Bao nhiêu năm sống với người đàn ông gọi là chồng dường như chẳng có mấy ý nghĩa. Nàng đi theo chồng, Marcel, giản dị  chỉ "để làm vui lòng người đã cần nàng. Niềm vui duy nhất mà anh ta cho nàng là sự nhận biết nàng là cần thiết. Có lẽ anh ta chẳng hề yêu nàng" (...) Hai người làm tình với nhau chỉ bằng cảm giác trong bóng tối, chẳng hề nhìn thấy mặt nhau (...). "Nàng biết rằng Marcel cần nàng và nàng thì nàng cần cái cần đó của anh ta." Tim nàng như thắt lại khi khám phá ra rằng nàng đã kéo lê đời sống như thế trong cả hai mươi năm trời. Nàng cảm thấy như mình bị lưu đày. Và bỗng nhiên nàng muốn được giải thoát. Ý nghĩ đó khiến nàng ngồi bật dậy, mặc áo quần, lặng lẽ trốn chồng đi ra ngoài. Trong bóng đêm, bất chấp gió lạnh, bất chấp nỗi sợ hãi, bất chấp tất cả, nàng chạy như điên như cuồng về phía sa mạc. Đến một cái pháo đài bỏ hoang, nàng leo lên đứng dựa vào góc tường, đắm đuối nhìn vào sa mạc - vương quốc yêu dấu của nàng. Nàng tự do thưởng thức cái yên lặng, cái mênh mông và đủ thứ ảo tượng thực trộn cùng hư dấy lên từ trời từ đất và từ cõi lòng nàng. Nhưng rốt cuộc, nàng phải trở về. Và rồi nàng khóc, khóc nức nở. "Không có gì đâu, anh yêu. Không có gì đâu," Janine nói với chồng. (Trích đoạn lấy từ "The Adulterous Woman," Exile and the Kingdom, Albert Camus, bản tiếng Anh của Justin O'Brien, Random House, NY, Hoa Kỳ, 1991)



Trong ý niệm của Camus,  lưu đày và quê nhà không phải là không gian vật lý của một nơi chốn nào hết, mà là tâm thức con người. "Nhà" hay "không nhà" là tâm giới chứ không là cảnh giới. Trong cuộc sống, không thiếu người xem "nhà" là nơi tù ngục, tù không có án, là nơi để người ta "giết đời nhau." Nhưng có lúc, chỗ lưu đày lại được xem là nhà. Nhớ khi còn ở tù, mỗi lần xuất trại đi ra ngoài lao động, lòng cứ ngong ngóng "về" láng. Về cái chỗ nằm chật hẹp vừa đủ để đặt lưng của mình, về trong một không gian hạn hẹp, bị canh phòng, giám sát đêm ngày. Cũng là "về" vậy. Điều mỉa mai là, trong hoàn cảnh tù đày, chỗ nằm  đâm ra trở thành "tổ ấm."

        Vậy, đâu là đi, đâu là về? Thật khó nói một lần cho xong.

Đẩy ý niệm đi và về xa hơn, thì  ta đụng với khái niệm về cõi trần hay cõi thế, trần gian, cõi tục lụy, cõi ta bà. Đụng với hình ảnh mà Trịnh Công Sơn cho là "tin buồn." Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người. Trần gian trở thành nơi tạm bợ, là một chỗ đi:
                Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời (Ở trọ)
        Mà trần gian chẳng có gì vui, nên anh kêu gọi:
                Thôi về đi, đường trần đâu có gì

Tóc xanh mấy mùa

Có nhiều khi, từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ, tưởng hồn những năm xưa (Phôi pha)
        Ít có nhạc sĩ  (và cả thi sĩ) nào đề cập đến chuyện đi và về nhiều như Trịnh Công Sơn. Nhạc của anh, rốt cuộc, có thể tóm gọn trong hai chữ "đi" và "về.” Ra đời là "đi" và chết là "về.” Anh cho ta thêm một hình ảnh mới tượng trưng cho cuộc đời: một cõi đi về.
                Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt

Rọi suốt trăm năm một cõi đi về (Một cõi đi về)
        Cũng trong cõi  đó, Du Tử Lê diễn đạt một cách khác:
                Đi và về cùng một nghĩa như nhau
        Người đông phương định nghĩa: Sinh ký tử quy. Sống gửi thác về.

        Gửi! Đi hay về cũng chỉ là gửi, tạm gửi (hay gửi tạm). Thầy Nhất Hạnh dùng chữ "gửi" trong một ví von khá độc đáo:
                        Tôi gửi tôi nơi đất
                        Đất gửi đất nơi tôi

Tôi mạn phép quảng diễn ra một cách khác: Tôi gửi tôi nơi Mỹ, Mỹ gửi Mỹ nơi tôi. Tôi gửi tôi nơi em, em gửi em nơi tôi. Tôi gửi tôi nơi đời, đời gửi đời nơi tôi...         
    
        Đất gửi đất nơi tôi = hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi.

Tôi gửi tôi nơi đất = để một mai tôi về làm cát bụi / đất ôm anh đi về cội nguồn
Thực ra, ví von trên của thầy Nhất Hạnh được đẩy xa hơn, thâm trầm hơn:
                        Tôi gửi tôi nơi Bụt
                        Bụt gửi Bụt nơi tôi.

        Đất và tôi, Bụt và tôi, đi và về, sống và chết, Mỹ và Việt Nam, ... và...và... Còn biết nơi nao là chốn quê nhà. (TCS)

                                                                       
(12/2002)

(*) "L'Exil et le Royaume" (Lưu đày và quê nhà) của Albert Camus. Tôi dùng lại chữ "quê nhà" mà một dịch giả (tôi quên tên) trước 1975 ở miền Nam đã dịch thoát từ tiếng Pháp "royaume" (vương quốc). Bản dịch tiếng Anh của Justin O'Brien là "Exile and the Kingdom."