Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Trần Vinh Dự - Thời đại của sản phẩm miễn phí và cuộc chiến OTT


Trần Vinh Dự - 

Một trong những chủ điểm “hot” nhất của văn hóa trẻ hiện nay ở Việt Nam là sử dụng điện thoại thông minh và sử dụng các dịch vụ OTT (over-the-top) trên điện thoại. OTT được hiểu nôm na là các dịch vụ cho phép con người kết nối với nhau qua tin nhắn chữ, hội thoại trực tiếp, và tin nhắn âm thanh. Hầu như bất cứ ai trong giới trẻ có máy tính hay điện thoại thông minh đều sử dụng một số trong các dịch vụ này.


Đây có thể nói là một thành quả vĩ đại của công nghệ. Tác động của nó đối với người dùng là được hưởng các dịch vụ kết nối miễn phí (chỉ cần có internet). Đối với các nhà cung cấp dịch vụ đường truyền, đặc biệt là các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại, đây có thể nói là một cơn ác mộng. Lý do rất đơn giản là khi người ta có thể nhắn tin (chữ, âm thanh, và hình ảnh) và gọi cho nhau miễn phí thì người ta sẽ không cần đến dịch vụ gửi tin nhắn hay điện đàm truyền thống phải trả phí.

Vì thế, có thể nói là không chỉ ở Việt Nam mà ở khắp nơi trên thế giới đang diễn ra một cuộc chiến cam go giữa các nhà mạng truyền thống và các công ty cung cấp dịch vụ OTT. Trên quy mô toàn cầu, theo ước tính của hãng nghiên cứu thị trường Ovum, sự gia tăng của các ứng dụng nhắn tin miễn phí đã khiến các nhà mạng bị thiệt hại đến 23 tỷ USD doanh thu trong năm 2012, và dự đoán con số này sẽ tăng lên 54 tỷ USD trong năm 2016.

Còn ở Việt Nam, một thông tin gây sốc được ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó tổng giám đốc Viettel tiết lộ, nếu 40 triệu thuê bao di động đều dùng 3G và Viber, thì doanh thu của Viettel có thể bị giảm 40-50%. Vì thế, Báo Đầu tư đã dùng từ rất đúng là “Dịch vụ OTT "đập vỡ nồi cơm” nhà mạng”.

Lịch sử đã thay đổi?

Liệu có thể kiếm tiền bằng cách tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt nhất nhì thế giới, khách hàng sử dụng hàng ngày, trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống, và… hoàn toàn miễn phí cho tất cả mọi người?

Nếu như cách đây vài chục năm có ai đặt ra một giả thuyết như vậy thì chắc chắn ngay lập tức sẽ bị coi là người bị bệnh hoang tưởng.

Thế nhưng ngày nay sẽ khó có thể kiếm ra một cư dân đô thị trung lưu nào trên thế giới không sử dụng thư điện tử cá nhân miễn phí như của Google, Yahoo, hay Hotmail, không sử dụng mạng xã hội không thu phí như Facebook, Linkedin, hay Twitter, không lướt các trang tin và giải trí miễn phí trong nước và quốc tế hàng ngày, không sử dụng các phần mềm nhắn tin và hội thoại miễn phí như Viber, Skype, không chơi game miễn phí, không coi Youtube “chùa”…

Các sản phẩm này là một phần cốt lõi của cuộc sống hiện đại. Và chúng mặc nhiên là các sản phẩm miễn phí, tức là khách hàng luôn luôn kỳ vọng chúng miễn phí và không bao giờ nghĩ rằng mình phải trả tiền khi sử dụng. Không những thế, các nhà cung cấp còn phải cạnh tranh khốc liệt với nhau để đưa ra thị trường các sản phẩm miễn phí tốt nhất.

Ở Việt Nam, thời gian gần đây cũng hình thành hàng loạt các công ty công nghệ đi theo hướng này, từ các trang web chia sẻ phim ảnh và âm nhạc, các trang thông tin giải trí, đến mạng xã hội, lưu trữ dữ liệu trên “cloud” (điện toán đám mây), hay OTT. Chỉ riêng trong lĩnh vực OTT (over-the-top), lĩnh vực đang được coi là “hot” nhất hiện nay và là ác mộng của các công ty điện thoại truyền thống, gần đây đã xuất hiện các công ty với nhiều sản phẩm như Zalo (công ty VNG của Việt Nam), Line (Nhật Bản), Kakao Talk (Hàn Quốc), bên cạnh Viber đã có từ khá lâu…

Phải chăng lịch sử đã thay đổi và con người đang bước vào kỷ nguyên xài đồ chùa? Đương nhiên là không phải vậy. Bạn sẽ không thể mua thậm chí một cái bánh mì với giá bằng không trừ khi là doanh nghiệp tặng miễn phí để khuyến mãi. Trong tất cả các mặt truyền thống của cuộc sống, quy luật muôn đời vẫn thế: muốn mua xài thì phải có tiền.

Tại sao miễn phí?

Vậy tại sao các sản phẩm công nghệ nêu trên lại miễn phí? Bí quyết của điều tuyệt vời này nằm ở hai điểm.

Đầu tiên là một nguyên tắc xưa như trái đất của kinh tế học: Doanh nghiệp định giá sản phẩm bằng với chi phí định biên (marginal cost) để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm đó. Trong trường hợp các sản phẩm kể trên, chi phí mà nhà sản xuất phải trả thêm khi có một người dùng mới là gần như bằng không.

Lấy thí dụ trường hợp của Viber, phần mềm cho phép người dùng nó có thể gọi cho nhau miễn phí qua điện thoại khắp nơi trên thế giới. Theo tạp chí Fierce Mobile Content, Viber hiện nay có hơn 175 triệu người sử dụng trên toàn cầu, và hiện nay chi phí hoạt động của công ty này là khoảng 200 nghìn USD mỗi tháng. Nói cách khác, chi phí bình quân (average cost) mà Viber phải bỏ ra là khoảng 1,14 xu cho một người dùng. Tuy nhiên, theo kinh tế học, doanh nghiệp không định giá bán theo chi phí bình quân mà định giá theo chi phí định biên. Rõ ràng, giả sử hiện nay Viber đang có đúng 175 triệu người dùng, giả sử có thêm một người dùng nữa cài đặt và sử dụng sản phẩm này thì Viber không mất thêm một xu nào. Nói cách khác, chi phí định biên của Viber là bằng không.
Tuy nhiên, nếu như thế thì những công ty như Viber sẽ không thu được xu nào và sẽ rơi vào tình trạng phá sản. Sở dĩ các dịch vụ miễn phí này tồn tại, phát triển, và làm giàu cho doanh nghiệp nằm ở mô hình tạo doanh thu theo một kênh khác. Đó là doanh thu từ quảng cáo và các sản phẩm giá trị gia tăng khác

Thí dụ, Google là doanh nghiệp lớn nhất thế giới xét về mặt cung cấp các dịch vụ miễn phí cho người dùng. Doanh thu từ quảng cáo theo báo cáo tài chính của hãng này năm 2012 là 43,686 tỷ USD trong khi các doanh thu khác (thí dụ bán thiết bị) chỉ có 2,354 tỷ USD, chiếm chỉ có 5,11% tổng doanh thu của Google. Lợi nhuận ròng (sau thuế) cùng năm của hãng này là 10,737 tỷ USD. Nhờ đó, Google đang được định giá trên sàn giao dịch NASDAQ với trị giá cả công ty là 300 tỷ USD.

Để kiếm tiền được từ quảng cáo, các doanh nghiệp như Google phải có số lượng người dùng đông đảo. Lượng người dùng vì thế trở thành tài sản có khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng có lượng người dùng lớn thì tài sản có khả năng sinh lợi càng cao. Điều này khiến cho việc đầu tư sản xuất và cung cấp các sản phẩm miễn phí để thu hút người dùng cũng chính là đầu tư để hình thành tài sản có khả năng sinh lợi.

Tuy nhiên, có tài sản có khả năng sinh lợi không có nghĩa là doanh nghiệp sẽ tạo ra được doanh thu và lợi nhuận. Để tạo được doanh thu, các doanh nghiệp này cần có các mô hình tạo ra doanh thu thích hợp. Một mô hình thích hợp là mô hình vừa thu tiền được từ các khách hàng có nhu cầu quảng cáo hoặc dịch vụ giá trị gia tăng khác, vừa không làm giảm tiện ích của người dùng sản phẩm. Và việc này không dễ.

Cuộc cách mạng khiến Google trở thành đại gia trong làng công nghệ thế giới hiện nay nằm ở chỗ họ đã tạo ra các sản phẩm quảng cáo cực kỳ thông minh như Adwords và Adsense và cơ chế đấu thầu theo đó người quảng cáo phải cạnh tranh với nhau bằng cách trả giá cao hơn để được quảng cáo qua các hình thức này.

Việc kiếm tiền từ lượng người dùng được gọi chung với cái tên là tiền tệ hóa (monetarize) tài sản là lượng người dùng của doanh nghiệp. Bản thân một doanh nghiệp lão làng như Google nhưng khi mua lại một doanh nghiệp khác có lượng người dùng “khủng” là Youtube, họ cũng mất mấy năm trời trước khi tìm được cách thích hợp để tiền tệ hóa.

Ác mộng kiếm tiền của OTT

Thế nên dễ hiểu là một số công ty trẻ tuổi hơn như Viber (sản phẩm OTT) hiện nay vẫn loay hoay chưa tìm được cách tiền tệ hóa lượng người dùng của mình. Theo tạp chí Mobile World, mới hồi tháng 4 vừa rồi, CEO của Viber là Talmon Marco, công ty này sẽ phải sớm tính đến việc cung cấp thêm các dịch vụ giá trị gia tăng có thu phí để tạo doanh thu.

Mặc dù vậy, việc này không dễ dàng vì theo Talmon Marco, “vấn đề với quảng cáo là [các điện thoại di động] có màn hình nhỏ, và nếu bạn dùng một phần màn hình để quảng cáo thì phần còn lại còn nhỏ nữa, và nhìn không hay tí nào”, vì thế theo Marco, công ty này sẽ không tạo doanh thu qua việc quảng cáo mà “có những cách thông minh hơn để kiếm tiền”.

Marco không cho biết cách khác thông minh hơn là cách nào, nhưng rõ ràng Viber không thể một ngày đẹp trời chuyển sang thu phí người dùng. Nói một cách lịch sự như Marco thì “miễn phí là một thứ cam kết ngay từ ngày đầu với người dùng”. Nhưng bản chất tàn nhẫn hơn là có rất nhiều sản phẩm miễn phí tương tự như Viber và nếu Viber thu phí thì ngay lập tức người dùng sẽ chuyển sang dùng các sản phẩm miễn phí khác.

Ở Việt Nam, một số doanh nghiệp OTT hàng đầu như Zalo hiện đã có lượng người dùng lên tới hơn 4 triệu, tuy nhiên, mô hình để các sản phẩm OTT này sinh lợi thì vẫn chưa có mặc dù chúng tạo ra cơn ác mộng về doanh thu cho các công ty điện thoại truyền thống. Gần đây, sau một thời gian dài đấu tranh, các công ty điện thoại truyền thống trong nước bắt đầu phải chấp nhận thực tế là không thể loại bỏ được các sản phẩm OTT bằng chính sách, vì thế phải tìm cách chung sống với nó. Tuy nhiên, cơ chế nào để hai bên cùng có lợi thì vẫn là một câu hỏi bỏ lửng. Đơn giản vì nếu các sản phẩm OTT trong nước thu phí, người dùng sẽ chuyển sang sử dụng các sản phẩm OTT miễn phí của nước ngoài.

Vì thế, Fierce Mobile Content trích lời của Josh Martin thuộc Strategy Analytics, cho rằng “với quá nhiều các lựa chọn thay thế, việc tính phí người dùng có vẻ như bất khả thi và vì thế buộc các doanh nghiệp phải tìm cách khác để tiền tệ hóa, nếu không làm được việc này thì sẽ dẫn tới việc nhiều doanh nghiệp đang “hoành tráng” (hight-flying) hiện nay sẽ sập tiệm, trừ phi chúng được mua lại bởi các đại công ty muốn sử dụng các sản phẩm này làm sản phẩm bổ trợ miễn phí cho sản phẩm chính của họ.”

Lối thoát “bán mình”

Ý sau của Josh Martin cũng chính là giấc mơ mà hàng triệu hãng công nghệ nhỏ trên khắp thế giới hướng tới. Sau khi có lượng người dùng lớn, các hãng nhỏ sẽ được bán lại cho các đại gia công nghệ cỡ bự. Các thí dụ đầy hấp dẫn như Youtube bán cho Google với giá 1,65 tỷ USD năm 2006, DoubleClick bán cho Google với giá 3,1 tỷ USD năm 2007, Waze bán cho Google với giá xấp xỉ 1 tỷ USD hồi tháng 6, 2013, Instagram bán cho Facebook với giá 1 tỷ USD, hay Face.Com bán cho Facebook với giá 100 triệu USD… là các “giấc mơ Mỹ” điển hình của làng công nghệ thế giới.

Đây là một lối thoát danh giá và đặc biệt hấp dẫn cho các doanh nghiệp công nghệ nhỏ. Tuy nhiên, ngay cả lối thoát này cũng chỉ là một khung cửa hẹp. Lý do là vì các dịch vụ miễn phí kể trên nằm trong nhóm các ngành công nghiệp bị “nguyền rủa” bởi một nguyên tắc khắc nghiệt là “winner takes all” (được ăn cả ngã về không). Chúng đều là các sản phẩm mang tính cộng đồng, có nghĩa là càng có nhiều người dùng thì giá trị sử dụng đối với một cá nhân càng cao. Kết quả là thị trường chỉ cho phép một sản phẩm tốt nhất, tiện dụng nhất tồn tại và sẽ thải loại tất cả các sản phẩm khác. Các đại gia công nghệ lớn đương nhiên biết được đặc thù này, vì thế khi mua lại các sản phẩm công nghệ của các doanh nghiệp nhỏ hơn, họ cũng chỉ mua sản phẩm tốt nhất (và vì thế nhiều người dùng nhất), vì không dại gì bỏ tiền mua sản phẩm hạng hai khi mà họ biết ngay từ đầu sẽ thảm bại.

Kết cục là cuộc chạy đua này tựa như cuộc chạy đua mà chỉ có một người về nhất được thoát ra khỏi khung cửa hẹp, số còn lại đều tàn lụi trong bóng tối. Vì thế, đây là một cuộc chơi thú vị, nhưng hết sức nghiệt ngã. Dẫu sao, đối với người dùng, bao gồm cả người dùng Việt Nam, dù doanh nghiệp nào thắng, doanh nghiệp nào thua, thì họ cũng đều là người hưởng lợi.


Hạ Đình Nguyên - TBT Nguyễn Phú Trọng & Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng


Hạ Đình Nguyên - 

Khi đọc tin TBT Nguyễn Phú Trọng nói về tương lai CNXH trong buổi thảo luận tổ ở Quốc hội, bất giác tôi liên tưởng đến nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vừa được đề cập trên truyền hình VTV, vì cảm nhận một sự tương đồng, cũng vừa có những khác biệt lý thú, và đều gây khó hiểu như nhau.


Nhà “Ngoại cảm Tâm linh” Phan thị Bích Hằng, đã từng vang danh nhiều năm về công việc “tìm mộ”, nay đang làm xôn xao trên truyền hình và mạng với nhiều xét nét của dư luận. Đồng thời nhà Duy vật biện chứng xhcn danh tiếng, GS,TS Nguyễn Phú Trọng, đứng đầu ĐCSVN, cũng là người đứng đầu đất nước nổi tiếng nầy, cũng đang làm cho nhiều giới xôn xao, ngơ ngác.

Cái khác nhau và cái giống nhau

Một bên có đối tượng nghiên cứu là “cái vong” và “hài cốt” của những người đã chết, thuộc về quá khứ, không khẳng định thời gian. Bên kia, thì nói về CNXH ở vào thì tương lai, bao gồm toàn thể những người đang sống và những người sẽ sống – của cả cộng đồng dân tộc VN – trong vòng 100 năm tới và có thể xa hơn nữa…

Có thể gọi ông là nhà “Ngoại cảm” xhch được chăng? Đây là một cụm từ có thể mới mẽ, nhưng dù sao nó cũng đã chỉ một hiện thực khách quan, có tính điển hình.

Dĩ nhiên, tầm vóc của nhà ngoại cảm XHCN lớn hơn nhiều so với nhà ngoại cảm tâm linh về mọi phương diện, trong cả không gian và thời gian, đặc biệt về tư cách pháp nhân của hai nhà ngoại cảm. Nhưng cái giống nhau là cùng một phương pháp, là “ngoại cảm”, tức là tự nhiên mình nói ra, không cần phải giải thích dông dài, không cần khoa học ló mặt vào, mình nói ra như một thứ "chân lý" tự nó bộc lộ, từ trong tâm trí mình. Đó là tính chung của những nhà ngoại cảm.

Về nhà ngoại cảm Tâm linh Phan Thị Bích Hằng (PTBH) một số người cho rằng có sự lừa đảo đâu đây, vì có trường hợp chứng minh hài cốt tìm thấy lại là xương thú vật. Nhưng có số đông khác thì tin tưởng về sự chính xác và cũng đưa ra những bằng chứng khoa học đáng tin cậy. Sự thật như thế nào chưa thể phân giải, như chuyện có ma hay không có ma trên cõi đời, cũng là vấn đề đang được thả nổi, ai muốn nghĩ thế nào là tùy. Lại có kẻ hoài nghi về ý đồ gì đây của đài VTV (9) khi tung ra “sự cố” nầy? Trong khi tại Kinh đô, nơi đang diễn ra sự kiện trọng đại, Quốc Hội đang bàn về Hiến Pháp, nhà “Ngoại cảm xhcn” - TBT Nguyễn Phú Trọng - lên tiếng về một tiên tri hoành tráng về CNXH, có ảnh hưởng đến cả quốc gia với tầm kích thế kỷ, không thể dễ bị chìm xuồng trong dư luận. Ông nói:
“Xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ nầy không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”

Bằng một tầm nhìn vượt thời gian, ông khẳng định rằng nó còn lâu dài lắm. Hết thế kỷ, có xác suất cỡ 100 năm, mà có hay không có CNXH cũng không biết được, nhất là về cái mức gọi là "hoàn thiện" của nó theo nhà tiên tri… Ông đã nắm chắc tất cả các yếu tố cấu thành để được gọi là hoàn thiện nữa đấy, nhưng còn để trong bụng, chưa nói ra?

Ông đã nhiều lần khẳng định toàn dân Việt Nam phải đi lên CNXH, với những kiên định mà ông đã xác lập, nhưng tương lai của nó thì ông nói trước rằng, ông không dám bảo đảm nó sẽ thế nào, tức có hoàn thiện hay không… Đây cũng là một khác biệt trong hai nhà ngoại cảm. "Hoàn thiện" là một khái niệm khá mông lung, hầu như không có giới hạn, một kỹ xảo thường được sử dụng khá kỹ xảo phổ biến trong quảng cáo sản phẩm của giới kinh doanh trên TV. Trong lãnh vực giáo dục, tư tưởng con người, chỉ dám nói đến “hướng thiện” đã là gay go lắm rồi…

Sự lừa đảo - Thủ tướng chính phủ cho lệnh điều tra
Theo VTV, người ta tố cáo bà Phan Thị Bích Hằng là kẻ lừa đảo, tráo xương thú vật bảo đấy là “hài cốt”. Vì là phương pháp “ngoại cảm” nên bà không thể giải thích nhiều, bà chỉ nói rằng bà làm không vì tiền, không vì danh, không vì một chủ thuyết hay ý thức hệ nào. Đã 20 năm với hơn 10.000 hài cốt không phải là nhỏ, tốn hao không ít tâm sức của bà, tất cả chỉ vì “cái tâm” mà thôi. Công việc nầy hoàn toàn có thể khảo sát kết quả của nó bằng phương pháp khoa học. Nếu có một tỉ lệ nào đó về sự không chính xác, thì đó cũng chỉ là một xác xuất phải có, ngay trong lãnh vực khoa học thực nghiệm cũng vậy. Trong các con số thống kê về tài chánh của nhà nước, hoặc “những con số nhảy múa loạn xạ” (NLG 26-10) về 15- 20 triệu lượt ý kiến, 28-30-40 ngàn cuộc hội thảo về góp ý sửa đổi Hiến Pháp ….., đều là vật hữu hình mà còn chênh lệch đáng sợ hãi, huống là trong lãnh vực khó khăn của "linh cảm" vô hình nầy.

Dù sao cũng vẫn có cách để kiểm chứng, nếu muốn.

Kết quả sẽ tùy theo đó mà giải oan cho bà, hoặc pháp luật sẽ kết tội bà là kẻ đảo điên lừa dối, thì bà sẽ phải mang họa vào thân. Mặt khác, bà là một cá nhân không kèm theo một quyền lực nào, và người đến xin “chỉ mộ” đều là tự nguyện đến nhờ vả, để an tâm với tình cảm của mình đối với người thân đã mất. Về mặt tinh thần, nếu có “lừa đảo” thì cái tội không nhẹ, song nói chung cái hại thì không lớn, vì dù sao tìm mộ cũng chỉ là vấn đề của quá khứ, về người đã chết, nếu so với trường hợp nói về 90 triệu người sống và cả tương lai lâu dài trăm năm của một dân tộc!

Đối với tiên tri về CNXH của nhà “Ngoại cảm” xhcn Nguyễn Phú Trọng, có ai hoài nghi gì không? Vì sao lại không hoài nghi về một điều trọng đại như thế? Có nhiều khác biệt về mặt nguyên nhân, về tiến trình, về hậu quả lâu dài cho cả một quốc gia, và cũng rất khó kiểm chứng?

- Nhà Ngoại cảm xhcn Nguyễn Phú Trọng, đã dùng quyền lực thế gian của mình – chức TBT của Đảng lãnh đạo toàn diện – bắt ép mọi người dân phải tuân theo mệnh lệnh đi lên CNXH (ông nói càng rằng mọi người đều muốn đi lên…), chứ không tự nguyện như trường hợp người tìm mộ.

- Cách tìm mộ, thì nhà ngoại cảm tâm linh có chỉ rõ nơi đến, chỉ rõ địa hình, các dấu hiệu để nhận biết, đào xuống bao sâu, vật thể có những gì.., kế hoạch có thể vạch ra trong một thời gian nhất định: một tuần, một tháng hay vài tháng là hoàn thành.

- Trong khi nhà ngoại cảm xhcn thì không chỉ rõ nơi đến là đâu, ở đó có gì, mà thời gian đi thì rất lâu, vượt quá đời ông, đời con ông, đời cháu ông, đến đời chắt của ông cũng chưa chắc thấy rõ, như lời ông đã đưa ra một cách “xác tín”. Cuộc hành trình của cả một dân tộc, nhiều thế hệ tiến lên một cõi mơ hồ, mà ông là một kẻ dẫn đầu? Hậu quả sẽ không nhỏ, cao hơn cái tầm của “xương thú vật” thay cho “hài cốt”.

Có thể ông là một nhà “tiên tri được ủy thác” từ cõi nào đó, mới đủ dũng cảm, dám dẫn dắt hàng trăm triệu người đi trên con đường vô định, mà chính ông cũng hoang mang mơ hồ, không biết rõ nơi đó là đâu, và hoàn thiện là thế nào?

Và cũng nên đặt một dấu hỏi lớn về đoàn người đông đảo được dẫn đi kia ? Họ thế nào, và họ có biết mình là ai không?

Có thể sẽ có nhiều người liên tưởng về một sự lừa đảo thuộc loại siêu hạng.

Nhưng tôi thì không!

Tôi vốn bị bệnh thiểu năng từ nhỏ, nên vẫn một lòng tin tưởng vào tương lai tươi sáng, gần ngay đây thôi của CNXH. Cũng có thể hiểu lời tiên tri theo một cách khác: CNXH đang có đấy thôi, dù nó xộc xệch, méo mó dị dạng, nhưng nó sẽ tồn tại cả trăm năm nữa dù nó chẳng bao giờ có thể hoàn thiện. Hãy tin đi, ráng mà duy trì cái đang hiện thực, có tên là CNXH, dù nó đang trong tình trạng rất “nghẹt thở”…!

Dù hiểu theo cách nào, tôi cũng không tin vào lời tiên tri của ông, nhưng trong giây phút, tôi không tránh khỏi trạng thái ngơ ngẩn vì những lời nói bất ngờ, nghe như là ngớ ngẩn ấy.

Nhưng nếu tôi là Thủ Tướng, tôi cũng cho “điều tra” luôn lời tiên tri của nhà “ngoại cảm” nầy, vì hậu quả của nó là khôn lường! Xã hội xhcn của ta là luôn khẳng định “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc…”, nay bỗng dưng lại phất phơ đến thế: Đến cuối thế kỷ, không biết nó có hoàn thiện hay chưa! Tôi tự hỏi mình với sự ngẩn ngơ không kém: Sao Ông lại là Tổng Bí Thư nhỉ? Nếu là Giáo sư, Tiến sĩ thì ông có quyền tư duy, phát kiến, sáng tạo, thậm chí là “tiên tri” hay thầy bói rất đẳng cấp!

Thực ra, đối với cả hai người, dù không cả tin ở ai, tôi vẫn một lòng tôn kính ngang nhau, vì khía cạnh họ đều là nhà “ngoại cảm” cả, ông Nguyễn Phú Trọng và bà Phan Thị Bích Hằng. Một - chuyên về CNXH, một - chuyên về vong và hài cốt. Một - hướng về tương lai, một- quay về quá khứ, nối liền một mạch, biết đâu nó sẽ tạo nên một giòng văn hóa đậm đà “đặc sắc” hiển linh!

Hạ Đình Nguyên
CN, 27-10



Ngô Nhân Dụng - Những tín hiệu từ thành phố Tân An


Ngô Nhân Dụng - 


Tân An có chuyện gì vậy? Thành phố này chỉ cách Sài Gòn 50 cây số, nhưng trong năm nay đã được nhắc tới hai lần trên bản tin của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters Sans Frontieres) gửi cho khắp thế giới; sau các vụ xử Nguyễn Phương Uyên, Ðinh Nguyên Kha, và nay là Ðinh Nhật Uy, anh của Nguyên Kha. Trong hai lần tòa xử, Tân An cũng trở thành trung tâm tụ họp của các blogger, cùng những nhà tranh đấu cho tự do dân chủ. Họ hiên ngang diễn hành trong thành phố, với các biểu ngữ đòi cho dân Việt được tự do, và đám công an trong thành phố phải rút lui, tránh không gây xung đột.


Trong ngày Thứ Ba, 29 Tháng Mười, 2013, khắp thế giới được coi hình ảnh các blogger trẻ cùng nhau đi “diễn hành” chung quanh một gian phòng lớn, tay nắm tay, tay vịn lên vai nhau, có bàn tay đưa lên như đang hô khẩu hiệu. Họ vừa đi vừa hát, “Dậy mà đi, dậy mà đi, dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!” Trông cảnh đó, không ai còn nghi ngờ gì nữa: Tuổi trẻ Việt Nam đang sẵn sàng cùng đồng bào đứng dậy. Tuổi Trẻ Yêu Nước đang sẵn sàng Lên Ðường! Các bạn blogger trẻ có thể hãnh diện, các bạn đang nối gót những chiến sĩ tự do dân chủ một thế kỷ trước đây! Hà Sĩ Phu mới viết một bài về Phan Tây Hồ, đã so sánh: “Ðọc lại những lời Phan Châu Trinh trước đây một thế kỷ mà tưởng như lời một blogger hay một trí thức phản biện của ngày hôm nay!” Ông nêu lên những ý kiến mà nếu Phan Tây Hồ còn sống cũng đang lên tiếng đòi hỏi: “...phản đối chủ trương độc đảng và (ruộng đất thuộc) sở hữu toàn dân; phản đối việc cho đạo Khổng nô dịch dân Việt; yêu cầu phải thực thi tam quyền phân lập và đa đảng đa nguyên, vân vân.” (Hà Sĩ Phu nhắc tới âm mưu đồng hóa dân Việt Nam theo kiểu mới, khi các ông Lý Khắc Cường và Nguyễn Tấn Dũng ký kết với nhau sẽ thành lập một “Viện Khổng Tử” ở Hà Nội; mục này sẽ bàn về Viện Khổng Tử trong một bài sau).

Thành phố Tân An chỉ có hơn 150,000 dân, những cuộc biểu tình đòi nhà, đòi đất, kéo lên tận Sài Gòn, diễn ra từ hàng chục năm trước đã vang động cả nước. Bản thân tôi đã có nhiều duyên nợ với Tân An. Năm 1954, gia đình năm mẹ con tôi được đưa về “định cư” ở làng Hòa Khánh, trong quận Ðức Hòa, khi tỉnh Long An còn chưa thành lập. Gia đình tôi sau đó mới tìm đường lên Sài Gòn, đi Ðà Lạt, chia hai ngả để gây dựng lại cuộc sống mới. Hồi 15, 16 tuổi, tôi vẫn từ Sài Gòn đi cắm trại ở Tân An, ở Thủ Thừa. Quãng đường 50 cây số đạp xe không biết mệt, trên vai lại đeo “ba lô” nặng trĩu; sau xe còn chở theo một đội sinh, em cũng đeo ba lô nặng trĩu! Vừa đạp xe vừa hát với nhau những bài ca yêu nước, như hầu hết các Hướng Ðạo sinh thời đó. Nếu khi lớn lên mà lập nghiệp ở tỉnh Long An, chắc tôi cũng có mặt trong mấy cuộc biểu tình phản đối những phiên tòa sôi nổi vừa qua. Và chắc cũng hát, “Dậy mà đi! Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!”

Tân An đang trở thành một điểm nóng trong sinh hoạt chính trị cả nước. Dân các thành phố khác phải hướng về Tân An, với lòng kính phục. Bởi vì thị xã nhỏ này đã sinh ra những bạn trẻ xứng đáng làm con của Tổ Quốc Việt Nam: Nguyễn Phương Uyên, Ðinh Nguyên Kha, và Ðinh Nhật Uy. Cha mẹ của các em đã nêu gương để các em biết sống không khuất phục cường quyền. Trong phiên xử Phương Uyên, ông bà Nguyễn Duy Linh và Nguyễn Thị Nhung đều có mặt, mẹ của em tuyên bố có thể chết tại sân tòa án. Nguyễn Thị Kim Liên là mẹ của Kha và Uy cùng thân phụ hai em luôn có mặt ủng hộ các con, dù bị áp lực và đe dọa từ mọi phía. Bà Nguyễn Thị Kim Liên đã gửi thư mời ông Mark Zuckenberg tới Tân An dự khán phiên xử con trai bà. Zuckenberg là người thành lập công ty Facebook; mà Ðinh Nhật Uy người đầu tiên bị truy tố về tội dùng mạng xã hội Facebook do ông sáng lập; với lời vu cáo “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ...” Trong một xã hội không hề có tự do dân chủ, làm sao có thể “lợi dụng các quyền tự do dân chủ?”

Thái độ và hành động của cha mẹ các em Phương Uyên, Nguyên Kha, Nhật Uy chứng tỏ những công dân bình thường ở nước Việt Nam không còn khiếp sợ chế độ công an đàn áp nữa. Dân Việt đã nhìn thấy tấm gương Ðoàn Văn Vươn, nay lại được thấy các bạn trẻ Phương Uyên, Nguyên Kha, và Nhật Uy hiên ngang ra đứng trước tòa án cộng sản. Trong lúc những nhà tranh đấu dân chủ đi biểu tình ở thành phố Tân An, trương biểu ngữ và hô khẩu hiệu đòi trả tự do cho ba bạn trẻ, mạng Dân Làm Báo kể: “Một bác chạy xích lô, đầu đã bạc trắng khi thấy đoàn biểu tình liền tắp xe vào lề đường, giơ nắm đấm lên hét: ‘Ðúng rồi! Ðúng rồi! Phải đấu tranh! Ðấu tranh,’ rồi đạp xe chạy đi tiếp.” Trong ngày xử Ðinh Nhật Uy, một người ủng hộ em là ông Lưu Trọng Kiệt bị công an phường 7 lôi xuống xe, rồi công an sắc phục cùng với bọn tay sai “dân phòng,” khoảng mười tên, nhảy vào đấm đá túi bụi. Facebook Hoàng Dũng cho biết ông Lưu Trọng Kiệt sau đó vẫn nói: “Tôi có thể chịu đau hơn nữa, miễn là em Uy tự do!”

Trước tòa, Ðinh Nhật Uy vẫn giữ được tư cách đĩnh đạc. Về cáo trạng “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” xâm phạm nhà nước và người khác, Uy kể rằng trước tòa “Tôi khẳng định tôi sử dụng đúng quyền công dân của mình. Tôi chưa từng có ý định, hành động hay động thái nào để xâm phạm bất kỳ ai, và lợi dụng bất kỳ cái gì để xâm phạm bất kỳ ai.”

“Tôi khẳng định trước tòa rằng tôi là một người công dân bình thường như hằng triệu người công dân khác. Tôi làm tròn trách nhiệm của người công dân đối với xã hội. Tôi nghĩ những việc mình làm rất đơn giản, tôi đấu tranh vì chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, vì (chống) sự xâm lược của Trung Quốc. Tôi đấu tranh vì quyền lợi của người dân; quyền lợi của người dân bị xâm phạm; và tôi đấu tranh chống tiêu cực.”

Những người lớn tuổi chắc không ai chịu thua, không ai muốn thấy mình thiếu can đảm hơn thế hệ các con em. Luật sư Nguyễn Thanh Lương kể trong phiên tòa trước, em Phương Uyên cũng thản nhiên nói: “Tôi không cần giảm án. Tôi chỉ cần tòa xử đúng người, đúng tội. Tôi nghĩ rằng chống Ðảng Cộng sản không phải chống phá đất nước, dân tộc Việt Nam.” Ông Nguyễn Thanh Lương đã bị nhiều áp lực phải bỏ cuộc, không đứng ra biện hộ cho Ðinh Nhật Uy trong phiên tòa hôm qua, mặc dù ông chỉ đại diện cho Uy trong vấn đề dân sự: Ðòi lại những “tài sản” bị công an cướp mất khi khám nhà. Nhưng kết quả chắc cũng làm vị luật sư hài lòng: số tài sản gồm sáu cái áo thung có ghi dòng chữ: Hoàng Sa-Trường Sa-Việt Nam; hai áo thung phía trước có ghi dòng chữ: “No to U-Line!” mà phía sau dịch sang tiếng Việt: “Xóa Ðường Lưỡi Bò! Bảo vệ biển đảo Việt Nam!” Những chiếc áo thung của Ðinh Nhật Uy đã bị tịch thâu, và được “Viện Kiểm sát” ghi trong cáo trạng là những “vật chứng phạm tội;” chứng tỏ các bạn trẻ chỉ “phạm tội yêu nước!” Phan Châu Trinh ngày xưa cũng bị bắt, bị tù, bị xử tử hình, vì cùng một tội: Yêu nước Việt Nam!

Lòng yêu nước đã được nuôi dưỡng trong ngàn năm Bắc thuộc, đến nay vẫn còn nguyên. Ði song hành với với khát vọng xây dựng tự do dân chủ. Ngày xưa đảng Cộng sản đã bày ra phương trình: “Yêu nước là yêu Chủ nghĩa Xã hội.” Bao nhiêu thanh niên đã chết vì nghĩ rằng mình yêu nước; hậu quả là họ chỉ góp phần dựng lên một chế độ độc tài thối nát, tàn hại đất nước. Ngày nay, người dân biết, yêu nước thì phải xây dựng nền móng một xã hội dân chủ. Chỉ trong một thể chế dân chủ mới có thể bầu lên một chính quyền biết bảo vệ tổ quốc; và mới xóa bỏ được những tệ nạn do đảng cộng sản độc tài gây ra trong hơn nửa thế kỷ qua. Trong số các biểu ngữ trưng lên bên cạnh phiên tòa xử Phương Uyên, Nguyên Kha lần trước, có cảnh một em bé ôm tấm bìa giấy viết hai câu “Vì danh dự dân tộc, chống giặc Tàu! Vì tương lai đất nước, chống tham nhũng!” Có thể coi đây là những khát vọng sâu thẳm của người dân Việt, từ Nam ra Bắc. Vì vậy, gần một trăm người không được vào tòa coi xử đã tập trung thành đoàn biểu tình quanh các đường phố Tân An hô vang khẩu hiệu. Trong đó có các những đảng viên cộng sản như Huỳnh Kim Báu, Kha Lương Ngãi; có nhà thơ Hoàng Hưng, blogger Huỳnh Ngọc Chênh, đi cùng với bà Dương Thị Tân và anh Nguyễn Trí Dũng (vợ và con trai anh Ðiếu Cày Nguyễn Văn Hải). Mọi người cùng nhau hô lớn: “Ðả đảo Trung Quốc xâm lược!” và “Ðả đảo tay sai bán nước!”

Bọn “tay sai bán nước” này là những tên nào? Tất cả mọi người dân nước Việt đều biết đó là những tên nào. Cảnh tượng diễn ra ở thành phố Tân An báo hiệu đảng Cộng sản Việt Nam đang trên đường tan rã.




Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

Trần Trung Đạo - Tang lễ Võ Nguyên Giáp, một trường hợp nghiên cứu về tẩy não


Trần Trung Đạo - 


Việt Nam có hai ông Võ Nguyên Giáp. Một ông Võ Nguyên Giáp đã chết từ năm 1984 và một ông Võ Nguyên Giáp khác vừa mới qua đời. Hai ông Võ Nguyên Giáp về thịt xương chỉ là một ông nhưng trong quan điểm của lãnh đạo CS lại là hai. Khi Võ Nguyên Giáp còn sống đảng xem như đã chết nhưng khi Võ Nguyên Giáp tắt thở đảng lại quyết định ông ta phải sống như một “anh hùng dân tộc”.


Ngày ông Giáp qua đời, các trang mạng “lề dân”, các hãng tin quốc tế trong đó có BBC loan tin sớm nhất. Hai mươi bốn giờ đầu tiên, tờ Nhân Dân và cả Thông Tấn Xã Việt Nam, hai cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN không đưa tin ông Giáp từ trần. Lý do, Bộ Chính trị cần phải họp để quyết định có nên cho phép ông Giáp chết chưa, chết như thế nào, chết ngày nào và an táng ra sao.

Hơn một ngày sau, đảng quyết định Võ Nguyên Giáp “nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam; Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII…đã từ trần hồi 18 giờ 9 phút, ngày 4-10-2013 (tức ngày 30 tháng 8 năm Quý Tỵ), tại Bệnh viện T.Ư Quân đội 108; hưởng thọ 103 tuổi.”

Thông cáo chỉ dài một trang nhưng cố tình viết sót. Thông thường trong cáo phó hay tiểu sử, chức vụ cuối cùng là chức vụ chính thức và các chức vụ khác trước đó được viết sau hay bỏ sót cũng không sao. Chức vụ về mặt nhà nước cuối cùng trước khi nghỉ hưu của ông Giáp không phải là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mà là Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch chiếu theo quyết định bổ nhiệm số 58/HĐBT do Phạm Văn Đồng ký ngày 18 tháng 4 năm 1984. Khi đó ông đã rời chức Bộ Trưởng Quốc Phòng đến bốn năm. Một chức vụ cả thế giới đều biết mà đảng còn giấu được nói chi những chuyện khác. Việc xóa đi chức vụ lo phần sinh đẻ của ông Giáp là một cách thừa nhận chức vụ đó chẳng qua là vết chàm nhục nhã do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đóng lên trán của ông Giáp.

Dù sao ông Võ Nguyên Giáp là một người may mắn. Khi còn sống ông có nằm mơ cũng không nghĩ mình được ca ngợi, vinh danh và thương tiếc nhiều đến thế. Ngoại trừ Hồ Chí Minh, những lãnh tụ CS cùng thế hệ không ai được ca ngợi như ông. Việc chọn được an táng ở một nơi vắng vẻ thay vì nghĩa trang Mai Dịch cho thấy tâm trạng của Võ Nguyên Giáp là tâm trạng của kẻ thua cuộc và từ lâu đã bị bỏ rơi. Ngoài ra, chắc ông cũng cảm thấy khó chịu khi nghĩ đến việc phải nằm cạnh Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng, Trường Chinh. Nếu Võ Nguyên Giáp chết vào đầu thập niên 1980 khi Lê Duẩn còn sống hay khi Đỗ Mười làm tổng bí thư có lẽ cũng không hơn gì những sĩ quan cấp tướng khác như Lê Trọng Tấn (1914-1986), Hoàng Văn Thái (1915-1986). Trường Chinh so với Võ Nguyên Giáp còn cao hơn cả đảng tịch lẫn chức vụ nhưng khi chết cũng không được tổ chức đình đám hơn.

Dưới chế độ CS, khóc thương, nguyền rủa, ca ngợi hay phê bình kiểm thảo cũng đều có chủ trương, có chính sách chứ không phải là một tình cảm tự nhiên. Tận diệt kẻ thù còn sống nhưng lợi dụng mọi ảnh hưởng có lợi của kẻ thù đã chết cũng là một trong những đặc điểm trong bộ máy cai trị CS khắp thế giới. Stalin khóc Sergey Kirov, Fidel Castro khóc Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu Bình khóc Mao Trạch Đông. Tình đồng chí trong giới lãnh đạo đảng CS chỉ có trong các điếu văn.

Cùng phát xuất một nguồn nên CSVN cũng chẳng tốt hơn Liên Xô, Trung Cộng. Ca tụng kẻ chết không gây tác hại gì. Xác chết không nghe được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới thật sự là những kẻ hưởng thụ quyền lực, sống trong chiếc bóng những người đã chết. Họ đối xử nhau còn tệ hơn giới giang hồ đâm thuê chém mướn. Danh vọng và quyền lực đã làm mờ nhân tính trong con người họ. Lê Duẩn liên minh với Lê Đức Thọ để loại Võ Nguyên Giáp, rồi Lê Đức Thọ tính hại Lê Duẩn ngay cả khi y đang nằm trên giường bịnh vì không chịu viết di chúc truyền chức tổng bí thư. Đoàn Duy Thành kể trong hồi ký Làm người là khó, khi Lê Duẩn sắp chết con cái y còn lo cánh Lê Đức Thọ sẽ giết chết hết cả gia đình.

Nhưng tại sao lãnh đạo CSVN lại muốn Võ Nguyên Giáp tiếp tục sống như một “anh hùng dân tộc” trong giai đoạn này?

Lãnh đạo CS cố dựng lại tấm bình phong chính danh lịch sử. Như người viết đã trình bày trong bài Cách mạng dân tộc dân chủ trong tình hình mới trên talawas trước đây, một câu hỏi thường được đặt ra, tại sao các nước Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ mà Cộng Sản tại các nước Á châu như Trung Quốc, Việt Nam không sụp đổ. Mặc dầu mỗi nhà phân tích chính trị có thể giải thích nguyên nhân một cách khác nhau tùy theo góc độ họ đứng và mục đích nghiên cứu, đa số đã đồng ý rằng các nước Cộng Sản tại Á Châu có một điểm mà các nước Cộng Sản Đông Âu không có, đó là sự liên hệ lịch sử giữa dòng sống của đảng Cộng Sản và dòng sống của đất nước nơi đảng ra đời. Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thành lập 1921 trong cuộc kháng chiến chống Nhật, đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời 1930 trong cuộc kháng chiến Pháp. Lãnh đạo Trung Cộng và CSVN đã vận dụng tối đa mối liên hệ này.

Tại Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo CS tại Trung Quốc biết rõ hơn ai hết, cây cột duy nhất có thể giữ chế độ CS khỏi sụp đổ là tính chính danh lãnh đạo của đảng CS. Giáo sư Peter Hays Gries, một chuyên gia về Trung Cộng, viết “Thiếu vắng tính hợp luật dựa theo thủ tục để bầu ra các chính phủ theo các nguyên tắc dân chủ, và đối phó với sự sụp đổ của hệ tư tưởng Cộng Sản, đảng Cộng Sản Trung Hoa gia tăng phụ thuộc vào các tiêu chuẩn dân tộc để cai trị đất nước.

Lãnh đạo CSVN sao chép toàn bộ lý luận của Đảng Cộng Sản Trung Quốc kể cả việc lợi dụng mối liên hệ lịch sử ngắn ngủi giữa đảng CS và dân tộc để giải thích tính chính danh của đảng trong tương lai lâu dài của dân tộc. Đừng quên, trong thời điểm chống thực dân Pháp, không phải chỉ có đảng CS mà rất nhiều đảng, nhiều phong trào cách mạng khác ra đời từ nam đến bắc để cùng đánh đuổi thực dân. Tuy nhiên, không có một phong trào nào, một đảng phái nào trong cương lĩnh tự cho rằng vì họ đánh Pháp nên đảng của họ có đặc quyền lãnh đạo cách mạng, đặc quyền lãnh đạo đất nước, không chỉ hôm nay và mãi mãi về sau như đảng CSVN. Đó là lý luận của kẻ cướp nước.

Sau 38 năm cai trị, chưa bao giờ đảng CSVN bị phải đương đầu với nhiều khó khăn như hôm nay. Ngoài sự phân hóa nội bộ và một nền kinh tế suy sụp, những thành phần từng nhiệt tình ủng hộ đảng, chấp nhận chiến đấu dưới sự lãnh đạo của đảng đang lần lượt ra đi. Nhiều trong số đó đang công khai thách thức quyền cai trị của đảng. Hơn bao giờ hết, đảng cần sự ủng hộ của quần chúng, và muốn vậy, phải hâm nóng lại chiêu bài yêu nước. Võ Nguyên Giáp là những que củi cần thiết để đốt lên lò lửa “chống thực dân và đế quốc” đã nhiều năm nguội lạnh. Giới lãnh đạo CS dùng chiếc khăn chính danh lịch sử để bịt mắt nhân dân và đã nhiều lần chứng tỏ thành công. Giáo sư Archie Brown thuộc đại học Oxford, Anh, cho rằng sở dĩ các chế độ CS tại Việt Nam, Trung Quốc còn tồn tại vì khái niệm tình cảm dân tộc nhiều giai đoạn đã có lợi cho CS.

Lãnh đạo CSVN đánh giá đúng trình độ của các thành phần bị tẩy não. Nếu so sánh Việt Nam, Trung Cộng và Bắc Hàn, Việt Nam còn quá nhiều người bị tẩy não, mê muội và lạc hậu hơn cả Trung Cộng và Bắc Hàn. Người dân Trung Hoa ít ra đã chứng tỏ cho thế giới thấy khát vọng dân chủ của họ qua biến cố Thiên An Môn với một triệu người vùng dậy chiếm cứ khuôn mặt của thủ đô Bắc Kinh suốt gần một tháng. Chế độ Cộng Sản tại Trung Hoa đang đi trên lưỡi dao cạo, chỉ cần mất thăng bằng, mất kiểm soát sẽ bị đứt chân và rơi xuống vực sâu. Khi dựng bức tượng Nữ Thần Tự Do làm biểu tượng cho cuộc đấu tranh, các lãnh đạo của phong trào Thiên An Môn đã chọn dứt khoát một con đường, đó là con đường tự do dân chủ và không có một con đường nào khác.

Bắc Hàn chìm đắm trong tăm tối, hoàn toàn bị cô lập nhưng từ 1952 đến nay, mỗi năm vẫn có hàng ngàn người dân vượt thoát được khỏi địa ngục Bắc Hàn bằng những cách vô cùng nguy hiểm. Một người Bắc Hàn vượt biên bị bắt, nếu bị bắn ngay tại chỗ, là một may mắn. Không, phần lớn phải trải qua những trận tra tấn vô cùng dã man, bị bỏ đói dần dần cho đến khi thân thể chỉ còn máu và mủ. Hầu hết người bị bắt lại hay bị Trung Cộng trao trả về Bắc Hàn đều bị giết. Tuy nhiên, những người dân Bắc Hàn đó đã chứng tỏ khát vọng tự do là một quyền bẩm sinh trong mỗi con người từ khi mới chào đời, không ai ban cho và cũng không cần ai chỉ dạy. Harvard International Review phỏng vấn anh Ji Seong-ho, người đã vượt sáu ngàn dặm qua các nước Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Đài Loan để tìm tự do năm 2006 và được anh cho biết chế độ CS Bắc Hàn đã đánh mất niềm tin trong lòng dân, và khi tôi còn ở đó người dân đã nghĩ đến sự thay đổi. Họ sợ thảo luận nơi công cộng nhưng trong riêng tư họ đã bàn đến. Áp bức vẫn tiếp tục, nhưng sự yêu chuộng cũng như uy tín của chế độ đã giảm nhiều.

Việt Nam thì khác. Để tồn tại, từ 1981 đến nay, giới lãnh đạo CS buộc phải hé cửa và tự diễn biến hòa bình qua các chính sách đổi mới kinh tế. Ánh sáng văn minh nhân loại đã theo những kẽ hở đó lọt vào. So với Bắc Hàn, người Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để nhìn ra thế giới. Lẽ ra, người dân, nhất là thành phần trí thức, có cơ hội học hỏi, so sánh các chế độ chính trị, sở hữu một nhận thức chính trị và chọn lựa một lập trường chính trị phù hợp với xu hướng phát triển thời đại, nếu không công khai chống lại chế độ độc tài ít ra cũng biết tự trọng làm im.

Khi còn sống, những lá thư của ông Võ Nguyên Giáp lên tiếng về chủ trương xây dựng Nhà Quốc Hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu hay ít nhất ba lần về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên cũng bị ném vào sọt rác. Ngoại trừ một số rất nhỏ, không ai binh vực ông. Thế nhưng, khi đảng cho phép tiếc thương, nhiều bồi bút tận dụng cơ hội để lập công, khẳng định sự trung thành và chứng tỏ mình luôn đi sát với lập trường, quan điểm của đảng. Trên mấy trăm tờ báo đảng, bấm vào là đọc một mẫu chuyện về “cuộc đời”, “sự nghiệp” và “chiến công” của Võ Nguyên Giáp. Đọc những bài thơ, bài văn tâng bốc Võ Nguyên Giáp mà cảm thấy tội nghiệp cho tiếng Việt. Những cây đinh tuyên truyền tẩy não lại tiếp tục đóng vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam chẳng khác gì thời chiến tranh. Tang lễ của Võ Nguyên Giáp cho thấy nhiều người vẫn còn bị lừa gạt một cách quá dễ dàng và thành phần xu nịnh trong xã hội Việt Nam còn quá đông. Thì ra, dù nhân loại đã bắt đầu thám hiểm những vì sao xa nhiều triệu dặm, chiếc đồng hồ báo thức tại Việt Nam 60 năm vẫn chưa gõ lên một tiếng nào.



Như đã viết trong bài Bàn về tẩy não, sau 38 năm, tầng lớp có học thức, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo không ít người vẫn còn nghĩ rằng nói gì thì nói đảng CS trong suốt dòng lịch sử của đảng đã đồng hành với dân tộc, nói gì thì nói chỉ có đảng CS mới có khả năng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, nói gì thì nói đảng CS là đảng nắm trong tay ngọn cờ chính nghĩa, nói gì thì nói Việt Nam vẫn cần ổn định để phát triển và mọi thay đổi đột biến sẽ dẫn đến hỗn loạn; nói gì thì nói các lãnh tụ CS vẫn là những người yêu nước, những anh hùng dân tộc và xứng đáng được kính trọng khi họ sống và tôn thờ, tiếc thương, than khóc khi họ chết. Đảng không từ chối đã phạm nhiều sai lầm trong quá khứ nhưng đó là những sai lầm khách quan. Đảng không từ chối đang có nhiều tình trạng tiêu cực xã hội nhưng đó chỉ là hiện tượng không phải bản chất của chế độ. Từ những năm đầu ăn bo bo sau 1975 cho đến gần bốn chục năm, một học sinh cho đến các “tiến sĩ” cũng đều bị tẩy não bằng những lập luận như vậy qua các lớp chính trị.

Đảng biết rất rõ thành phần “nói gì thì nói” là ai và quá khứ xuất thân của từng người trong số họ. Họ yêu nước không? Có. Họ muốn đất nước Việt Nam giàu mạnh không? Có. Họ muốn xã hội Việt Nam trong sạch không? Có. Họ muốn điều kiện chính trị tại Việt Nam được nới rộng nhưng đảng CS vẫn tiếp tục lãnh đạo đất nước không? Cũng có luôn. Nhà tâm lý học Michael Langone mô tả đó tình trạng tâm thần của những người đang trôi giữa hai bờ, bờ đúng và bờ sai, bờ thực và bờ ảo, bờ chánh và bờ tà. Họ thoạt trông như có tinh thần cách mạng nhưng trong thực tế là vật cản cho một cuộc cách mạng xã hội toàn diện và đắp đập để giữ cho cơ chế độc tài tồn tại lâu dài hơn.

Những nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ đó có bao giờ nửa khuya thức dậy pha một bình trà thật đậm, vừa uống và vừa tự hỏi những những nhận thức chính trị của mình từ đâu mà có? Những kiến thức về lịch sử của mình do ai cấy vào? Ông Võ Nguyên Giáp thực sự là nạn nhân hay cũng chỉ là kẻ sát nhân thất thế như nhiều lãnh đạo CS khác? Ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc hay là một trong những người đưa đất nước vào vòng nghèo nàn, độc tài, lạc hậu hôm nay? Nếu ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc rồi ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu đồng bào miền Nam từ 1954 đến 1975, chẳng lẽ những nạn nhân vô tội kia không phải là một bộ phận của dân tộc Việt Nam sao? Và cứ thế, hãy đặt ra những câu hỏi ngược với những khẳng định và kết luận mà đảng đã trang bị, không chỉ riêng về ông Võ Nguyên Giáp mà cả một giai đoạn lịch sử dài từ khi đảng CSVN có mặt. Phải biết hoài nghi, so sánh và đặt vấn đề một cách khách quan và độc lập để thấy những gì được gọi là “chân lý” và “sự thật” dưới chế độ CS chỉ là những bùa ngải tuyên truyền.

Giải tẩy não

Bác sĩ Robert J. Lifton là nhà nghiên cứu tiên phong về tẩy não dưới chế độ CS. Trong tác phẩm Cải tạo tư tưởng và tâm lý học về chế độ toàn trị: Một nghiên cứu về “Tẩy não” tại Trung Quốc (Thought Reform and the Psychology of Totalism: A Study of “Brainwashing” in China) ông đã đưa ra 8 đặc điểm về cải tạo tư tưởng của CS: (1) Kiểm soát môi trường (Giới hạn tối đa sự liên lạc giữa nạn nhân và thế giới bên ngoài, giữa nạn nhân và xã hội chung quanh và cả giữa nạn nhân và chính nhận thức cũ của nạn nhân); (2) Vận dụng huyền bí (Vận dụng cá nhân bằng mọi cách và không giới hạn ở một phương tiện nào); (3) Đòi hỏi sự thuần khiết tuyệt đối (Một quá trình phấn đấu liên tục để đạt đến trình độ tự giác); (4) Tự thú công khai (Con người trong xã hội CS phải phô bày mọi suy nghĩ, quan tâm và lo âu một cách công khai, không có riêng tư về thể chất cũng như tinh thần); (5) Chủ thuyết là tuyệt đối đúng (Chủ thuyết CS được đảng lý luận như đồng nghĩa với khoa học và phê bình chủ thuyết CS chẳng những sai lầm về đạo đức mà còn vi phạm các nguyên tắc “khoa học”); (6) Khẩu hiệu chuyên chở ngôn ngữ (Những vấn đề phức tạp, khó hiểu và sâu xa nhất của con người được cô đọng thành những khẩu hiệu có sức cám dỗ cao, dễ giải thích, dễ hiểu và dễ nhớ); (7) Giá trị của chủ thuyết đặt cao hơn giá trị con người (Kinh nghiệm quá khứ của một người sẽ không giá trị gì nếu kinh nghiệm đó mâu thuẫn với chủ thuyết, lịch sử của dân tộc được viết lại, sửa đổi hay cắt xén để phù hợp với chủ thuyết); (8) Thành phần cần thiết và không cần thiết tồn tại trong xã hội (Có hai hạng người trong xã hội CS, một hạng thuộc giai cấp ưu việt gồm công nhân, nông dân, buôn bán lẻ có quyền tồn tại và thành phần khác gồm tư sản, địa chủ, phản động không cần phải tồn tại).

Các điểm mà Bác sĩ Robert J. Lifton trình bày về chính sách tẩy não tại Trung Cộng, đã và đang được áp dụng tại Việt Nam, cho thấy chính sách tẩy não CS vô cùng thâm độc, tận gốc rễ và có hệ thống tinh vi.

Chính Mikhail Gorbachev cũng gián tiếp thừa nhận mình từng bị tẩy não. Lần đầu tiên được đi ra nước ngoài vào những năm 1970, xã hội Tây phương đã giúp ông ta sáng mắt. Những chuyến đi trong thập niên 1980, trong tư cách Ủy viên Bộ Chính trị, đã củng cố quyết tâm thực hiện các chính sách đổi mới sau này. Gorbachev kể lại, một lần, khi tháp tùng phái đoàn đảng CS Liên Xô tham dự tang lễ của lãnh đạo CS Ý Enrico Berlinguer, ông ta ngạc nhiên khi thấy hầu hết các chính trị gia thuộc các đảng dân chủ kể cả Tổng thống Ý Alessandro Pertini cũng đến cúi chào tiễn biệt trước quan tài của Enrico Berlinguer. Đảng CS Ý trong thập niên 1980 đóng vai trò tích cực trong đời sống chính trị Ý và có hậu thuẫn rộng lớn trong quần chúng. Gorbachev thán phục tính đa nguyên và cách cư xử văn hóa trong chính trị Tây phương. Ông nghĩ điều đó không thể nào xảy ra với chủ thuyết CS mà ông được đào tạo.

Nhiều người Việt Nam tự hào học cao, hiểu rộng, đọc nhiều sách Anh, sách Mỹ, du học tại các trường đại học nước ngoài, nghĩ rằng mình không bị tẩy não. Không phải. Quan điểm lịch sử và nhận thức chính trị của họ bị tẩy từ trong bào thai cho đến tuổi trưởng thành để chấp nhận những kết luận phản khoa học như là chân lý. Áp dụng ví dụ của Yuri Alexandrovich Bezmenov trong bài trước vào điều kiện Việt Nam, dù có mang những người này ra tận các “trại cải tạo” Suối Máu, Cổng Trời và chỉ họ những nơi CS đã bỏ tù hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức VNCH chưa hẳn họ tin cho đến khi chính họ bị nhốt vào trong các thùng sắt, bỏ đói và chịu rét, lúc đó họ mới tin.
Tiến trình giải tẩy não vì thế là một tiến trình hết sức khó khăn và chỉ có thể thành công nếu nạn nhân can đảm đối diện với sự thậtthừa nhận tình trạng bị tẩy não và giải tẩy não liên tục.

Can đảm đối diện với sự thật. Mọi hành trình bắt đầu từ chính con người. Nếu những người bị tẩy não còn đủ khôn ngoan để hiểu rằng những kiến thức mình đang có là kiến thức một chiều, là thuốc độc được nhỏ từng giọt vào nhận thức và thấm dần qua thời gian, từ thuở còn thơ cất tiếng đầu đời cho đến trường mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học, trường đoàn, trường đảng, hãy đem những kiến thức đó trả lại cho chủ nhân của chúng. Không nên tự kết án vì người bị tẩy não chỉ là nạn nhân chứ không phải là kẻ gây ra tội ác. Hàng ngàn người khóc vật vã trên đường phố trong tang lễ của ông Võ Nguyên Giáp không quan trọng vì ngày mai đảng bảo cười họ cũng sẽ cười, nhưng các nhà văn, nhà thơ, nhà báo thì khác. Họ là những tiếng nói gây ảnh hưởng và được ví như là những phát ngôn nhân của thế hệ và thời đại. Không nên tiếp tục bị nô lệ tri thức. Nô lệ vật chất chỉ thiệt hại bản thân nhưng nô lệ tri thức thiệt hại cho những người chung quanh, người đọc và nhiều thế hệ con cháu sau này. Hãy nhổ mũi tên độc ra khỏi vết thương và tiếp tục cuộc hành trình xây dựng một nhận thức mới, độc lập, khách quan và tự do.

Thừa nhận tình trạng bị tẩy não. Con người thường bất đồng với những điều nghịch lý nhưng khó chống lại những điều rất hiển nhiên và hợp lý. Người bị tẩy não thường không thừa bị tẩy não và luôn sống trong tình trạng từ chối. Tuyên truyền tẩy não CS không kê súng vô đầu một người để buộc người đó phải tin nhưng thuyết phục bằng một lý luận rất hợp với nhân tính. Những tù binh Mỹ bị bắt trong chiến tranh Triều Tiên không bị tra tấn về thể xác và không bị kết án giết người. Các cán bộ tuyên truyền Trung Cộng xác định họ là những người tốt, chỉ vì phải có mặt tại Triều Tiên trong một thời điểm sai để làm một công việc trái với đạo lý con người do chính phủ Mỹ chủ trương. Người tù binh cũng là “nạn nhân” như những người dân Triều Tiên vô tội bị bom đạn Mỹ giết chết. Người tù binh được tiếp đãi tử tế, được cấp các tiêu chuẩn ăn uống cao hơn những tù binh khác. Sau đó, anh ta được có trao cơ hội để giải phóng khỏi niềm tin cũ và xây dựng một niềm tin mới.

Tiến trình giải tẩy não là một tiến trình liên tục. Tẩy não dưới chế độ CS nhằm thay đổi tận gốc rễ, diễn ra có hệ thống và tập trung vào mục đích thuần hóa con người. “Trăm năm trồng người” là mục tiêu đầu tiên và tối hậu của đảng CS. Tuyên truyền CS diễn ra như sóng vỗ vào bờ, hết đợt này đến đợt khác. Khác với các tù bình Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên bị tẩy não trong một giai đoạn ngắn, phần lớn sau khi khi về lại nhà, thay đổi môi trường giáo dục, thông tin và tình cảm, họ nhanh chóng trở lại bình thường. Những người sống ngay giữa lòng chế độ, việc giải tẩy não khó hơn nhiều. Họ phải chiến đấu liên tục về mặt tư tưởng để chống lại các thông tin tẩy não bằng mọi hình thức và trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội. Chống lại chính sách tẩy não là một nỗ lực vô cùng khó khăn, đòi hỏi ý chí quyết tâm cao và tinh thần bền bỉ.

Sự thật sẽ thắng

Để trả lời câu hỏi tại sao Liên Xô sụp đổ, người viết tin rằng phần lớn người có kiến thức chính trị căn bản sẽ nghĩ ngay đến vai trò của cựu Tổng bí thư đảng CS Liên Xô Mikhail Gorbachev, người đã đã đưa ra hai chính sách quan trọng Perestroika (cải cách kinh tế) và Glasnost (cải cách văn hóa xã hội); một số người khác sẽ nghĩ đến vai trò của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, người đã tăng cường chạy đua vũ trang đến mức làm nền kinh tế Liên Xô kiệt quệ; một số có thể nghĩ đến vai trò của Đức Giáo Hoàng John Paul II, người với câu nói “Các con đừng sợ hãi” đã là chỗ dựa tinh thần của phong trào Công Nhân Đoàn Kết Ba Lan và phong trào dân chủ tại các nước Đông Âu; một số có thể nghĩ đến cố thủ tướng Anh Margaret Thatcher, người “phụ nữ sắt” như báo chí Liên Xô mô tả và đã được tác giả John O’Sullivan xem như là một trong ba người (Roldnald Reagan và Đức Giáo Hoàng John Paul II) đã góp phần quan trọng vào việc làm sụp đổ phong trào CS châu Âu.

Tất cả những người nêu trên thật sự đã có đóng góp quan trọng vào việc làm tan rã hệ thống CS. Tuy nhiên, họ chỉ là những giọt nước tràn ly và ly nước không thể tràn bằng vài giọt nước. Lý do chính làm tan vỡ các chế độ CS châu Âu phát xuất từ chỗ nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô đã vượt qua được căn bịnh tẩy não. Các chính sách tuyên truyền tẩy não từ thời Lenin, Stalin đã không còn hiệu quả, không thuyết phục và cũng không làm người dân sợ hãi, không còn ai kể cả các lãnh đạo đảng tin tưởng vào chủ nghĩa Cộng Sản. Một khi chính sách tuyên truyền không tác dụng, chế độ độc tài sẽ sụp đổ.

Như một định luật của phát triển xã hội, ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh. Khát vọng tự do trong con người chưa bao giờ chết dù giữa mùa đông tuyết giá trong các trại tập trung Siberia hay trên đường phố Budapest ngập máu trong tuần lễ từ ngày 4 đến ngày 10 tháng 11, 1956. Sau hơn 70 năm đối kháng trong âm thầm nhẫn nhục giữa lừa dối và chân thành, giữa bạo lực trấn áp và khát vọng tự do, giữa độc tài và dân chủ, giữa cổ võ chiến tranh và yêu chuộng hòa bình, giữa hận thù và tình yêu, cuối cùng, sự thật đã thắng tại châu Âu và sẽ thắng ở Việt Nam. George Orwell đã viết “trong xã hội đầy lừa dối, cất lên một tiếng nói thật là một hành động cách mạng”, hơn bao giờ hết, Việt Nam đang cần những con người làm cách mạng bằng cách sống thật và nói thật.

Trần Trung Đạo



Lê Diễn Đức - Y đức thời nay


Lê Diễn Đức



Bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường bị bắt - Ảnh: TPO

Sự việc Nguyễn Mạnh Tường, bác sĩ bệnh viện công Bạch Mai, giám đốc Viện thẩm Mỹ tư Cát Tường, giải phẩu làm chết bệnh nhân rồi mang xác vứt xuống sông Hồng, đã làm xôn xao dư luận.

Tối 22/10, bà Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên đã ký văn bản thay mặt ngành y tế xin lỗi toàn thể nhân dân.

Câu chuyện tràn vào cả hành lang quốc hội khoá 13 đang họp. Sáng 24/10 bà Bộ trưởng Nguyễn Kim Tiến, tham gia buổi thảo luận tổ của đoàn đại biểu quốc hội TP.HCM đã nói: "Vấn đề đạo đức nghề nghiệp trong thời gian qua phải nói là một sự báo động rất lớn. Chúng tôi cũng hết sức đau đớn, xót xa trong chuyện này thời gian vừa rồi. Với trách nhiệm trong ngành, tôi cảm thấy rất nặng nề".

Ngành Y tế Hà Nội, sau khi mất bò mới lo làm chuồng, mở chiến dịch kiểm tra toàn bộ các thẩm mỹ viện trên địa bàn thủ đô.

Tại Hà Nội có 33 cơ sở thẩm mỹ viện được cấp phép hoạt động, trong đó, có 3 bệnh viện tư nhân, còn rất nhiều cơ sở làm chui không thể kiểm soát hết (!?). Lỗi được đá đi như quả bóng.

Đại biểu quốc hội Lê Như Tiến, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng, nói rằng: “Hành vi của bác sỹ ném xác nhằm phi tang khi gây chết người là không thể tha thứ, nhưng tại sao lại để cho cơ sở này mọc lên mà buông lỏng khâu thanh tra, kiểm soát. Để xảy ra việc này trách nhiệm thuộc về Sở Y tế Hà Nội, cụ thể là Thanh tra Sở Y tế Hà Nội”.

Trong khi đó, ông Nguyễn Việt Cường, Chánh thanh tra Sở Y tế Hà Nội nói:

"Nguyễn Mạnh Tường là bác sĩ, đang công tác tại bệnh viện Bạch Mai dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ Y tế. Chính vì vậy, Bộ trưởng mới phải trực tiếp đứng ra nhận lỗi".

Bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường đã được Bộ Y tế cấp Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh chuyên khoa Ngoại-Phẫu thuật tạo hình số 00372/BYT-CCHN ngày 21/06/2012. Nhưng về kinh nghiệm, Nguyễn Mạnh Tường chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực ngoại khoa mà cụ thể là chấn thương chỉnh hình, phẫu thuật cột sống, nội soi khớp gối, thay khớp gối. Trung tâm thẩm mỹ Cát Tường hoạt động hoàn toàn chui, không được cấp phép theo quy định của Luật khám chữa bệnh.

Thế nhưng trên các báo mạng, thẩm mỹ viện Cát Tường quảng cáo rất ầm ĩ về hoạt động nâng ngực, hút mỡ bụng,

Thông tin tại trang web của Trung tâm thẩm mỹ viện Cát Tường giới thiệu ông Tường là bác sỹ giỏi của Bệnh viện Bạch Mai, là thành viên Hiệp hội phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ châu Á - Thái Bình Dương, thành viên Hiệp hội thẩm mỹ Hà Nội, thành viên Hiệp hội thẩm mỹ TP.HCM…, nhiều năm công tác tại Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện 108, Bệnh viện Bình Dân TP.HCM...

Thẩm mỹ viện Cát Tường nằm đối diện Bệnh viện Bạch Mai chứ chẳng phải ở nơi nào xa xăm, hẻo lánh gì và vẫn kinh doanh tưng bừng từ hơn nửa năm nay, cho đến lúc xảy ra sự cố chết người.

Điều này chứng minh cho sự thả nổi của ngành y tế, việc kiểm tra, phát hiện thực chất chỉ làm cho có, và chắc chắn tình trạng "bôi trơn", "hối lộ" đã giúp họ nhắm mắt làm ngơ.

Tuy nhiên đáng nói nhất vẫn là sự suy đồi đạo đức trong ngành y tế Việt Nam. Chạy theo đồng tiền, bất chấp tất cả, dường như là mục tiêu của họ. Ở Trung Quốc đã có thuật ngữ "mammonism", nhắm vào thứ chủ nghĩa này. Ở Việt Nam cũng không khác. Xã hội băng hoại đạo đức, dối trá, lừa gạt nhau, vô cảm với thời cuộc và người xung quanh, có lẽ đã trở thành bản chất. Bởi vì sự bất lương đã len lỏi vào tới bệnh viện, nơi mà con người cần một tấm lòng nhân ái, cao thượng và sự dấn thân của nhân viên y tế. Các hiện tượng xấu xa, tệ hại đã thành hiện tượng thường xuyên, phổ biến.

Hàng loạt trẻ tử vong sau khi được tiêm vác-xin, vụ ăn gian nhân bản xét nghiệm bệnh viện Hoài Đức, vụ tráo phim X-quang tại Bệnh viện chấn thương chỉnh hình, TPHCM, vụ đánh tráo thủy tinh thể tại Viện Mắt Hà Nội, vụ tham nhũng tại Bệnh viện Răng hàm mặt TPHCM... là những sự kiện làm náo động xã hội vừa qua.

Thái độ tắc trách, nghiệp vụ kém, làm chết người gây phẫn nộ cho dân chúng đã quen thuộc như cơm bữa.

Mới đây thôi, ngày 18/10, hàng chục người dân đã kéo đến Bệnh viện đa khoa huyện Thiệu Hóa (Thanh Hóa) để yêu cầu bệnh viện làm rõ nguyên nhân gây ra cái chết của sản phụ Nguyễn Thị Xuân (40 tuổi) và khiêng quan tài đi qua các đường phố biểu tình. Ngày 25/10, dân chúng bao vây Bệnh viện khu vực Thị xã Thái Hoà (Nghệ An) đòi hỏi lãnh đạo phải trả lời vì sao sản phụ sau khi sinh xong thì bị chết?

Tại Hưng Yên, anh Nguyễn Văn Thụy bị điện giật, nhiều lần gia đình đưa đi cấp cứu nhưng bị các bác sĩ từ chối, khuyên đưa về nhà chờ chết. Tuy nhiên, đến nay anh Thụy đã dần khỏe lại và nói rất đau lòng “sao bác sĩ lại muốn em chết?”.

Ngày 1/10, nhân viên bệnh viện đa khoa Bình Phước quát “Mày mập như heo mà không biết rặn hả?” với chị Đặng Thị Xuân Lộc (sinh năm 1988) và đứa con của chị Lộc đã tử vong do không được hỗ trợ kịp thời, chỉ vì không có "phong bì"!

Ông Lê Văn Cuông, đại biểu quốc hội, đã nói:

"Những vụ người nhà bệnh nhân vây bệnh viện, hành hung bác sĩ xảy ra trong thời gian qua đang khiến cho dư luận rất quan tâm và tạo ra sự bức xúc trong nhân dân. Về nguyên nhân dẫn đến những vụ việc này thì có nhiều nhưng, theo tôi, nguyên nhân chính, sâu xa là do y đức của một bộ phận y, bác sỹ ở các bệnh viện hiện nay giảm sút nghiêm trọng so với trước".

"Họ đặt mục tiêu lợi nhuận, thu nhập lên trên, bất chấp tất cả... Ở đâu có tiền, đối xử tốt thì họ quan tâm còn ở đâu ít tiền hoặc không được chu đáo thì họ xao nhãng, thậm chí là vô cảm trước nỗi đau của bệnh nhân, sự lo lắng của người nhà bệnh nhân".

"Một nguyên nhân nữa là do vấn đề thiếu nhân lực và trình độ của một bộ phận cán bộ ở các cơ sở y tế hiện nay còn yếu. Không ít người giỏi, có trình độ nhưng do không có tiền phải đi ra ngoài làm hoặc làm trái ngành nghề còn một số tuy trình độ thấp nhưng có tiền, có quan hệ lại được vào bệnh viện".

"Vì mất tiền để được vào bệnh viện nên khi vào người ta tìm cách thu lại khoản tiền đó bằng cách móc túi bệnh nhân chứ không lo trau dồi kiến thức, lấy y đức phục vụ bệnh nhân. Tình cảm, trách nhiệm lúc này vì đồng tiền mà bị tha hoá đi. Cho nên trình độ đã yếu lại cộng thêm phẩm chất đạo đức lại kém, trách nhiệm kém nữa khiến cho lòng tin của bệnh nhân đối với bệnh viện giảm sút".

Ông Lê Văn Cuông cũng nhấn mạnh "nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời thì hiện tượng xã hội này sẽ gây ra sự mất ổn định xã hội, niềm tin của người dân" và "Bộ Y tế cần vào cuộc".

"Vào cuộc" sao nổi khi văn hoá phong bì là phổ cập trong bệnh viện, nhưng Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Kim Tiến lấp lửng chấp nhận “việc đưa quà biếu sau điều trị đó là tấm lòng của người bệnh”. Còn người trong ngành, ông Nguyến Tiến Quyết, giám đốc Bệnh viện Việt Đức, cho rằng “việc cảm ơn bác sĩ là văn hóa của người Việt”. Thật không còn điều gì để nói nữa!

Định nghĩa về bác sĩ, trong wikipedia viết, "Bác sĩ là người có trình độ chuyên môn thích hợp, được xác nhận bằng các giấy tờ cần thiết, cung cấp các xác nhận y tế, đặc biệt là: nghiên cứu tình trạng sức khoẻ, chẩn đoán bệnh và phòng tránh, điều trị và phục hồi chức năng của bệnh nhân, cung cấp các tư vấn y tế, cũng như đưa ra các ý kiến và quyết định y tế trong chuyên ngành của mình".

Từ xa xưa, Leonardo da Vinci đã nói "Bác sĩ, người chăm sóc bệnh nhân, nhất thiết phải hiểu con người là gì, cuộc sống là gì và sức khỏe là gì, và làm thế nào để giữ cân bằng và hài hòa của các yếu tố này".

Nhưng giờ đây, ý nghĩa "bác sĩ" trong lương tri và y đức Việt Nam đã không còn như ngày nào nữa. Bác sĩ đã bị một xã hội vật chất lưu manh hoá. Với họ trước hết là lợi nhuận, là tiền, dù đồng tiền ấy móc ra từ sự khổ đau vì bệnh tật, sức khỏe của bệnh nhân.

Lần đầu tiên trong làng báo chính thống Việt Nam, tờ PetroTimes với bài "Ai phải chịu trách nhiệm đây?", kêu gọi bà Bộ trưởng Y tế Nguyễn Kim Tiến từ chức. Tác giả Như Thổ, nhân vụ bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tường làm chết người rồi ném xác nạn nhân xuống sông, viết: “Lãnh đạo Bộ Y tế đã “trút” tội này cho Sở Y tế Hà Nội, rồi sở lại đổ cho quận... Và rồi, có lẽ sẽ chẳng ai phải chịu trách nhiệm về việc này cả” và cho rằng: “Nếu như bà Bộ trưởng Bộ Y tế có tự trọng hơn nữa thì nên từ chức”.

Nếu trong một xã hội dân chủ bình thường, thì không cần tới báo chí kêu gọi, bà Nguyễn Kim Tiến đã tự động từ chức, ít nhất từ trách nhiệm đạo đức.

Nhưng trong hệ thống chính trị độc quyền, thối nát vì tham nhũng, các tiêu chuẩn đạo đức bị lệch loạn, không có văn hoá từ chức. Và nếu có từ chức cũng sẽ chẳng giải quyết được điều gì. Thay bà Tiến sẽ là một bộ trưởng khác, có khi còn tệ hơn.

Hệ thống này đã hết khả năng chữa trị. Nó là nguyên nhân sâu xa của mọi vấn đề trong đó có việc làm suy tàn đạo đức xã hội, đặt giá trị tiền lên cung bậc cao nhất, cao hơn cả mạng sống con người.

© Lê Diễn Đức – RFA


Tô Văn Trường - Thế là xong, miễn bàn!



Tô Văn Trường

Nhiều người thúc giục, hỏi tôi, Quốc hội sắp đến hồi bấm nút sửa Hiến pháp và Luật Đất đai sao anh không viết mạnh như loạt bài hồi thảo luận về dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam? Cách đây khá lâu, sau khi viết bài “Hiến pháp của ai” với 4 câu hỏi còn bỏ ngỏ, tôi tự nhủ coi như mọi việc đã an bài! 


Hầu hết các quốc gia trên thế giới có Quốc hội, các ông bà nghị sĩ đều biết lắng nghe, suy ngẫm hành động theo nguyện vọng chính đáng của cử tri để tranh thủ lá phiếu. Ở nước ta, trớ trêu là “Đảng cử - Dân bầu” nên phần lớn, người ta theo Đảng chỉ đạo hơn là lắng nghe, thấu hiểu lòng dân. Tuy nhiên, tại diễn đàn Quốc hội kỳ này, có một số vị đại biểu Quốc hội đã thẳng thắn đề cập đến lòng dân đang bất an, cần đánh giá lòng tin của người dân, sự chia sẻ của dân với các chủ trương, chính sách của Nhà nước. 

Nhưng nhìn vào bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Luật Đất đai và phát biểu của nhiều vị “chóp bu” có trách nhiệm thì mấy vấn đề cốt lõi về Đảng, Quân đội, về doanh nghiệp nhà nước, về quyền sử dụng và quyền sở hữu đất đai thế là xong. Miễn bàn!

Theo tôi hiểu, quyền sở hữu có tính chất vĩnh viễn nhưng quyền sử dụng bị hạn chế trong một thời gian nhất định theo hợp đồng giữa bên sở hữu và bên sử dụng. Giá trị quyền sử dụng tùy theo thời hạn sử dụng. Quyền sử dụng có thể gây mối bất an trong xã hội. Bỏ qua mọi phức tạp khác đáng lẽ không nên có thì anh nông dân Đoàn Văn Vươn (Tiên Lãng) rõ ràng bị rơi vào tình trạng bất an này, bởi vì bên sở hữu có thể lấy lại tài sản sau hợp đồng và về mặt luật pháp không cần phải gia hạn. 

Theo TS Vũ Quang Việt, ngoài quyền sử dụng về mặt hạn chế thời hạn hợp đồng nói trên, nên hiểu tổng hợp, quyền sử dụng có 3 vấn đề:
1. Vấn đề thời hạn hợp đồng, mà theo luật nhà nước có thể lấy lại, không phải gia hạn. 

2. Vấn đề ai có quyền và quyền gì? Ai được quyền giao, giao cho ai và ai quyết nội dung hợp đồng. Thật ra 1 và 2 đi với nhau. Đây là các lỗ hổng lớn cho “rent seeking”. 

Tôi thấy thật khó dịch sang tiếng Việt vì “rent” có nghĩa là thu nhập từ tài sản không do con người làm ra như thu từ cho người khác khai thác dầu hỏa, đất đai, v.v. mà không phải bỏ công lao động. Tạm dịch “rent seeking” là chiếm đoạt thặng dư đúng như Marx định nghĩa. Với Marx thì chiếm đoạt thặng dư từ quyền sở hữu tư bản mà không cần lao động. Còn đây là chiếm đọat thặng dư vì có quyền. Hay nói rõ hơn là chiếm đoạt thặng dư từ việc lạm dụng quyền lực.

3. Vấn đề trưng thu khi chưa hết hợp đồng về quyền sở hữu. 

Nhiều người mới chỉ nhìn vào vấn đề cuối cùng này. GS Nguyễn Lang thì chỉ để ý đến giá vô lý là nguyên nhân gây ra xáo trộn hiện nay. GS Đặng Hùng Võ quan tâm đến cả hai yếu tố định giá vô lý hoặc thu hồi bị phản kháng vì lợi ích cá nhân cho một số người chứ không vì lợi ích chung, v.v.

Điều quan trọng nhất mà ai cũng nhận thấy, chừng nào còn không công nhận đa sở hữu, còn tránh né việc xóa bỏ chữ “sở hữu toàn dân” thì đất đai vẫn còn là vấn đề nóng trong xã hội. Nhiều người thất vọng vì mất bao giấy mực bàn về thay đổi Hiến pháp, tốn kém không biết bao nhiêu thời gian, tiền bạc, công sức, trí tuệ của nhân dân mà không thấy thay đổi được bất cứ điều gì.

Người bạn đồng tâm, để xả stress, tếu táo bình luận: “Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu, nhiều người đã phân tích, vận dụng kiến thức cả đông tây kim cổ, liên hệ với thực tế, nói mãi mà người ta vẫn ù lì! Nếu thế, ta nói theo kiểu dân dã, gọn, dễ hiểu, chuẩn không cần chỉnh như sau: Quyền sử dụng là đi ngủ với bất kể người đàn bà nào, không phải là vợ! Ngủ nhiều bà khác nhau cũng được như đi bia ôm vậy! Quyền sở hữu là ngủ với vợ, suốt đời chỉ với vợ chứ không phải người đàn bà nào khác. Đơn giản vậy mà nói chính trị, triết lý trên trời hoài nghe mệt quá!”.

Theo tôi nghĩ, quyền sở hữu là thuộc về, không hẳn có nghĩa là mãi mãi, nên ví dụ “ngủ suốt đời với vợ” không hẳn là đúng, chỉ được ngủ với nàng đến khi nàng không còn thuộc về mình. Còn quyền sở dụng thì có khác gì đi thuê mướn, vẫn thuộc sở hữu của người khác, nên người ta mới đẻ ra cái chuyện thu hồi. Ví quyền sử dụng là “bồ” và quyền sở hữu là “vợ” thì không chuẩn bởi vì đừng bao giờ coi vợ là thứ mình sở hữu. Ý nghĩa sâu xa của “sở hữu toàn dân” (thực chất là sở hữu của người cầm quyền) là muốn nắm vận mệnh người được giao quyền sử dụng (cho sống được sống, bảo chết là phải chết)! Ý nghĩa sâu xa của quyền sử dụng là người nhận quyền này chấp nhận: Quy phục và chấp nhận thân phận là người nhận thứ được quyền lực (Vua) ban phát, đồng nghĩa gián tiếp thừa nhận vị thế người ban phát: Đảng đứng trên tất cả. Hệ quả: Quyền lực duy trì được mảnh đất dụng võ của mình. Tham nhũng là thứ hệ quả tất yếu. 

Chúng tôi nghĩ Quốc hội nên nhìn thẳng vào sự thật, từ những nan đề của đất nước, phóng tầm mắt xem nhân loại họ đang làm gì để chiếu vào con người, góc phố, con đường ổ gà của Việt Nam mà hoạch định chính sách, xây dựng luật pháp. Muốn vậy phải dân chủ trong Quốc hội, từng đại biểu cần chiêm nghiệm, tự vấn về vai trò và trách nhiệm của mình đối với cử tri cả nước.

Nguy cơ vỡ trận tài chính đã được cảnh báo nhưng trên diễn đàn Quốc hội và thảo luận ở tổ chưa thấy ai mạnh dạn phân tích “mổ xẻ” về con số cụ thể chi tiêu cho 4 hệ thống Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các tổ chức đoàn thể xã hội. Trong đó chi cho bộ máy “song trùng” của Đảng là rất tốn kém. Rõ ràng chi tiêu cho bộ máy của Đảng là một con số cần được minh bạch nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nói chung. Con số đó phải chăng thuộc phạm trù bí mật quốc gia? Xã hội phải chi một khoản kinh phí khổng lồ và kém hiệu quả để nuôi một bộ máy “song trùng” khiến kinh tế thì kém cạnh tranh, xã hội thì chẳng khác gì thời trung cổ khi dân phải è cổ nuôi cả Vua và nhà thờ. Minh bạch các khoản chi này và Dân phải có quyền giám sát nó chứ không phải chỉ có Đảng chỉ định Quốc hội làm việc này. 

Nhìn lại từ ngày đổi mới, các Ban xung quanh các cấp ủy trở nên thừa rất nhiều: Các Ban Tài chính, Tuyên huấn, Kinh tế, mỗi ban thừa một nửa, vì nửa còn lại phía Chính quyền làm rồi. Đáng lý ra là thừa hết đối với Chính quyền, vì các nước ngoài xã hội chủ nghĩa, có Ban nào đâu mà mà nó vẫn mạnh không ngừng. Trước 1985 còn có thêm các Ban “trời ơi” khác như Ban Nông nghiệp, Ban Công nghiệp, Ban Cải tạo... là không cần thiết. Chỉ có cấp ủy nào muốn kiềm chế Chính quyền mà bản thân thiếu năng lực mới mở rộng các Ban này ra cho đông và lập thêm các Ban khác để “bù lỗ” cho mình. Hội nghị 7, Trung ương khóa 9 cũng bàn về dân vận y chang như Hội nghị 7 lần này có phần nói về Dân vận. Nói hoài, mà dân giận càng đông, càng kéo biểu tình, khiếu kiện đòi quyền dân sinh, dân chủ. 

Trong kháng chiến, Đảng chưa cầm quyền, Đảng ví như Chính phủ, làm nhiều việc như Chính phủ, Tòa án, Công tố, và vì vậy chung quanh các cấp ủy có đủ các Ban bệ như các Bộ và các Sở, Ty... là đúng, là cần thiết. Khi Đảng cầm quyền lại cầm trực tiếp, không trao quyền cho Chính phủ, Quốc hội, và Tòa án nên mới có khái niệm “Thống nhất lãnh đạo” và “Quân đội trung với Đảng”... Biến các đoàn thể thành các “Ban”, “Bộ” bằng cách ăn lương Chính phủ, làm theo Chính phủ tức là “ăn theo, nói leo” mà gọi là “liên tịch”... nhược điểm là càng lãnh đạo, chính quyền Nhà nước càng chồng chéo, yếu về thực chất, nhưng mạnh và oai về hình thức. Ban Nội chính, Ban Kinh tế vốn làm không nên trò, “không được xã hội thừa nhận” mới dẹp, nay tái lập mà không có “đầu trò” giỏi thì nên dẹp tiệm cho rồi, để chi oan ương. 

Người dân tự hỏi tại sao lãnh đạo mà chỉ biết đi giáo huấn hỏi lại “trồng cây gì, nuôi con gì” hay tối ngày sợ Đảng suy thoái mà không biết làm cái gì cho Đảng theo kịp thời đại, hoặc tối ngày rên rỉ, la hét mị dân. Nhưng vượt qua mọi lo âu là Đảng phải vượt lên chính mình, vượt khỏi cái bóng của anh “bạn vàng” bành trướng phương Bắc và những giáo điều của những học thuyết không còn phù hợp, cản trở con đường phát triển của đất nước, làm cho dân tộc tụt hậu. Chỉ có qua cuộc lột xác ấy thì tài năng mới phát lộ, tài năng mới làm nên sự nghiệp và đất nước mới ra khỏi trầm luân! 

Sửa Hiến pháp và Luật đất đai, thế là xong, miễn bàn! Chỉ có thể an ủi những cuộc bàn thảo vừa qua suy cho cùng không phải tất cả chỉ vô tích sự vì dân gian được động não học hỏi, dân gian nhận diện được năng lực, và dân gian không thể đặt bất cứ hy vọng nào vào những cái đầu mang nặng ý thức hệ, bị chi phối bởi lợi ích nhóm và tầm nhìn chỉ loanh quanh nơi “chân ghế” của mình. 

T. V. T.
Nguồn: Bauxite Việt Nam