Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013
Đinh Tấn Lực - Ôm Vuột Chân, Chỉ Được Mỗi Vết Giày
Đinh Tấn Lực
Tranh: Igor Samarow – Nguồn: Dân Luận
Ôm Vuột Chân, Chỉ Được Mỗi Vết Giày
Chuyến này ngó như thử anh Tư chuẩn bị khá kỹ, do bởi chính mình thỉnh cầu hội kiến trước thời hạn hứa hẹn.
Tức là, chịu khó thu nhận ý kiến của Mát-xcơva, thăm dò thái độ của Tân Đề Li và Gia-các-ta, quan trọng nhất là ý kiến chỉ đạo sát nút của Bắc Kinh, rồi mới đi Mỹ.
Coi truyền hình nội địa về vở diễn, lắm người đâm ra ngộ nhận tầm xa rằng đây là chuyến công du “chiến lược”, ít ra là ở tầm xây dựng lòng tin chiến lược cụ thể và tận nơi (cho kẻ chủ xướng “tư tưởng thời đại” này), hoặc tệ hơn nữa, là ký thương ước nhập khẩu vũ khí chiến lược, cho sôi nổi/xôm tụ trong cuộc chạy đua …nội bộ. Mà, trên thực tế, không kể hai thông dịch viên nuốt chữ tới phát ách, cũng chẳng ai khác biết chắc là trong buổi họp kín đó, anh Tư có chuyển tải được điều gì cụ thể về “lòng tin chiến lược” đó không, hay là chẳng có cơ hội đề cập, một khi chủ nhà xoành xoạch chuyển sang những chủ đề có sẵn trong nghị trình của họ?
Tới chừng coi truyền hình tư bản, người ta mới té sấp té ngửa ra là chẳng có “chiến lược” gì ráo.
Rốt cục chẳng có vụ mua bán khí tài gì cả. Mà cái này đoán được. Ngoại trừ lúc lâm vào những khúc ngoặt lịch sử (cần vẽ lại bản đồ thế giới chẳng hạn), còn thì đời nào Mỹ chịu bán vũ khí chiến lược cho những đối tác tầm sàn lại đang là đối tác chiến lược tầm đỉnh của …vua hàng nhái là nước Tàu?
Rốt cục chẳng có việc ký kết một văn kiện nào về quốc phòng hay an ninh khu vực. Tất cả chỉ là loại nước bọt khá dễ bốc hơi.
Rốt cục chẳng có cái chứng chỉ đối tác chiến lược nào với Mỹ. Chỉ là thứ “đối tác toàn diện”. Ôi, sao cái từ “toàn diện” nó mang tính ngoại giao nước bọt đậm đặc là vậy?
Rốt cục cái “phái đoàn tôn giáo” và “phái đoàn công an” tùy tùng của anh Tư, giữ trọng trách giải độc nhân quyền, đành phải chịu khó đi mua sắm trong thời gian thất nghiệp ở Mỹ.
Rốt cục cũng chẳng có cái bắt tay TPP. Ngài Obama kính mến kia chỉ nhẹ nhàng buông thỏng một câu “sẽ xem xét”, như một thứ án treo. Lại còn ỡm ờ về lời nhờ cậy của anh Tư về việc công nhận cái nền “kinh tế thị trường” của VN. Kể cũng khó, bởi nếu công nhận điều đó tức là tự động cắt bỏ cái đuôi định hướng thổ tả đang ở tầm kim chỉ nam này nọ, trong khi nó chính là sân chơi (và két sắt) của lãnh đạo Hà nội. Cho nên chủ nhà đánh vòng, mà buộc lòng anh Tư vẫn phải cười tươi, còn là tươi nhất trong bộ tứ Khải/Triết/Dũng/Sang từng qua Mỹ, chiếu theo lời nhận xét không cần dấu diếm tính “chỉ tang mạ hòe” của bạn Nguyễn Khanh RFA.
Cái ấn tượng còn lại ở những người theo dõi sự kiện “chiến lược” này là gì?
Có lẽ tạm thời …phải đếm số!
*
Một
Là thái độ coi thường (nói cho có tí vẻ ngoại giao là thái độ đánh giá thấp) của Oa-Sinh-Tơn, đối với phái đoàn nguyên thủ của Hà Nội. Điều này thì …cả Văn Vĩ hay Gary Davis cũng đều thấy, và nhiều người bực lắm rồi.
Bởi, một chính khách mang danh nguyên thủ như anh Tư mà chỉ được cấp đại sứ “welcome”, không trống kèn quân nhạc, không lính bồng súng chào, không thảm đỏ, không vòng hoa… Đến lúc khui sâm-banh thì chỉ được cụng ly với cấp ngoại trưởng, trong một bữa ăn trưa đơn giản tại phòng tiếp tân của Bộ Ngoại giao, ngày 24-7-2013. Đã không có dạ tiệc ở Nhà Trắng thì chớ, đàng này, phần dạ tiệc ngay buổi tối hội kiến “thượng đỉnh” 25-7-2013 , do ngài Obama chủ xị ở Nhà Trắng, là buổi tiệc Iftar để dành riêng cho nghi thức chay tịnh mùa Ramadan của những người theo đạo Hồi!
Vậy thì còn ra cái thể thống gì nữa? Thể thống ở đây chẳng phải chỉ là tư thế của anh Tư không thôi. Bởi vì, ngoài một mớ đảng viên thiểu trí thừa tham của CSVN, thì có ai coi anh Tư ra gì đâu, nói chi tới tư cách cá nhân hay tư thế đại diện quốc gia? Mà ngay cả đảng viên cũng vậy, từ trước cả đận anh Tư không dám nêu thẳng tên đối thủ, mà phải mập mờ X kia X nọ, thì họ đã coi anh Tư ra cái cóc gì đâu?
Thể thống ở đây chính là sự niềm nở tối thiểu nào đó phải có của một nguyên thủ đối với một nguyên thủ, kể cả khi kẻ đó tự xưng là nguyên thủ. Mà không có chút nghi thức ngoại giao niềm nở tối thiểu nào kỳ này, tức là, hoặc, tự Mỹ nó đểu; hoặc, Mỹ cả nể ý kiến của những đại diện Việt kiều đã họp với Nhà Trắng trước đó mấy ngày, rồi hành xử đúng mực/đúng tầm/đúng người/đúng việc như vậy; hoặc, “mình phải thế nào thì người ta mới mời mình (kiểu đó) chứ!”.
So với các chuyến trước thì có vẻ người tiền nhiệm của anh Tư được đón tiếp có phần nào tử tế hơn, cho dù không ai muốn nhắc chuyện Hà Nội phóng thích LS Lê Quốc Quân vài ngày trước khi phái đoàn Nguyễn Minh Triết qua Mỹ.
Gì thì gì, những người từng ưu tư về quốc thể cũng …bớt áy náy. Bởi, một khi Mỹ không đối xử với anh Tư như một nguyên thủ, tức đại diện quốc gia, thì kể ra, có muốn cũng khó để quy kết là họ coi thường quốc thể VN. Rõ ràng là họ chỉ coi thường tư thế tự phong của “đối tác”.
*
Hai
Có nhiều dòng nghĩ khác nhau về món quà anh Tư chuyển đến ngài Obama kính mến nọ.
Có người cho rằng đó là một thông điệp muộn màng từ cái đầu nô lệ đang vái tứ phương của thời 1946. Thời đó, trong lúc bị bế tắc đàm phán, và quyền lực cai trị bị đe dọa bởi một cuộc đảo chánh quân sự, tác giả bức thư đã nhiệt liệt khẩn cầu tổng thống Mỹ: “…Hãy can thiệp khẩn cấp và hỗ trợ cho nền độc lập của chúng tôi”. Qua đó, rõ là cái quyền lực cai trị non trẻ vừa cướp được đang nhâng nhâng nhân danh độc lập. Cũng có nghĩa là đàn anh Liên Xô bấy giờ đang bận hay bấn chuyện nội bộ gì đó của họ (vào giai đoạn chiến tranh lạnh tượng hình), nên không chìa tay ra được. Đành quay sang Mỹ, cho dù điều đó không chứng tỏ rằng tác giả bức thư am tường quan hệ Pháp-Mỹ ngay sau thế chiến thứ hai.
Sáu mươi bảy năm sau, việc cầu cạnh lặp lại lần nữa, cũng chỉ vì những chiếc ngai vua tập thể đã long ngàm rã mộng. Và tác giả thông điệp này cũng không chứng tỏ được mức am tường về xu hướng dân chủ hóa toàn cầu của một chính quyền vẫn còn đứng hàng đầu thế giới, cho dù vẫn chỉ đạo hàng ngày cách viết những bài xã luận cơ bắp trên báo ND và QĐND. Đã không biết cách ngã giá, lại khư khư không muốn ngã giá.
Lại gặp phải một tay hùng biện vào hàng nhất nhì nước Mỹ. Lắm người diễu cợt rằng chính anh Tư giỏi hơn người tiền nhiệm, ở chỗ làm được cái việc phân hóa chính trường nước Mỹ, cái mà tay tiền nhiệm kia chỉ chém gió. Song, những người hiểu rõ các mối quan hệ bên trong chính trường Mỹ lại bảo rằng ngài Obama kính mến kia là một cao thủ lăng ba vi bộ ở câu trả lời: “Hồ Chí Minh thực sự có cảm hứng nhờ Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp Hoa Kỳ, và (nhờ) những lời nói của Thomas Jefferson”.
Tức là, vừa đánh vòng việc từ chối lời cầu cạnh (tất nhiên có điều kiện mà chưa thỏa); vừa “tát yêu” rằng bác của mấy chú ăn cắp quen tay (mà chúng tôi cũng chẳng cần khép tội 258 lợi dụng quyền dân chủ); lại vừa để cho phe hữu bên đó ồn ào lên tiếng giúp, dù chói tai, nhưng cuối cùng vẫn là hỗ trợ cho cái lắc đầu.
Lại còn “vặn họng” đối tác là mấy chú cứ ra rã chửi Mỹ, từ thời “chống Mỹ cứu nước”, qua trận động đất Đông Âu-Liên Xô, tới cả thời 9-11 và chiến tranh Iraq/A Phú Hãn/Palestine, kéo dài tới những cuộc cách mạng hoa/màu gần đây… Thế nhưng 67 năm qua, phải thừa nhận là các chú mặt dày vô địch, khi hết nước thì cũng sẵn sàng quay đầu về cầu cạnh cái “thế lực thù địch” số một thế giới: “Hồ Chí Minh đã nói ông muốn hợp tác với Hoa Kỳ. Và Chủ tịch Sang bày tỏ rằng: ngay cả nếu 67 năm đã trôi qua, thì cũng là điều tốt khi chúng ta còn đang có tiến bộ (tới cái đích hợp tác ấy)”.
Tiếc thay, ông còn cắt nghĩa thêm: “Chúng ta vẫn còn những bất đồng…”.
Thế là trắng tay, mà còn phải cố sức cười tươi cúi nhìn đôi bàn tay trắng, bận về.
*
Ba
Cũng phải thừa nhận thêm, rằng, tay nào cố vấn cho anh Tư phát ngôn lời cảm ơn TT Obama và nước Mỹ đã cưu mang và hỗ trợ những người Việt Nam tỵ nạn này để họ (thành công vẻ vang và) trở thành công dân Mỹ, quả là một thế lực thù địch đáng gờm từ bên trong.
Hắn phải biết rất rõ nguồn gốc của những đợt di tản/thuyền nhân… đó là từ đâu mà ra. Hắn phải biết là những đoàn người tỵ nạn CS đó đã bỏ phiếu bằng chân và bằng cả sinh mạng để thoát khỏi cái nhà tù nghiệt ngã CHXHCNVN. Hắn phải biết chính nhà nước khuyến khích cho đảng viên bán bãi lấy vàng rồi bắn ghe/giết người để cướp thêm vàng (Nguyễn Minh Triết là một trong những hung thần đó ở khu vực Sông Bé). Hắn biết rõ là chính quyền Mỹ nắm vững cái ngỏ ngách tham tàn đó của lãnh đạo Hà Nội. Quan trọng nhất là hắn cũng biết rất rõ anh Tư thiếu thông minh đủ để phát ngôn những lời phản cảm và phi nhân đó.
Chẳng lẽ ngài Obama kính mến kia buột miệng hỏi ngược: Thế thì đối với hàng triệu thuyền nhân không đến được một bến bờ nào thì ngài chủ tịch Tư sẽ cảm ơn ai?
Khổ thân anh Tư lọt bẫy đám đàn em chuyên ngành khủng bố mềm.
Càng khổ thân anh Tư hơn nữa là ngay vào lúc hăng say với một phát ngôn những tưởng sẽ trở thành danh ngôn đó, thì một đàn em khủng bố mềm khác lại hùng hổ ném chất thải vào mặt lãnh đạo đang công du, bằng câu tuyên bố rằng những Việt kiều ở Mỹ (hội nhập thành công và đóng góp vào nền kinh tế đứng đầu thế giới của Mỹ, trong đó có nhiều triệu phú) đi biểu tình đòi hỏi lãnh đạo Hà Nội tôn trọng nhân quyền, là họ: “chỉ vì đồng tiền, chỉ vì mưu cầu cuộc sống, chỉ vì muốn có 1 chút thu nhập thêm…”. Hắn ở cấp thứ trưởng ngoại giao và thuộc hàng tổng lãnh sự VN ở nước lớn chứ không phải hàng cắc ké/cò mồi.
Rõ là giới quan tâm không tránh khỏi hoang mang: “Âm binh vật Phù thủy” ngay ở bên ngoài lãnh thổ VN và trước mặt những ân nhân đang khẩn cầu cứu độ kia đó chăng?
Bởi vậy, khi đọc Bản Tuyên Bố Chung ở đoạn: “Hai vị chủ tịch nhất trí là cần tăng cường quan hệ giáo dục, văn hóa, và người với người giữa Hoa Kỳ và Việt Nam”, người đọc không kềm được cảm giác tức thì/tại chỗ là: Nỗ lực tăng cường giáo dục, văn hóa, giữa người với người này, trước tiên phải được áp dụng tức khắc cho dàn lãnh đạo ở Hà Nội.
*
Bốn
Dàn lãnh đạo ở Hà Nội có chung một đồng điểm rất đặc thù là cực khoái tiết mục lip-dance, tạm dịch là …múa mỏ.
Anh Tư đã để lại Mỹ ít ra là hai bài múa:
Bài thứ nhất là câu tuyên bố đứng bục của anh Tư: “Là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, Philippines có toàn quyền theo đuổi vụ kiện như họ muốn”. Nhưng từ chối bình luận khi được hỏi về khả năng liên kết giữa Việt Nam với Philippines trong nỗ lực đưa ra trọng tài quốc tế để xét xử các tranh chấp biển đảovới TQ, dựa trên Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, như chính quyền Phi đã khởi động từ đầu năm nay.
Tức là chỉ phán những điều cả thế giới biết rõ, và tắt đài để dấu kín cái hèn tự thân.
Bài thứ nhì là lúc sắp rời Mỹ, vào sáng ngày 26-7-2013, anh Tư ghé qua trụ sở Liên Hợp Quốc, đã lên lớp ngài Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon, rằng: “VN mong muốn LHQ phát huy tốt vai trò to lớn trong việc duy trì hòa bình, ổn định trên thế giới cũng như trong khu vực, thúc đẩy đối thoại, giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”.
Lẽ nào ông Ban, trong trách vụ Tổng thư ký LHQ, lại không biết điều đó? Chẳng phải đó là nội dung khoản 1/điều 1/chương 1, được ghi rõ ngay những dòng đầu trong bản Hiến chương Liên Hợp Quốc hay sao?
Vậy thì, nguyên thủ của một đảng cầm quyền cả nước, đâu phải có chức năng chính là để ba hoa những điều ai cũng biết hầu đừng ai bảo mình mắc …chứng câm? Hoặc giả, đây chỉ là trò mèo chơi gác kèo: Tổng Lú đã múa nhuyễn và múa dai ở Cuba chuyến trước, thì Chủ tịch Tư phải múa bảnh hơn ở Niu-Oóc chuyến này?
Cũng ngay tối 26-7-2013 đó, ở VN, đài VTV1 trân trọng đi tin “Bế giảng lớp Cán Bộ Nguồn” trước khi loan báo tin tức về sự kiện nổi cộm là anh Tư hội kiến với ngài Obama quyền lực ăn trùm thế giới. Đâu lý nào VTV1 đánh giá chuyến đi Mỹ sát cạnh và trung thực đến mức đau đớn ấy?
*
Tạm Gút
Cuộc hội kiến của anh Tư với chủ nhân Nhà Trắng đương nhiệm chỉ vỏn vẹn 45 phút, được linh động phụ trội thêm 30 phút, chỉ đi đến những điều não lòng cho người cầu cạnh. Túm lại thì đó là hình ảnh của một anh chàng ôm vuột chân đối tác, chỉ còn lại trên người trọn vẹn một vết giày.
Nguyên nhân?
Mỹ chủ trương thúc đẩy dân chủ hóa mọi nơi chứ không hề muốn bán bảo hiểm cho một nhà nước độc tài độc đảng chuyên dựa hơi thiên hạ để tiếp tục đày dân hay giết dân mình.
Trong lúc đó, Ngoại trưởng tân nhiệm của Mỹ, John Kerry, trong buổi tiếp tân tại Bộ Ngoại giao, lại dí dỏm so sánh đối chiếu tiểu sử bản thân với “quốc khách”, từ 1966, 1969, 1984… cho tới nay, thông qua những nét tương đồng, tuy thân mật nhưng không kém phần trịch thượng, như thử hắn mới là đồng vai đối tác với anh Tư.
Điều đó càng được minh họa rõ nét tại sao Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Sheer, trực thuộc quyền điều động của Ngoại trưởng John Kerry, phải lãnh “trọng trách” đón anh Tư tại phi trường và cũng là người giới thiệu hai chủ tịch tại Nhà trắng.
Còn về lời mời chân thành của anh Tư, về một chuyến viếng thăm VN của ngài Obama kính mến nọ, thì nhận lại được một câu trả lời bất định. Ông ấy nhận lời và bảo rằng sẽ cố thực hiện chuyến viếng thăm viếng đó trước khi rời Nhà Trắng vào năm 2016.
Ông ấy còn nhấn mạnh thêm đâu đó: “Hoa Kỳ tiếp tục tin tưởng tất cả chúng ta đều phải tôn trọng những vấn đề như tự do phát biểu, tự do tôn giáo, tự do hội họp”.
Phải chăng đó là những điều kiện giản đơn được gói ghém thành một thông điệp có thắt nơ?
28-07-2013 – Kỷ niệm 18 năm CHXHCNVN gia nhập và trở thành thành viên thứ bảy của ASEAN
Blogger Đinh Tấn Lực
J.B Nguyễn Hữu Vinh - Tản mạn chuyện Thiên đường, Địa ngục và "nỗi oan" của ông Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Vài hôm nay, cư dân mạng bức xúc bao chuyện, có lúc cứ nghĩ cả thế giới hình như hết chuyện nên cứ đổ vào Việt Nam, làm loạn cả cái mạng Internet lên.
Chuyện ở Thiên đường
Nào là chuyện mấy cháu đang yên lành, nếu không tiêm chủng, tiêm phòng thì chưa chắc sau này đã chết vì bệnh, bỗng được vác ra tiêm phòng thì đua nhau lăn ra chết.
Ừ, thì chết là chuyện thường ở đất nước này, mỗi ngày cả trăm người chết hoặc bị thương vì tai nạn có sao đâu. Nhưng khổ nỗi là ba đứa chết ở cái tỉnh mà khi đó bà Bộ trưởng Y tế đang công tác ở đó. Bà ta đã không thèm qua thăm vì "lịch bay đã cố định và lịch làm việc đã kín"… Thế rồi bà ta lên báo hứa “xử lý nghiêm”, mà xử lý cả cái bọn Vắcxin, bọn kỹ thuật… mới ghê. Thế mới biết, cái học hàm, Giáo sư, tiến sĩ của bà Bộ trưởng thực chất nó là gì. Và cũng thế là trên mạng nhao nhao đòi Bộ trưởng từ chức. Thậm chí có đứa còn phát biểu là: Tao đòi bà ta phải từ chức vì chỉ nghe nói đã biết ngu rồi. Đứa khác đáp lại: Ngu, nhưng được cái là cháu cố Tổng Bí thư.
Nghe cứ như chuyện đùa trẻ con đưa ma dọa nhau. Từ chức mà dễ thế ư? Thế thì nói như ông Hùng – Chủ tịch Quốc hội hiện nay thì “Lấy đâu ra Bộ trưởng mà làm việc”.
Rồi nào là chuyện Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải tuyệt thực đến ngày thứ 35, gia đình và bạn bè, các tổ chức quốc tế quan tâm, đi khắp nơi hỏi tin tức, kêu khắp các cửa từ địa phương tới Trung ương. Các cơ quan đổ qua, đổ lại cho nhau. Cán bộ Trại Giam thì ấp úng, bất nhất, thái độ lấm lét, nói câu sau hở đuôi nói dối ở câu trước. Cán bộ Viện Kiểm sát thì hống hách, trốn tránh gặp dân, cứ lủi như chuột ngày…
Quả là thời gian gần đây, các tù nhân liên tục tuyệt thực, liên tục bị đánh đập, bị ngược đãi, tù nhân bị chết với nghi án cán bộ trại tù đòi người nhà nộp tiền, không có tiền thì đánh chết… được phản ánh bằng nhiều cách, nhiều phương tiện. Tất cả phản ánh chế độ nhà tù có nhiều vấn đề, mà cái này nếu có thật, thì “đảng và nhà nước ta” chẳng bao giờ muốn ai biết. Thế mới khó.
Thế rồi, họ thi nhau sáng tác ngôn ngữ như thi đua phát huy thành tựu của “nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam’. Này nhé, ở Thiên đường XHCN Việt Nam chúng ta là nơi có cuộc sống được đánh giá là "hạnh phúc thứ nhì thế giới” không có những điều tồi tệ như trên thế giới này vẫn tồn tại. Vì thế, ở Việt Nam không có Nhà Tù, chỉ có Trại Giam. Ở Việt Nam cũng không có tù nhân, chỉ có Phạm nhân. Đặc biệt, ở Việt Nam không có “tù nhân chính trị” cũng không hề có “phạm nhân chính trị” mà chỉ có những người vi phạm pháp luật về những lĩnh vực chính trị hoặc vì “hai bao cao su” hoặc “trốn thuế’, hoặc chẳng vì cái gì cả… mà phải ở tù thôi. Còn những ngôn ngữ xa lạ như “Tù nhân lương tâm”, “Tù nhân bất đồng chính kiến”… thì chỉ cần thay thế bằng cụm từ “thế lực thù địch chống phá”. Thế là ổn.
Quả là ngôn ngữ, miệng lưỡi nhà Sản vô cùng phong phú. Nó phong phú đến nỗi ngoài xã hội, mọi vấn đề đều được sử dụng phương pháp sáng tác này. Mục đích là nhằm chống lại các “thế lực thù địch” ngày càng nở rộ trong nhân dân đã dám gọi thẳng những từ húy kỵ. Chẳng hạn, chúng không gọi là “sự lãnh đạo tuyệt đối” mà gọi thẳng là “Độc tài”. Chúng không gọi là “làm thất thoát” mà gọi thẳng là “tham nhũng”, chúng không gọi “thu hồi đất” mà gọi thẳng ra là “Cướp”… Những cách gọi thẳng, nói thẳng đó quả là rất khó chịu, làm mất đi hình ảnh tốt đẹp của các công bộc, những người đầy tớ trung thành của nhân dân ta và bản chất tươi đẹp của chế độ ta.
Vì thế phong trào sáng tác ở trong xã hội ta đã phát triển rầm rộ mấy năm nay. Thành tựu của nó là các từ mới được sáng tác như: “Tàu lạ” - để chỉ tàu của bọn Trung Quốc cướp biển của Ngư dân. “Quần chúng tự phát” – để chỉ đám côn đồ hoặc cán bộ giả danh côn đồ quấy phá nhà thờ, thánh thất, bệnh viện đòi giết người… “Quản lý” – để chỉ việc bỗng nhiên nhà thờ, thánh thất, tu viện bị nhà nước vào cướp không cần văn bản. “Vận động” - để chỉ hành động ngăn cản, cấm cản người dân đi biểu tình yêu nước. “Cưỡng chế, thi hành công vụ” – để miêu tả hành động cướp đất của dân. “Chống người thi hành công vụ” - để chỉ việc người dân chống lại việc cướp đất bằng súng, lựu đạn hoặc chó và công an, bộ đội… và cuối cùng thì “Thế lực thù địch” - để chỉ người dân.
Còn ở trong trại giam giữ các phạm nhân như Cù Huy Hà Vũ trước đây và Điếu Cày hiện nay, họ không phải “tuyệt thực”, chỉ là “từ chối ăn thức ăn”. Họ cũng không bị “biệt giam” như lời tố cáo hoặc tù nhân vẫn gọi, mà là họ bị “giam bóc tách”.
Cứ mỗi lần nghe các cán bộ, cơ quan nhà nước ta phát minh ra một sáng kiến quản lý nhà nước kiểu như: cấm xây nhà kiểu Pháp hoặc Châu Âu, Cấm để thịt lâu quá 8 tiếng, Phải đi xe chính chủ… hoặc một “từ lạ” nào đó, thì “thế lực thù địch” của đảng và nhà nước lại có cơ hội giải trí, bàn tán và khỏi đi xem hài kịch.
Đến chuyện ở địa ngục
Chuyến thăm của ông Chủ tịch nước sang tận xứ địa ngục Hoa Kỳ của “bọn tư bản giãy chết” cũng thu hút nhiều sự chú ý của dư luận. Nhiều người đặt hi vọng, nắc nỏm theo dõi xem ông Chủ tịch sẽ nói gì, làm gì, đợt này nghe tin là “quyền con người” sẽ được bàn bạc thẳng thắn và sáng sủa hơn…
Tôi thì chẳng có hi vọng gì ở một ông Chủ tịch hoặc một chuyến đi của ông quan chức nào cả. Cỗ máy cộng sản vận hành theo một quán tính và gọi là “cơ chế” cố hữu và cổ lỗ, vô vọng từ lâu. Vì thế, một cá nhân Chủ tịch nước, Thủ tướng hay ngay cả Tổng Bí thư đi nữa, thì cũng đều là sản phẩm của thứ Chủ nghĩa Mác – Lenin vô thần và bạo lực, dối trá sinh ra mà thôi. Do vậy, ai cứ hi vọng về một cá nhân như Chủ tịch nước, hoặc Thủ tướng sẽ cải thiện quyền Con người hay quyền con vật, thì đó là sự ảo tưởng. Không có ông Thủ tướng này, sẽ có ngay ông khác tệ hơn, không phải là Chủ tịch hay TBT này, sẽ có ông khác bẩn thỉu và dốt nát hơn. Nhưng tất cả vẫn tồn tại, vẫn “quang vinh”, “sáng suốt” và “là đạo đức, là văn minh”.
Cái gọi là “cơ chế” mà ai cũng chửi, từ TBT đến người dân cùng đinh, ai cũng khạc nhổ vào nó, bởi nó là nguyên nhân mọi suy đồi ở Việt Nam. Nhưng không ai dám chỉ mặt vạch tên nó ra - thực chất là cái Chủ nghĩa Mác – Lenin, như một chứng hoang tưởng, như một đại họa cho loài người vẫn bám vào đất nước này để tồn tại.
Khi Trương Tấn Sang đến Mỹ đã được đón tiếp bằng những rừng cờ và những cuộc biểu tình phản đối. Quả thật, có lẽ trên thế giới ít có đất nước nào mà mỗi lần lãnh đạo đất nước đến những nơi có con dân mình sinh sống lại vấp phải sự chống đối kịch liệt đến thế. Chuyện này không phải đến ông Sang mới có, từ xưa các lãnh đạo “đảng và nhà nước ta” đều đã có màn chui cửa hậu, chuồn cửa sau để trốn cộng đồng “khúc ruột ngàn dặm” của mình tại những nơi đến thăm. Những chuyện đó đã trở thành huyền thoại đối với thế giới, thành chuyện thường ngày đến mức các lãnh đạo đảng và nhà nước coi là chuyện đương nhiên, không cần xấu hổ.
Thế nên chuyện đó cũng dần dần bị quên đi, coi như chuyện đi sang Việt Nam được ăn rau muống luộc vậy.
Bộc lộ tư duy: “vì tiền”
Chuyện có những sai sót trong chuyến đi nước ngoài của lãnh đạo ta thì nhiều. Riêng sang Mỹ, cũng đầy chuyện, chẳng hạn vụ "chánh nghĩa sáng ngời" của Chủ tịch Triết, vụ dùng "Phao thi" hoặc "hành nghề cái bang" với Bill Gate của Thủ tướng Khải... Riêng vụ ông Sang đến Mỹ phát biểu "là người Việt gốc Mỹ làm ăn ở Hoa Kỳ" làm cả hội trường choáng váng, cứ tưởng đợt này bọn Mỹ biến giấc mơ "Sau một đêm ngủ dậy được trở thành người Việt Nam" thành sự thật.
Tuy vậy, dư luận không chú ý lắm đến điều này. Không sai mới là chuyện lạ, sai là thường, mới là lãnh đạo Việt Nam.
Nhưng hôm nay, chuyện bị biểu tình được ông Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn giải thích rằng thì là: “Có những người chỉ vì đồng tiền, có những người chỉ vì mưu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì có 1 chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động đó...".
Quả là cách giải thích rất “biện chứng, khách quan và thuyết phục”! Còn gì hấp dẫn hơn nữa, nếu không phải là Tiền? Cái gì có thể giải thích nhanh hơn nếu không phải là vì Tiền? Người ta làm làm gì cái việc không phải việc nhà họ, nếu không có tiền? Đơn giản quá và “biện chứng” quá. Có lẽ ông Tiến sĩ Mác Lê Nguyễn Phú Trọng cũng không thể giải thích “biện chứng” hơn(!)
Và lập tức câu nói này nhận được không chỉ là sự phản đối, mà là sự chế nhạo, trở thành chuyện hài hước có thể được lưu lại trong lịch sử ngành ngoại giao xã hội Chủ nghĩa.
Ở đó, người ta không chỉ đánh giá trình độ hiểu biết, mà người ta đề cập đến suy nghĩ của một cán bộ cao cấp của nhà nước. Thì ra, tư duy “tất cả vì đồng tiền” đã ngấm sâu vào máu. Và điều đó không có gì là khó hiểu.
Nhiều người thắc mắc là ông này không hiểu được “Khúc ruột ngàn dặm của đảng”- nên mới nói linh tinh, vu cáo, chọc giận bà con như vậy.
Thì đã hẳn, không hiểu là chuyện đương nhiên. Bởi, nếu hiểu biết, thì có “nói theo nghị quyết”, miệng vẫn cứ… ngường ngượng. Nhưng, ở đây ông nói trơn tru, cái trơn tru của lưỡi con chó liếm thớt: ngon lành và say mê, tin tưởng.
Làm sao ông ta có thể hiểu được tấm lòng, văn hóa người Việt yêu quê hương, đất nước và tha thiết với vận mệnh dân tộc khi ông ta là một Đảng viên CS. Bởi khi vào đó, tuyệt nhiên không có bất cứ một lời hứa, lời thề nào yêu đất nước, yêu dân tộc? Và cái đảng này tuyệt đối tin tưởng rằng: Vật chất có trước, tinh thần có sau.
Làm sao ông có thể hiểu được là có thể có những việc người ta làm không vì tiền? Khi mà hàng ngày, hàng giờ ông đến cơ quan, ông đi làm việc, ông đi hội họp, thăm cơ sở… bất cứ chỗ nào, cũng đều mang nặng cái gọi là “văn hóa phong bì”. Ngay cả đến gặp Tổng Bí thư tiếp xúc cử tri, mà mỗi cử tri cũng một phong bì đút túi. Thậm chí, ngay những việc làm thuộc trách nhiệm của mình, vẫn cứ phải có tiền mới làm.
Làm sao ông có thể không nghĩ là có tiền người dân mới đi biểu tình, dù biểu tình ngoại giao theo “sự lãnh đạo tuyệt đối”? Bởi ngay cả khi đám học sinh được huy động đến trước ĐSQ Mỹ biểu tình “phản đối Mỹ xâm lược Iraq” thì mỗi đứa vẫn phải đút túi mấy chục ngàn mới chịu đi. Hoặc đám côn đồ được mang danh “quần chúng tự phát” bao vây nhà thờ Lớn Hà Nội, Nhà thờ Thái Hà vẫn chia nhau tiền đều đặn – Dù những đồng tiền nhơ bẩn đó, lại chính từ tiền thuế của nạn nhân.
Làm sao ông ta hiểu được khi mà bất cứ việc gì, động đến mà không ngửi thấy mùi tiền, không ngửi thấy lợi lộc thì có vứt của đi cũng chẳng ai xót. Còn những việc dù bẩn thỉu, dù lộ liễu, miễn có tiền thì đều cả đám bu vào như ruồi thấy… mắm tôm. Hãy nhìn những căn nhà vệ sinh cho trường học giá cả gấp 10 lần những căn nhà cùng loại thì đủ biết.
Vì thế, đừng quá trách ông Thứ trưởng Ngoại giao.
Chẳng qua, ông chỉ nhầm lẫn khi lấy cái của mình mà suy ra cái của người. Tiếc cho ông, là sự suy diễn này không đúng chỗ và không đúng lúc. (Ảnh: Công an, dân phòng chia tiền sau khi trấn áp người đến dự Tòa công khai xét xử các thanh niên công giáo yêu nước).
Bởi vì, cái bình thường ở đất nước này, là cái không bình thường của phần thế giới còn lại.
Hà Nội, Ngày 29/7/2013, ngày xử Phúc thẩm vụ Đoàn Văn Vươn
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013
Nguyễn Hưng Quốc - Vụ án Nhã Thuyên
Nguyễn Hưng Quốc
Suốt mấy tuần vừa qua, trên báo chí trong nước, người ta thấy rộ lên những đợt tấn công nhắm vào luận văn Thạc sĩ của nhà văn Nhã Thuyên (tên thật Đỗ Thị Thoan) một cách ào ạt và dữ dội. Hình như chưa bao giờ, từ năm 1975 đến nay, có một đợt tấn công nào nhắm vào nhà văn được tiến hành với một quy mô rộng lớn và với một mức độ tàn nhẫn đến như vậy.
Các bài phê phán, được viết bởi nhiều người, xuất hiện trên nhiều tờ báo khác nhau, từ trung ương đến địa phương, từ các báo văn nghệ đến các báo thời sự. Bài nào cũng đầy giọng hằn học. Người thì xem đó là một thứ tác phẩm “phản văn hóa”, hoặc nếu là văn hóa, thì đó là thứ “văn hóa phản nhân văn, bất nhân bất nghĩa”. Người thì xem đó là một “công trình ngụy khoa học […] chứa đựng đầy rẫy những sai trái, lệch lạc về quan điểm tư tưởng học thuật và lộn xộn trong phương pháp nghiên cứu.” Người thì cho đó là “một luận văn phi văn hóa, phi đạo đức, phi lịch sử, phi khoa học, phi chính trị”.
Cuối cùng, có người đề nghị: Một, hủy bỏ luận văn ấy; hai, tước bằng Thạc sĩ của Nhã Thuyên; ba, đình chỉ việc giảng dạy của Nhã Thuyên tại trường đại học; bốn, xem xét lại tư cách của giáo sư hướng dẫn Nhã Thuyên, Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình; năm, xem xét lại trách nhiệm của hội đồng chấm luận văn (cho luận văn này điểm tuyệt đối 10/10); sáu, yêu cầu các nhà phê bình và nghiên cứu đảng viên từng lên tiếng khen ngợi và biện hộ cho luận văn của Nhã Thuyên (như Tiến sĩ Nguyễn Đăng Điệp, nhà nghiên cứu Văn Giá và nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên) trả lại thẻ đảng và từ bỏ các bằng cấp cũng như chức vụ họ có! Vân vân.
Cần lưu ý đến các chữ “luận văn” ở trên: Đối tượng của đợt tấn công dữ dội này không phải là một cuốn sách đã được xuất bản như các vụ án văn học trước đây. Đó chỉ là một luận văn có nhan đề là Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa do Nhã Thuyên đệ trình tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào đầu năm 2011. Đối với một luận văn, nếu muốn phê phán, người ta chỉ cần đến thẳng trường, thậm chí, chỉ cần đến Khoa, mang nghiên cứu sinh và giáo sư hướng dẫn ra đấu tố, cần gì phải làm lớn chuyện một cách ghê gớm đến vậy? Các cán bộ tuyên huấn dày dạn kinh nghiệm ở Việt Nam thừa hiểu việc làm lớn chuyện như vậy bao giờ cũng có những tác dụng ngược nguy hiểm: Nó giúp quảng bá cho tên tuổi của Nhã Thuyên, và cùng với Nhã Thuyên, tên tuổi của nhóm Mở Miệng, khiến cho họ có nhiều người đọc hơn, và không chừng, ngưỡng mộ hơn. Họ đã từng có nhiều kinh nghiệm về điều đó: Cho đến nay, tất cả các tác phẩm bị cấm đều được bán chạy như tôm tươi và tác giả trở thành nổi tiếng ngay tức khắc. Vậy tại sao họ vẫn làm vậy?
Câu hỏi ấy cho thấy mục tiêu của giới tuyên huấn Việt Nam không phải chỉ tập trung vào Nhã Thuyên. Nhã Thuyên chỉ là một cái cớ và có lẽ, sẽ là nạn nhân gánh chịu nhiều đòn trừng phạt nặng nề và đau đớn nhất, nhưng chắc chắn người ta còn nhắm đến những mục tiêu khác, với những mục đích khác, ngoài Nhã Thuyên và cái luận văn Thạc sĩ mỏng mảnh chỉ hơn 100 trang của chị.
Mục tiêu đầu tiên và dễ nhận thấy nhất là nhóm Mở Miệng, đề tài được nghiên cứu, phân tích và ca ngợi trong luận văn. Nhóm Mở Miệng với hai cây bút trụ cột là Lý Đợi và Bùi Chát có bốn đặc điểm nổi bật: Một, họ hoạt động trong khá nhiều lãnh vực, từ làm thơ… chui đến lập nhà xuất bản… chui (Giấy Vụn); và tuy chui, nhưng, về chất lượng, rất chọn lọc; về hình thức, rất đẹp; và về uy tín, rất lớn, không những được giới cầm bút Việt Nam yêu thích mà còn thu hút sự chú ý của nhiều tổ chức quốc tế.
Hai, họ không những sáng tác mà còn thích phát ngôn về quan điểm sáng tác với những cách nói rất ấn tượng, đặc biệt trong giai đoạn đầu. Ba, họ đều là những người có tài, không những có tài về văn học mà còn có tài khuấy động dư luận, khiến họ trở thành hình ảnh tiêu biểu nhất của giới cầm bút trẻ ngoài luồng tại Việt Nam hiện nay. Và bốn, họ táo bạo và can đảm, dám nói thẳng nhiều điều vốn bị xem là cấm kỵ trong xã hội Việt Nam, kể cả những cấm kỵ về phương diện chính trị.
Thơ của nhóm Mở Miệng có hai đặc điểm chính: Một, phá cách về ngôn ngữ (đặc biệt dùng khá nhiều từ tục tĩu vốn bị cấm kỵ ở Việt Nam) và hình thức (đặc biệt họ sử dụng khá nhiều hình thức giễu nhại), và hai, táo bạo về nội dung (họ không ngần ngại chế giễu cả Hồ Chí Minh cũng như đảng Cộng sản).
Từ lâu, nhà cầm quyền chắc chắn không thích gì nhóm Mở Miệng, nhưng họ không làm gì vì có thể họ cho đó chỉ là những trò nghịch ngợm vô hại của những nhà thơ trẻ tuổi ngỗ ngáo. Bây giờ, khi nhìn thấy họ trở thành đề tài nghiên cứu trong đại học, có thể giới tuyên huấn mới giật mình…
Mục tiêu thứ hai, theo tôi, quan trọng hơn, nếu không muốn nói là mục tiêu chính, đó là giới tuyên huấn muốn nhắm vào giới đại học tại Việt Nam. Không còn hoài nghi gì nữa, trong nhiều năm qua, thành phần được đi du học ở ngoại quốc và tiếp nhận cái mới nhiều nhất chính là giới đại học. Cũng trong nhiều năm qua, do bận bịu với các lãnh vực khác nóng hơn, nhà cầm quyền ít nhiều lơ đễnh, hiếm khi ngó ngàng đến các sinh hoạt học thuật trong các đại học. Hậu quả là các trường đại học được khá tự do. Một trong những xu hướng tự do đó là người ta bắt đầu rục rịch nghiên cứu về văn học miền Nam và một ít về văn học hải ngoại. Đã có nhiều luận án Thạc sĩ và Tiến sĩ đã hoặc đang viết về một số tên tuổi nổi bật ở miền Nam lúc trước và/hay ở hải ngoại hiện nay. Được sự đồng thuận âm thầm của các giáo sư, các hội đồng Khoa, nhiều luận văn đã trót lọt êm thắm. Luận văn của Nhã Thuyên về nhóm Mở Miệng cũng đã từng được trót lọt êm thắm như vậy, cách đây gần ba năm…
Việc các nghiên cứu sinh chọn viết luận án về các tác giả miền Nam, hải ngoại hay ngoài luồng như thế, khi bị phát hiện, chắc chắn làm nhiều người không vui. Giới cầm bút chính thống không vui: Họ thấy như bị “tước đoạt” cái vị thế độc tôn trên sân khấu văn học lâu nay. Giới tuyên huấn lại càng không vui: Họ thấy những giá trị họ xây dựng và bảo vệ chung quanh cái gọi là văn học cách mạng dường như sắp sửa bị lật đổ. Có điều, họ không thể buộc tội một nghiên cứu sinh làm luận án về Võ Phiến hay Thanh Tâm Tuyền, chẳng hạn. Lý do: Nó dễ bị buộc tội là kỳ thị Nam/Bắc và kỳ thị người Việt ở hải ngoại, một điều khá nguy hiểm về chính trị, nhất là trong thời điểm họ đang cố gắng tranh thủ cộng đồng người Việt hải ngoại và muốn chứng tỏ một chính sách hòa giải trong mức độ nào đó. Chọn luận văn của Nhã Thuyên là một điều an toàn: nhóm Mở Miệng tuy khá ồn ào nhưng lại không có một lực lượng nào đứng bảo vệ, nhất là khi mũi dùi lại không nhắm vào họ mà lại nhắm vào một người khác: Nhã Thuyên, một nhà văn trẻ (sinh năm 1986), rất có tài, can đảm và đầy triển vọng. Nhưng lại thân cô thế cô.
Tuy nhiên, dù vì bất cứ lý do gì thì việc bộ máy tuyên huấn nhảy xổ vào lãnh vực học thuật ở đại học, gây sức ép để đuổi việc một cán bộ giảng dạy và cách chức trưởng bộ môn của một giáo sư cũng là một điều hết sức thô bạo. Nó gợi nhớ đến các Hồng vệ binh thời Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông cách đây mấy chục năm.
Lê Tuấn Huy - Thẩm định Luận văn Thạc sỹ của Đỗ Thị Thoan: tính pháp lý và sự hợp lý
Lê Tuấn Huy
Về chuyên môn, sơ bộ, một số khía cạnh của Luận văn Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa đã được TS. Vũ Thị Phương Anh nêu ra trong bài “Về nhóm Mở miệng và chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism)”, và có thêm ý kiến qua cuộc phỏng vấn của RFA [i]. Về pháp lý, nhà văn Phạm Xuân Nguyên đã nêu quan điểm tại báo Pháp luật TP. HCM.
Nhà văn Nhã Thuyên
Thật ra, việc Đỗ Thị Thoan bị cắt hợp đồng, PGS, TS. Nguyễn Thị Bình bị cách chức có thể được những người ra quyết định biện minh “hợp lý” bằng cách viện dẫn thẩm quyền nội bộ và lý do chuyên môn nào đó ít nhiều không liên quan, mà lời của người ngoài chỉ được tiếp nhận một cách vô thưởng vô phạt. Nhưng khi ta kêu gọi nếu có “thẩm định” Luận văn thì phải đúng mực về mặt khoa học (vấn đề giữa hai hội đồng) và pháp lý (về trình tự và chứng lý), là đã rơi vào cái bẫy mà những người muốn tiêu diệt nó đang tìm cách giăng ra để hợp lý hóa cho việc làm ấy.
Thực tế, không có cơ sở pháp lý cho việc được gọi là “thẩm định” đối với bất cứ luận văn thạc sỹ nào.
Văn bản pháp lý hiện hành liên quan đến học vị Thạc sỹ là Quy chế Đào tạo Trình độ Thạc sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 10/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ký ngày 28 tháng Hai 2011. Theo đó, chỉ có thẩm quyền về việc thẩm định kết quả tuyển sinh (Điều 19), chứ không có thẩm quyền về việc thẩm định kết quả chấm luận văn hay thẩm định hội đồng chấm luận văn.
Điều 26 của Quy chế này đã bao hàm toàn bộ vấn đề đánh giá một luận văn. Nội dung đó, chỉ có các vấn đề về thành lập hội đồng đánh giá luận văn, nhóm họp hội đồng và tiêu chí về kết quả của luận văn. Ngoài ra, hoàn toàn không có một điều nào, khoản nào, ý nào cho phép lập hội đồng thẩm định để đánh giá lại một luận văn đã có kết quả đánh giá.
Cách duy nhất để có thể chặn lại một luận văn là bị khiếu nại, tố cáo về nội dung khoa học (Điều 25, khoản 4, điểm c), nhưng điều này chỉ thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị đưa luận văn ra đánh giá, chứ không phải để tái thẩm.
Kể cả những nội dung về thanh tra, kiểm tra (Điều 30), và khiếu nại, tố cáo (Điều 31) cũng không thể vận dụng được để làm công việc đó. Trong nội dung mà Bộ Giáo dục và Đào tạo được quyền thanh tra, kiểm tra (Điều 30, khoản 2), chữ “quản lý đào tạo” mang nội hàm của công việc quản lý hành chính đối với học viên và chương trình đào tạo (việc chấp hành quy chế đào tạo, xét điều kiện thỏa mãn để đưa luận văn ra bảo vệ, điều tiết chương trình, điều động giảng viên, xét gia hạn thời gian bảo vệ luận văn, khen thưởng, kỷ luật…), mà không bao hàm việc đánh giá kết quả luận văn, vốn là công việc khoa học độc lập và cụ thể của mỗi hội đồng chấm luận văn (và đã được quy định trọn trong Điều 26).
Như vậy, việc lập hội đồng thẩm định Luận văn của Đỗ Thị Thoan – nếu có – là phi pháp.
Phải chăng đây là sơ hở của pháp luật, do những người làm Quy chế đã không lường hết tình huống?
Không phải như thế. Đơn giản là, về điểm này, Quy chế đã được xây dựng phù hợp với đặc trưng của giáo dục sau đại học.
Khác giáo dục phổ thông – cấp phổ cập kiến thức cơ bản, khác với giáo dục đại học – cấp truyền thụ kiến thức và phương pháp chuyên môn, giáo dục sau đại học truyền đạt kiến thức và phương pháp nghiên cứu chuyên sâu. Về chuyên môn, khác biệt giữa bậc thạc sỹ và tiến sỹ là ở bậc sau, tiêu chí là cái mới về mặt khoa học cùng với giá trị lý thuyết (lý luận) và thực tiễn của nó, trong khi ở bậc trước chỉ chú trọng vào phương pháp nghiên cứu, sự riêng biệt về ý tưởng cùng với tính hệ thống và logic về nội dung và trình bày.
Do khác biệt đó mà ở cấp phổ thông, học sinh có thể làm bài giống nhau, một đề có đáp án chung tất cả, ai có chức năng và chung bộ môn, chung phạm vi đều có thể chấm bài. Do có chuẩn định về nội dung, thẩm quyền về chấm phúc khảo, phúc tra được đặt ra. (Tất nhiên, giữa hệ thống giáo dục thiên về áp nội dung với hệ thống thiên về mở nội dung, những điều vừa nói có biến thiên.)
Đến bậc đại học, trọng tâm là hướng dẫn để sinh viên tự trang bị kiến thức và nhắm vào một hệ thống kiến thức mở, nên dù vẫn còn chuyện sinh viên làm bài tương đối như nhau, thì mức độ độc lập của người học và người đánh giá đã có, bởi vậy việc phúc khảo và phúc tra không còn là thẩm quyền cố định.
Ở bậc sau đại học, sự giống nhau dù vô ý hay cố ý đều bị xem là đạo văn, và là tiêu chí (cấm) tuyệt đối duy nhất về nội dung. Ngoài ra, người làm luận văn, người hướng dẫn, người phản biện, người chấm, người nhận xét luận văn, với tư cách những người nghiên cứu khoa học độc lập, hoàn toàn có quyền độc lập nhau về quan điểm, phương pháp (miễn có nền tảng phương pháp luận phù hợp) trong trình bày và đánh giá. Không có chuẩn pháp lý hay giáo (dục) lý về nội dung cho các luận văn vốn đã khác biệt nhau. Cho nên, chỉ có hội đồng chấm luận văn lần hai dành cho học viên không đạt ở lần bảo vệ đầu, chứ không cần có hội đồng phúc khảo cho luận văn đã có kết quả không đạt. Lần bảo vệ sau mà vẫn không đạt, theo quy chế, học viên không có quyền trình bày luận văn lần thứ ba. Do đó – xuất phát từ tính độc lập nghiên cứu khoa học của học viên, tính độc lập của hội đồng chấm (từng) luận văn, và từ quy trình quyết định trực tiếp đối với kết quả việc bảo vệ luận văn – càng không cần gì đến hội đồng phúc tra.
Bên cạnh đó, nghiên cứu sau đại học không phải là hoạt động tư pháp mà cần đến thẩm quyền phúc thẩm hay tái thẩm của cấp cao hơn khi học viên hay thành viên hội đồng chấm luận văn chống lại kết quả đã chấm (giống như hai bên bị hại bị cáo, nguyên đơn – bị đơn có thể chống lại phán quyết). Cũng vậy, nghiên cứu sau đại học không nhằm bảo vệ công lý tư pháp mà cần đến thẩm quyền giám đốc thẩm khi có những bên bất kỳ “phát hiện tình tiết mới” và yêu cầu trình tự xử lý mới từ đầu.
Các bên thứ ba – không phải học viên, không phải thành viên hội đồng chấm luận văn – có thể có thẩm quyền công luận, thẩm quyền khoa học trong việc nhận xét nội dung và phương pháp, nhưng không có thẩm quyền khoa học trong việc phán xét kết quả, càng không có thẩm quyền pháp lý trong việc định đoạt hay thúc đẩy định đoạt kết quả chấm luận văn.
Những người chống đối, với tư cách thành viên của xã hội dân sự, có thể phản bác từng điểm một của luận văn, có thể tập hợp lại, ra tuyên bố phủ nhận nội dung của nó, nhưng đó quyết không phải là quan điểm quyết định hay có thẩm quyền quyết định đối với kết quả luận văn[ii].
Tất nhiên, trong một xã hội cai trị bằng sắc lệnh dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp (từ luật định giới hạn lại hiến pháp, rồi nghị quyết, nghị định, thông tư, công văn, cho đến cả thư tay), thì việc ban hành thông tư khác thay cho thông tư đang có hiệu lực về đào tạo thạc sỹ, mở đường hợp pháp hóa việc tiêu diệt Luận văn của Đỗ Thị Thoan và diệt cả từ trong trứng nước những luận văn theo hướng độc lập trong tương lai, là việc làm hết sức dễ dàng. Nhưng mong rằng tất cả những người liên quan hãy cân nhắc những điều sau đây:
1. Đối với Thạc sỹ Đỗ Thị Thoan và Phó giáo sư Nguyễn Thị Bình, nếu vào lúc cần thiết mà không tự vệ khoa học trên cơ sở pháp lý cho phép, để phủ nhận bất cứ thẩm quyền phi pháp và phi lý nào đối với mình, thì đó không chỉ là cái nhược về khoa học vì không biết bảo vệ những gì tâm đắc của chính mình, mà có thể còn tạo tiền lệ cho việc đầu hàng của giới nghiên cứu trong môi trường hàn lâm khi có sự xâm phạm từ bên ngoài.
2. Đối với giới khoa bảng, nếu im lặng để chấp nhận sự thay đổi theo hướng tước bỏ quyền bất khả xâm phạm của việc đánh giá kết quả khoa học trong đào tạo, xin các vị hãy thử hình dung một tương lai không xa, là bên cạnh các hội đồng chấm luận văn thạc sỹ, tiến sỹ sẽ là những “hội đồng giám sát (của) nhân dân” hoặc “hội đồng tư vấn (của) nhân dân” mà thành viên sẽ là đại diện của quân đội nhân dân, công an nhân dân, lão làng nhân dân, đoàn thể nhân dân, và cả địa phương nhân dân; hoặc có thể, họ sẽ là thành phần chính thức trong cơ cấu của hội đồng chấm luận văn của các vị.
3. Đối với những người làm chính sách giáo dục, nếu có thay quy chế để cho phép quyền phúc tra, thẩm tra đối với kết quả luận văn, xin đừng quên một điều hợp lý gắn liền, là phải quy định công khai hóa tất cả luận văn thạc sỹ, tiến sỹ từ thời điểm 10, 15 năm qua (thời gian mà Việt Nam đã hóa siêu rồng trong đào tạo sau đại học), để toàn bộ nhân dân có thể thực thi quyền yêu cầu “giám đốc tra” đối với luận văn của bất cứ ai.
4. Đối với các nhà lãnh đạo, nếu muốn khoa học phủ phục trước chính trị, thì xin trước hết ôn lại hai bài học sau đây ở nơi từng là đất nước xã hội chủ nghĩa vĩ đại nhất:
Thứ nhất là một trường hợp trong khoa học tự nhiên. Đó là sự thao túng tư tưởng hệ đối với sinh học ở Liên Xô cho đến tận giữa những năm 1960. Nhà sinh học Trofim Lysenko (1898-1976) được sự đồng tình của giới lãnh đạo, đã kiên quyết phủ nhận thuyết di truyền học Mendel-Morgan, khăng khăng về cuộc đấu tranh ý thức hệ của sinh học[iii]. Hậu quả của việc cưỡng bức khoa học quỳ gối, là trong khi các ngành vật lý, hóa học, thiên văn Xô Viết có độ phát triển ngang tầm Phương Tây, thì các ngành thuộc sinh học như di truyền học, sinh nông học, sinh y học, sinh dược học cho đến tận thời nước Nga ngày nay vẫn chưa bắt kịp kẻ thù ý thức hệ khi xưa.
Thứ hai là chính ngay trường hợp của khoa học lý luận. Nó phải tuyệt đối tuân thủ những chỉ đạo chủ quan về ý thức hệ khi xây dựng triết lý về một chủ nghĩa xã hội đã ở giai đoạn phát triển hoàn thiện, chuẩn bị tiến vào thời kỳ của chủ nghĩa cộng sản, mà hậu quả là không có sự báo động của lý luận khoa học về một xã hội trì trệ mọi mặt, và vực thẳm mà nó sắp rơi xuống thay cho thiên đường “đáng lý” phải bay lên.
Quay về Việt Nam, gần gũi với vấn đề ở đây, xin các vị thử nghĩ xem, văn học phải quy buộc vào cái chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã đạt được thành quả nhân loại nào không, dù chỉ so với người anh em cùng ý thức hệ cận kề?
29-30/07/2013
© 2013 Lê Tuấn Huy & pro&contra
[i] Một trình bày ít nhiều có tính chuyên môn khác, là bài “Từ một công trình ngụy khoa học, lệch lạc về tư tưởng học thuật…” của PGS, TS. Nguyễn Ngọc Thiện. Tuy nhiên, với nhận định mang thái độ miệt thị ngay từ đầu, rằng “Trong cái mớ xô bồ lý thuyết từ Âu – Mỹ dội vào, ảnh hưởng vào nước ta…”, thì tác giả này đã thiếu ngay đến cả năng lực khách quan tối thiểu. Đó là chưa kể, ở cuối bài, dù ông kêu gọi rằng những người có “vai trò liên đới trách nhiệm” của luận văn này “cần được nhìn nhận thấu đáo, có lý, có tình” thì đó chỉ là [cách đề xuất xử lý cả về hành chính lẫn chính trị] theo “Luật Công chức và theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) của Đảng”. Đó cũng là chưa kể ông đã cố tình đánh lộn sòng, từ việc hiển nhiên là thơ của nhóm Mở Miệng tuyệt đối không thể nào xuất hiện trên các kênh “chính thống”, lại trở thành “họ không dám xuất hiện một cách đàng hoàng, phải lén lút tự ấn hành, photocopy, tự xuất bản theo kiểu đối phó với sự kiểm duyệt của Nhà nước, gọi là kiểu xuất bản Samizdat”.
[ii] Cần nói thêm, Luận văn Thạc sỹ của Đỗ Thị Thoan không phải là văn học mà là nghiên cứu khoa học về văn học (dẫu là văn học bên lề), nên không phải là đối tượng cho những người phê bình theo kiểu đọc văn, đọc thơ rồi khen chê về văn phong, hình tượng, giá trị tư tưởng của tác phẩm.
[iii] Gần gũi với đề tài sinh học, có thể tìm đọc cuốn Những vấn đề triết học của y học (Nxb Khoa Học, HN, 1966), là tài liệu dịch của Liên Xô, ta sẽ thấy buồn cười vì những lý lẽ ý thức hệ kỳ quặc của những phê phán về sự duy tâm và siêu hình trong y học, vì những yêu cầu về nhận thức luận và biện chứng trong chẩn đoán…
Trọng Thành / RFI - Trẻ tử vong sau khi tiêm vắc-xin viêm gan B : Phản ứng tại Việt Nam
Trọng Thành (RFI)
Báo chí trong nước đưa tin ngày 20/07/2013, ngay sau khi tiêm vắc-xin viêm gan B, ''3 em bé sơ sinh ở Bệnh viện đa khoa huyện Hướng Hóa, Quảng Trị, tím tái, lịm dần rồi qua đời''. Việc các trẻ nhỏ qua đời đồng loạt ngay sau khi tiêm phòng gây chấn động công luận Việt Nam. Các tai biến kể trên như ''giọt nước tràn ly'' khiến một bộ phận công luận có những phản ứng mạnh mẽ đối với Bộ Y tế và trước hết là cá nhân bà Bộ trưởng.
Theo báo chí trong nước, có mặt tại Quảng Trị vào ngày 21/07, một ngày sau khi xảy ra 3 vụ tử vong hết sức bất thường này, bà Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Bộ Y tế, không hề có biểu hiện nào chia sẻ với các gia đình nạn nhân, hoặc một cử chỉ hướng đến các gia đình này. Bà Bộ trưởng đã có chương trình tham dự lễ khởi công xây dựng nhà tháp chuông tại Nghĩa trang liệt sỹ huyện Gio Linh (Quảng Trị) và thắp hương tại Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, và nhiều chương trình làm việc khác tại tỉnh này.
Trong lúc dư luận rất bàng hoàng về việc này, thì tại một bệnh viên ở Bình Thuận, lại xảy ra việc 1 trẻ sơ sinh tử vong khoảng 10 giờ, cũng sau khi tiêm chủng loại vắc-xin này vào hôm sau 21/07.
Ngày 24/07, dân cư mạng lưu truyền bản lấy chữ ký yêu cầu bà Bộ trưởng từ chức. Tính cho đến ngày 26/07, có hơn 5.000 người ký tên vào đề nghị này.
Kết luận ban đầu về cái chết của các em bé, ngày 24/07, đoàn chuyên gia của Bộ Y tế đưa ra đánh giá, lý do tử vong của các em là « do sốc phản vệ chưa rõ nguyên nhân ». Ngày 26/07, Bộ trưởng Y tế gửi « công văn hỏa tốc » đề nghị Bộ Công an điều tra khách quan về vụ này. Quyết định gửi thư hỏa tốc sang bên Công an có vẻ như hết sức tương phản với thái độ không thực sự vội vã của bà Bộ trưởng trước đó ít hôm (ngày 24/07) : « Sẽ không có bao che, mà công khai, minh bạch nguyên nhân. Trách nhiệm của ai sẽ xử lý người đó. Lỗi của vắc-xin thì xử vắc-xin, lỗi do người tiêm, xử người tiêm, lỗi do kỹ thuật xử lý kỹ thuật ».
Việt Nam, một nước được coi là có tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B cao, hiện đang thực hiện chương trình tiêm chủng đại trà cho trẻ sơ sinh trong vòng 24 giờ sau khi chào đời, theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Tai biến hết sức nghiêm trọng kể trên khiến rất nhiều người lo ngại cho số phận của con em mình. Trong không khí đầy lo âu này, một câu hỏi lớn được đặt ra trong xã hội, trong giới chuyên gia cũng như các gia đình : Tiêm hay không nên tiêm vắc-xin cho trẻ trong 24 giờ đầu sau sinh ?
Bản thân trong giới y tế, cũng phân thành hai luồng quan điểm. Một bên cho rằng, để giảm thiểu nguy cơ, chỉ nên tiêm cho trẻ nào có mẹ mang virus viêm gan B (như vậy, điều này đi kèm với việc xét nghiệm virus cho thai phụ) và đồng thời có thể lùi thời điểm tiêm chủng khi trẻ cứng cáp hơn. Luồng quan điểm thứ hai khẳng định tiêm đại trà trong vòng 24 giờ đầu là rất cần thiết, và bản thân vắc-xin viêm gan đã chứng tỏ là một loại vắc-xin an toàn, vấn đề chủ yếu ở đây là phải bảo đảm được chất lượng vắc-xin.
Để cung cấp một cái nhìn đa chiều về vấn đề này, sau đây chúng tôi xin giới thiệu những tiếng nói từ phía các bác sĩ, cũng như những người lo ngại cho vận mệnh của con em mình trước nguy cơ tiêm vắc-xin phòng virus viêm gan B nói riêng và việc tiêm chủng nói chung.
Các khách mời của tạp chí hôm nay là Giáo sư-Bác sĩ Trần Tịnh Hiền (Sài Gòn), Bác sĩ-Tiến sĩ Trần Tuấn (Hà Nội), Bác sĩ-Tiến sĩ Nguyễn Đình Nguyên (Sydney), Bác sĩ Nguyễn Thu Hằng (Hà Nội) và các chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tức Blogger Mẹ Nấm – Nha Trang), Nguyễn Trang Như (Sài Gòn), Trịnh Kim Tiến (Sài Gòn), cùng anh Lê Hào (Sài Gòn).
Thái độ của lãnh đạo Bộ Y tế ngay sau vụ ba em bé tử vong lập tức khiến nhiều người phẫn nộ. Vì sao có những cảm xúc bột phát như vậy ? Chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh ghi nhận :
“Khi mà mọi người đang nháo nhào lên, để đi tìm nguyên nhân này nọ, thì bà Kim Tiến bà ấy cũng ở Quảng Trị, nhưng lại đi tham dự một lễ khởi công một nghĩa trang liệt sĩ mặc dù nó gần huyện, nhưng mà bà ấy không đi thăm, cũng không ngỏ lời chia buồn cùng với gia đình, nhất là bà lý giải lịch công tác của bà ấy đã được sắp xếp kín, và cái này bà đã giao bộ, ngành khác, tức là đã có đoàn thanh tra để làm việc rồi, thì bà ấy cũng không cần phải đến.
Tôi nghĩ, với truyền thống, nghĩa tử (là) nghĩa tận của người Việt, thì hành động đó của bà Bộ trưởng Y tế là giọt nước cuối cùng làm tràn ly sự phẫn nộ của rất nhiều người”.
Bộ Y tế truy tầm nguyên nhân gây tử vong
Để có một góc nhìn khác về phản ứng của Bộ Y tế Việt Nam trong vụ việc này, sau đây mời quý vị nghe tiếng nói của Giáo sư - Bác sĩ Trần Tịnh Hiền, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Nhiệt đới TP HCM :
“Thực ra những cái gì đã làm, thì ở đây Bộ Y tế cũng đã làm rồi tức là từ việc điều tra, khám nghiệm cháu đã bị tử vong, tức là làm autopsie đó. Thì tụi tôi cũng chỉ theo dõi báo chí mà biết. Cái thứ hai là điều tra về cái chất lượng vắc-xin và cái quy trình tiêm, cái ống trích, cái kim, rồi tất cả cái vấn đề bảo quản. Thì cũng có nhiều ý kiến, thì cũng nói rồi, tức là nếu có sự cố gì về vấn đề bảo quản, ví dụ như nói đến vấn đề mất điện, thì cùng lắm làm vắc-xin mất cái tác dụng. Còn để nó biến đối thành một cái chất để gây tử vong, mà theo các báo cáo nói là cái sốc phản vệ, thì cũng khó mà xảy ra cùng một lúc.
Bây giờ vấn đề là phải chờ phân tích lại cái lô đó như thế nào, cụ thể là cái nhóm vắc-xin được đưa về trong cái bệnh viện đấy để kiểm tra và phân tích xem thử có gì không. Thì cái phần mà làm autopsie, tức là giải phẫu tử thi, giải phẫu bệnh cũng đã làm rồi, theo báo cáo nói là phù hợp với hội chứng gọi là “sốc phản vệ”.
Trong số các nguyên nhân gây tử vong, nhiều chuyên gia bác sĩ cho rằng, phải tìm chủ yếu trong chất lượng của vắc-xin, đây cũng là nhận định của Tiến sĩ - Bác sĩ Nguyễn Đình Nguyên :
« Trong trường hợp xảy ra ba trẻ liên tục, thì trường hợp đó không thể gọi là phản ứng nghiêm trọng của vắc-xin được nữa. Như vậy, nguyên nhân là ở đâu ? Có thể quy kết rằng xác suất do cái bản thân vắc-xin mình kỳ vọng gây phản ứng cho trẻ không. Câu trả lời của tôi đó là : Không có khả năng đó. Giống như xác suất ba người trong cùng một nơi, mà liên tục “trúng số độc đắc”, mà ở tỷ lệ dưới một triệu người mới có một người, chuyện đó xẩy ra vào thời điểm quá gần nhau, tại cùng một địa điểm, thì các xác suất đó gần như không có thể xẩy ra. Nguyên nhân đầu tiên mình phải quy kết là lô vắc-xin đó có vấn đề. »
Tâm trạng hoang mang phổ biến
Trong khi Bộ Y tế còn loay hoay trong cuộc truy tìm nguyên nhân gây tử vong, thì chương trình tiêm chủng viêm gan B toàn quốc vẫn được thực hiện. Mặc dù, Bộ Y tế khẳng định đang điều tra về chất lượng lô vắc-xin có liên quan đến cái chết của các em bé, nhiều người vẫn cảm thấy rất hoài nghi về khả năng Bộ Y tế thực sự đi đến một kết luận khách quan trong vấn đề này. Và sau khi hai lô vắc-xin có vấn đề đã được quyết định ngưng lại, dường như rất nhiều người vẫn lo ngại là Bộ Y tế vẫn tiếp tục sử dụng loại vắc-xin của cùng một công ty sản xuất.
Về những ám ảnh lo sợ của sản phụ trong việc tiêm chủng cho bé sơ sinh sau khi chào đời, chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một người có con nhỏ, chia sẻ những quan sát và trải nghiệm của chị :
« Thực sự thì nếu ai đưa con đi sinh ở bệnh viện công, thì sẽ thấy một điều như thế này : Khi em bé sinh ra, bệnh viện đưa em bé đi chích ngừa mà không có thông báo gì với mình hết, tức là tôi chỉ biết là con tôi đã được chích ngừa một mũi viêm gan B thôi, sau khi làm giấy xuất viện. Và ở đó thì họ cũng đưa cho tôi một cái phiếu là bé đã trích ngừa viêm gan, và cũng chẳng có nói là đến ngày nào thì đi trích ngừa lại. Cho nên, cái chuyện mà trẻ tử vong sau khi tiêm vắc-xin đó, và bây giờ Bộ Y tế đang tìm cách đẩy trách nhiệm đó, hoặc kết luận là không phải do vắc-xin. Nó thực sự là chuyện đáng báo động. Bởi vì thứ nhất là những trẻ sơ sinh ở Việt Nam không có sự lựa chọn trong chương trình tiêm chủng từ xưa đến giờ ».
Còn sau đây là suy nghĩ của chị Trịnh Kim Tiến, một thai phụ :
« Bây giờ, ở Bộ Y tế họ vẫn cho tiêm chủng vắc-xin viêm gan B đó, mặc dù đã xẩy ra những chuyện như vậy. Nhưng mà bây giờ, đợi điều tra, thì họ cứ nói rằng là Bộ Y tế và Bộ Công an đang kết hợp điều tra. Thì nếu như mà, những người như chúng tôi đợi họ điều tra, thì trong khoảng thời gian mà họ điều tra như thế, không biết đến bao giờ mới có kết quả, thì sẽ có rất là nhiều, rất là nhiều đứa trẻ sẽ được tiêm phòng. Và trong số rất là nhiều đứa trẻ đó, tôi không thể nào chắc chắn rằng là, sẽ không xẩy ra cái trường hợp tương tự ».
Bác sĩ Nguyễn Thu Hằng cho biết những so sánh của chị về sự khác biệt rất lớn giữa việc tiêm chủng trước kia và tiêm chủng hiện nay :
« Bản thân tôi là bác sĩ nhi, ngày trước việc tư vấn, động viên cha mẹ cho con đi tiêm phòng là việc làm tự nhiên trong nghề của mình, con mình sinh ra cũng đưa con đi tiêm phòng trong tâm trạng vui vẻ, tin tưởng một cách tự nhiên, đưa con đi tiêm phòng về cũng chỉ phải lo việc con có phản ứng đau, hoặc sốt, hoặc sưng tấy vết tiêm là cùng, vì vẫn biết rằng yếu tố nguy cơ cao là rất thấp. Trong bối cảnh hiện nay, nhiều lúc có những cha mẹ đặt câu hỏi về việc tiêm phòng cho trẻ con với mình, mình cũng thấy khó trả lời, và khi có cháu trong gia đình cần đi tiêm phòng, chính mình cũng có tâm trạng lo âu, căng thẳng trong suốt một ngày đầu tiên, chỉ sợ lỡ không may cháu mình cũng bị rơi vào sự rủi ro như một số cháu bé đã chết vì tiêm phòng trong thời gian gần đây.
Hơn chục năm trở về trước, phần lớn vắc-xin sử dụng tại Việt Nam là vắc-xin được tài trợ bởi các nước phát triển, đã được kiểm định khá chặt chẽ, nên khi tiêm cho trẻ, thường có thể chỉ gặp một số phản ứng phụ, rất ít trường hợp nguy hiểm chết người. Vì vậy, hồi đó, đưa con cái đi tiêm phòng là sống trong tâm trạng tin tưởng, là biết con mình sẽ tránh được một số bệnh nguy hiểm.
Từ khoảng hơn chục năm trở lại đây, ngoài vắc-xin được các nước tài trợ, thì còn có nguồn vắc-xin sản xuất trong nước, hoặc nhập của nước ngoài. Đồng thời cũng có sự xuất hiện của một số cơ sở tiêm phòng dịch vụ.... Vì đã đang thiếu lòng tin vào các sản phẩm trong nước, nên thời gian đầu, hầu hết những người có chút ít điều kiện đều chọn hình thức tiêm phòng dịch vụ để con họ được hưởng vắc-xin nhập ngoại. Nhưng trong tình hình hiện nay, đứng trước một số sự việc bê bối của một số cơ sở tiêm dịch vụ như vụ bớt vắc-xin, tiêm không đủ lượng..., cộng với những thông tin liên tục về trẻ chết sau khi tiêm vắc-xin... thì tôi nghĩ là rất nhiều người cảm thấy liên quan, lo lắng và hoang mang, không biết quyết định thế nào cho đúng ».
Giải thích về nguyên nhân của nỗi lo lắng của các bậc cha mẹ trong bối cảnh hiện nay. Tiến sĩ - Bác sĩ Trần Tuấn, một chuyên gia về y tế cộng đồng và chính sách y tế, Giám đốc RTCCD (Trung tâm nghiên cứu và đào tạo phát triển cộng đồng) cho biết :
« Vấn đề dân hoang mang điểm chính nằm không phải là vấn đề (nhận thức về) lợi ích của vắc-xin, không phải là vấn đề cứ nghĩ đến tiêm vắc-xin là gây thêm bệnh cho con mình, hoặc có thể có những tai biến xẩy ra. Mà cái điểm chính là dân hoang mang, không biết là căn nguyên tử vong của trẻ này, cụ thể là cái gì, để mà về sau còn biết phòng tránh. Hay nói khác đi, dân hoang mang bởi vì nói khác đi vì những sự giải thích từ Bộ Y tế liên quan đến tình huống xẩy ra, những biến chứng như thế là dường như có sự chưa minh bạch, chưa rõ ràng. Những chất vấn, những câu hỏi của các nhà báo, cũng như của người dân chưa được giải thích một cách minh bạch. Tóm lại là, việc điều tra khoa học và khách quan về tai biến trong quá trình tiêm chủng là chưa được xã hội chấp nhận.
Không phải chỉ có năm nay, mà (còn liên quan) cả tới những năm trước. Chính vì thế, khi năm nay lại xẩy ra, thì vấn đề ba trẻ tử vong ở tại địa điểm như vậy, trong khi những điều tra ban đầu lại cho thấy rằng các quy trình tiêm chủng, thuốc đều đúng, đi theo những quy định của ngành, thì việc ấy chắc chắc không thể nào tránh khỏi người dân hoang mang lo lắng trong việc đưa con đi tiêm chủng trong thời gian tới.
« Nghi phạm » số một : Vắc-xin của công ty Nhà nước Vabiotech
Phần lớn người dân và những bằng chứng quan sát trên thực địa, cũng như những mô tả của người dân và báo chí, thì dường như cho rằng có vấn đề chất lượng vắc-xin, dường như vắc-xin là có một cái gì đấy bất thường, mới dẫn đến chết một cách đột ngột và nhanh chóng như vậy. Trong khi đó, phía bên Bộ Y tế vẫn nằm trong câu hỏi là phải điều tra và chờ xem xét ».
Về giải thích tạm thời chính mà Bộ Y tế đưa ra về các vụ tử vong, Bác sĩ Lê Đình Phương trong bài « Con cái chúng ta có quyền được sống! » (trang blog của Dr. Nikonian) đưa ra nhận xét :
« “CPV (Sốc phản vệ) không rõ nguyên nhân” như ông Nguyễn Trần Hiển, Viện trưởng Viện Vệ Sinh dịch tễ TW đã công bố. Sự mập mờ này hoàn toàn có tính gian lận và che giấu dư luận về một sự thật đã quá hiển nhiên. (…) Chỉ có thể nói rằng, công bố kết quả “CPV chưa rõ nguyên nhân” là nói dối, quanh co và lấp liếm. Nguyên nhân chắc chắn và trực tiếp là qui trình bào chế vaccine ở công ty trách nhiệm hữu hạn kia, mà Bộ Y tế là người bao thầu các sản phẩm của nó bằng tiền thuế nhân dân qua chương trình tiêm chủng quốc gia. Không thể có sự thực nào khác hơn!
Chỉ khi nhìn thẳng vào nguyên nhân là những lọ vaccine oan nghiệt kia, và thay thế nó bằng vaccine đúng chuẩn như thế giới đã dùng, mới có thể chấm dứt được cảnh trẻ sơ sinh chết thảm. ».
Ngược lại với quan điểm này, Giáo sư Nguyễn Đình Bảng, nguyên Viện trưởng Viện Kiểm định vắc xin và sinh phẩm y tế quốc gia, cho rằng : “Không nên quy tội ngay cho vắc-xin mà cần phải chờ kết luận cuối cùng của quá trình điều tra. Tử vong sau tiêm chủng có rất nhiều nguyên nhân, chứ không riêng gì về chất lượng vắc-xin”, (theo Báo điện tử "Kiến thức" thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, 25/07/2013). Giáo sư Nguyễn Đình Bảng cũng là người chủ trương chỉ nên tiêm phòng cho trẻ có mẹ mang virus.
Nếu như Bộ Y tế không coi toàn bộ vắc-xin của công ty Vabiotech là mối nghi ngờ số một, thì đối với nhiều cha mẹ, không thể không đặt ra vấn đề tạm dừng hoàn toàn vắc-xin cũ, trong khi chờ kết quả điểu tra. Sau đây là ý kiến chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh :
« Tại sao cái lô vắc-xin nó đã xẩy ra sự cố rồi mà Bộ Y tế vẫn quyết định cho dùng tiếp của Vabiotech, tức Công ty TNHH MTV Vắc-xin và Sinh phẩm Y tế số 1, do Bộ Y tế thành lập ? Tại sao không sử dụng một loại vắc-xin khác, mà lại tiếp tục sử dụng lô vắc-xin của công ty đã gây ra cái chết của ba đứa trẻ như vậy ? Thực sự thì nếu như không lên tiếng thì hãy còn rất nhiều trẻ sơ sinh khác nữa (là nạn nhân), tôi nghĩ như vậy».
Trong bối cảnh, vắc-xin của Nhà nước có khả năng không an toàn cao, nhiều bác sĩ khuyên bệnh nhân tìm đến các vắc-xin nhập ngoại có chất lượng bảo đảm hơn. Tuy nhiên, có lẽ lựa chọn này có vẻ như không phải dành cho đại đa số trẻ sơ sinh tại Việt Nam, vì nhiều lý do (từ hoàn cảnh kinh tế, các điều kiện dịch vụ tại chỗ, cũng như hiểu biết trong vấn đề này…). Về điểm này, chị Nguyễn Trang Như nhận xét :
« Theo tôi biết, thì một số nơi đã chuyển qua vắc-xin của công ty Sanofi, để tiêm cho trẻ sơ sinh, thì Bộ Y tế cũng có thể chuyển qua dùng loại vắc-xin đó, nó có thể đắt hơn, nhưng phải chấp nhận thôi, cho sự an toàn của trẻ em ».
Ký tên phản đối Bộ trưởng Y tế : Áp lực và cơ hội đối thoại
Trả lời lý do vì sao ký tên vào bản đề nghị Bộ trưởng Y tế từ chức, anh Lê Hào cho biết :
« Về vấn đề này, tôi cũng cân nhắc rất là kỹ, khi ký vào việc bà Bộ trưởng Y tế phải từ chức. Lý do thứ nhất là tắc trách của một số bộ phận Y tế gây nên chuyện này. Vì sao ? Ở trên không làm đúng, ở trên tham nhũng quá, thì ở dưới người ta mới tham nhũng. Tại sao trẻ em lại bị tử vong sau khi tiêm vắc-xin ? Tại vì họ muốn lợi nhuận của một đơn vị quá cao. Hoặc là, ví dụ như là việc bảo quản vắc-xin không tốt và nó gây tử vong như vậy là một việc rất lớn trong trường hợp này ».
Về phần mình, chị Nguyễn Trang Như chia sẻ :
« Tôi tham gia bản ký tên này bởi vì tôi cho rằng việc góp một chữ ký, thì có thể giúp cho lời kêu gọi Bộ trưởng Bộ Y tế từ chức được lan rộng hơn. Với tôi, thì người đứng đầu một bộ là một người phải có trách nhiệm rất là cao. Và nếu như người đứng đầu đó mà không thực hiện được đúng trách nhiệm của mình và không thể hiện được đúng cái vai trò của mình, trong việc điều hành một bộ, thì tôi nghĩ là nên từ chức và để cho người khác xứng đáng hơn lên thay.
Bản thân tôi là người tham gia ký tên, tôi cũng rất mong là họ sẽ làm được những việc làm cụ thể nào đó, để có thể gây được cái sức ép lớn hơn nữa, đối với Bộ Y tế và đối với các bộ ngành nói chung có liên quan. Thì việc làm này, theo tôi, dù có kết quả thế nào, thì cũng là mang tính tích cực, vì nó gây được sự quan tâm của dư luận và khiến cho dư luận phải suy nghĩ về những cách thức để mà thể hiện cái tiếng nói và quan điểm của mình, để có thể cải thiện xã hội ».
Cũng là người ký tên, chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh khẳng định cần phải hành động mạnh mẽ hơn, để khiến Bộ Y tế phải chú ý hơn đến đòi hỏi của người dân :
« Tôi nghĩ như mọi người nói rất nhiều là, có thể là mọi người ký tên hoặc làm cái gì đó, thì bà Bộ trưởng vẫn cứ tại vị thôi, tức là không thay đổi được gì, nhưng tôi thì tôi nghĩ khác. Chính vì nhiều người nghĩ như vậy, mà những sai phạm, những người thiếu năng lực lãnh đạo, họ vẫn cứ tiếp tục ở vị trí đó hoài. Tôi nghĩ, ở thời điểm này, tốt nhất là ở vị trí Quốc hội, một người nào đó trong Quốc hội mà lắng nghe tất cả những chuyện này, thì (Bộ Y tế) buộc lòng phải lên tiếng để có một sự đăng đàn công khai về chuyện này.
Nếu như cái nơi mà gọi các bạn ký tên, mà có động thái mạnh mẽ hơn, là trao thư, xuống đường, thì những người khác họ sẽ hưởng ứng mạnh mẽ. Và nếu để không xẩy ra sự cố gì, thì đương nhiên là Bộ Y tế, đặc biệt là Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến phải lắng nghe và có động thái cụ thể trong việc này, chứ không thể im lặng như những lần vừa rồi được.
Tôi nghĩ, thật sự ở cái nước này rồi mà nếu như cha mẹ vẫn còn im lặng để được yên thân, thì chắc chắn là tương lai của con cái chúng ta rất là mờ mịt. Tôi nghĩ đơn giản như vậy thôi ».
Cần một cơ quan kiểm định độc lập với Bộ Y tế
Để khép lại tạp chí Cộng đồng về chủ đề nỗi lo tại Việt Nam trước tình trạng vắc-xin có khả năng gây tử vong, chúng tôi xin mời quý vị nghe tiếp tiếng nói của Bác sĩ Trần Tuấn, với thông điệp nhấn mạnh đến việc cần phải có một cơ quan kiểm định chất lượng y tế, độc lập với Bộ Y tế :
« Làm thế nào để giải quyết vấn đề hoang mang này, thì chúng tôi nghĩ rằng chỉ có một cách thức là phải có một cái điều tra độc lập : Điều tra chuyên môn độc lập, khách quan nằm ngoài Bộ Y tế. Bởi vì hiện nay, Bộ Y tế cũng như cái công ty nơi sản xuất vắc-xin và cả hệ thống dây chuyền lạnh, hệ thống vận chuyển vắc-xin đưa dịch vụ đến cho người dân, tất tần tật đều do Bộ Y tế quản lý. Và khi Bộ Y tế chưa có những câu trả lời, những giải đáp, mà theo đối với người dân, và dư luận, là chưa đáp ứng được đòi hỏi minh bạch hoàn toàn, không chỉ trong đợt này, mà tiếp nối cả những năm trước.
Thế thì vấn đề ở đây, không chỉ là ở chỗ, vì chỉ có một công ty cung cấp vắc-xin, mà tôi nghĩ là còn mạnh hơn thế nữa, đấy là (đòi hỏi) phải cấu trúc lại hệ thống y tế, sao cho để có một bộ phận đánh giá, giám sát chất lượng độc lập. Mà bộ phận này phải đứng trên quan điểm bảo vệ người sử dụng, vì người sử dụng luôn luôn ở trong trong vị trí yếu thế. Cái bộ phận giám sát độc lập này họ phải có chuyên môn nhìn nhận ra được một cách khách quan, là vấn đề đó xảy ra là do vấn đề kỹ thuật, do vấn đề quản lý, do vấn đề chất lượng hay là do những cái, mà chúng ta gọi là ‘‘bất khả kháng’’. Hiện nay, chúng ta cần một cấu trúc làm việc như vậy. Còn nếu không, để người dân vẫn nói, xã hội vẫn lo lắng, đấy là cứ để Bộ Y tế cứ vận hành một mình như từ trước đến nay, thì các tình trạng điều tra căn nguyên các vụ dịch, về các tai biến trong điều trị, cũng như trong chăm sóc dự phòng tiêm vắc-xin như vừa rồi, thì người ta cảm thấy rằng các căn nguyên hầu như về cơ bản là đổ lỗi cho ‘‘những trường hợp bất khả kháng’’.
Tai biến là một cơ hội xem xét lại toàn bộ
Thực ra sẽ còn nhiều vấn đề nữa. Nếu như câu chuyện nó không được giải quyết một cách, như tôi nói, thực sự đi theo một quy trình khoa học, hay nói khác đi, chúng tôi vẫn nói là : ‘‘Khoa học dẫn đường cho chúng ta đi’’. Khi nào chúng ta thực sự đưa khoa học dẫn đường cho chúng ta đi, thì các tai biến xẩy ra, những bất thường xẩy ra, như trường hợp chết ba trẻ ở Quảng Trị vừa rồi, rất đau lòng, nhưng đấy lại là một cơ hội tốt, để chúng ta xem xét lại toàn bộ các vấn đề liên quan đến tiêm chủng, từ vấn đề chất lượng vắc-xin đến vấn đề tổ chức hệ thống, vấn đề giám sát đánh giá và vấn đề kỹ thuật tiêm chủng, vấn đề xác định chẩn đoán trẻ như thế nào thì phù hợp cho tiêm hay không tiêm…
Có rất nhiều vấn đề sẽ được làm sáng tỏ ra thêm bởi những tai biến, mà mình không mong muốn những tai biến đó, nhưng mình phải biết khai thác những tai biến đó khi xẩy ra.
Còn nếu như tình trạng này chỉ là (việc Bộ Y tế) đối phó với dư luận, bằng những câu chữ, bằng những hành động, ví dụ như đẩy quá bóng sang phía bên Công an... Tôi cho rằng đấy không phải là những biện pháp giải quyết theo hướng mà chúng tôi mong đợi. Và nếu như thế, thì sự bất an trong xã hội vẫn còn tiếp tục và những vấn đề của hệ thống tiêm chủng sẽ vẫn còn treo lơ lửng ở phía trước ».
***
Vụ bê bối vắc-xin gây tử vong tại Việt Nam là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Những tác động qua lại giữa thái độ của lãnh đạo Bộ Y tế và phản ứng trong công luận từ mươi ngày nay biến chuyển nhanh chóng, có thể nói là từng ngày một. Một ấn tượng được khá nhiều người chia sẻ là : Thay vì thái độ có phần dửng dưng lúc ban đầu, vì cho rằng đây tuy là một sự cố, nhưng không đặc biệt nghiêm trọng và rồi không sớm thì muộn cũng sẽ được giải quyết (với những tuyên bố có thể nói là khá chung chung, như tuyên bố của ông Nguyễn Trần Hiển, Viện trưởng Viện Vệ Sinh dịch tễ TW « một tháng nữa sẽ có thể có kết quả cuối cùng về vụ việc này »), ban lãnh đạo Bộ Y tế đã phải chứng tỏ họ đang có các phản ứng khẩn trương hơn. Hôm qua, 30/07, theo báo chí trong nước, Thủ tướng Việt Nam đã trực tiếp yêu cầu « Bộ trưởng Bộ Y tế khẩn trương xem lại vấn đề tiêm chủng, nếu do vắc-xin thì phải xem lại » (báo Người lao động).
Theo chúng tôi được biết, thực tế tiêm chủng viêm gan B ở Việt Nam sau biến cố ba trẻ sơ sinh tử vong có những diễn biến khác biệt tùy theo từng vùng. Bên cạnh nơi tiếp tục thực hiện chương trình tiêm chủng, cũng có chỗ các nhân viên y tế đã chủ động ngừng tiêm, mà nguyên nhân có thể do từ gia đình, cũng có thể do nỗi lo phải chịu trách nhiệm nếu gặp sự cố. Việc Bộ Y tế không có đủ nỗ lực cần thiết để chấm dứt tình trạng tương đối mơ hồ xung quanh cuộc truy tầm nguyên nhân gây tử vong, gây ra một không khí lo ngại bao trùm.
Bản thân giới chuyên môn cũng phân thành hai luồng quan điểm, một bên ủng hộ tiêm đại trà, bên kia thiên về chỉ tập trung cho những đối tượng có nguy cơ lây nhiễm cao (tức các trẻ có mẹ mang virus). Các ý kiến trái chiều của giới chuyên gia, trong bối cảnh thông tin không được cung cấp đầy đủ, càng khiến người dân dễ lâm vào tình trạng bối rối. Một số người có hiểu biết và điều kiện thì đi tìm những giải pháp hiệu quả cho riêng mình. Tuy nhiên, có lẽ đa số người ở trong tình huống có con sắp chào đời hoặc thân nhân của họ, đang là nạn nhân của một trạng thái tâm lý lo âu kéo dài, lo lắng, nếu như họ ít nhiều theo dõi vấn đề này, và nhiều khi cảm thấy bị đối xử hết sức bất công. Chính trạng thái này đã dẫn đến những phản ứng mạnh mẽ, như sự xuất hiện của trang mạng thu thập chữ ký đòi Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến từ chức. Đây có lẽ chính là điều mà Bộ Y tế và cá nhân bà Bộ trưởng đã không ý thức được khi biến cố đau thương này vừa xảy ra.
Rõ ràng là Bộ Y tế cũng đã có nhiều biện pháp để tìm kiếm nguyên nhân, khắc phục hậu quả…. Thế nhưng những hành động cho đến nay của Bộ Y tế liệu đã đủ và liệu có thể vãn hồi được lòng tin ở nhiều người ? Nhiều phản ứng cho thấy là, cộng thêm với những tai biến trong thời gian gần đây không được làm sáng tỏ, biến cố các trẻ sơ sinh đột ngột tử vong sau khi tiêm chủng mới đây, và rất nhiều tệ nạn và tai biến khác trong ngành y tế, càng làm tăng thêm nỗi ngờ vực, nếu không nói là tình cảm chán ghét và tức giận đối với cơ quan quản lý y tế ở nhiều người.
Câu chuyện tiêm chủng như vậy không còn chỉ là vấn đề kỹ thuật hay điều kiện vật chất mà nó đã trở thành một hiện tượng tâm lý xã hội. Liệu một mình Bộ Y tế có thể giải quyết được vấn đề này hay không ? Ý kiến của Bác sĩ Trần Tuấn trên đây cho thấy một trong những chìa khóa của vấn đề nằm ở chỗ Việt Nam cần phải có một cơ quan kiểm định chất lượng độc lập về y tế để quá trình thẩm định có thể được tiến hành bên ngoài phạm vi của các áp lực mang tính phe nhóm. Theo nhiều bác sĩ, bản thân Bộ Y tế qua sự việc này, một lần nữa đứng trước áp lực phải thay đổi thái độ đối xử với các đối tượng chăm sóc, với người bệnh. Một thay đổi cần thiết, sẽ giúp cho việc mang lại một bầu không khí tin tưởng, đó là cơ quan y tế cần đối diện và đối thoại thực sự với những người chỉ trích, thay vì tìm cách tránh né hoặc đưa ra một số giải pháp mang tính « tình thế ».
SAU CUỘC HỌP VỚI OBAMA TRƯƠNG TẤN SANG BÁC BỎ ĐƯỜNG LƯỠI BÒ CỦA TRUNG CỘNG
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Ngay sau cuộc họp với
tổng thống Barack Obama tại tòa Bạch Ốc vào sáng
25/07/2013, buổi chiều cùng ngày Trương Tấn Sang chủ tịch
nước Việt Nam Cộng Sản đọc một bài diễn văn ở
Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (Center for
Strategic and International Studie – CSIS) trụ sở tại
Washington, trong đó ông Sang loan báo: “Sáng hôm nay tôi
đã có cuộc hội đàm với Ngài Tổng Thống Obama. Tôi
vui mừng loan báo cùng các bạn: Việtnam và Hoakỳ đã
nhất trí xác lập khuôn khổ quan hệ Đối Tác Toàn Diện,
theo đó hợp tác giữa hai nước sẽ bao gồm tất cả
các lãnh vực, chính trị đối ngoại, kinh tế thương
mại, đầu tư giáo dục, khoa học công nghệ, quốc phòng
an ninh”. Ông Sang cho rằng: “Mối quan hệ Việtnam
và Hoakỳ đã thực sự được mở rộng và nâng tầm
trên nhiều lãnh vực cả bề rộng, bề sâu, cũng như
hiệu quả của các lãnh vực đó. Nếu nhìn lại cả trên
đường dài của lịch sử, chúng ta mới thấy đuợc
những bước tiến, những thành tựu trong quan hệ hai nước
ngày nay là hết sức có ý nghĩa”.
Ông Trương Tấn Sang
nhấn mạnh đến vai trò của khối ASEAN và sự gắn bó
của Việtnam với tổ chức này. Ông cho rằng: “Tương
lai Việtnam gắn liền với khu vực ASEAN, một khu vực có
tiềm năng rất lớn, nhưng những tiềm năng đó chỉ
thành hiện thực với điều kiện có an ninh trong khu vực”.
Ông nêu bật: “Bảo đảm một môi trường hoà
bình, ổn định, ngăn chặn và kiểm soát các xung đột
là trách nhiệm chung của các nước Trong và Ngoài
khu vực. Việc xây dựng và củng cố một cấu
trúc khu vực nhằm tăng cường hợp tác, kết nối giữa
các nước về kinh tế thương mại an ninh, văn hoá, xã
hội…chính là sự đảm bảo hữu hiệu nhất cho hoà
bình thịnh vượng”. Ông không quên nhắc lại cuộc
hội đàm với tổng thống Obama: “Vấn đề Biển Đông
cũng đã được bàn bạc tới một cách thấu đáo. Chúng
tôi hết sức hoan nghênh chính phủ Hoakỳ ủng hộ lập
trường Việtnam cũng như các thành viện ASEAN là giải
quyết những tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp
hoà bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, DOC
tiến đến COC và cam kết bảo đảm tự do hàng hải trên
Biển Đông. Tôi cũng bày tỏ sự hoan nghênh Hoakỳ cũng
như các nước khác hết sức quan tâm chăm sóc sự nghiệp
hoà bình, ổn định,thịnh vượng ở Biển Đông nói
riêng cũng nhu trong khu vực Châu Á Thái- Bình Dương”.
Lời tuyên bố nổi
bật nhất của Trương Tấn Sang ở buổi nói chuyện tại
Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế - CSIS, đó
là ông đã chính thức mạnh dạn công bố: “Bác bỏ
đòi hỏi chủ quyền và yêu sách ĐườngLưỡi Bò 9 Đoạn
của Trung Quốc”. Ông giải thích: “Chúng
tôi không tìm thấy bất cứ cơ sở pháp lý hay khoa học
nào đối với đòi hỏi như thế, và như vậy chủ trương
của Việtnam bác bỏ đòi hỏi chủ quyền 9 đoạn của
Trungquốc tại Biển Đông là hợp lý”. Thật là hoàn
toàn trái ngược với lập trường kiên định từ lâu
nay của Trungcộng. Trong cuộc họp giữa Trương Tấn Sang
chủ tịch nước Việtnam Cộngsản và Tập Cận Bình chủ
tịch nước Trung Hoa Cộng Sản, ngày 21/06/2013, hai bên đã
chính thức ký 10 văn kiện hữu nghị nâng cao tầm mức
Chiến Lược Toàn Diện, trong đó buộc Việt Nam Cộng Sản
phải mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng ở
toàn vùng Đường 9 Đoạn tại Biển Đông. Trong thông cáo
chung giữa Việtcộng và Trungcộng chỉ được nhắc khu
vực biển Ngoài Cửa Vịnh Bắc Bộ, chứ không hề được
nhắc tới tên Biển Hoa Nam theo cách gọi của Tàu, hay là
Biển Đông theo cách gọi của Việt. Nhất là Việtnam
không được đề cập tới 2 quần đảo Hoàngsa, Trườngsa
và phải tuyệt đối quên đi Công Ước Luật Biển Liên
Hiệp Quốc 1982. Vì Bắckinh biết là họ hoàn toàn vi phạm
luật pháp quốc tế. Họ cũng ngăn việc Việtnam đưa vấn
đề tranh chấp Biển Đảo ra tranh tụng trước Toà Án
Trọng Tài Liên Hiệp Quốc như Philippines. Mà chỉ cam kết
không dùng võ lực trong các cuộc tranh chấp Biển Đảo.
Nhưng Trungcộng vẫn ngang nhiên cho tàu hải giám của họ
săn đuổi, bắt bớ, đánh đập, tịch thu hải sản và
dụng cụ đánh cá của Ngư Dân Việtnam. Đoán không lầm
thì chính vì điểm ép buộc, ức hiếp quá đáng này của
đàn anh Trungcộng, mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã gấp
rút xin Mỹ gặp Trương Tấn Sang để nhờ che chở.
Mặc dù cuộc tiếp
đón Trương Tấn Sang chủ tịch nước Việtnam Cộng sản,
chính thức công du Mỹ để gặp tổng thống Hoakỳ Barack
Obama, nhưng cuộc tiếp đón lại quá đơn giản, không đầy
đủ nghi vệ như Trungcộng đón tiếp linh đình ở
Bắckinh. Thế mà trong cuộc họp báo chung với tổng thống
Obama, Trương Tấn Sang tỏ ra hân hoan vui vẻ với bộ mặt
tươi tỉnh, miệng luôn giữ nụ cười. Khác hẳn với
những lần Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn
Dũng khi ngồi họp báo với Tổng Thống Bush, vừa nghiêm
trang, vừa e dè , vừa gượng gạo. Chứng tỏ trong cuộc
thảo luận trước đó hai ông Obama và Sang đã thẳng
thắn, thoải mái, đạt được những thỏa thuận cần
thiết và những lời hứa tốt đẹp của vị lãnh đạo
Siêu Cường Hoakỳ với ông Sang. Mà chẳng riêng gì Trương
Tấn Sang đến Tập Cận Bình lãnh tụ Trung Hoa Cộng Sản
mới đây, cũng tỏ dấu phấn khởi khi được gặp riêng
với tổng thống Obam kia mà! Việc Trương Tấn Sang tặng
tổng thống Obama bản sao bức thư của Hồ Chí Minh gửi
cho tổng thống Harry Truman vào năm 1946, kêu gọi sự trợ
giúp của Hoakỳ, được xem như một lá bùa để cho Sang
nói với các đảng viên Cộng Sản Việtnam và cả với
Trungcộng rằng, không phải Trương Tấn Sang và giới lãnh
đạo Đảng Cộng Sản Việtnam giờ đây phải nhờ Mỹ
giúp, mà chính ông Hồ trước kia cũng đã muốn Mỹ giúp
Việtnam rồi vậy.
Vấn đề trở ngại
giữa Mỹ và Việt hiện nay là Nhân Quyền, có lẽ chuyến
đi của Trương Tấn Sang đã không có món quà Nhân Quyền
nào đem đến Mỹ, nhưng cả hai vị tổng thống Mỹ và
chủ tịch nước Việtnam Cộngsản đã thẳng thắn nêu
vấn đề bảo vệ và thúc đẩy Nhân Quyền, Tự Do Bày
Tỏ, Tự Do Tôn Giáo, Tự Do Hội Họp… Thực ra vấn đề
Nhân Quyền và Dân Chủ nó lại được gắn kết chặt
chẽ với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương
(TPP), mà hai bên phải nỗ lực thực hiện trước cuối
năm nay. Nếu Việtcộng không nghiêm chỉnh thay đổi luật
pháp để Việtnam thoát khỏi thứ kinh tế man rợ “Kinh
Tế Thị Trường theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa lấy
Công Ty Quốc Doanh làm chủ đạo” và không nhập cảng
nguyên, nhiên liệu từ các nước thành viên thì chẳng
thể bán sản phẩm của mình và gia nhập hệ thống Tư
Doanh Phi Mậu Dịch của TPP. Nếu Việtnam không tôn trọng
Nhân Quyền thì Quốc Hội Mỹ sẽ không chấp nhận để
cho Việtnam tham dự TPP. Tóm lại Việtnam muốn vào TPP thì
từ giờ tới cuối năm, giới lãnh đạo Việtcộng phải
gấp rút thay đổi Hiến Pháp, Luật Pháp để thực hiện
Dân Chủ Hoá Chế Độ mới yên.
LÝ ĐẠI NGUYÊNLittle Saigon ngày 30/07/2013.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)