Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013
Minh Diện - THĂM BỆNH, NGHĨ MÀ ĐAU !
Minh Diện
Tôi đến thăm cụ H, mẹ người bạn cựu chiến binh ở đơn vị cũ bị đột quỵ đang điều trị ở bệnh viện Thống Nhất. Bệnh viện này do kiến trúc sư Trần Văn Quyền thiết kế, khởi công từ giữa năm 1970, đến đầu năm 1974 hoàn thành. Bà Nguyễn Thị Mai Anh, phu nhân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bỏ tiền xây dựng, đặt tên là “Bệnh viện Vì Dân”. Tất cả 600 giường bệnh, khang trang thiết kế theo kiểu khách sạn, thiết bị y tế hiện đại nhất ngày ấy chỉ phục vụ dân nghèo không lấy tiền.
Sau ngày 30-4-1975, “Bệnh viện Vì Dân” đổi tên là “Quân y viện Thống Nhất”. Năm 1978, quân đội chuyển giao cho Bộ y tế, đổi tên là “ Bệnh viện Thống Nhất”, (có thể nói : thay mục đích và nhiệm vụ bằng ‘bệnh viện Vì Quan’). Bởi từ sau ngày giải phóng, ở đây chỉ khám chữa bệnh cho cán bộ trung-cao cấp, và được phân ra các khu A1, A2, B1, B2 ... tùy theo cấp bậc, chức vụ. Ví dụ khu A1 phải từ bậc thứ trưởng trở lên hoặc cán bộ lão thành cách mạng đã từng giữ chức vụ tương đương. Cán bộ cấp thấp nhất được vào điều trị ở bệnh viện Thống Nhất cũng phải cỡ chuyên viên, bởi thế người ta còn gọi là “Bệnh viện trung cao”. Mấy năm gần đây để tăng thu nhập thêm, ban giám đốc dành ít phòng nhận bệnh nhân là dân thường khám chữa bệnh dịch vụ.
Anh Lung con cụ H, nói với tôi:
- Mẹ tôi có bảo hiểm y tế, vào đây điều trị bán dịch vụ, tiền phòng mình trả, tiền thuốc bảo hiểm y tế trả. Mẹ tôi nhập viện 26 ngày rồi, nhưng mai tôi phải cho cụ về, vì hết hy vọng rồi bác ạ!
Mẹ anh Lung nằm ở khoa nội thần kinh, lầu 2. Căn phòng khoảng 9 m2, kê 3 giường bệnh . Từ giường, tủ đến bồn rửa, cầu tiêu đều cũ kỹ, nhiều chỗ đã bong tróc, nền gạch đã xỉn màu. Nghe nói mấy năm nay bệnh viện được đầu tư nâng cấp mấy lần, tốn nhiều tiền, nhưng chỉ tập trung vào khu AI, A2... dành cho cán bộ cấp cao.
Ngoài mẹ anh Lung còn hai bệnh nhân, một nam, một nữ đều bị đột qụy do tai biến mạch máu não. Phòng quá chật nên mỗi bệnh nhân chỉ được một người chăm sóc, lúc làm thuốc thì phải ra ngoài hết vì không có chỗ xoay trở.
Một người nhà bệnh nhân cùng phòng nói với tôi :
- Mỗi bệnh nhân một ngày mất hai trăm ngàn tiền phòng đấy bác nhà báo ạ! Dịch vụ mà! So với bệnh nhân bảo hiềm y tế ở Bệnh viện ung biếu, Chợ Rẫy, Nhi Đồng... còn sướng chán. Ở đó hai, ba bệnh nhân nằm chung một giường, có khi phải nằm ngoài hành lang.
Chị buồn bực chỉ tay lên trên lầu:
- Ở trên có những căn phòng rộng rãi, khang trang như phòng khách sạn 5 sao , chỉ có một bệnh nhân, nằm hàng tháng không mất tiền!
Lung ngắt lời :
- Tiêu chuẩn cán bộ cấp cao ai bì được!
Rồi anh quay sang nói với tôi:
- Có người nhà nằm bệnh viện mới biết nỗi đau của dân nghèo!
Lung thở dài, mắt ầng ậng nước nhìn mẹ mình co quắp trên giường bệnh. Bà cụ chỉ còn thoi thóp, hai mắt nhắm nghiền.
Lát sau Lung kéo tôi ra chiếc ghế ngoài hành lang, trong tâm trạng đầy bức xúc, anh kể:
- Mẹ tôi vào đây, ba ngày đầu được truyền ba chai nước biển sau đó mỗi ngày chỉ bơm hai típ súp lỏng. Tôi hỏi cô điều dưỡng viên :
- Sao không truyền thêm nước cho cụ?
Cô điều dưỡng viên trẻ trả lời:
- Chú đừng thắc mắc! Chữa bệnh thế nào đã có phác đồ điều trị của bác sỹ!
Hôm sau thấy bác sỹ trực đang ngồi thêu tôi nói :
- Mẹ tôi hai ngày nay không truyền nước, sức khỏe xuống quá bác sỹ !
Cô bác sỹ ngừng tay thêu, ngẩng mặt lên:
- Bà cụ bị suy tim không truyền nước được!
Nói xong, cô lại cúi xuống chăm chú thêu tiếp bức tranh Phật Bà Quan Âm. Từ hôm vào chăm sóc mẹ ở đây, tôi thấy từ điều dưỡng viên đến bác sỹ đều chăm chỉ thêu tranh. Họ ngồi trong quầy trực, thêu công khai trước mặt mọi người. Có khi người nhà bệnh nhân kêu, họ vẫn thêu ráng vài đường kim. Người thêu Phật, người thêu hoa, người thêu tranh phong thủy...
Như để chứng minh lời nói của Lung, cô điều dưỡng viên trong phòng trực đang thêu bông hoa hồng. Tôi biết chả riêng ở đây mà nhiều chỗ khác cũng vậy. Các bà các chị nhà mình bây giờ đâm nghiện thêu tranh Trung Quốc ! Những mẫu thêu Trung quốc dệt sẵn hàng loạt, đánh số từng ô, từng loại chỉ thêu, bán sang Việt Nam, giá từ vài chục đến vài trăm ngàn. Nghe nói một bức thêu hoàn hảo họ mua lại mấy triệu đồng. Tiền đâu chẳng thấy, nhưng có bức tranh sơn thủy, nó vẽ biển Đông cố tình đưa đường lưỡi bò và thành phố Tam sa vào, nhận của Trung quốc, chị em không hiểu cứ thêu tuốt mới thật đáng buồn...
- Nó lừa mình còn mình lừa nhau!
Anh Lung nói, và kể tiếp chuyện chữa bệnh của mẹ mình:
-Mẹ tôi điều trị hai tuần, bệnh không đỡ mà nặng thêm. Hôm mới vào hơn bốn chục kg, mắt còn mở, tay chân còn co duỗi, sau hai tuần mắt nhắm tít, ngưởi teo lại, bất động. Trong khi hai người bệnh cùng phòng hôm mới vào nguy kịch hơn, đều đã tỉnh hơn một chút. Tôi dò hỏi vợ người bệnh bên cạnh, bà bảo:
-Phải mua thuốc ngoài !
Vì vẫn tin chế độ nghiêm ngặt của bệnh viện như điều dưỡng viên nói, nên tôi hỏi dồn:
- Thuốc gì, ở đâu, bác sỹ có cho phép không?
- Ông mới ở trên trời rơi xuống hả?
Ngưới nhà bệnh nhân kia mắng tôi, và bảo:
- Bệnh nhân bảo hiểm y tế không có thuốc đặc trị, phải mua ngoài !
Nghe bà ấy nói một hồi tôi mới sáng mắt ra. Bọn lính mình đến già vẫn thật thà như vậy! Tôi nói với một nữ bác sỹ trực :
- Nghe nói có loại thuốc đặc trị đột quỵ, bác sỹ cho đơn tôi mua ngoài!
Bác sỹ hỏi:
- Ai nói với anh?
- Người bệnh cùng phòng!
Bác sỹ hỏi:
- Gia đình có khả năng không?
- Không cũng phải cố, để tỏ lòng hiếu thảo với cụ!
- Sao không nói trước, giờ muộn rồi!
Tôi điếng người như bị gáo nước lạnh hắt vào mặt. Đưa mẹ nhập viện là giao tính mạng mẹ mình cho bác sỹ, tin tưởng tuyệt đối vào tài năng, y đức của người thầy thuốc. Cứ nghĩ bệnh nào thuốc ấy, bác sỹ điều trị theo nguyên tắc vì con bệnh, ngờ đâu lại vì tiền? Nếu vậy sao không nói thẳng ngay từ đầu để bây giờ bảo đã muộn?
Tôi cố dằn lòng nói với bác sỹ :
- Muộn còn hơn không, mẹ tôi cần thuốc gì, bác sỹ cho đơn để tôi mua ngoài!
Cô bác sỹ lấy giấy viết đơn thuốc đưa cho tôi, bảo:
- Xuống nhà thuốc bệnh viện mua cho bệnh nhân uống!
Gương mặt còn trẻ của cô bác sỹ bình thản, không gợn chút suy tư. Hình như việc điều trị cho bệnh nhân bảo hiểm y tế nghèo một cách qua loa, và nhìn người bệnh chết vì không có tiền mua thuốc đặc trị đã quen rồi. Không áy náy, không xúc động, không hề nghĩ đến y đức người thầy thuốc. Vậy mà ngay sau khi đưa tờ đơn thuốc cho tôi, cô ta lại cúi xuống thêu tiếp bức tranh Phật Bà Quan Âm, một biểu tượng về lòng từ bi cứu khổ cứu nạn!
Chúng tôi xuống quầy, mua một hộp thuốc “An cung ngưu hoàng hàn” giá 1.750.000 đồng, mang lên cho mẹ tôi uống. Uống liên tục năm ngày, mẹ tôi hơi tỉnh, khi con cháu vào thăm lay gọi, cụ chảy được mấy giọt nước mắt ra như khóc.
Nhưng với loại thuốc “An cung ngưu hoàng hàn” đó, bệnh mẹ tôi chỉ chuyển được như vậy thôi. Cụ vẫn hôn mê sâu. Tôi hỏi một bác sỹ chuyên khoa tim mạch, ông ấy bảo muộn rồi không chữa được nữa.
Theo bác sỹ chuyên khoa ấy, cách điều trị đột quỵ hiệu quả nhất là phải đánh tan huyết khối gây tắc nghẽn, bằng cách tiêm vào đường tĩnh mạch trước ba giờ, đường động mạch trước 6 giờ , hoặc dùng máy hút cục máu đông kết hợp tiêm tĩnh mạch. Cả ba phương pháp điều trị đều phải sử dụng loại thuốc tiêu sợi huyết Actilyse 50g, là loại thuốc duy nhất cho bệnh nhân đột quỵ.
Tôi hỏ Lung:
- Bác sỹ ở đây không biết phác đồ đó à?
Anh Lung phẫn uất buông một câu chửi thề, rồi nói:
- Biết chớ! Thuốc Actilyse 50g cũng có sẵn. Nhưng họ không tiêm cho mẹ tôi, vì mỗi lọ thuốc Actilyse 10 triệu đồng, không nằm trong danh mục thuốc bảo hiểm y tế.
Tôi cảm thấy có cái gì dâng lên chẹn lấy cổ họng mình. Một căn bệnh đã biết cách chữa, thuốc chữa có sẵn mà không chữa cho người bệnh, chỉ vì họ nghèo! Một liểu thuốc có thể cứu được một mạng người, nhưng họ coi 10 triệu đồng lớn hơn sinh mạng một con người!
Mẹ anh Lung điều trị 27 ngày, tổng số tiền hết 28.000.000 đồng, bảo hiểm y tế thanh toán 17.000.000, gia đình thanh toán 11.000.000 , đó là chưa kể tiền thuốc mua ngoài. Tốn nhiều tiền như vậy, nhưng bà cụ xuất viện trong tình trạng hôn mê sâu, nói như anh Lung, là về để lo hậu sự. Nếu ngay từ khi mới nhập viện, bác sỹ tiêm cho bà cụ mũi thuốc Actilyse thì có lẽ hậu quả chưa đến nỗi ?
Câu chuyện mẹ anh Lung khiến tôi nhớ đến trường hợp cụ V. Cụ 83 tuổi thuộc thành phần có công với nước, có bảo hiểm y tế 100 % chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm thanh toán. Vì bị tăng huyết áp và viêm đường tiểu, cụ vào điều trị tại một bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh cứ tái đi tái lại, nặng thêm, sức khỏe giảm sút, và cụ rất đau đớn. Chỉ đến khi chấp nhận mua thuốc ngoài thì bác sỹ mới xét nghiệm, phát hiện loại vi khuẩn Klebsiella terrigena đã kháng lại loại thuốc rẻ tiền trong danh mục thuốc bảo hiểm y tế bác sỹ đã điều trị cho cụ. Cụ phải bỏ tiền mua loại thuốc Imcil 500mg (biệt dược Imipenem +Cilastalin ) với giá 278.000 đồng một lọ. Loại thuốc này không được bảo hiểm y tế thanh toán nên bệnh nhân không được tiêm.
Bệnh nhân cấp tính đã khốn khổ như vậy, bệnh nhân mãn tính còn khốn khổ gấp trăm lần. Ví dụ bệnh viêm gan siêu vi C, phác đồ điểu trị thường phải kéo dài hơn một năm, loại thuốc uống Ribavirin không đắt lắm nhiều người còn không có tiền mua, huống chi loại thuốc tiêm Peginterferon tới 17.000.000 đồng một lọ thì đào đâu ra tiền?...
Ôi, lại nghĩ: Bệnh viện là nơi cứu người. Cũng là thân phận con người cả, mà người ta lại phân biệt quan tâm chu đáo hơn với người này, chỉ lạng qua người khác, bỏ cho ai chết? Từ “Bệnh viện Vì Dân” của bà Nguyễn Thị Mai Anh năm xưa, thành “Bệnh viện Vì Quan” chỉ lo chính sách vốn đẳng từ thời bao cấp, dành cho cho quan chức cấp trung-cao. Gọi là chính sách với cán bộ, nhưng cả vài chục năm qua, nguồn thuốc cung cấp cho chính sách eo hẹp, 'văn hoá phong bì' cũng thâm nhập vào chốn chính sách 'cung đình' này. Cũng là cán bộ ngang nhau, nhưng người nhà bênh nhân nào biết cách nhiệt tình, 'bồi dưỡng' cho thầy thuốc chu đáo, vừa lòng họ thì bệnh nhân được quan tâm 'để mắt đến' nhiều hơn, thuốc được cấp cũng xịn hơn. Còn nếu không, cứ nằm dài dài, cho gì được đó. Không ít vị cán bộ đã phải 'chạy làng', tìm đến các bệnh viện khác, dù tốn tiền, nếu muốn nhanh khỏi bệnh và... muốn sống! Nay, bệnh viện Thống Nhất được 'đổi mới' có kèm theo các khoa Dịch vụ, từ đơn thuần bao cấp sang có thu - lại Vì Tiền, chỉ biết có tiền. Càng nghĩ sâu, thấm thía, càng đau.
Bác sỹ Trần Đông A phát biểu trong hội thảo bảo hiểm y tế: “Nhiều bệnh nhân bảo hiểm y tế có khả năng cứu sống rất cao, nhưng đành phải ra về lo hậu sự vì không có tiền!”.
Bảo hiểm y tế là một chính sách an sinh xã hội mang tính cộng đồng, chia sẻ rủi ro với mọi người không may bị bệnh tật. Ngưởi bệnh hiểm nghèo chẳng mong gì hơn là được chữa tri bình đẳng. Nhưng bệnh nhân bảo hiểm y tế lại bị hắt hủi, khinh khi, phân biệt đối xử vì hầu hết họ là người nghèo, là cán bộ hưu trí bậc thấp, là người dân tộc thiểu số. Họ không có tiền vào phòng dịch vụ khám chữa bệnh theo yêu cầu để được chăm sóc tử tế, không được dùng các loại thuốc đặc trị và thiết bị y tế hiện y tế hiện đại... đã được “xã hội hóa” bằng sự “liên kết công tư”, là phương tiện để những thầy thuốc bất lương hái tiền.
Bà Nguyễn Thị Kim Tiến, bộ trưởng y tế nói “ Bảo hiểm y tế nước ta ưu việt hơn vì được nhà nước hỗ trợ một phần tiền khám chữa bệnh!”
Vâng, chính sách rất nhân đạo, nhưng việc thực hiện lại đầu voi đuôi chuột. Thực tế, bệnh nhân bảo hiểm y tế nước ta đã và đang phải chịu cảnh khốn đốn mỗi khi khám và chữa bệnh. Bởi vì các nhóm lợi ích lũng đoạn, tìm mọi cách vét tiền dân, nhét đầy tiền vào những túi tham của họ. Một người lạc quan như phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan mà đã phải nói thẳng trước cuộc họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mới đây: “Tiền hỗ trợ dân nghèo, tiền chính sách thương binh liệt sỹ, tiền bảo hiểm y tế bị xà xẻo. Các cháu học sinh dân tộc thiểu số cũng bị hiệu trưởng ăn chặn. Liều vác xin cỏn con cũng bị bớt xén. Người ta ăn của dân không từ cái gì!”
Bộ trưởng y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nói: “Các quy định do Bộ y tế ban hành đã có đầy đủ, ai không thực hiện nghiêm sẽ bị xử lý nghiêm minh!”. Một trong những quy định đó là cấm bác sỹ, điểu dưỡng viên nhận phong bì của người nhà bệnh nhân. Bộ trưởng Tiến tỏ ra rất kiên quyết: “Bệnh nhân và người nhà hãy dứt khoát không đưa phong bì và nếu thấy bác sỹ, điều dưỡng viên nảo nhận thì chụp ảnh gửi cho chúng tôi”. Nhưng rồi cái nút thắt ấy cũng chính Bộ trưởng Tiến gỡ, là có thể nhận phong bì sau khi điều trị vì đó là “quà”.
Ngày 24-7-2013, một bức tâm thư của độc giả rất dài đã được đăng trên báo Kiến Thức, sau khi bà Bộ tưởng y tế có mặt ở Quảng Bình mà không đến thăm gia đình 3 cháu sơ sinh tại đây vừa chết vỉ tiêm vac xin. Trong thư có đoạn viết: “Thất vọng lắm! Đau đớn lắm! Nhưng tôi vẫn mong rằng những cái chết oan uổng của những đứa trẻ vô tội kia như hồi chuông đánh thức những con người chưa tận tâm, chưa có trách nhiệm cao trong công việc cao cả của mình!”.
Điều 2 trong 9 điều y đức của Hải Thượng Lãn Ông viết: “Nên tùy bệnh cần kíp hay không mà sắp đặt đi thăm trước hay sau. Chớ nên vì giàu sang hoặc nghèo hèn mà nơi đến trước chỗ tới sau, hoặc bốc thuốc lại phân biệt hơn kém, khi lòng mình có chỗ không thành thật thì khó mong thu được kết quả!”.
Lời người xưa dạy thế, mong người thầy thuốc Việt Nam hãy nhớ lại và nhìn xuống người nghèo. Họ đang thất vọng lắm, đau đớn lắm!
M D
Mẹ Nấm - Không thể lấy toà án làm công cụ bảo vệ chế độ
Mẹ Nấm
Hôm nay ngày 2 tháng 10 năm 2013, Toà án Nhân dân Thành phố Hà Nội mở phiên xét xử Luật sư Lê Quốc Quân với tội danh: trốn thuế.
Ls Lê Quốc Quân được biết đến như một người bất đồng chính kiến, quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội và đã từng tham gia biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội.
Theo khoản 2, điều 161 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung quy định như sau:
2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ ba trăm triệu đồng đến dưới sáu trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm
Cũng theo thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính – kế toán và chứng khoán quy định:
Điều 1. Về tội trốn thuế (Điều 161 BLHS)
1. Người phạm tội trốn thuế là người thực hiện một trong các hành vi được qui định tại Điều 108 của Luật quản lý thuế, đồng thời thỏa mãn các dấu hiệu được qui định tại Điều 161 của BLHS.
2. Phạm tội trốn thuế trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác qui định tại khoản 3 Điều 161 của BLHS được hiểu là trường hợp tuy số tiền trốn thuế có giá trị từ 300 triệu đồng đến dưới 600 triệu đồng, nhưng người phạm tội đồng thời thực hiện một trong các hành vi liên quan khác mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm độc lập, như: đưa hối lộ; chống người thi hành công vụ; gây thương tích cho người thi hành công vụ; hủy hoại tài sản của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế và các cơ quan nhà nước khác có trách nhiệm trong việc thực hiện quản lý thuế. Trường hợp các hành vi này có đủ yếu tố cấu thành tội phạm khác thì ngoài tội trốn thuế, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng.
Trên đây là những quy định pháp luật được đưa ra, trên thực tế luật pháp đã được sử dụng để áp đặt trong trường hợp của LS Lê Quốc Quân?
1. Hãy xét tới hoàn cảnh bắt giam (từ ngày 30/12/2012) và thời gian tạm giam cùng việc hoãn xử phiên toà lần đầu (ngày 9/07/2013). Tổng cộng Ls Lê Quốc Quân bị giam giữ hơn 9 tháng.
Thời hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 120 BLTTHS và phụ thuộc vào từng loại tội, cụ thể như sau:
- Nếu tội phạm được điều tra là tội nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam không quá 3 tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn hai lần, lần thứ nhất không quá 2 tháng, lần thứ hai không quá 1 tháng. Như vậy, tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng là 6 tháng.
- Nếu tội phạm được điều tra là tội rất nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam không quá 4 tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn hai lần, lần thứ nhất không quá 3 tháng, lần thứ hai không quá 2 tháng. Như vậy, tổng thời hạn tạm giam điều tra một vụ án về tội rất nghiêm trọng là 9 tháng.
Thông tin trên báo Công an Nhân dân cho hay:
“… Chỉ tính riêng trong hai năm 2010 và 2011, Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam đã lập và ký hợp đồng với 9 chuyên gia tư vấn nhằm tăng chi phí và giảm thu nhập cho Công ty với số tiền là 1,75 tỷ đồng. Số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp Công ty này đã trốn là hơn 437 triệu đồng.” (1)
437 triệu đồng, thuộc khoản 2 điều 161 BLHS.
Vấn đề nghiêm trọng hơn nhưng thường xuyên gặp trong rất nhiều vụ án xét xử những người bất đồng chính kiến ở đây là: người “được cho là có tội” theo kết luận của cơ quan công an điều tra bị phán xét và kết án trên các phương tiện truyền thông trước ngày xét xử.
Điều 72, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định:
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.
Điều 9, Bộ Luật Tố tụng Hình sự nước CHXHCN Việt Nam quy định:
Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Các cơ quan truyền thông nhà nước đã làm gì với Ls Lê Quốc Quân?
Các bài viết, phóng sự được phát đi trong thời gian ông bị bắt giam và trước phiên toà cho thấy tội trốn thuế thực sự rất nghiêm trọng, cần phải nghiêm trị để làm gương.
Và ở ngày xét xử sơ thẩm Lê Quốc Quân, một phiên toà công khai thì người mẹ già của ông không được tham dự. Công an, an ninh và các lực lượng dân phòng, bảo vệ chặn đường, quây kín các ngã dẫn đến toà án. Bên cạnh đó, rất nhiều bloggers “được” vận động không tham dự phiên toà, và đã có người bị cản trở khi đến tham gia phiên toà.
Động thái này cho thấy điều gì?
Chính nhà nước Việt Nam, cụ thể là chính quyền thành phố Hà Nội đã tạo ra sự liên kết về động cơ chính trị với tội danh trốn thuế của Ls Lê Quốc Quân chứ không phải ai khác.
Nếu ông Quân có tội, hãy để pháp luật phân xử, tại sao lại áp dụng đủ mọi biện pháp công kích cá nhân trên truyền thông, đồng thời lợi dụng quyền lực để ngăn trở quyền được tham dự phiên toà công khai của thân nhân và người dân?
Blog và mạng xã hội nếu có đưa thông tin sai sự thật về việc Ls Lê Quốc Quân trốn thuế, thì việc xét xử công khai và trưng ra các bằng chứng với công luận trong phiên toà sơ thẩm hôm nay là cơ hội tốt nhất để Việt Nam chứng minh rằng không có chuyện đàn áp người bất đồng chính kiến.
Trả lời trước diễn đàn quốc tế, chính quyền Việt Nam luôn cho rằng “không có chuyện bắt giam những người bất đồng chính kiến tại Việt Nam” bởi lý do bị bắt là “vi phạm pháp luật Việt Nam”. Đây không phải lần đầu tội danh “trốn thuế” được sử dụng. Trước đó để bắt giam blogger Điếu Cày với cáo buộc trốn nộp thuế thuê nhà và bỏ qua phần đưa ra chứng cứ của hai luật sư tham gia bào chữa, để rồi sau hơn 30 tháng tù giam, không có lấy một ngày tự do, nhà nước Việt Nam lại tiếp tục giam cầm blogger này với bản án nặng nề cùng tội danh vi phạm điều 88 BLHS.
Cũng liên quan đến tội danh trốn thuế, ngày 27/09/2013, báo An ninh Thủ đô đưa tin : “Trốn thuế hàng chục tỷ đồng, đại gia Bắc Ninh bị xử án treo”. Số tiền thuế bị thất thu ở đây lên tới hơn 11 tỷ đồng.(2)
Dù muốn hay không, người ta không thể không liên tưởng việc chính quyền muốn sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu để trừng trị những người bất đồng chính kiến.
Việc một cá nhân có tội hay không, không chỉ phụ thuộc vào sự kết luận của cơ quan điều tra và hệ thống truyền thông. Nhưng trên thực tế ở Việt Nam, điều này hoàn toàn ngược lại.
Trong điều kiện truyền thông chịu sự quản lý của nhà nước một chiều, với thực tế người bị bắt giam chưa được pháp luật bảo vệ thực sự theo cơ chế tam quyền phân lập, thì việc định tội danh và mức án phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan điều tra như hiện tại đã phản ánh được thực trạng của xã hội Việt Nam.
Chính quyền Việt Nam có thể sử dụng nhiều lý do để biện minh cho việc bắt giữ những người bất đồng chính kiến. Nhưng rõ ràng là để xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh (như báo chí thường nói), để chứng minh uy tín trên đường gia nhập vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Việt Nam không thể lấy toà án và công an để làm công cụ để bảo vệ chế độ như hôm nay.
Mẹ Nấm
(1) - http://www.cand.com.vn/vi-VN/bandoc/2013/10/210776.cand
(2) - http://www.anninhthudo.vn/Ky-su-phap-dinh/Tron-thue-hang-chuc-ty-dong-dai-gia-Bac-Ninh-bi-xu-an-treo/467048.antd
Ngô Minh - CHỐNG THAM NHŨNG BẰNG “PHÊ VÀ TỰ PHÊ”- LÀ BẢO VỆ BỌN THAM NHŨNG
Ngô Minh
Chống tham nhũng bằng phê bình và tự phê bình ư ?
Ngây ngô quá
Đến đứa trẻ con cũng phì cười
Chống tham nhũng bằng phê và tự phê là sự lừa mị nhân dân
“ Khuyết điểm của tôi thời gian qua là hay đi làm chậm giờ, chứ tôi luôn liêm khiết và trung thành”, ” Thưa đồng chí chủ tịch kiêm bí thư, chúng tôi ai cũng bất bình vì đồng chí có lỗi mà không chịu nhận. Đồng chí chỉ có một lỗi duy nhất, ấy là có ưu điểm mà lại khiêm tốn không chịu nhận ạ!”( Minh Văn) - nói dối xứ mình đã thành lẽ sống !
Bây giờ tham nhũng là giặc.
Ai phê bình được lũ giặc tham tàn :”Sao ông giàu nứt đổ đổ vách còn tham lam, xấu thế”.
“Tôi không tham nhũng, tài sản là vợ con tôi làm nên”.
Không thằng nào tự phê bình là mình trót tham nhũng, từ nay xin chừa !
Không ai phê bình được bọn ăn đất Văn Giang vì chúng có quyền, có súng.
Bọn chúng lưỡi đỏ lòm tự phê rằng: “Lời nói đọi máu” tao không ăn đất ruộng bà con nông dân. Tao đang làm giàu cho xã hội, nghe chưa. Bây còn nói nữa cho vào tù. Nhà báo cũng đánh cho tím mặt”. Sợ lắm ! Sợ lắm!
Bọn tham nhũng ở Bệnh viện đa khoa Hoài Đức sau khi phê bình và tự phê bình xong đã “nhân bản” kết quả xét nghiệm để kiếm tiền chia nhau. Bọn tham nhũng tại Bệnh viện Mắt Hà Nội sau khi tự phê bình và phê bình xong đã đánh tráo hàng ngàn viên thủy tinh thể” để kiếm tiền chia nhau. BS Nguyễn Thị Thu Thủy, người tố cáo vẫn chưa hài lòng với kết luận thanh tra. Bọn tham nhũng chỉ hiền từ khi trong cuộc họp tự phê bình và phê bình, họp xong chúng thành thú dữ đấy bác sĩ Thu Thủy ạ.
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã bỏ ra không biết bao nhiêu tỷ đồng để tổ chức học tập Nghị quyết 4, phê bình tự phê bình để chống tham nhũng. Tổng kết ai cũng tốt, đảng bộ trong sạch, không ai tham nhũng cả. Hội nghị tổng kết mời Trung ương về vỗ tay ran ran như sấm dậy.
Đùng một cái, anh em công nhân phát hiện ra những ông giám đốc, phó giám đốc 4 công ty công ích lương khủng tới 2 tỷ đồng/năm. Rồi đuổi ra khỏi đảng, rồi cách chức, rồi thu hồi…Dù trước đó chúng đã tự phê bình rất thành khẩn…
Bạn lợi ích nhóm ở Vinashin, Vinaline bao nhiêu lần phê bình và tự phê bình thành khẩn, cũng đã làm thất thoát hàng trăm ngàn tỷ đồng vốn quốc gia, chỉ riêng Vinashin đã gây ra nợ 4 tỉ USD.
Còn bao nhiêu ông Tổng Giám đốc công ty Nhà nước đã tự phê bình trước cấp trên rằng tôi luôn vì dân vì nước. Còn tiền thì gửi ra ngân hàng nước ngoài. Còn đất hàng chục lô thì đứng tên vợ, tên con, tên bố, tên mẹ.... Ai phê bình liền bị cách chức, hoặc nhờ “nhóm lợi ích” cấp trên cách chức.
Chống tham nhũng bằng phê bình và tự phê bình ư ?
Ngây thơ quá ! Trời ơi ngây thơ quá !
Bọn tham nhũng là những con sâu quyền lực.
Là bọn giặc đầy quyền lực.
Chúng bày ra cả chính sách của nhà nước để nhóm lợi ích tham nhũng chia nhau.
Tham nhũng có cả trong lực lượng chống tham nhũng.
Không thì làm sao bao nhiêu ban bệ không kiểm tra ra thằng tham nhũng nào cho đáng đồng tiền dân nuôi mình.
Chúng là giặc. Làm sao giặc lại tự phê bình và phê bình để thành người trong sạch.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phê bình: "Cái gì cũng phải tiền, không tiền không trôi". Thím Doan trong cuộc họp ở Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào tuần trước đã phê bình: "Người ta ăn của dân không chừa một thứ gì". Nhưng nào có ai nghe?
“Người ta” ở đây là ai ? Là giám đốc lương khủng, là kẻ nhân bản kết quả xét nghiệm, là kẻ tráo thủy tinh thế khi mổ mắt cho dân, hay là…Trời ơi, không ai dám sờ lên gáy!. “Người ta” còn là đám người chưa lộ. Dự án một ngàn tỷ hết một nửa chia nhau. Phê bình và tự phê bình không lôi ra bọn ăn 500 tỷ ấy. Thiếu “tiền ăn” thì nghĩa trang liệt sĩ đập đi làm lại. Đã làm lại rồi bây giờ làm to hơn, hoành tráng hơn. Ôi chúng ăn cả niềm tri ân liệt sĩ !
Chống tham nhũng bằng phê bình và tự phê bình ư ?
Thật ấu trĩ. Ấu trĩ !
Bây giờ cả bộ máy sống bằng tham nhũng biết chống ai ?
Thằng tham nhũng nọ, bình sinh đi xe đạp chân co chân duỗi, chỉ một nhiệm kỳ làm chủ tịch tỉnh đã có đủ tiền để xây 3 cái nhà lầu ba bốn tầng cho mình cho con cái, mua hai cái xe con xịn tiền tỷ, chiếm 15.000 mét vuông đất để kinh doanh nhà hàng, karaoke; có hàng mấy trăm tỷ để xây dựng một ngôi trường quốc tế, thuê thầy cô nuôi dạy từ mẫu giáo đến sinh viên Đại học…
Có thằng tham nhũng tiền bạc no rồi, muốn danh giá hơn đã tham nhũng cả chiến công của đồng đội để được chức danh anh hùng (?)
Thế mà không ai dám phê bình. Người dân tố cáo sự thật thì bị đe dọa. Chính quyền ở đâu ? Đảng ở đâu ?
Không thể chống tham nhũng bằng phê bình và tự phê bình
Bọn cường quyền không bao giờ tự phê bình
Sự giả vờ ngây ngô cũng là một cách tham nhũng niềm tin
Chúng là giặc nên phải dàn trận đánh
Phải tam quyền phân lập để ngăn chặn sự tha hóa của quyền lực
Quân đội Công an là của nhân dân mới vì dân ra trận
Chống tham nhũng bằng “phê tự phê” là lý thuyết gà mờ, lý thuyết bảo vệ bọn tham nhũng!
Nhưng mà thôi
Phê bình và tự phê bình không bao giờ là cây sào chống đỡ
Cái cây mục dần sẽ đổ, nỏ lo
Xin nói một lần thôi !
Huế, 1-10-2013
Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013
Ngô Nhân Dụng - Bulgaria khác Mỹ thế nào?
Ngô Nhân Dụng
Ðầu Tháng Mười năm 2013, có hai biến cố song song, ở Mỹ và ở Bulgaria; mà hầu như ai cũng chỉ chú ý đến chuyện nước Mỹ, Bulgaria bị bỏ quên. Ở nước Mỹ chính phủ tạm thời đóng cửa, ít nhất một phần guồng máy ngưng chạy. Hơn 800,000 công chức được báo tin nhà nước không có tiền trả lương nữa, trong khi chờ Quốc Hội biểu quyết ngân sách. Tại Bulgaria, một cuộc biểu tình kéo dài trên ba tháng nay tiếp tục diễn ra, mà ngay từ đầu ít thấy báo đài nói tới, kể cả nhật báo Người Việt. Nhưng nhìn hai sự hiện đó song song với nhau, chúng ta có thể thấy hai nước Mỹ và Bulgaria khác nhau như thế nào.
Tất nhiên hai nước rất khác nhau. Nước Mỹ đông dân hơn, trên 300 triệu, trong khi Bulgaria chỉ có bẩy triệu. Thể chế dân chủ được thành lập ở nước Mỹ đã gần 250 năm, trong khi nước Bulgaria mới dân chủ hóa từ năm 1990, gần 24 năm.
Trước khi chế độ dân chủ ra đời ở Mỹ, chính quyền do vương quốc Anh áp đặt nhưng họ có một guồng máy hành chánh dựa trên luật pháp chứ không chỉ theo ý của cấp trên; cho nên họ tương đối trong sạch vì quan chức cũng bị luật pháp kiểm soát và kiềm chế. Còn ở Bulgaria, trước năm 1990 thì đảng Cộng sản cai trị hoàn toàn chỉ biết có chủ trương, chính sách của đảng và ý kiến các lãnh tụ chứ không cần đến luật lệ; vì vậy nạn tham nhũng, lạm quyền diễn ra tự nhiên.
Nhưng các biến cố song song đang diễn ra tại Mỹ và tại Bulgaria cho chúng ta một dịp so sánh những khác biệt trong đời sống chính trị của hai nước. Nhân đó, rút ra một bài học về dân chủ hóa cho người Việt Nam mình, sau khi chế độ cộng sản sụp đổ (mà nó cũng sập đến nơi rồi). Trước hết, hãy nhìn vào hai biến cố ở Mỹ và ở “Bun” (người Việt ở Ðông Âu thường gọi tên nước Bulgaria là Bun).
Biến cố ở Mỹ là chính phủ tạm đóng cửa vì không có tiền trả lương công chức. Hiến Pháp Mỹ trao cho Quốc Hội quyền quyết định tiền chi tiêu cho chính phủ. Mỗi năm họ biểu quyết ngân sách, nếu họ không làm gì cả thì chính phủ không có tiền. Quốc Hội Mỹ có hai viện, mỗi viện bỏ phiếu cho một dự luật ngân sách của mình, rồi hai bên tìm cách thỏa hiệp để cùng thông qua. Năm nay hai viện bất đồng ý kiến, không ai chịu ai, đến 11 giờ 59 phút đêm 30 Tháng Mười, đạo luật ngân sách cũ hết hạn, vẫn không có ngân sách mới, từ 12 giờ sáng ngày 1 Tháng Mười, nhà nước Mỹ không có tiền nữa. Theo luật, chỉ các nhân viên an ninh, quốc phòng và tối cần thiết mới được trả lương, bà con khác được nghỉ không lương.
Những vị nấu bếp và hầu bàn ăn trong dinh tổng thống và quán ăn của Quốc Hội tất nhiên vẫn được trả lương, vì họ thuộc loại tối cần thiết.
Nhưng dân Mỹ vẫn thản nhiên đi làm, đi ăn tiệm, và lái xe quần quật suốt ngày, chẳng ai lo lắng cả; trừ những người đang có công chuyện với nhà nước thì phải tạm ngưng để chờ. Hơn 800 ngàn công chức, cùng với những nhà thầu cung cấp cho chính phủ Mỹ không được trả tiền đúng hạn, đáng lẽ họ phải đi biểu tình mới phải; vậy mà họ cứ mặc kệ!
Còn dân Bulgaria thì sao? Họ mới bầu một Quốc Hội vào Tháng Năm; Quốc Hội đã phong nhậm một chính phủ mới; sau khi dân đã đi biểu tình hàng trăm ngàn người trong Tháng Hai, khiến chính phủ cũ phải từ chức. Chính phủ cũ do đảng GERB, phe hữu đứng đầu, thủ tướng chính phủ mới thuộc đảng Xã Hội, do các đảng viên cộng sản cũ đổi tên dựng lên.
Vậy mà giữa Tháng Sáu, dân lại đi biểu tình ở thủ đô, có lúc lên mấy chục ngàn người. Họ đòi chính phủ mới phải từ chức. Họ được dân Bun khắp nơi hoan nghênh. Các vị đại sứ Pháp, Ðức và Anh cũng đưa ra các lời tuyên bố ủng hộ các nguyện vọng của dân Bun. Dân biểu tình mỗi buổi tối (ban ngày còn bận đi làm hay đi học), kéo dài gần bốn tháng nay rồi!
Nước Mỹ và nước Bun khác nhau thật. Tại sao lại khác như vậy? Vì chế độ dân chủ ở Mỹ có thật, đã thử nghiệm mấy trăm năm. Còn chế độ dân chủ ở Bulgaria thì còn mới quá, chưa thể coi là dân chủ thật; vì các di sản của chế độ cộng sản cũ để lại còn quá nặng nề.
Các nhà chính trị Mỹ cứ theo luật mà chơi. Dân chúng Mỹ biết các nhà chính trị hiểu luật chơi và người dân cũng tin tưởng các chính khách luôn tôn trọng luật chơi. Bởi vì ai phạm luật thì sẽ “biết tay nhau,” đến kỳ bỏ phiếu tới dân đuổi ra ngoài sân banh. Tinh thần trọng pháp đó là thước đo của chế độ dân chủ.
Trong cuộc chơi ngân sách hiện nay, các đại biểu và nghị sĩ Mỹ đều làm đúng “thủ tục” của trò chơi chính trị. Mỗi viện Quốc Hội có quyền biểu quyết ngân sách riêng, đó là luật. Bất đồng ý kiến lớn nhất khiến họ không thể thỏa hiệp, là các dân biểu Cộng Hòa ở Hạ Viện muốn luật ngân sách bao gồm cả lệnh tạm hoãn một năm việc thi hành đạo luật cải tổ y tế của Tổng Thống Obama, thường gọi là Obamacare. Thượng Viện, đảng Dân Chủ của ông tổng thống chiếm đa số, nhất định không đồng ý. Chỉ có thế thôi nên họ không thể thỏa hiệp với nhau được.
Nhiều người sẽ hỏi: Luật ngân sách hàng năm của chính phủ, tại sao lại đem chuyện Obamacare vào đó? Nhưng đó là luật chơi. Các đại biểu Quốc Hội Mỹ có quyền đề nghị bất cứ điều gì để ghi thêm vào một dự luật mà họ biểu quyết. Luật chơi này có từ hai trăm năm nay rồi; trong mỗi dự luật người ta có thể ghi thêm những điều không ăn nhằm gì tới dự luật đó cả mà không sợ “lạc đề.” Chuyện đó vẫn xảy ra thường xuyên, không ai phàn nàn gì cả. Các nghị sĩ Dân Chủ ở Thượng Viện bác bỏ dự luật của Hạ Viện không phải vì nó “lạc đề,” mà vì họ không đồng ý việc hoãn thi hành luật Obamacare, như các đại biểu Cộng Hòa yêu cầu.
Luật Obamacare đã được Quốc Hội thông qua mấy năm rồi, Tổng Thống Obama và đảng Dân Chủ coi đó là một thắng lợi lớn, thực hiện chủ trương mà họ đã theo đuổi từ mấy chục năm nay; là làm sao tất cả mọi công dân Mỹ đều có bảo hiểm y tế. Ðảng Cộng Hòa không đồng ý, vì coi việc bắt buộc mọi người phải mua bảo hiểm là xúc phạm quyền tự do mua bán của dân. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện đã bác bỏ đơn kiện đòi xóa luật Obamacare. Sau khi thua keo này, đảng Cộng Hòa dùng chiến thuật mới là tìm cách hoãn không thi hành mấy điều khoản quan trọng; tức là làm cho nó vô hiệu.
Họ có thể tiếp tục cuộc chiến này, vì theo các cuộc nghiên cứu dư luận thì đa số dân Mỹ không ưa đạo luật Obamacare. Nhưng dân Mỹ không đi biểu tình hàng trăm ngàn người, hết đêm này qua đêm khác, để đòi bãi bỏ luật Obamacare. Bởi vì họ tôn trọng luật chơi dân chủ. Một đạo luật đã được Quốc Hội biểu quyết thì để cho Quốc Hội xóa đi hoặc sửa lại. Tất cả mọi người cứ theo Hiến Pháp và luật pháp, tất cả đều dùng luật để đấu với nhau. Ðó là cuộc sống tự do dân chủ.
Dân Bulgaria không nghĩ như vậy. Họ kéo nhau đi biểu tình vào Tháng Hai năm nay, sau khi chính phủ tăng giá điện. Các cuộc biểu tình được hàng trăm ngàn người tham dự, có bảy người đã tự thiêu để bày tỏ ý chí chống đối! Người ta có thể nào tự thiêu vì tiền điện tăng hay không? Chắc chắn không ai lại tự hy sinh vì một lý do đơn giản như vậy. Các cuộc biểu tình bắt đầu vì giá điện tăng, nhưng sau đó bao nhiêu nỗi bất mãn của người dân được tập trung lại, và thể hiện bằng hành động phản đối. Dân Bulgaria phẫn uất vì cả hệ thống quan quyền chứ không riêng gì việc tăng giá điện.
Ðến Tháng Sáu, các cuộc biểu tình bắt đầu sau khi chính phủ mới bổ nhiệm Delyan Peevski, một đại gia trẻ tuổi, làm giám đốc cơ quan an ninh và tình báo. Ai cũng biết Peevski vốn làm ăn với các băng đảng mafia, chuyên hối lộ và lũng đoạn thị trường cho nên mới giầu có, làm chủ nhiều báo và đài truyền thanh, truyền hình, luôn luôn ủng hộ các chính phủ thuộc bất cứ khuynh hướng nào. Việc bổ nhiệm anh ta cho thấy là những người cầm quyền mới vẫn khinh thường dư luận, không đếm xỉa gì đến dân, giống hệt nhóm cũ. Một ngày sau khi dân bắt đầu biểu tình, Peevski phải từ chức, nhưng dân vẫn không chịu ngưng. Bởi vì việc bổ nhiệm anh ta chứng tỏ các nhà chính trị, các đại gia và băng đảng tội phạm cấu kết với nhau, họ lũng đoạn cả các cuộc bầu cử lẫn việc ấn định và thi hành đường lối quốc gia. Nó khiến người dân hoàn toàn mất tin tưởng vào tất cả các nhà chính trị, dù họ thay phiên nhau cầm quyền. Họ chỉ lợi dụng các định chế và cơ cấu chính quyền để thu lợi vào một thiểu số đại gia (oligarchs), giống như đã diễn ra ở Nga và mấy nước Trung Á, sau khi chế độ cộng sản sụp đổ.
Dân Bulgaria đi biểu tình đòi chính phủ từ chức, nhưng tự căn bản họ đang đòi thay đổi luật chơi chính trị. Một em bé 13 tuổi cứ đi học về là lại tới dự biểu tình. Em nói với nhà báo: Chúng tôi muốn được sống trong một xứ sở bình thường, với những người dân bình thường và người lãnh đạo bình thường. Ðây là ước mong của tôi cho tương lai chính mình, vì vậy những người trẻ như tôi cũng đi biểu tình.
Dân Bulgaria tụ họp nhau quanh tòa nhà Quốc Hội đêm này qua đêm khác. Họ dựng mấy chục cái lều, đem tới cả hai cái dương cầm (piano), đàn hát với nhau, có đêm họ diễn kịch. Nhiều thanh niên mang máy vi tính laptop đến ngồi làm việc, các sinh viên học bài, làm bài.
Không biết tình trạng ở Bulgaria sẽ đi tới đâu từ nay đến cuối năm. Nhưng rõ ràng xứ này là hình ảnh tiêu biểu của một chế độ dân chủ hình thức nhưng không có nội dung. Một xã hội chính trị đã ra đời nhưng không có nền nếp dân chủ, đã bị các đảng viên cộng sản cũ cùng các nhà tư bản mới, và băng đảng mafia lũng đoạn. Dân chúng bị gạt ra bên lề, vì các quyết định trong hậu trường của giới chính trị hoàn toàn mờ mịt, dân không được biết. Xã hội chính trị đã tách ra khỏi xã hội của các công dân. Những cuộc biểu tình cho thấy là xã hội công dân thức dậy và lên tiếng. Có những ông già trên 70 tuổi, cho đến các thiếu nhi 13 tuổi; không ai có ý muốn lật đổ chính phủ để lên cầm quyền. Không khí các cuộc biểu tình không gay go, căng thẳng. Nhiều người tới đó rồi tập yoga. Ít nhất thể chế chính trị mới đã tạo cơ hội và cho phép xã hội công dân được lên tiếng. Tất cả đều hy vọng sẽ thay đổi đất nước họ, sẽ tiến lên thành một quốc gia tự do dân chủ thực sự.
Các cuộc biểu tình đang xảy ra ở Bulgaria là một bài học về sự chuyển biến thể chế, từ cộng sản sang dân chủ; mà người Việt Nam không thể nào không nghiên cứu để biết mai mốt mình cần làm gì và phải tránh những gì khi chế độ cộng sản sụp đổ. Chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn hơn trong một bài khác.
Phạm Thị Hoài - Lời thề
Phạm Thị Hoài
Thủ tướng Việt Nam – và những người viết cho ông bài diễn văn vừa đọc ngày 27-9 trước Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc – có lẽ đã rất đắc ý với câu trích dẫn “Một người vì tất cả, tất cả vì một người”.
Mang lời thề sống chết vì nhau của ba chàng ngự lâm trong một cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp Pháp lấy bối cảnh là thế kỉ 17 để rọi sáng phương châm cộng tác phát triển của thế giới hôm nay, xin lỗi, là chệch hơi nhiều nốt. Tất nhiên trong thế giới hôm nay câu đó vẫn dùng tốt – và dùng nhàm – đặc biệt trong phim mafia rẻ tiền, trên sân cỏ và bên bàn nhậu, nhưng tưởng rằng nó sẽ đóng đinh ấn tượng cho một cử tọa chính trị quốc tế thì trong trường hợp đáng thông cảm nhất, đó là bệnh tưởng bở ở văn chương.
Tôi để ý, cùng với những chiếc cà-vạt ngày càng nhiều mầu[1], các bài diễn văn xuất khẩu của ông Nguyễn Tấn Dũng cũng ngày càng văn vẻ. Chúng còn lâu mới biến người đứng đầu chính phủ Việt Nam thành một nhà hùng biện. Ông vẫn liên tục vấp trên những dòng chữ mà người ta thấy rõ là không tuôn ra từ chính ông: ngôn từ đang phát ra và ông chẳng có gì thuộc về nhau, mỗi bên đi một ngả như người dưng nước lã; thậm chí người ta còn phải lo rằng ông bị biến thành trò cười trên truyền thông nước ngoài[2]. Chúng cũng không hóa phép biến một chính khách chải chuốt tỉnh lẻ thành một ngôi sao trên chính trường quốc tế, Thủ tướng Việt Nam có diện cà-vạt đính kim cương và trích dẫn Shakespeare thì cũng chỉ cao bằng đúng tầm bệ đỡ của quốc gia mà ông đại diện. Nhưng phải thừa nhận rằng những bài diễn văn ấy đỡ “phô” hơn, thậm chí dễ chịu hơn hẳn, và khác xa những diễn văn nội địa của chính ông và các nhà lãnh đạo ở trong nước. Khác từ cách hành văn khác đi.
Một câu văn chính trị chuẩn trong tiếng Việt hiện đại là một thiết kế gợi nhớ đến những dàn giáo trùng trùng lớp lớp. Nó có thể mở đầu như sau: “Thực hiện Nghị định A, nâng cao quyết tâm B, phát huy thế mạnh C, kiên quyết khắc phục yếu kém D, chủ động nắm bắt thời cơ Đ, tăng cường quản lí E, đề cao tinh thần F, thắt chặt G, củng cố H…” Sau hàng ngàn cụm vị ngữ nối tiếp nhau xông lên ấy, chủ ngữ cũng xuất hiện, chẳng hạn “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta“, để ngay sau đó chủ ngữ siêu nhân ấy sẽ thực hiện hàng vạn hành vi phức tạp trong cùng một câu, có thể như sau: “khai thác các lợi thế I, xây dựng vững chắc K, chỉnh đốn toàn diện L, phát triển sự nghiệp M, phát huy những mặt tích cực N, hạn chế những tiêu cực O, hoàn thiện và mở rộng P, đào sâu và đẩy mạnh Q, tích cực triển khai R, quyết liệt thực hiện S…”[3] Có người giải thích cho tôi rằng những dàn giáo chóng mặt này không xuất hiện trong các diễn văn xuất khẩu của Thủ tướng, đơn giản vì lí do dịch thuật. Tôi không thấy việc dịch những quái vật tiếng Việt ấy sang một ngôn ngữ quốc tế là bất khả, song tác động của loại diễn văn dàn giáo đó như thế nào, chính ông Thủ tướng và nhóm ghostwriter của ông biết hơn ai hết. Chính trị không phải chỉ là nói gì, mà nói như thế nào. Chính trị còn là phong cách.
Người ta nói đến Abenomics của Thủ tướng Nhật Abe Shinzō, Likonomics của Thủ tướng Trung Quốc Li Keqiang (Lí Khắc Cường) như những chương trình cải cách sâu rộng hai nền kinh tế quốc dân này. Tôi nghĩ Thủ tướng Việt Nam cũng có thể cống hiến một khái niệm, Duconomics, mà nội dung là duy trì một nền kinh tế bí hiểm ở trong nước kết hợp với phong cách cà-vạt diêm dúa và diễn văn xuất khẩu bay bướm ở nước ngoài.
Trở lại với chuyện lời thề. Trái với dư luận dai dẳng và đôi khi sốt hầm hập về tranh chấp ở tam giác thượng tầng chính trị Việt Nam, càng ngày tôi càng có cảm giác rằng bộ ba ngự lâm Nguyễn Tấn Dũng – Trương Tấn Sang – Nguyễn Phú Trọng là một khối bền vững, cùng sống, cùng chết và cùng hết lòng phụng sự chiếc ngai vàng của Đảng theo một phân công lao động hoàn hảo. Trong khi người đứng đầu chính phủ đánh bóng một bộ mặt Việt Nam văn minh, hội nhập, tân thời thì ông trùm Đảng mài vũ khí giáo điều và vị Chủ tịch Nước làm chiếc đồng hồ quả lắc, để thỉnh thoảng phát ra thậm chí vài tín hiệu như thể chúng ta đang ở những phút cuối cùng trong đêm trước của một cuộc cách mạng đầy mong đợi.
“Một người vì tất cả, tất cả vì một người”, lời thề ngự lâm như một trích dẫn dở ở bục Liên Hiệp Quốc là thực tế không cần trích dẫn tại chóp bu quyền lực chính trị Việt Nam.
© 2013 pro&contra
[1] Đệ tử cà-vạt số một của Thủ tướng chắc chắn là Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, đệ tử cà-vạt số hai có thể là Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.
[2] Mấy ngày trước trên kênh truyền hình Pháp Canal+, khán giả có thể thưởng thức xuất diễn của Thủ tướng Việt Nam khi ông ”trở lại thăm nước Pháp ở Châu Âu và trên thế giới“.
[3] Hiến pháp Việt Nam, văn bản chính trị tối cao của quốc gia, là chỗ lí tưởng để trưng bày những mẫu văn dàn giáo như vậy. Ví dụ: “Nhà nước ban hành chính sách đầu tư, phát triển sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân; huy động các nguồn lực để xây dựng nền y tế hiện đại, công bằng, hiệu quả; phát triển nền y học Việt Nam theo hướng kết hợp đông y và tây y, phòng bệnh và chữa bệnh; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân và tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe; ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khỏe cho đồng bào miền núi, hải đảo, dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn khác.” (Điều 62.1. Dự thảo sửa đổi 2013)
Phan Nhật Nam - Tính Thiện- Sự Thật Chỉ Là Một
Phan Nhật Nam
Lời người viết: Người Bạn Trần Phong Vũ đã viết đủ trong “Nghĩ về Nguyễn Chí Thiện” (NV số 8339 ngày 6 tháng 10/2008), nhưng Trần Huynh chưa đề cập đến những “chung quanh, đằng sau Nguyễn Chí Thiện”, bài nầy vì thế năm 2008 được viết lần thứ nhất để bổ túc. Và hôm nay, Ngày 2 Tháng 10, Năm 2012, Thi sĩ đã ra đi về cõi Vĩnh Hằng Trong Vinh Hiển Hồng Ân Thiên Chúa. Những cáo buộc trước kia về Nguyễn Chí Thiện THẬT/GỈA lộ nguyên trạng chỉ là biểu hiện của Sự Ác. Người viết nhận thấy cần phải lên tiếng thêm một lần – Lần Cuối cùng bởi SỰ THẬT LỚN NHẤT LÀ CÁI CHẾT. NGUYỄN CHÍ THIỆN VƯỢT QUA, LÊN CAO SỰ ÁC NHƯ DANH T ÍNH CAO QUÝ CỦA ÔNG.
I. Diễn tiến tổng quát: Tình hình sinh hoạt chính trị, văn hóa, xã hội vùng Nam Cali lâu lâu bùng vỡ một vài sự kiện bất thường có tính cách định kỳ, và điểm rõ nét nhất có thể kết luận đối với loạt hiện tượng nầy là tính dân chủ của những hình thức sinh hoạt ấy – Người Việt tự do bày tỏ ý kiến của mình về người/việc xẩy ra trong cộng đồng hải ngoại – Tốt, xấu chúng ta chưa thể đánh giá, chỉ biết đấy là một hiện tượng thường trực, chung nhất.
Khởi đầu từ tháng 9 và hiện đang kéo dài,.. một nhân vật đã gây nên bàn cãi qua các diễn đàn trên hệ thống NET mà danh tính xuất hiện thường xuyên trên trang nhất (và chiếm toàn phần 2, 3 trang trong) của Báo SàigònNhỏ (Nhật báo lẫn Tuần báo) đấy là Nguyễn Chí Thiện. Trước và song song với vụ việc nầy, ông thường có mặt nơi các diễn đàn, hội thảo chính trị.. Trở nên là đối tượng nhận được sự hoan nghêng, chào đón nồng nhiệt, lâu dài nhất so với những nhân vật được đám đông biết đến (cho dù là công dân, viên chức của VNCH) suốt từ thời gian ông đến đất Mỹ, 1995 đến nay, 2008. Nhưng đồng thời cũng gặp phải những chống đối do từ những cá nhân, tổ chức khác - Diễn tiến chống đối nầy có thể tóm tắt theo thứ tự giai đoạn và mang những hình thái, lý do như sau:
1. Giai đoạn 1995-1996: Sự chống đối, phủ nhận đầu tiên khởi từ người, tổ chức của báo Vạn Thắng (Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử Lê Tư Vinh, Washington DC giữ chức chủ nhiệm); hoặc những người viết như Duy Xuyên (Houston, Texas) với những lý do:
11. Nguyễn Chí Thiện có mặt nơi đất Mỹ (từ 1/11/1995) kia là một “cán bộ (tình báo) cộng sản” giả dạng. Người và tổ chức kể trên “khẳng định”: Có một Nguyễn Chí Thiện “thật”, tác giả tập thơ Vô Đề/Tiếng Vọng Từ Đáy Vực/Hoa Địa Ngục, nhưng người ấy đã bị (cộng sản) giết chết trong trại tù ở miền Bắc Việt Nam, và Nguyễn Chí Thiện “giả” hiện nay thay thế.
12. Tập thơ mang những tiêu đề khác nhau: Vô Đề/Tiếng Vọng Từ Đáy Vực/Hoa Địa Ngục.. trên có xuất xứ (từ tinh thần và nội dung) của Huyết Hoa, Đạo Trường Ngâm của Nhà Cách Mạng Thái Dịch Lý Đông A - Nguyễn Hữu Thanh (không rõ năm sinh), nhân vật lịch sử đã gia nhập tổ chức Phục Quốc của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để; thành lập Đại Việt Duy Dân tại Trung Hoa, 1941-1942; bị cộng sản giết năm 1946 cùng lần với nhiều thành viên Duy Dân. Phong trào còn lại những cán bộ cốt cán: Phạm Xuân Ninh, Giám đốc Thanh Niên Thể Thao Bắc Việt (1947); Lê Quang Luật, Đại Biểu Chính Phủ (1954); Nghiêm Xuân Thiện, chủ nhiệm báo Thời Luận (Sàigòn, 1963); Ngọc Hoài Phương, Chủ Nhiệm Báo Hồn Việt (CA) hiện nay lúc ấy giữ nhiệm vụ thư ký tòa soạn. Cao điểm của tố cáo nầy là một bài viết của Giáo sư Trần Ngọc Ninh đăng trên báo Vạn Thắng về sự mạo danh của NCT (dụng thơ của họ Lý). Sau đó, giáo sư TNNinh đã có lời đính chính về sự nhầm lẫn của mình.
13. Nhóm nầy đánh giá, Hoa Địa Ngục II (Hạt Máu Thơ), US.1996 chỉ là những “bài vè” (cốt để) nối kết giòng thơ “đánh tráo, giả danh” kể trên #12
Chúng tôi gọi nhóm nầy là “Nhóm chống đối/Lý Lịch/Chính Trị/Văn Học”.
2. Giai đoạn 2001-2008. Sau một thời gian im lặng khi báo Vạn Thắng không còn hoạt động, những thành viên gốc quân đội (Bạn thân, cùng khóa sĩ quan, cùng đơn vị nhảy dù với người viết-PNN) dần rời bỏ tổ chức. Những năm 2001, 2006.. vấn đề NCT dần trở lại khi ông ra mắt Hỏa Lò (Tập Truyện, NXB Cành Nam, TH/XB/MĐHK, VA, US. 2001), và quan trọng hơn là Hoa Địa Ngục Toàn Tập (NXB Cành Nam, TH/XB/MĐHK, VA, US.2006). Lần nầy, phía chống đối tấn công với ý hướng mới: Chấp nhận có một Nguyễn Chí Thiện “thật” do, từ lý lịch gia đình, cá nhân, nhưng vẫn không là “Nguyễn Chí Thiện thật của Hoa Địa Ngục (I) – Và thời điểm, sự kiện đưa tập thơ Vô Đề/Hoa Địa Ngục vào Sứ Quán Anh ngày 16/7/1979 cần phải được xác chứng lại để minh định: Ai là tác giả đích thực của những giòng thơ bi tráng hào hùng kia.
Năm 2008 vấn đề trở nên quan trọng hơn qua loạt bài của người viết tên là Trần Thanh, phổ biến trên hệ thống NET và gởi đến tòa sọan SGN (Garden Grove, Ca) khiến Chủ biên Hoàng Dược Thảo chú ý, dẫu “không hiểu tại sao có hiện tượng (xét lại thật hay giả)” nầy - Đào Nương, Những điều nên nói “Chuyện Dài..Ông Nguyễn Chí Thiện”, SGN số #14; 9/4/2008. Từ khởi đầu “không biết từ đâu” của ngày (9/4) trở thành biếm nhẻ “Thi Sĩ hay “Vè Sĩ” qua bài viết của Triệu Lan mà người chủ biên dẫu “không biết rõ xuất xứ” nhưng đánh giá, “những dẫn chứng (của người viết nầy-TL) thì rất xác đáng và hiện thực”. Và mong nhận được bài trả lời của ông NCT – Một người mà Đào Nương không xa lạ và (không) ác cảm gì. Báo số #21; 9/13. Sự cáo buộc không ngừng ở phạm vi chữ nghĩa (Thi sĩ/Vè sĩ -Thơ hay/Thơ dở), tiến tới đánh giá tư cách, tính hạnh của người gọi là “Thi sĩ/Vè sĩ” kia với xác định: “ông Nguyễn Chí thiện là một người gian dối, không lương thiện”; “Thi sĩ/Vè sĩ” thật chân tướng là “Láo Sĩ”. SGN số #32; ngày 9/28. Và cuối cùng, qua bài viết liên tiếp trong những số báo 32, 33, 34, 35, 36, 37.. với lời mời (mang nội dung, tinh thần có tính cách bắt buộc): Ông Nguyễn Chí Thiện (phải) chấp nhận một cuộc “giảo nghiệm chữ viết” để làm sáng tỏ một “Nghi Án Văn Học” – Ai là tác giả thực sự của Vô Đề/Hoa Địa Ngục/Tiếng Vọng Từ Đáy Vực – Tập thơ mà ông Nguyễn Chí Thiện (“thật” của hôm nay) đã đưa vào Tòa Đại Sứ Anh tại Hà Nội ngày 16/7/1979 mà hiện đã được Bộ Ngoại Giao Anh hoàn trả (Tổng Thư Ký Đinh Quang Anh Thái, Việt Tide, Westminster, Ca mang lại tại địa chỉ 4117 McFadden, Santa Ana 92714 #410 trao tận tay cho Ông Nguyễn Chí Thiện –PNN). Cuối cùng, vấn đề được bạch hóa không phải là văn học, thơ phú nữa, Nguyễn Chí Thiện “hiện nguyên hình với dấu ấn trên trán “Made in Yết Kiêu –Triệu Lan; SGN # 257; 10/4” – Có nghĩa, NCT là một cán bộ tình báo cộng sản được huấn luyện ở Trung tâm phản gián Yết Kiêu, Hà Nội. Hơn thế nữa, anh ông Thiện, Trung Tá Nguyễn Công Giân, Phòng II/BTTM/QLVNCH theo phát hiện “mới nhất” đã đi Hà Nội hai lần, 1958 và 1972 (ĐN, SGN # 37; 10/4). Và toàn bộ bài viết về, của NCT.. “sáng hôm nay (10/5) trên Web Site của giáo sư Dan Ruffy (ĐH/Yale), và giáo sư Jean Libby (ĐH/Berkely) đã bị xóa đi.. NCT hẳn đã biết số phận mình sẽ ra sao vì, “tôi (ĐN) nghĩ giới hữu trách Hoa Kỳ đã biết ai là giả ai là thật rồi..” (Bold, Italic trong nguyên bản).
Song song cùng lần với vụ việc (nêu trên) của SGN, có những bài viết khác trên hệ thống NET (tháng 8, 9/2008) điễn hình với Tôn Nữ Hoàng Hoa (Texas), Thế Huy (Pháp).. qua phân tích kỹ thuật làm thơ, tu từ, tượng trưng, hư cấu của Nguyễn Chí Thiện trong Hoa Địa Ngục (I), so với Hoa Địa Ngục (II, Hạt Máu Thơ).. Những người nầy đồng kết luận: Nguyễn Chí Thiện “thật” đang hiện diện (giữa cộng đồng) nhưng không thể là “tác giả của Hoa Địa Ngục (I) – Tác phẩm nầy “phải” là của một tác giả Vô Danh.
Chúng ta có thể gọi khuynh hướng chống đối trên đây là: “Nhóm chống đối/Văn Học/Chính Trị”.
3. Nhóm chống đối/Thuần túy chính trị. Ngoài hai nhóm chống đối kể trên, có những người viết khác, như Nguyễn Văn Chức (Houston, Texas); Đặng Văn Nhâm (Đan Mạch).. cũng thường xuyên nhập trận với những phê phán nặng nề về quan điểm, thái độ, hành vi chính trị của NCT. Những tác giả nầy không chú ý đến yếu tố lý lịch cá nhân, những nội dung (thơ, truyện) do NCT viết nên nhưng đồng có chung một quy kết nhất định (bất khả tương nghị): Nguyễn Chí Thiện là cán bộ “cộng sản nằm vùng”, hoặc là một tên “trá hàng” trong hàng ngũ cộng đồng người Việt hải ngoại do Hà Nội bí mật gài vào qua thủ tục nhập cư hợp pháp ở Mỹ. Cách quy chụp nầy không trưng một bằng chứng cụ thể nào, thiếu tính lý luận, cố ý tấn công, mạt sát cá nhân NCT nên chúng tôi sẽ không đề cập trong bài viết nầy.
Tóm lại, do có những quan hệ cụ thể (tinh thần và vật chất) với Nguyễn Chí Thiện trong một thời gian gian dài (từ 2001), và nay ông ta đã rời khỏi nơi trú ngụ chung (4117 McFadden, Santa Ana 92714 #410 từ 7/2008), nên chúng tôi nhận thấy đã đến lúc có đủ yếu tố khách quan để khỏi mang tiếng “cố ý bênh người cùng nhà” – Đồng thời cũng do quan niệm “phải nói lên những điều nên nói..” như báo SàigònNhỏ hằng chủ trương thực hiện giữa “Người Việt Nam không cộng sản”. Lời cuối cùng, dẫu có thể dư thừa nhưng cũng phải xác định thêm một lần: Chúng tôi không ám chỉ, quy chụp những đối tượng nhắc đến trong bài viết là “cộng sản/cộng sản nằm vùng/ tay sai cộng sản” như thói quen quy kết, chụp mũ rất đáng chê trách trong cung cách sinh hoạt chính trị thiếu tính dân chủ và lòng tự trọng (trọng mình và trọng người) thường xẩy ra giữa những cá nhân/tổ chức người Việt”.. Mà chỉ do nhu cầu cần làm sáng tỏ những vấn đề từ những cá nhân/cơ quan nầy đặt nên. Chúng tôi không thực hiện lần “binh hay chống” một cá nhân tên gọi Nguyễn Chí Thiện – Nhưng xử dụng chữ nghĩa, tài liệu (hiện có) để trình bày về Một Sự Thật – Và Sự Thật luôn là điều Hợp Lý.
Và thật lòng mong muốn sau bài viết nầy; lần trình chiếu hai Talk Show của Chu Tất Tiến (đã thâu hình) trên hệ thống SBTN (Đề cập đến người/việc liên quan sự kiện NCT); lần hoàn tất thủ tục Giảo Nghiệm Chữ Viết do Chuyên Viên Giám Tự dự trù (nếu được) thực hiện giữa Ông Nguyễn Chí Thiện và Báo Sàigòn Nhỏ - Vấn đề ắc sẽ có một kết luận chung nhất, cuối cùng - Nguyễn Chí Thiện, Ông là Ai? Ai là Thực Tác Giả của tập thơ Vô Đề/Hoa Địa Ngục (I)/Tiếng Vọng Từ Đáy Vực?Lần đưa tập thơ vào Tòa Đại Sứ Anh (16/7/1979) đã (thực) xẩy ra như thế nào? Và tại sao ĐÃ xẫy ra hiện tượng chống đối hôm nay? Tất cả để dồn sức mạnh tổng hợp của Cộng Đồng Hải Ngoại vào những mục tiêu: Hệ thống gọi là cộng sản hiện cầm quyền tại Hà Nội (qua hiện tượng đàn áp Khu Nhà Chung Thái Hà); Và cấp thiết hơn nữa là sự đe dọa (rất có khả năng ) đến từ Bắc Kinh với đất, biển quê hương càng ngày càng bị đe dọa, thâu hẹp lại.. Mong lắm thay.
II. Nguyễn Chí Thiện,
Người Có Thực giữa những người chịu khổ nạn không chấp nhận chế độ cộng sản
1. Về lý lịch, gia cảnh:
11. Nguyễn Chí Thiện, sinh năm 1939, chánh quán Thôn Thượng Thọ, Xã Mỹ Thọ, Huyện Bình Lục, Tỉnh Hà Nam, con Cụ Đồ Nguyễn Công Phụng. Điều nầy được xác nhận không phải ai khác mà là chính người đã mạt sát NCT thậm tệ qua bài đăng trên NET ngày 4/10/08 - Đặng Văn Nhâm: “Đúng, tên Nguyễn Chí Thiện là thật, thật 100%.. Nhưng..” ĐVNhâm xác nhận với Nguyễn Thanh Hùng (Dallas, TX), người thân cận “mầy tao chi tớ” với ĐVN, cũng là người cùng quê với NCTh từ tấm bé. Xác nhận còn nói rõ: “Nó (NCT) thua mầy với tao sáu tuổi (Sinh 1939- pnn)”. NCThiện và NTHùng vẫn giữ nguyên liên lạc (qua điện thoại), hoặc gặp mặt (Lần NCT ra mắt sách Hỏa Lò tại Hội Quán Little Sàigòn, 5/2006). NTHùng là người đọc bài văn tế Chiến Sĩ Trận Vong trong buổi lễ Ngày Tù Nhân Chính Trị VNCH tại Dallas, 4 tháng 10, 2008 vừa qua.
12. NCT sinh tại Phố Lò Đúc (Hà Nội), năm 1957 theo gia đình dọn hẳn về Hải Phòng. Nhưng không phải chỉ đến 1957 NCT mới đi Hải Phòng, cuối năm 1954 đã một lần xuống đấy để đưa người bạn thiếu thời đi Nam: Nguyễn Ngọc Bội (Giáo sư văn hóa Võ Bị Đà Lạt trước 1975); hiện ngụ tại Westminster, CA
2. Về liên hệ nơi trại tù:
21. Đợt tù đầu tiên (1961-1964/Trại Phú Thọ) do Án Lệnh Tập Trung Cải Tạo (Ba năm/Một lệnh tập trung) bắt đầu áp dụng cho toàn Miền Bắc (vẫn tiếp áp dụng cho cả nước sau 1975) từ Sắc Lệnh “An Ninh Tổ Quốc” - Biện pháp chuyên chế (bắt giam người vô thời hạn không cần án lệnh của tòa) được thi hành sau Đại Hội 3 Trung Ương Đảng (5/1960), tiến tới lần thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (20/11/1960). Lần đi tù nầy gặp Nguyễn Văn Phổ (Con Cụ Nguyễn Văn Vĩnh – Một trong bốn nhà văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ: Phạm Quỳnh-Nguyễn Văn Vĩnh-Phạm Duy Tốn-Nguyễn Văn Tố); Trần Thiếu Bảo, NXB Minh Đức, Hà Nội, nhà in ấn hành Nhân Văn-Giai Phẩm.
22. Lần tù thứ hai (1966-77/Phần lớn thời gian bị giam ở Trại Thanh Phong, Yên Bái), chung với các bạn tù:
- Cụ Vũ Thế Hùng (Nhân sĩ Hà Nội trước 1954); thân phụ Linh Mục Vũ Khởi Phụng (hiện tại là một trong những vị chủ chăn ở Thái Hà); Bà Vũ Triều Nghi (hiện là cư dân San José, Ca). Bà VTNghi đã về VN sau 1991 thăm cụ VTHùng, gặp NCThiện, Phùng Cung.
- Các bạn văn, Phùng Cung, Vũ Thư Hiên (Tù miền Bắc thuộc diện “chống đối văn hóa”)
- Các biệt kích miền Nam, Nguyễn Hữu Luyện, Đặng Chí Bình, Lưu Nghĩa Lương, Lê Văn Bưởi (người biệt kích kiên cường vượt sông Bến Hai ra Bắc từ 6/1961).. Những người thuộc “Nhóm BK – đọc là Bê-Ka/Biệt Kích” sau 1977 chuyển về Trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa (Tại trại nầy, người viết (Pnn) lần đầu nghe chuyện kể về NCT: “Đi tù do tội bị “nghi” làm thơ chống đối chế độ (Diện văn hóa)”; chưa xẩy ra vụ việc đưa thơ vào Toà Đại Sứ Anh, 16/7/1979”. Buổi Hội Ngộ Biệt Kích Quân (7/7/2007) tại nhà hàng Emerald Bay (Fountain Valley, Ca), NCT được mời phát biểu về Tinh Thần/Khí Phách của Người Lính Biệt Kích (DVD Đại Hội Biệt Kích ND), ngồi cùng bàn khách danh dự với các ông Vũ Quang Ninh, Nguyễn Hữu Luyện. BK/LNLương (hiện ngụ tại 4117 McFadden, Santa Ana 92714 # 19) vẫn thường giúp đở, đưa đón NCT trong các sinh hoạt hằng ngày do quý trọng phẩm chất, tư cách của NCT thực chứng nơi trại giam từ 30 hơn năm trước.
23. Lần đi tù thứ ba (1979-1991). Lần đi tù nầy chuyển qua nhiều trại: Hỏa Lò (Hà Nội);Thanh Phong, Thanh Cẩm (Thanh Hóa); Thanh Liệt (Hà Đông).. Tại trại Ba Sao (Nam Hà), Hà Nam Ninh, NCT ở tù chung với Linh Mục Nguyễn Văn Lý (Cha Lý chuyển đến trại nầy ngày 8/1/1988 từ trại Thanh Cẩm chung cùm tay (hai người một cùm) với người viết-Pnn)
3. Về diễn tiến thủ tục nhập cư vào Mỹ:
31. 11/1995, Nguyễn Chí Thiện đến Mỹ do vận động của Bác Sĩ Norobu Masuoka (Hiện ở San José, Đặc phái viên của chính phủ Mỹ phụ trách những tù nhân đặc biệt), người đã thành công đưa được Thiếu Tá Nguyễn Quý An, (phi công trực thăng bị thương nặng mất hai tay khi cố cứu viên phi công Mỹ); nhà văn Đặng Chí Bình qua Mỹ trong dịp Tết 1993/1994. Đặng Chí Bình, điễn hình thành phần biệt kích bị bắt trước 1968 (không được trao trả theo điều khoản của Hiệp Định Paris 1973 vì khi xâm nhập ra Bắc họ phải giải ngũ khỏi QL/VNCH) chỉ đến Mỹ được bởi kết quả từ vận động nầy (Trước đợt vận động quy mô của Sedgwick Tourison để đưa toàn bộ Biệt Kích Quân VN qua Mỹ). Và cụ thể hơn hết, Đại Tá Norobu Masuoka là người đã vận động đưa Trung Tá Bùi Quyền qua Mỹ gặp Tổng Thống Bush (Bố). Trung Tá Quyền, thủ khoa Khóa 16 Trường Võ Bị Đà Lạt, nguyên tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 ND, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 2 Dù cho đến Ngày 30 Tháng 4, 1975. Trung Tá Quyền có người con chung khóa phi hành với cựu Tổng Thống Bush (con) ở Texas.
32. Hồ sơ nhập cư INS do người anh ruột thiết lập - Trung Tá Nguyễn Công Giân, Sĩ Quan Quân Báo/Phòng 7/BTTM/QLVNCH, Khóa 4 Thủ Đức (1954). Ông Giân cùng khóa với Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (NCTh đã nhiều lần cùng người anh đến thăm viếng TrTướng NQTrưởng khi người còn sinh tiền); gia đình Trung Tá Giân hiện ngụ tại 11XX Alabama, Hendron, VA 20170. Và cuối cùng, Trung Tá Giân là bạn đồng nhiệm sở tình báo với Đại Tá Lê Đạt Công, Trưởng Phòng 2/Quân Đoàn III- Nhạc phụ của chính cá nhân người viết–PNN.
Từ những yếu tố khách quan, cụ thể kể trên kéo dài từ năm sinh 1939 dài đến hôm nay (2008) với chứng kiến/sống cùng của những bạn hữu thời thơ ấu: Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Ngọc Bội; những bạn văn: Phùng Cung, Nguyễn Hữu Đang, Vũ Thư Hiên; bạn tù: Phan Hữu Văn, Vương Long, Kiều Duy Vĩnh (Sĩ quan Quân Đội Quốc Gia bị tập trung cải tạo sau 1954 ở miền Bắc); Nguyễn Hữu Luyện, Lưu Nghĩa Lương, Đặng Chí Bình.. (Biệt Kích VNCH bị bắt trước 1975); Võ Đại Tôn (sau 1975); LM Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Lễ (Những người tù lương tâm miền Nam bị tù sau 1975).. Và trong thời gian 13 năm nơi hải ngoại (tính đến tháng 8/2008) giữa cộng đồng Người Việt khắp trên thế giới, với những nhân vật thuộc giới văn hóa, chính trị toàn cầu – Nguyễn Chí Thiện thật sự (đầy đủ) xác chứng với chúng ta – Ông là một điễn hình của Lương Tâm, Bản Lãnh Việt Nam tranh đấu cho Tự Do và Dân Chủ.
Cuối cùng, nếu như những yếu tố trên chưa thuyết phục được sự công nhận về chứng chỉ, lý lịch, việc làm của Nguyễn Chí Thiện, chúng tôi xin trình bày biện pháp, yếu tố pháp lý, sự kiện thực tế hầu có kết thúc quyết định vấn đề nầy.
- Xin thông báo đến đến cơ quan FBI về lần nhập cư bất hợp pháp của một “cán bộ (tình báo văn hóa) cộng sản” giả danh Nguyễn Chí Thiện, vì luật pháp Mỹ vẫn còn rất nhiều ràng buộc đối với đảng viên đảng cộng sản khi nhập cư, lúc thiết lập chứng chỉ Thường Trú Nhân, khi tuyên thệ vào quốc tịch. Trong những ngày tới, chúng ta, cư dân tỵ nạn cộng sản của Tiểu Bang California sẽ chuẩn bị đối phó với Dự Luật SB 1322 nhằm hủy bỏ những điều khoản “Cấm hoạt động cộng sản trong trường học.”
- Giáo sư Jean Libby, Đại Học Berkely (CA) đã hoàn tất phần giảo nghiệm hình ảnh của Nguyễn Chí Thiện qua so sánh giữa những bức hình: Một của Nguyễn Chí Thiện tuổi thanh niên (Phụ bản bìa tập thơ Hoa Địa Ngục I) và những ảnh chụp năm 2006 do chính bà bấm máy. Bản kết quả giảo nghiệm thực hiện bởi Viện Giảo Nghiệm Stutchman, 421 Walnut Street, #120, Napa, CA 94559 kết luận: “Có 8 điểm dị biệt đặc thù phân bố trên mặt và trên tai của người đàn ông trong hai tấm hình #1 và #2 và hình in trên bìa sách. Căn cứ trên sự xét đoán, so sánh, và phân tích của bản thân cá nhân, thì tôi có nhận định rằng: Người đàn ông trong những tấm hình chỉ là một người” (Chúng tôi đính kèm bản kết văn quả giảo nghiệm. Về những tấm hình giảo nghiệm, NCT đã trình bày trong một cuộc họp báo chính thức ở khách sạn Ramada, Garden Grove, CA. Pnn).
Cuộc giảo nghiệm do đích thân giáo sư Jean Libby lập thủ tục tiến hành (Ngày 3 Tháng 8/2006), vì dẫu rất mến mộ tư cách cá nhân cũng như tài năng của NCT nhưng do tinh thần làm việc thực tế, chính xác của người Mỹ, bà muốn có bảo đảm về lý lịch Nguyễn Chí Thiện (nhỡ sau nầy có những tranh tụng về pháp lý – Như hiện nay đang xẩy ra với vụ việc SGN) trước khi Đại Học Yale tiến hành việc in Hỏa Lò dịch sang Anh Ngữ. Cũng bởi, người Mỹ với tính thuần lý và tâm lý thực tiễn, họ không nghĩ một con người như thế mà sống sót sau 27 năm tù.. Lại là tù cộng sản Việt Nam, mà không những chỉ sống sót mà còn viết văn, làm thơ. Nghi ngờ cũng hợp lý đối với những người (dẫu) có hảo ý khác. Và nếu người viết không lầm đó cũng là ý hướng đầu tiên của Báo SàigònNhỏ với Chủ Nhiệm Hoàng Dược Thảo, nhưng qua đến tháng 10/2008 vấn đề tập thơ và sự việc đã được (hay bị) đẩy đi quá xa theo một hướng khác. Chúng tôi trình bày tiếp theo sau.
III. Nguyễn Chí “Thật”/Sống Sót và Nguyễn Chí Thiện “Giả”/Thơ Văn
Khi bắt đầu bài viết, chúng tôi có ý nghĩ, sự việc sẽ được giải tỏa toàn diện khi NCT trình bày bản thảo viết tay (mà bản thân đã xem qua tại nhà riêng, 4117 McFadden #410, Santa Ana trước ngày ông Thiện dọn ra) nhận được từ tay Đinh Quang Anh Thái (7/2008) trước một cử tọa đông đảo thuộc giới truyền thông báo chí (lẽ tất nhiên có tham dự của SGN). Ý nghĩ nầy càng thêm cụ thể khi bài viết của Tràn Phong Vũ được phổ biến (Người Việt, 10/6; trên hệ thống NET, 10/4).. Nhưng sự việc không còn giới hạn trong phạm vi thơ văn nữa (Về vấn đề “Ai là tác giả “thật” của Thơ Vô Đề”) mà đã qua một lĩnh vực khác với những khẳng định về tư cách, hành vi chính trị của NCT với những phát hiện mới của SGN (ĐN (nt, #37). Bài viết nầy cần phải viết thêm phần ba để nêu rõ hơn về diễn tiến của Người (NCT) và Việc (Thơ Vô Đề). Nếu những luận cứ cáo buộc trình bày sau đây mâu thuẫn với nhau (Thật/Giả chen lẫn) là do: 1/Những người (tố cáo) viết nhiều “nội dung/cách thức” khác (biệt) với nhau cho dù cùng nhắm đến một đối tượng duy nhất: NCT và Tập Thơ Vô Đề. 2/Bài họ viết tại những thời điểm khác nhau. 3/Những người nầy trích giải “Thơ Vô Danh/Vè NCT” do những mục đích khác nhau. Chúng tôi (Pnn) chỉ là người ghi lại.
Sau đây là những cáo buộc căn cứ từ lời Thơ (Có lúc được xem như là “thật” của NCT; có lúc được gọi là của Vô Danh) Tất cả đồng có mục đích chung kết với ba cáo buộc (không rơi vào một trường hợp nầy thì (phải) rơi vào một “xác định” khác): 1/Đấy là một Nguyễn Chí Thiện “giả”. 2/Nếu là Nguyễn Chí Thiện “thật” thì (lại) mang tội dùng Thơ “thật” của Vô Danh. 3/Nếu là thơ “thật” của NCT “thật” thì thơ đó (phải) gọi là “Vè” Tóm lại NCT (hiện sống) trước sau chỉ là một “cán bộ tình báo cộng sản trá hình”, làm vè cốt để đóng trọn vai trò của một “Thi Sĩ tên gọi Vô Danh (?) kiên cường chống cộng mà nay đã bị giết chết/hoặcbiến mất đâu đó từ một lúc nào không ai xác định (1979?) – Một thi sĩ có ba điều Không: Không tính danh/Không xuất xứ/Không có liên hệ với bất cứ ai đang còn sống, đang viết báo”. Không một ai trong số những kẻ dựng nên vấn nạn Thật/Giả nầy đã một lần nghe, thấy, biết gì về một KẺ VÔ DANH GỌI LÀ NGUYỄN CHÍ THIỆN (THẬT) ấy. Ông Vô Danh xin hãy một lần lên tiếng để nhận lại tất cả những gì mà Nguyễn Chí Thiện (Giả) đã mạo danh ông để chiếm đoạt.
Chúng ta cùng lượt qua những luận cứ cáo buộc.
31: Cáo buộc thứ nhất về xuất xứ: Báo Vạn Thắng (Lê Tư Vinh Chủ nhiệm), thời điểm 1995, 1996 cho rằng, Nguyễn Chí Thiện là “cán bộ tình báo cộng sản giả dạng”mạo Thơ Huyết Hoa, Đạo Trường Ngâm của Thái Dịch Lý Đông A. Cáo buộc nầy không thể đứng vững vì Nhà Cách Mạng Lý Đông A bị cộng sản giết từ 1946. Thơ của họ Lý mang không khí lãng mạng, hùng tráng cổ điển: Ta về đây đứng bên bờ thác Nậm. Mặc heo may hun hút gió hờn oan.. Thơ (“tạm” gọi là) của NCT thì đề cập đến thời sự: Khi Mỹ chạy bỏ Miền Nam cho cộng sản.. Cả nước thu về một mối. Một mối hận thù. Một mối đau thương (1975). Hoặc miêu tả thực tế đời sống lao tù: Thơ của tôi không phải là thơ.. Tiếng cửa nhà giam đen ngòm khép mở.. (1970)
32: Cáo buộc thứ hai về thể chất: Thơ (cứ xem như “thật” của NCT) nhưng lại không phù hợp với thực tế thể chất của NCT (hiện sống): Thơ của tôi không có gì là đẹp.. Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao.. Căn cứ vào những giòng thơ nầy, có những tố cáo từ nhiều người: 1/TNHHoa (Houston, TX): Nguyễn Chí Thiện không ho lao, NCT khoẻ mạnh, béo tốt.. 2/Trần Thanh: Nghi vấn về sức khoẻ (Ông Thiện dỏm rất khoẻ mạnh chớ không bị ho lao..) ĐN trích đăng NĐNN: SGN số # 14; 9/4). 3/Triệu Lan: “thi sĩ, văn sĩ, vè sĩ” Nguyễn Chí Thiện “mang bệnh” ung thư phổi, ho lao, ung thư và bị “tù” 27 năm.. nhưng khi NCT bước chân xuống Hoa Kỳ ngày1/11/1995 trông Thiện phương phi, khoẻ mạnh, với y phục thời trang veston, áo pullover.. như một “lãnh tụ” phường tuồng.. (SGN # 527; 10/4).. Chúng tôi có thể trích dẫn thêm nhiều cáo buộc về “thể chất” về NCT “dỏm” nữa, những nghĩ đã đủ.
Những suy diễn cáo buộc trên không đúng vì: 1/NCT thật có bị bệnh phổi nhưng ĐÃ CHỮA TRỊ XONG cơ quan IOM mới cho nhập cảnh Mỹ. Y chứng NCT còn sẹo ở phổi, phải chữa trị tiếp trong thời gian ở DC (1995/1996). Và lần ra đi 2 tháng 10 năm 2012 nầy y chứng đã xác nhận do phổi bị thoái hóa, đóng xơ cứng do di căn từ lao phổi trước kia. 2/Những từ ngữ “trào máu; ho lao; gông cùm; cùm kẹp..” thường dùng để chỉ tình trạng tồi tệ về thể chất bị đầy ải mà bất cứ ai khi mô tả, nói về ngục tù cộng sản cũng đều xử dụng đến. 3/Thơ không là hồ sơ y bạ, tiểu thuyết cũng thế.. Nhất Linh viết Bướm Trắng với nhân vật chính bị bệnh lao không bắt buộc văn hào họ Nguyễn phải có bịnh phổi. Thanh Tâm Tuyền viết Ung Thư; Solzhenitsyn viết Cancer Ward, chẳng lẽ phải mắc bệnh ung thư? Họa chăng chỉ riêng trường hợp Hàn Mặc Tử với căn bịnh nan y của ông. Quách Thoại chết năm 28 tuổi (1957) vì bệnh lao, nhưng không hề viết một câu thơ liên quan đến máu me, lao phổi mà chỉ viết nên những lời thơ hùng tráng: Trước mặt là cộng sản. Sau lưng là nội thù. Một mình tôi đứng giữa..4/Thơ (tiểu thuyết cũng thế) không bắt buộc phản ảnh đúng tình cảnh, sinh hoạt thực tế vật chất, tinh thần của người viết nên những nội dung văn, thơ ấy.. Tìm đâu ra một một người gọi là Từ Hải như Nguyễn Du mô tả: Râu hùm hàm én.. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.. Nguyễn Du lại càng không phải dạng hình hùng vĩ nầy. Vũ Trọng Phụng là nhà văn mực thước, cổ điển, ông không dính dấp gì đến những nhân vật quỷ quái của Số Đỏ. 5/Nguyễn Chí Thiện không là người “khoẻ mạnh, phương phi”.. Những tỉnh từ nầy phải kể về Đại Úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện (tù 21 năm, 4 tháng, 14 ngày); tù hơn 16 năm: Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo, Trung Tá Tình Báo Trần Duy Hinh (Hãy nhìn Nhà Văn Thảo Trường, chiến hữu rất đáng hãnh diện của tất cả Người Lính VNCH. Không ai có thể nghĩ rằng đấy là người đã qua hẳn bên kia cái chết tại trại tù Hàm Tân, 1988). Những người tù tồn tại bền bỉ (trong nhà giam cộng sản) không do từ sức mạnh cơ bắp, nhưng từ chiếc đầu nung lửa ý chí của họ. Chỉ có những kẻ hèn kém mới ngã gục, quy hàng trước đói khổ của lao tù do cai ngục cộng sản dựng nên (Kẻ ấy là ai, cuối bài, phần kết luận chúng tôi sẽ chỉ ra, trước đây ở Trại Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải). Và cuối cùng, NCT ăn mặc bảnh bao (suy diễn ra do được tình báo cộng sản cung cấp?!).. Chỉ với vài đồng, một, hai chục, chứ không cần phải bạc trăm, bước vào những khu Outlet, hoặc cơ sở bán đồ Clearance, Goodwill.. Tất cả sẽ có đủ. Chúng ta có thể hiểu, kẻ viết nên những cáo buộc mang tính săm soi nhỏ nhặt nầy đang ở Anh, ở Pháp nơi Tây Âu tàn lụi, hết là những “cường quốc thực dân”.
33. Cáo buộc về mâu thuẩn thân thế, tuổi tác, thời điểm sáng tác. Phần nầy, những người nêu cáo buộc căn cứ những câu.. “Tuổi hai mươi, tuổi bước vào đời.. Tuổi đôi mươi nhìn đời thơ dại.. Ngỡ cờ sao rực rỡ..” nên đề quyết rằng: Phải hai mươi tuổi mới làm những câu thơ hàm xúc ấy trong dịp xẩy ra sự kiện 2/9/1945 – Năm 1945 NCT mới 6 tuổi (sinh 1939) – Vậy, Thơ ấy phải do Tác Giả (tên gọi là) Vô Danh. Quả thật, chúng tôi vô cùng não nề khi viết đến những giòng nầy bởi đang phải nói với những con người “quái đản”, đề cập những câu chuyện tầm phào, kiểu cải cọ lý sự những anh tổng lý bang bạnh đâu từ nông thôn miền Bắc đầu thế kỷ 20.. Bởi, Thơ không hề là Bản Biên Niên sự kiện chính trị, quân sự, xã hội, ngay cả tiểu thuyết lịch sử cũng không hẳn là phải thế. Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-1977) viết sách Vua Quang Trung đâu phải là người đã tham dự xung trận Hà Hồi (1789); Vũ Hoàng Chương mô tả giờ phút hiễn linh Thượng Tọa Thích Quảng Đức hóa thân trong lửa không hề có mặt tại ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng, Sàigòn ngày 11/6/1963. Solzhenitsyn sinh 1918 viết August 1914 để gióng lên phần khởi đầu của cách mạng vô sản 1917. Cũng thế, bản thân cá nhân có đủ thẫm quyền (nếu muốn) để viết về Di Cư 1954 dẫu rằng năm ấy còn trong tuổi thiếu niên đang ở Đà Nẵng. Cáo buộc như thế để làm gì? Viết hai ba trang báo dựng nên những cái gọi là “luận chứng”: Ở Hà Nội năm 1959 không thể có sinh hoạt (qua hồi tưởng của NCT).. Mùa hè ăn bánh tôm bên Hồ Tây. Cô bạn ngồi bên như nàng tiên vậy.. để viết lung tung trong một loạt bài viết tố cáo càng ngày càng lộ cách mạ lý, vu khống, chụp mũ (sẽ nói ra ở phần kết luận tiếp theo sau). Hoặc “phân tích”: “Ở đất Bắc, thời đó (trước 1954 -pnn) người thanh niên có học, gia đình nề nếp, biết uống rượu, có bạn gái phải là tuổi trên dưới 20..” (Thế Huy, SGN #33; 10/01). Trời đất, vậy phải trình ra Bằng Lái Xe (nếu ở Mỹ), hoặc Chứng Chỉ Căn Cước (VN) trước khi viết thơ về rượu, người bạn gái sao? Chúng tôi có thể nêu danh tính hằng loạt bằng hữu (những người sinh khoảng trước, sau 40) đã ăn bánh tôm, có bạn gái, cùng đi chơi bờ hồ (trước 1954) ở Hà Nội.. để thời gian sau có thể viết về kỷ niệm nầy bất cứ ở đâu, ngay bây giờ năm 2008 ở Mỹ. Và cũng không cần nữa, ai cấm Dương Nghiễm Mậu viết “Quảng Trị, Đất Đợi Về (1972)” và Nguyễn Mạnh Trinh viết “Huế, nơi tôi chưa tới..” khi Phí Ích Nghiễm đang ở Sàigòn và NMTrinh biệt phái hành quân chỉ ở Pleiku. Và cô gái Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp vừa đủ 15 tuổi; hai cô Kiều của Nguyễn Du chỉ mới đến “tuần cập kê”.. Vậy chẳng lẻ những thiếu nữ lẫy lừng trong văn học, thi ca nầy không là con nhà nềnne61p hay sao? Và dù là người trong chế độ cộng sản đi chăng nữa, Dư Thị Hoài vẫn còn khả năng/đầy đủ quyền tự do sáng tác để viết nên những câu thơ thăm thẳm cảm tính, ăm ắp thương yêu: Một lần như đêm nay. Sau phút giây. Êm đềm trên ghế đá. Anh không cài lại khuy ngực áo cho em.. (Văn Nghệ, Hà Nội; Số tháng 7/1988) Thế nên không ai có thể truy kết: Dư thị Hoài không là “con nhà nề nếp” vì đã viết .
34. Cáo buộc về thay đổi thể thơ: Trước (Thi Sĩ Vô Danh) làm thơ dài câu, có nhạc điệu, thi tính cao, khẩu khí hùng tráng.. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó. (1968); Sau nầy (“Vè Sĩ” NCT) chỉ có những câu ngắn như vè.. Dầu đầu bạc. Dù đói rạc. Dù lực tàn. Vẫn bền gan.. (1988). (Thế Huy, SGN #33; 10/01). Chúng tôi có nhận xét từ kinh nghiệm 40 năm cầm bút, đọc sách: Thơ hay/Thơ dở không có nguyên tắc cố định nào để xét nghiệm; người làm thơ một đời chỉ để lại vài câu được đời sau nhớ đến. Anh cũng không thể buộc người khác đồng ý với cách anh bình giải về thơ của một người thứ ba cho dù anh có đủ tư cách của người phê bình văn học lão luyện được xác chứng bởi độc giả qua tác phẩm, quá trình hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Anh càng không có một khả năng nào buộc người khác phải viết và diễn đạt THƠ (của người ta) theo “quan điểm chính trị” của anh?! Ở đâu phát sinh quyền “ngự sử văn nghệ” nơi thế kỷ 21 mà thực chất chỉ là loại “chữ nghĩa” mang ác tâm từ những người gọi là “kẻ nghiên cứu ti tiểu” nầy. Nhưng, NCT cũng đã “làm vè” từ 1970.. Vợ con có thể bỏ. Cha mẹ có thể từ. Cộng sản thời sinh tử.. Vậy đây là thơ hay vè? Tôi chúng xin trả lời ngay theo ý các anh: Thơ của Vô Danh/Vè của NCT. Xin mách thêm: Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền cũng làm rất nhiều vè khi đi tù vác nứa ở Yên Bái. Chúng tôi ngừng trò vui nơi đây để đề cập đến một màn hài hước cuối cùng..
35. Cáo buộc từ khi ra hải ngoại (1995) không còn (khả năng) làm thơ. Cáo buộc nầy được lập đi lập lại bởi nhiều người do căn cứ trên thực tế: NCT viết tập truyện Hỏa Lò (2006) thay vì tiếp tục làm thơ – Vậy thơ Vô Đề hùng tráng trước kia chỉ là của Tác Giả (tên gọi) Vô Danh – Khẳng định nầy có tính chung quyết. Chúng tôi bổ tức thêm vào lối lý luận nầy những cớ chứng: Sau những câu Thơ Lịch Sử: Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư. Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư.. Danh Tướng Lý Thường Kiệt không làm một câu thơ nào nữa! Và nơi vùng Nam Cali nầy, chúng ta phải trả lời sao về trường hợp các Thi Sĩ (Thật Thi Sĩ) tên gọi Trần Dạ Từ, Trần Thị Thu Vân, Đỗ Quý Toàn, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Đình Toàn.. Hơn ba mươi năm không (tiếp tục) làm thơ nơi đất Mỹ?! Và sau đỉnh cao Ta Về thì Tô Thùy Yên hình như cũng cất bút.. Như vậy là thế nào? Và không những đối với Thơ, những bạn của chúng ta, Vũ Thành An, Từ Công Phụng.. những giòng nhạc trữ tình bất diệt của Miền Nam đã viết gì về tình yêu sau mấy mươi năm ở Mỹ? Và trái lại, chỉ khi trên đất Mỹ, vào buổi cuối đời Mai thảo, Võ Phiến mới làm thơ.. Vậy trước kia họ là ai? Chúng tôi không đủ cố gắng để kéo dài thêm màn khôi hài rất nhạt do những kẻ tiểu tâm, trí đoản và độc ác.
IV. Kết Luận. Trước khi bài viết kết thúc, chúng tôi xin trưng một tài liệu liên quan đến vụ việc (NCT/Giả/Thật/Thi Sĩ/Vè Sĩ) và một đề nghị. Tài liệu ấy là: Chứng Thư của Chuyên Viên Khảo Nghiệm Thủ Bút Dorothy Brinkerhoff (Trung Tâm Giảo Nghiệm Quốc Gia) Văn Phòng 4316 Boyar Ave, Long Beach, CA90807 gởi đến Ông Joe Nguyễn (Giáo sư, Nhà báo Nguyễn Sỹ Hưng) 3024 East Anaheim, Long Beach, Ca 90804. Chứng Thư có kết luận như sau: “Căn cứ vào những điểm tương đồng trọng yếu giữa tài liệu cần giảo nghiệm trong Văn Bản A và những mẫu ghi chép trong Văn Bản B, theo ý kiến của cá nhân tôi, người viết (cần được minh chứng) viết Văn Bản A và những ghi chép trong Văn Bản B có những điểm tương đồng thích ứng với nhau và chỉ do một người viết.” Chứng Thư Giảo Nghiệm Thủ Bút do Nhà báo, Nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng yêu cầu trung tâm giảo nghiệm thực hiện từ tháng 11/1995 căn cứ trên hai văn bản: Bản A gồm Lá Thư viết bằng Pháp Ngữ trang đầu tập thơ đưa vào Toà Đại Sứ Anh ở Hà Nội ngày 16/7/1979, và photocopy bản viết tay bài thơ Đồng Lầy, bài thơ Trang 21/Đánh số 34. Bản B là photocopy thư viết tay ký tên Chí Thiện gởi đồng bào hải ngoại 11/1995, tuần lễ thứ hai sau khi đến Mỹ của người có tên Nguyễn Chí Thiện. Nhà báo, Nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng do tính thận trọng đã giảo chứng thủ bút của NCT để có xác tín đối với lý lịch, căn cước của một cá nhân đã lập kỳ tích đáng nễ phục: Tồn tại sau 27 năm tù cộng sản với một ý chí tuyên dương Con Người Tự Do. Nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng giữ kín giảo nghiệm nầy do lòng kính trọng đối với Nguyện Chí Thiện – Đầu tháng 10/2008 ông giao lại cho NCT nhân vụ Báo SGN yêu cầu giảo nghiệm mẫu chữ viết của Thi sĩ/Vè sĩ/NCT Thật/Giả..
Và tiếp đề nghị như đã một lần đề nghị đối với vụ việc giảo nghiệm hình ảnh..Nếu như Chứng Thư Giảo Nghiệm chữ viết nêu trên không đủ yếu tố khả tín để thuyết phục vấn nạn: “Ai viết tập thơ Vô Đề? Vô Danh ông là ai?” thì những người không đồng ý về quyền sở hữu (tập thơ) của NCT xin hãy tập trung tất cả tài liệu có được (về NCT/Giả/Vô Danh/thật) gởi đến những cơ quan như Trung Tâm Văn Bút Quốc Gia Pháp, Hòa Lan, Mỹ để những nơi nầy thu hồi những giải thưởng, bằng khen đã phát cho NCT về những văn phẩm đã bị chiếm đoạt từ một tác giả Vô Danh. Cũng cần phải nêu rõ những yếu tố lý lịch, quá trình sáng tác, sản phẩm thành văn của tác giả Vô Danh nầy để các cơ quan hữu trách kia có chứng cớ hành xữ đối với Nguyễn Chí Thiện giả mạo. Chúng tôi trình bày với ý hướng truy cầu Sự Thật mà Báo Sài Gòn Nhỏ đã nêu ra khi đặt vấn đề từ ngày 4 tháng 9, 2008 nơi trang nhất số báo 14.
Nhưng đến đây, phần cuối của bài viết, tất cả sự việc như trên đã hóa ra điều vô ích! Bởi chúng tôi dần tìm ra/thấy được/biết rõ con người thủ vai trò đạo diễn, diễn viên, khán giả của vỡ kịch “tình báo/văn học gọi là Nguyễn Chí Thiện” mà từ phần đầu bài viết bản thân đã nói lên lời nghi ngại. Nhân vật “sợi chỉ hồng xuyên suốt” kia là Việt Thường Trần Hùng Văn, đầu mối của Triệu Lan, Trần Thành, Nam Nhân, Thế Huy, Trọng Tín..v.v.. mà Nguyễn Chí Thiện chỉ là một “Cái Cớ/Cái Cớ xứng đáng nhất”. Và SàiGònNhỏ là một phương tiện/Phương tiện hữu hiệu nhất với 16 trung tâm phát hành toàn nước Mỹ, ba hệ thống xuất bản, nhật báo, tuần báo, và nguyệt san với những cây bút chủ lực, chuyên nghiệp (gồm số đông thân hữu, huynh đệ của người viết, PNN) - Chủ Nhiệm Hoàng Dược Thảo đến đây hẳn hiểu tại sao tôi im lặng đến bài viết nầy trong năm 2008.
V- Hậu Từ: Chúng ta phải nói rõ về Trần Hùng Văn. Đấy là người đã từng giữ chức phụ tá chủ biên, phụ trách một trang mục của Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng cộng sản Việt Nam. Báo Nhân Dân có chức năng hành chánh như một Bộ, nhưng quyền lực chính trị mạnh hơn hẳn, trực thuộc Ban Tuyên Huấn Trung Ương đảng. THVăn là người Hoa chính gốc có người anh là Trần Đại Văn (Sẽ nói chi tiết về người anh nầy, bạn của Nguyễn Chí Thiện). Văn nằm vùng trong Báo Nhân Dân đến năm 1978 (trước lần Tàu đánh VN, 2/1979) thì bị lùa vào trại giam đồng loạt với tất cả những ai có liên hệ đến người Hoa theo chủ trương của Hà Nội; tất cả người gốc Hoa thì bị ghép vào tội “gián điệp thuộc Cục Tình Báo Hoa Nam”. Trong những trại tù đã ở sau giai đoạn 1979 nơi miền Bắc, người viết đã có dịp chung phòng kiên giam, nghe chuyện về những thành phần nầy như Họa Sĩ Nguyễn Đại Giang (hiện định cư ở Seattle, vượt biên sau khi ra khỏi tù trong thập niên 80), Lê Sĩ Thăng, Thiếu Tá Nhẫn (Trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa); hoặc những người Hoa như Mã Nhì, Lý Trường Trân (Trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa). Năm 1988, tôi từ miền Bắc chuyển vào Trại Z30D (Hàm Tân), tiếp nhận coi thư viện trại do chính Trần Hùng Văn phụ trách trước khi được thả. Ra tù, tôi đến chơi nhà NgĐHải, số 8 Lê Lợi, Sàigòn gặp lại THVăn nơi đây. Gặp lại THVăn, kiểm chứng thêm những thành tích do chính đương sự kể lại lúc ở Trại Z30D.. Bắt tình với một nữ cán bộ công trại, đi ngủ với đồ lót của nữ cán bộ nầy úp lên mặt nên bị giam kỹ luật; trong phòng giam kỹ luật đã lớn tiếng chưởi Hồ Chí Minh rất có bài bản nên đã thu phục lòng kính phục của những sĩ quan VNCH cùng bị giam ở trại Z30D. Tài năng và khả năng “chưởi” HCM của THVăn là một điều có thật –Tại sao chưởi? Chưởi để làm gì? Là những điều sẽ được soi rõ ngay sau đây. Những điều do THVăn kể cũng như nghe lại từ những sĩ quan VNCH nơi trại Z30D cuối cùng được hiểu ra như một cách KHỔ NHỤC KẾ rất quen thuộc của người Hoa. Giới tình báo người Hoa lại là những chuyển viên hàng đầu trong nghệ thuật dụng kế sách nầy. Với kế sách “khổ nhục hay tiện nhục kế” áp dụng tinh vi nầy, không loại trừ khả năng vận động của Hoa cộng trong hàng ngũ Việt cộng. Đến hôm nay thì điều nầy đã được dẫn chứng cụ thể với cảnh trẻ con Hà Nội đón Tập Cận Bình với cờ 6 ngôi sao; phó thủ tướng Hoàng Trung Hải là một người Hoa chính gốc. Kế sách khổ, tiện nhục của Trần Hg Văn thâu được kết quả trông thấy: Y ra khỏi trại có ngay hộ khẩu thường trú ở apartment trước tiệm Brodard, Đường Đồng Khởi hay là Tự Do trước 1975 và được qua Anh trong một thời gian ngắn. Tại Anh, Văn áp dụng kế sách và khả năng cũ với mục tiêu “chưỡi” HCM. Y chưởi rất thật và rất đúng bởi hai lý do: Báo thù cho anh, Trần Đại Văn phải tự tử vì không chịu nỗi đòn thù của cộng sản Hà Nội trong giai đoạn sau chiến tranh 2/1979; lễ tang của TĐVăn được tổ chức tại Chùa Châu Long, Hà Nội. Mục tiêu thứ hai là để thực hiện chiến lược: KHÔNG AI NGHE, NÓI VỀ HOÀNG-TRƯỜNG SA – Mục tiêu mà Trung Cộng-Việt Cộng hiện nay, 2012 đang áp dụng ở bước cuối cùng. Một danh tính của Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện được đánh đổi bởi mục tiêu chiến lược nầy thì quả thật cũng xứng đáng. Một điều cuối cùng: THVăn đã dựng nên một nhân vật gọi là “VÔ DANH” rất toàn hảo – Bởi đấy chính là Nguyễn Chí Thiện chứ không ai khác. Vì chính y ta đã nhiều lần từ Anh qua Pháp gặp ông Thiện để nói về thơ văn, cuộc sống tại Hà Nội ngày trước do ông Thiện từng có giao tình với cả hai: Trần Đại Văn và người em là.. Việt Thưởng, tức Nam Nhân, tức Lý Quân, tức Trần Thành, là Triệu Lan.. Toàn là tên Tàu cũng như Vương Đông Hải, Thầu Chín, Tống Văn Sơ, Lý Thụy.. của Hồ Chí Minh mà nhân viên tình báo cục Hoa Nam tên gọi là Trần Hùng Văn hiểu rõ hơn ai hết. Suốt năm 2012, qua năm 2013, những án phạt ở Việt Nam khiến người ở ngoài phải kinh ngạc: Chỉ vì khẩu hiệu “Tàu Khựa cút khỏi Việt Nam” viết bằng máu mà hai em Phương Uyên và Nguyên Kha phải chịu những án phạt giành cho bọn khủng bố, dự mưu lật đổ chế độ. Nói đến Tàu tức là một trọng tội. Người tranh đấu trong nước Bùi Minh Hằng đã nhiều lần xác chứng: Án phạt vì đả động đến Trung Quốc được thi hành theo lệnh của Đại sứ Bắc Kinh tại Hà Nội. Và thực tế nơi hải ngoại: Mối hiễm họa mất nước từ sự kiện Hoàng Sa-Trường Sa bị chiếm đóng hầu như không mấy ai để ý đến. Thế nên danh tính Nguyễn Chí Thiện vẫn được khởi động với Vấn Đề Giả như “NCT thật/giả; Ai viết Hoa Địa Ngục?” để che khuất mưu định chiến lược cuối cùng: Họa đến từ phương Bắc.
Ngày về trời của Người Thi sĩ Chiến Đấu cho Quyền Con Người, tôi viết lại bài nầy để những kẻ đánh phá Nguyễn Chí Thiện phải biết ngừng tay trước Sự Ác. Viết thêm một lần nhân ngày giỗ đầu của Nhà Thơ Sống/Chiến Đấu trong Lửa.
California, Ngày 2 Tháng 10, (2012-2013)
Phan Nhật Nam
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)