Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013
Ghé thăm các blog: 29/07/2013
BLOG BÙI VĂN BỒNG
* XUÂN DŨNG
BVB - Kết quả kiểm toán ở 271 doanh nghiệp thuộc 27 tập đoàn, tổng công ty cho thấy, nợ phải trả của các đơn vị này lên tới gần 70% tổng số vốn. Điều này cho thấy các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay và vốn chiếm dụng.
Đây là con số vừa được Kiểm toán Nhà nước công bố trong buổi họp báo về kết quả kiểm toán năm 2012, sáng 25/7.
Theo ông Đào Quang Dũng, Vụ trưởng Vụ tổng hợp, Kiểm toán Nhà nước, tổng số vốn của các tập đoàn, tổng công ty được kiểm toán đến hết 31/12/2011 là trên 263.000 tỷ đồng, trong đó vốn chủ sở hữu chiếm 24,7%.
Tuy nhiên, phân tích chi tiết con số trên, ông Dũng cho biết, nợ phải trả của các đơn vị trên chiếm tới 69,94% tổng nguồn vốn.
Một vài cái tên được phía kiểm toán chỉ ra có tỷ lệ nợ phải trả trên tổng nguồn vốn lên tới gần 90% như Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 4 (Cienco 4), hay thậm chí là trên 90% là Tổng công ty Xây dựng Việt Nam (Vinaincon). Vinaconex cũng là cái "ông lớn" khác được Kiểm toán Nhà nước nhắc tới với tỷ lệ nợ lên tới trên 81%.
Cũng theo Kiểm toán Nhà nước, nợ quá hạn phải trả ở một số tập đoàn, tổng công ty cũng đang ở mức cao. Trong đó, những cái tên được Kiểm toán Nhà nước "điểm danh" là Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) với số nợ quá hạn lên tới trên 1.369 tỷ đồng, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 8 (Cienco 8) là hơn 73 tỷ đồng hay Tổng công ty Càphê Việt Nam (Vinacafe) cũng có số nợ vay quá hạn hơn 150 tỷ đồng.
Kiểm toán Nhà nước nhận định, việc vay và sử dụng vốn vay ở các tập đoàn, tổng công ty vẫn còn nhiều bất cập. Một số dự án dầu tư sử dụng vốn vay theo đánh giá của ngành kiểm toán là không hiệu quả và chậm tiến độ dẫn tới khó trả nợ.
Một số đơn vị thậm chí còn bị Kiểm toán Nhà nước thẳng thắn đánh giá là "không bảo toàn được vốn." Trong đó, Cienco8, Tổng công ty Xăng dầu Quân đội (Mipeco) hay Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) là những doanh nghiệp lớn được Kiểm toán Nhà nước xếp trong diện nói trên.
Số nợ đọng thuế tăng 32% trong nửa đầu năm 2013
Trong khi số nợ phải trả của các tập đoàn, tổng công ty ở mức cao như trên thì nợ phải thu của những đơn vị này được Kiểm toán Nhà nước đánh giá là "quản lý chưa chặt chẽ, nợ xấu cao."
Kiểm toán Nhà nước cho rằng, việc kiểm soát nợ phải thu thiếu chặt chẽ dẫn tới tình trạng chiếm dụng vốn lớn ở khách hàng của nhiều doanh nghiệp.
Trong đó, tỷ lệ nợ phải thu trên tổng tài sản của nhiều công ty lên tới trên 30-50%. như Công ty cổ phần Xây lắp và Sản xuất công nghiệp (40%), Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam (trên 39%), Công ty cổ phần Vimeco thuộc Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam (trên 44%),...
Ở những doanh nghiệp khác, Kiểm toán Nhà nước còn thẳng thắn cho rằng, có tình trạng quản lý nợ tạm ứng không chặt chẽ dẫn tới nợ phải thu quá hạn tồn đọng lớn, tạm ứng bằng tiền mặt lên tới hàng chục tỷ đồng nhưng chậm thu hồi.
Vậy, rà soát chức năng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thì ai là người đã vẽ ra các thứ "chiến lược", nặn ra các "quả đấm thép" rồi lại cố tình bằng nhiều thủ thuật pát-sê, che chắn, thả lỏng cho các Tập đoàn, Tổng Công ty Nhà nước ăn lạm quá nhiều vào vốn, làm rỗng cả ngân khố quốc gia? Lạm phát, suy thoái vẫn trầm trọng, nhưng người ta vừa cho thiên hạ ăn bánh vẽ, vừa lừa miéng tháo các má phanh để đẩy nhanh nền kinh tế tuột dốc hòng vơ lợi cho cá nhân và nhóm lợi ích. Biểu hiện rõ nhất là họ đang cố tình rủ nhau quỵt nợ tiền Nhà nước! -
BLOG ĐÀO TUẤN
Chẳng nơi đâu như ở Việt Nam. Thương lái nước ngoài có thể thao túng giá cả, thị trường, xu hướng các loại hàng hóa nông sản, không cần phải nói với ai, dễ dàng như trong một cái chợ làng
Hơn 100 tấm biển quảng cáo bằng tiếng Trung “lấn át” tiếng Việt đã được Bắc Ninh dỡ bỏ. Trong khi đó, ở Thủ đô, một vị Phó ban Tuyên giáo khẳng định dứt khoát sẽ xử lý nghiêm khắc “Nếu biển hiệu chữ Trung Quốc sử dụng phổ biến ở nơi nào đó của Hà Nội, để trở thành hiện tượng”.
Chuyện dẹp bỏ những tấm biển chữ nước ngoài “lấn át” tiếng Việt cho thấy một sự thật khôi hài: Cơ quan quản lý không thấy, trước khi được báo chí “nhìn thấy” hộ. Bằng chứng là ngoài Bắc Ninh, có hẳn những “Phố Trung Quốc giữa lòng Hạ Long. Còn ngay chính tại Bắc Ninh, làng nghề Việt từ rất lâu đã trở thành “Phố Tàu”.
Cái biển quảng cáo, hình thức bên ngoài của giao dịch thương mại, to đến như vậy, còn nhìn mãi không thấy, huống hồ những câu chuyện bên trong.
Hôm đầu tuần, Quản lý thị trường phát hiện ra một vụ buôn bán lạ khi 5 tấn khoai tây Trung Quốc được vận chuyển từ TP HCM lên Đà Lạt. Có quá nhiều điều “to như con voi” có thể thấy trong bản tin nhỏ này. Thứ nhất, khoai tây Trung Quốc vượt hàng ngàn km để vào Nam rồi lên Tây Nguyên. Thứ hai, thị trường của khoai tây Trung Quốc giờ đã lên đến Đà Lạt, một vựa khoai tây của cả nước. Gọi là một cuộc xâm lăng cũng đúng. Và chuyện các thương lái người Việt, giữa vựa khoai tây, nhập khoai tàu về “bôi đất đỏ” cho giống khoai tây ta để lừa đồng bào dường như hàm chứa trong đó điều mà chúng ta gọi là nồi da xáo thịt.
Củ khoai tây tàu giữa vựa khoai tây ta, dẫu sao cũng là điều dễ thấy, dễ xử lý dù về bản chất, nó không thuần túy chỉ là câu chuyện gian lận thương mại. Có nhiều thứ khác, chúng ta, một cách thụ động, hoàn toàn không hiểu.
Trong vài ngày qua, khi giá thịt heo mỡ tăng các tỉnh Nam bộ đang tăng chóng mặt. Nguyên do, thương lái Trung Quốc mở chiến dịch thu gom loại thịt heo (mỡ) mà thị trường trong nước trước nay chỉ lắc đầu chê ỏng chê eo.
Đừng trách bà con nông dân nếu như ngày mai, tuần tới, tháng sau, họ đổ xô vào nuôi heo mỡ, và sau đó, ế chỏng ế chơ khi thương lái Trung Quốc ngừng mua- như bao nhiêu ví dụ tày liếp. Nông dân đã sống triền miên với chữ lỗ. Và được giá là họ cứ hẵng mừng cái đã. Cũng còn bởi, ngay tại Thủ đô, dân Cổ Nhuế đang bỏ hết cả việc để đi săn đỉa để “bán cho Trung Quốc với giá 800 ngàn đồng/kg”.
Và cũng còn bởi đã có ai, đã có cơ quan chức năng nào trả lời cho họ câu hỏi tưởng đơn giản: Thương lái Trung Quốc mua heo mỡ, mua đỉa, mua rễ hồ tiêu, mua…tòan những thứ kỳ quái đó để làm gì?
Chẳng nơi đâu như ở Việt Nam. Thương lái nước ngoài có thể thao túng giá cả, thị trường, xu hướng các loại hàng hóa nông sản, không cần phải nói với ai, dễ dàng như trong một cái chợ làng. Việc dẹp bỏ những tấm biển chữ Trung, vì thế, đâu có phải là cách để hai chữ thương mại, dù sẽ có những cái chặc lưỡi rằng chỉ là tiểu ngạch, là thương lái, có thể tồn tại một cách trong sạch!
BLOG HUỲNH NGỌC CHÊNH
Dư luận cho rằng trước sức ép càng ngày càng hung hăng của Trung Cộng, Chủ tịch Trương Tấn Sang phải vội vàng đi Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ của quốc gia dân chủ hùng mạnh nhất thế giới này.
Dư luận cũng cho rằng ông Sang cố tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ về một số việc sau:
- Ủng hộ VN vào TPP
- Ủng hộ VN trong tranh chấp giữa VN và TC ở Biển Đông
- Bán vũ khí cho VN
- Tăng cường hợp tác Mỹ- Việt trên một số lãnh vực
Qua thông báo chung, nhiều người cho rằng dường như ông Sang không thu lượm được kết quả gì cụ thể.
Thực ra rất khó cho Mỹ và cũng rất khó cho ông Sang trong tiến trình đi đến sự hợp tác toàn diện giữa hai nước. Có một rào cản hết sức lớn ngăn chặn tiến trình nầy. Một quốc gia dân chủ tiến bộ như Mỹ rất khó lòng ủng hộ toàn diện một quốc gia chuyên chính toàn trị như VN. Từ trước năm 1945, trong lúc còn mờ mịt thực hư, người Mỹ, qua OSS, đã đánh hơi được đường lối của ông Hồ Chí Minh là như thế nào rồi nên đã bỏ qua lá thư yêu cầu giúp đỡ của ông ta huống chi bây giờ sự việc đã quá rõ trắng đen.
Vì sự tồn tại của đảng mình, ông Sang không thể tuyên bố dân chủ hóa, chấp nhận đa đảng, chấp nhận thả hết tù chính trị v.v... như tổng thống Miến Điện Thein Sein đã làm. Ngược lại, ông Obama không thể hứa gì hơn một khi VN vẫn chưa đưa ra cải cách chính trị nào.
Chưa nói là rào cản đến từ sự ràng buộc bất bình đẳng của VN vào Trung cộng càng lúc càng nặng nề hơn, thể hiện qua tuyến bố chung giữa hai nước mà cũng chính ông Sang, qua chuyến Bắc du, vừa mới mang về, trong đó có nội dung bịt hết đường kêu gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài của VN trong tranh chấp ở Biển Đông.
Dư luận cũng cho rằng, chuyến đi của ông Sang là nhằm mục đích thăm dò thái độ của Mỹ chứ chưa có kỳ vọng lớn lao gì. Nhưng nếu nói là để thăm dò thì cứ ngồi nhà vẫn có thể thăm dò được lòng dạ của Mỹ.
Tóm lại là cũng chẳng cần đi Mỹ, nhất là đi với tư thế bức bách và cần thiết người ta quá như vậy.
Nhiều khi ta không cần đi Mỹ để cầu cạnh, nhưng Mỹ sẽ tự tìm đến với ta. Chúng ta cũng có nhiều cái rất quan trọng mà Mỹ rất cần chứ. Mỹ cũng muốn trở lại với VN lắm chứ. Thế nhưng, như đã nói, sự khác biệt thể chế chính trị giữa hai nước là rào cản lớn nhất.
Thực tâm cải cách chính trị như Miến Điện, tự khắc Mỹ sẽ tìm đến với ta. Nhưng tại sao không cải cách được nhỉ? Nếu toàn tâm vì dân vì nước thì chuyện ấy có gì khó lắm đâu?
FACEBOOK NGƯỜI BUÔN GIÓ
Một bài viết trên báo công an ca ngợi người quản giáo có tấm lòng với phạm nhân.
http://conganbackan.vn/backan/vi/news/Guong-nguoi-tot/Tam-long-nguoi-quan-giao-34669/#.UfF8UI1TC24
trích bài viết:
'' Kinh nghiệm công tác cho anh biết tâm trạng của một phạm nhân như thế sẽ gây ảnh hưởng đến những phạm nhân khác, ảnh hưởng đến công tác giáo dục cải tạo phạm nhân. Anh đã liên lạc với gia đình, gặp gỡ trao đổi với người vợ của Bình về tình hình sức khoẻ, ý thức chấp hành án phạt tù của Bình, gợi lên tình cảm con người, những quan điểm và nỗ lực của xã hội đưa những người lầm lỗi về với nẻo thiện. Mỗi lần gia đình phạm nhân Bình gọi điện hỏi thăm, anh đều trao đổi trước về những nội dung trong cuộc nói chuyện để tránh sáo động tâm lý đối với Bình...''
Thiếu tá quản lý trại tạm giam công an tỉnh Bắc Kạn Nông Quang Trưởng là người được khen ngợi trong bài báo về thành tích xuất sắc khi quan tâm đến sức khỏe, tâm tư, đời sống của phạm nhân.
Nếu vì những điều trên mà thiếu tá Nông Quang Trưởng được khen ngợi là có tấm lòng, thì chúng ta nghĩ gì về trường hợp bưng bít tình trạng sức khỏe tù nhân của trại giam số 5 Thanh Hóa , Trại 6 Nghệ An, trại Nam Hà , Phủ Lý.
Blogge Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tuyệt thực để phản đối chính sách hà khắc của trại giam số 6. Thời gian tuyệt thực kéo dài hàng chục ngày, tính mạng Nguyễn Văn Hải nguy hiểm. Nhưng trại giam số 6 không hề có một dòng thông báo đến gia đình anh. Phải đến khi người bạn tù với anh là Nguyễn Xuân Nghĩa gặp vợ, có nói về tình trạng của anh Hải thì gia đình anh Hải mới được biết. Lúc anh Nghĩa nói tình trạng anh Nguyễn Văn Hải đang tuyệt thực, hai cán bộ trại giam đã bịt miệng anh Nghĩa lôi đi, không cho nói tiếp, cắt ngang buổi gặp lúc chưa hết giờ.
Hành vi bịt miệng anh Nghĩa lôi đi tức khắc và sự im lặng không thông báo cho gia đình anh Hải về sức khỏe của anh, cho thấy ban giám thị trại giam số 6 cố tình muốn bưng bít thông tin anh Hải tuyệt thực bằng mọi giá. Cho thấy ban giám thị trại giam đã có những chuẩn bị kỹ về việc anh Hải tuyệt thực.
Nếu anh Hải vì tuyệt thực mà chết, liệu trại giam số 6 Thanh Chương Nghệ An có thông báo lý do là anh chết do tuyệt thực không.? Khi mà bên ngoài không ai biết rằng anh Hải tuyệt thực.
Nếu trại thông báo vậy dư luận phẫn nộ, cấp trên khiển trách xử phạt ..vì rõ ràng tuyệt thực là cái chết không đến ngay, nó đến từ từ qua ngày này sang ngày khác. Một trại giam của một chế độ CNXH tươi đẹp, giam giữ con người để cải tạo, giáo dục họ thành người tốt. Mà giáo dục kiểu gì để người ta kiên quyết tuyệt thực đến chết thì hỏi cả cái trại giam ấy lẫn cái chế độ ấy là thể loại gì.? Liệu trại giam có thẳng thắn nói rõ lý do đó không.? Nếu dám nói thì hà cớ gì phải dấu gia đình anh, bịt miệng người khác để bít tin anh ấy tuyệt thực. Động cơ bưng bít tình trạng sức khỏe của phạm nhân là chuẩn bị cho ý đồ gì, có minh bạch hay không mà phải che dấu.?
Còn nếu anh Hải chết vì tuyệt thực, trại giam và chế độ nhà nước nhân đạo ấy nói rằng anh tử vong do bệnh, do suy tim, do đột tử, suy não....đủ các loại bệnh mà pháp y nghĩ ra...thì chả lẽ trại giam đi nói láo, chế độ tươi đẹp đi nói láo về cái chết của người khác để chối trách nhiệm của mình.
Tất nhiên thì không chắc trại giam số 6 sẽ nói láo trong trường hợp này vì điều đó chưa xảy ra nên chưa rõ, nhưng từ xưa đến nay ở chế độ tươi đẹp mà chúng ta đang sống. Chưa có trại giam nào thông báo phạm nhân tuyệt thực mà chết cả. Chỉ có vô vàn nguyên nhân, nhưng chưa có nguyên nhân tuyệt thực mà chết được thông báo.!
Nhưng thế nào thì trường hợp của cán bộ trại giam Nông Quang Trưởng với các cán bộ trại giam số 5, số 6, Nam Hà khác nhau một trời một vực. Và nếu người này được khen, thì chả lẽ những người kia không bị khiển trách vì những hành động ngược lại.? Đó sẽ là sự bất công hiển nhiên, và một hệ thống mà sự bất công ngang nhiên tồn tại thì sẽ khiến người dân hoài nghi về bản chất hệ thống ấy là điều hiển nhiên.
Mới đây gia đình Lê Văn Sơn cũng bất ngờ người khi hay tin anh đã chuyển trại cách trại cũ hơn 200 cây số. Phải đi từ nhà Lê Văn Sơn đến trại Nghi Kim Nghệ An gần 200 cây số, lộn ngược lại gần 200 cây số đó và phải đi thêm ngót 70 cây số nữa mới đến trại mới. Lộn đi lộn lại vì không hề được thông báo khi chuyển trại Sơn, đến trại mới gia đình thấy anh chống nạng, gầy gò ra gặp, hỏi mới biết bị hai cán bộ trại giam đánh vì tội không ''chào cán bộ''.
Chỉ không chào cán bộ mà bị cán bộ đánh đến lúc gẫy chân mới thôi. Vậy trông mong gì vào sự giáo dục nhân đạo để phạm nhân thành người tốt.? Chưa nói đến chuyện không chào còn bị đánh gẫy chân, thì các chuyện khác lớn hơn thì số phận phạm nhân thế nào.
Việc anh Nguyễn Văn Hải gửi đơn lên các cấp, theo nguyên tắc trại giam có quyền kiểm tra thư, đọc nội dung. Nếu là đơn kiến nghị, khiếu nại thì trại sẽ tổ chức cán bộ giáo dục gặp gỡ phạm nhân để tìm hiểu về nội dung khiếu nại, có thể sẽ xử lý nội dung đơn hoặc thuyết phục phạm nhân, giải quyết trong nội bộ trại giam. Trong trường hợp phạm nhân không đồng ý với cách xử lý, giải quyết đơn của cán bộ trại giam. Trại giam phải có trách nhiệm chuyển thư đi và thông báo cho phạm nhân ngày gửi, nơi gửi đến.
Trường hợp đơn thư của phạm nhân sai,trại vẫn phải chuyển đến cơ quan có thẩm quyền để họ xem xét xử lý. Vì việc tố cáo sai phạm nhân sẽ bị chịu trách nhiệm, hình phạt có thể do trại hay cục quản lý trại giam quyết định. Năng hơn nữa thì viện kiểm sát sẽ khởi tố vì tội vu khống ...
Nhưng bất kỳ thế nào, trại không được phép ỉm đơn của phạm nhân, không chuyển đi đến các cơ quan có thẩm quyền. Điều đó không những vi phạm quy chế trại giam, mà còn xâm phạm đến quyền khiếu nại, tố cáo. Xâm phạm đến luật tố tụng hình sự trong trường hợp nôi dung đơn có vấn đề nghiêm trọng đủ cơ sở cấu thành hành vi phạm tội của cá nhân, tổ chức bị khiếu nại trong đơn.
Xét về mặt tình như cán bộ Nông Quang Trưởng, xét về mặt pháp lý đã nêu trên. Chúng ta đủ yếu tố để nhận xét rằng, hành động bưng bít thông tin về tình trạng sức khỏe anh Nguyễn Văn Hải là vô đạo đức về giáo dục phạm nhân, trái pháp luật về xử lý đơn thư khiếu nại.
Trại giam số 6 Thanh Chương và cục quản lý trại giam cần phải có hành động tức thời là gửi đơn khiếu nại của anh Hải đến cơ quan chức năng mà anh yêu cầu trong đơn. Đồng thời để gia đình anh Hải tiếp xúc và động viên anh Hải ngừng tuyệt thực, bảo vệ sức khỏe bản thân. Nghiêm khắc xử lý những cán bộ trại giam liên quan trong việc ỉm đơn, bưng bít thông tin tình trạng sức khỏe phạm nhân.
Nếu đến giờ phút này, những việc làm đúng đắn trên không được ban giám thị trai giam số 6 Thanh Chương thực hiện. Rõ ràng dư luận thấy đây là '' tâm địa quản giáo ''..'' mặt thật quản giáo '' ...'' tim đen quản giáo'' chứ không phải là Tấm Lòng Người Quản Giáo.
BLOG NGUYỄN TƯỜNG THỤY
Nguyễn Hoàng Đức
.
Mục đích của các cuộc thi là gì? Là để phát hiện ra hiền tài! Nói rõ hơn là phát hiện ra ai đẹp nhất, ai khôn nhất, ai khỏe nhất, ai chạy nhanh nhất, ai khéo nhất, ai giỏi nhất…
Nhưng đó là cuộc thi giành cho các thí sinh ứng dự tranh sức tranh tài! Nhưng còn các cuộc thi giành cho ban giám khảo thì sao? Bao giờ cũng phát hiện ra được một ban giám khảo có sẵn, hoặc lắp ghép sẵn, lọ mọ già cả hết đát… ban giám khảo đã cũ kỹ, vì tất cả đã “thành danh”, nhưng chỉ có điều người ta thấy những đồng tiền mới me nhảy múa với tiếng sột soạt dù rất cũ nhưng luôn vang lên âm hưởng của niềm vui “sáng tạo”. Chưa thi thì rỗng túi, thi rồi xủng xẻng tiền tài, đó không phải sự sáng tạo đã lên men sao?! Chúng ta thử ngẫm:
- Học thêm để làm gì? Để cho học sinh nâng cao kiến thức? Không! Các bài chính thức trên lớp không dạy hết, từ lớp một đến nhà cô chép bài lúc cô đi chợ, rồi đại học cũng chép bài thầy đọc cho chép… Để làm gì? Không phải để học thêm mà để thầy cô kiếm thêm! Tại sao dự án bỏ các loại kỳ thi từ học kỳ, đến cuối khóa hay đại học bàn mãi mà không làm được? Vì càng có nhiều kỳ thi, nghĩa là càng có rào chắn, học sinh càng phải tìm lò luyện, như thế thầy cô mới có nhiều cơ hội để kiếm.
- Thời khoán ruộng, chính ban chủ nhiệm các hợp tác xã đã ngầm chống lại việc khoán ruộng. Tại sao? Vì nếu nông dân tự chịu trách nhiệm với ruộng của mình, thì vai trò lăng xăng điều phối kiếm chác của ban chủ nhiệm còn gì nữa. Có ruộng trong tay các ông mới thi thố oai phong, phân công cho điểm theo ý muốn thì mới kiếm chác được chứ?!
Có hai câu chuyện thế này. Tờ báo kia đang lỗ vốn, nhân viên buồn thiu ngồi ngáp ruồi. Bỗng một người tham mưu, tại sao ta không tổ chức thi hoa hậu, bọn gái trẻ hám danh lắm, thế nào chúng cũng bu đến, nhiều doanh nghiệp sẽ đầu tư, rồi bọn muốn leo cao thì phải nạp tiền hay nạp cái gì có sẵn… y như rằng cuộc thi vui như tết, tiền bạc giống da thịt phơi lộ khỏi áo tắm bé tẹo đã chìa ra khỏi ví và túi sách không đủ khổ rộng để che đậy chúng.
Một tờ báo khác cũng buồn thiu như vậy. Có nhà thơ bỗng tham mưu, sao không tổ chức thi thơ, bọn làm thơ là đông nhất, công – binh, buôn bán vặt, tổ hưu, nông dân, cả xe ôm lẫn cánh buôn đầu ra Cổ Nhuế đều có thể làm thơ. Đám này háo danh còn hơn bọn gái trẻ. Hoa hậu còn cần sắc đẹp, chứ loại này chỉ cần thạo mặt chữ, ăn xong gác chân cửa sổ chưa xỉa răng xong đã có một bài tứ tuyệt tự do rồi. Một bài thơ đăng báo hay được giải, thì vinh quang dễ khác gì chèo cây hái quả trong vườn. Kỳ thi thơ được tổ chức. Thành công còn ngoài dự án bởi ban sơ khảo vừa đọc vừa vứt không xuể. Ngay cả người ta chỉ liếc mắt nhìn cái tên nào quen thuộc, hay là bạn ở báo khác. Và giải thưởng thì còn thành công hơn, chúng là những “giải khôn” cứ nhìn ai tài trợ thì trao giải. Có giải thưởng ồ ạt trưng trên mặt báo văn nghệ địa phương chi chít tên và ảnh trông chẳng khác gì báo in bộ sưu tập tem chân dung.
Những cuộc thi thơ phong trào gần đây như 13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, hay thi thơ mạng, rõ ràng người ta được chứng kiến cuộc bình bầu tuyển chọn rồi tôn vinh của cỏ rác. Kinh Thánh có câu “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Nền thơ của chúng ta thì sao? Có bạn yêu thơ bình “Hội đồng chuột làm sao đẻ ra mèo”?
Thơ của chúng ta là lúa hay cỏ? Cỏ là cỏ trời mọc tự nhiên vô tội vạ. còn lúa, ngay khi cấy người ta đã phải cắm nó có hàng có lối để khi gặt được dễ dàng cũng như không dẫm bừa lên lúa. Như vậy, lúa đã là sản phẩm của tổ chức lý trí. Cỏ tự nhiên làm sao có yếu tố lý trí?
Còn ban giám khảo, những người chấm thơ là sản phẩm của tự nhiên hay lý trí? Họ là người vui chơi từ mấy mẩu thơ cảm xúc mà lên, cũng chỉ là người cắt cỏ làm sao mà thành người gặt lúa được?
Kết quả là gì? Trên cánh đồng không có lúa, chỉ có cỏ! Ra gặt không có thợ gặt chỉ có thợ cắt cỏ. Cắt cỏ về làm gì? Phơi khô làm chất đốt chăng? Giờ đây người ta đun bếp ga, bếp điện, than tổ ong sạch, thì cỏ khô có tác dụng gì?! Hay cho trâu bò ăn để lấy sức kéo? Giờ đây nhà quê còn chạy xe máy, xe công nông nếu không vứt xó thì bị cấm, ô tô nhiều như nấm chạy bằng xăng, thử hỏi cần gì cỏ khô?
Cắt cỏ về dù chẳng để làm gì nhưng vẫn vui và tung tóe nhiều tiền ra phết. Tại sao? Vì cỏ đó là cỏ thơ, nó vẫn chứng tỏ sức sống mạnh như cỏ dại của thơ. Một cách nghiêm túc, chúng ta vẫn biết, thơ lâu nay chỉ là thứ ăn theo vé kèm trên các báo. Ngay cả các nhà thơ cũng không tin tưởng vào thơ đến mức, hô hào họ mỗi quí bỏ vài đồng ra mua tạp chí thơ, họ cũng không bỏ, thơ đành in rồi kẹp vào báo, bán theo lối “ăn độn” khoai mì thời bao cấp. Nhưng có rất nhiều nhà thơ hở ra là nói chuyện về tình yêu văn thơ, coi như giả vờ tin rằng nhân loại hay người Việt vẫn đang yêu thơ lắm. Cho nên nhìn thấy vô số cỏ lao vào vườn hồng để thi thơ, họ mừng lắm, coi như một lần hâm nóng được ảo tưởng của mình. Trong thực tế, họ “yêu” thơ đến mức không muốn nhận mình là nhà thơ, mà hở ra một cái lại nhận mình là “nhà văn”. Trời ơi, nền thơ Việt Nam quả là nghèo một cách xum xuê, nghèo như cỏ lác um tùm vậy, có mấy cái đinh tưởng là thợ gặt hay hạt giống cho thơ, vậy mà họ lại chuồn mất trên từng cơ hội thì nền thơ có trống rỗng không?
Nhiều người Việt ra nước ngoài mặc cảm mình thuộc quốc gia nhỏ bé nghèo nàn lạc hậu, đã nói dối mình là người Nhật hay Hàn… như vậy họ có yêu tổ quốc không? Một người yêu thơ mà không dám nhận mình là nhà thơ để chia sẻ sự èo uột nghèo nàn của nó, thì tình yêu thơ đến đâu? Có rất ít nhà thơ can đảm như Nguyễn Đình Thi, ông rất giỏi nhiều mặt, như sáng tác nhạc, viết tiểu thuyết, viết kịch, nhưng ông luôn luôn chỉ nhận mình là nhà thơ. Tấm gương đó theo nghĩa trên, thật đáng hiếm và đáng soi!
Trở lại các cuộc thi thơ của ta. Đường đang yên, người ta ngăn sông cấm chợ để ra oai và thu tiền mãi lộ. Còn các cuộc thi thơ của ta có phải luôn luôn phát hiện ra một ban giám khảo rất oai, toàn gộc gạc mậu dịch đầu mốc. Còn các giải thưởng nó có phải là mãi cỏ hay “mãi thơ”. Có không nạn chạy giải, mua giải, ẵm giải, định hướng giải trong các cuộc thi mà hầu hết các thợ cắt cỏ đều là thiện xạ bắn đâu trúng đích đấy. Các đích nhắm thường là: người đầu tư, đồng hương, chức quyền, gái đẹp. Tại sao họ có thể bắn giỏi nhất thế giới như vậy? Vì đạn của họ là một chiếc đinh định hướng rất nhỏ bắn vào túi của người mà họ khuyên nên bỏ sẵn một cục nam châm vào đó. Bắn thế thì làm sao mà trật được. Nói có sách mách có chứng, cuộc thi cao nhất của trung ương kia, BGK còn khoe nhau, đã cứu nhau những bàn thua trông thấy, đó là những thứ phạm qui được luồn qua cửa “đồng môn” trở thành của thật. Rồi ủy viên ban sơ khảo vẫn chễm chệ thi khi tay vừa cầm tác phẩm vừa cầm còi trọng tài. Thơ chưa hiểu hay hoặc không? ( thơ hay không bao giờ nó phải bước bằng chân ưu tiên phạm qui cả), nhưng rõ ràng BGK đã đạt giải quán quân cả thế giới không thể tìm thấy một thành tích thiên vị trắng trợn đỉnh cao như vậy?
Cuộc dạy thêm kiếm thêm nào, học trò chưa biết học được gì nhưng thầy luôn là người chiến thắng, vì túi thầy đã phồng lên.
Các cuộc thi thơ sống sít dựa trên dân trí lè tè cỏ giả, chưa biết gặt được lúa hay hoa, nhưng chắc chắn BGK luôn được bồng bềnh trên danh lợi chập chờn! Và dù sao cũng được tiếng “ta đang tua lại khát vọng hay ảo tưởng thơ, dù nó chẳng có hay chưa có giá trị gì”.
Có câu “Nhìn trò biết thầy, và nhìn thầy biết trò”, hoặc “thầy nào trò nấy”. Không hiểu các giải thơ lè tè có chứng minh cho tầm cao vời vợi của những ủy viên gác cổng thơ hay không?'
NHĐ 24/07/2013
Tác giả gửi cho NTT blog
Văn Quang - Không thể tin gì và tin ai được nữa
Văn Quang
Chưa bao giờ người Sài Gòn lại “bội thực” tin tức như thời đại này. Từ chuyện ăn đến chuyện chơi, tin tức giả thật lẫn lộn. Từ những tin khiến người dân lo sốt vó đến tin khiến người dân đàm tiếu lung tung, đôi khi luật pháp cứ như trò chơi, trò chơi lại thành luật pháp hay ít nhất nó cũng được biến thành “dự thảo” trình nơi này duyệt, nơi kia cho phép. Dự thảo chán rồi bỏ là chuyện hàng ngày ở huyện. Lại có cả dự thảo “bịa như thật” làm náo loạn dư luận. Ngay cả đến chuyện thống kê cũng “ông nói gà bà nói vịt”, cơ quan này báo nhiều, cơ quan kia nói ít, chẳng ông nào đúng. Dân xin phép chẳng tin ông nào cho đỡ lôi thôi.
Rồi hết Hà Nội thu phí xe gắn máy đến chuyện cả nước giật mình vì tăng giá xăng kỷ lục. Xoay qua mấy bác có tí tiển gửi ngân hàng cũng xính vính vì tin lãi suất ngày càng giảm cùng với giá đô la vọt lên và giá vàng nhảy múa loạn xạ khiến người dân hoa cả mắt, đã hoang mang càng hoang mang vì chẳng biết gửi đồng tiền mồ hôi nước mắt vào nơi nào cho yên thân. Chung quy nhìn nơi nào cũng thấy sợ.
Quá nhiều chuyện “thiên hạ sự” của người Sài Gòn, nói cả ngày không hết. Người dân lúc này nhìn nơi nào, hàng nào cũng thấy toàn độc là độc. Từ mớ rau, con cá, con cua đồng đến đủ loại thịt heo gà vịt đều có thể tẩm chất độc.
Xem ra việc thực phẩm nhiễm độc đã là quá quen thuộc, khi mới đây lại thêm cá tầm Trung Quốc, rau ngót, mướp đắng bị phát hiện nhiễm độc. Giờ đây tìm hàng nhập khẩu từ Trung Quốc sạch có lẽ còn khó hơn tìm hàng bẩn, độc, sau hàng loạt loại nhiễm độc đã công bố như nho, lê, táo, gừng, khoai tây, gà, vịt… giờ tới cá tầm nhập lậu cũng nhiễm chất cấm.
Từ nhà hàng cao cấp, các vị thích ăn heo sữa quay, vịt quay đến nhà hàng bình dân, nơi nào cũng có thể bị nhiễm độc.
Nhiều đám giỗ đám cưới và cả những người lao động ở một vài công ty đã có hàng chục thực khách lăn quay ra sau khi ăn uống thực phẩm được các nhà hàng mang tới.
Bây giờ đúng là không thể tin gì, tin ai được nữa, con dấu, giấy tờ cũng bị làm giả, Cục trưởng Cục Bảo Vệ Thực Vật thì biết rau, củ, quả nhiễm độc vẫn khuyên dân cứ ăn, còn người buôn bán thì vì lợi nhuận loại gì cũng sẵn sàng bán… Cứ như trước mặt là cả một tấn tuồng bắt tay nhau gài sẵn guồng máy “lậu” và “độc”, chẳng anh nào thoát được chui đầu vào rọ. Người tiêu dùng nào cũng không thể là “thông thái” được nữa. Chỉ còn biết “nhắm mắt đưa chân”, ăn bừa may ra thì không chết.
Nhưng chuyện thiết thân phải nói đến trước hết là chuyện gạo ngâm hóa chất, điều này càng khiến người dân lo lắng hơn. Nhất là những bác lao động và công tư chức loại cơm hàng cháo chợ hoảng hồn.
Gạo ngâm bột trắng, cơm nở nhiều gấp đôi
Như bạn đã thấy, từ mấy chục năm nay hàng tẩm chất này chất kia nhiều vô kể, nhưng chuyện gạo tẩm hóa chất là chuyện mới nhất, lạ nhất tại TP Sài Gòn và có thể còn nhiều nơi khác nữa mà người dân không thể tưởng tượng ra. Đây là một “sản phẩm mới nhất”, ly kỳ nhất mà các bà nội trợ cũng chưa bao giờ nghĩ ra.
Muốn biết, chịu khó đến chợ Bà Chiểu thuộc vùng Tân Định là bạn có thể biết ngay.
Từ lâu chợ Bà Chiểu (quận Bình Thạnh, TP Sài Gòn) được biết đến là khu chợ lâu đời, buôn bán nhiều loại gia vị nổi tiếng và tiểu thương nào cũng có sẵn mấy chục lượt khách quen đến mua hàng ngày. Chợ bán nhiều loại gia vị từ quế, hồi, đến các loại bột làm bánh, bột nổi… và mỗi hàng lại có những loại tạp phẩm không giống ai để cạnh tranh lợi nhuận.
Theo tiết lộ của một phục vụ quán cơm trên đường Võ Văn Ngân (quận Thủ Đức, TP Sài Gòn ) thì chỉ cần 1 muỗng canh loại bột màu trắng này có thể “hóa phép” cho 10 kg gạo nở bung trắng đều, hạt to mẩy khi đã chín thành cơm tương đương như khi nấu 20 kg gạo thông thường mà không mất nhiều công. Loại gia vị này được chủ quán cơm cho biết mua tại chợ Bà Chiểu.
Vỏ bọc tiếng Anh nhưng bên trong toàn chữ Tàu
Chị P (tên chủ sạp P.H) cho biết: “Loại này chỉ bán cho người quen hoặc có khách hỏi mới đưa chứ không bán đại trà”. Vì thế khi thấy khách tìm mua chị mới lôi ra 1 gói nhỏ màu đỏ bằng giấy và bảo đây là loại bột giúp hô biến gạo thành cơm nhiều và nhanh chóng.
Ngoài vỏ gói bột ghi hầu hết bằng tiếng nước ngoài, không có nhãn mác hay hạn sử dụng nhưng chủ sạp vẫn khẳng định đây là hàng nhập. Xé vỏ giấy ra thì thứ bột trắng, nhỏ mịn như đường cát này có mùi thơm nhẹ. Tuy nhiên, gói giấy bọc vỏ bên ngoài lại in chữ Tàu chằng chịt.
Chỉ cần ngâm 15-20kg gạo chung với 1 muỗng canh nhỏ loại bột này rồi đem hấp khoảng 1 tiếng, gạo sẽ nở bung, cho lượng cơm nhiều gấp đôi so với bình thường. Thêm nữa loại bột này còn có tác dụng làm cơm chín rất nhanh, chị P nói: “Ngâm bột này vừa giúp gạo nở nhanh, nhiều và chín mau mà không mất công làm gì cả”.
Chị T., 35 tuổi, thâm niên bán cơm vỉa hè 5 năm cho biết, dân trong nghề gọi bột này là bột nở có tác dụng làm thịt nhỏ to ra gấp 2, hạt gạo ngâm đem hấp lên to ra gấp 2,3 lần mà chẳng cần công sức gì cả. Vì vậy “một ngày ước tính bán 40kg gạo, nhưng kỳ thực chúng tôi chỉ bỏ tiền mua 15-20kg gạo thôi bởi cho bột vào ngâm gạo rồi hấp lên ra cơm nở, xốp và chín nhanh mà nhiều lắm. Nhưng cơm vì thế ăn không dẻo, bị sống sượng”.
Nhiều khách ăn cơm rẻ hàng ngày cho biết, họ ít khi quan tâm đến việc cơm ra sao mà chỉ chăm chăm xem rau, thịt, cá có sạch và ôi thiu hay không. Vì thế việc cơm nở từ gạo ngâm bột trắng hóa chất gì đó với họ là ngoài sức tưởng tượng.
Có chất độc hay không chưa biết
Cục an toàn thực phẩm thuộc Bộ Y Tế cũng liên tục đưa ra những khuyến cáo cho người dân nên chọn những loại thức ăn có nguồn gốc xuất xứ, hợp vệ sinh để bảo vệ sức khỏe.
Theo các bác sĩ ở trung tâm chống độc TP Sài Gòn, mùa hè là thời điểm số bệnh nhân bị ngộ độc thực phẩm phải nhập viện tăng cao. Vì vậy người dân nên hạn chế ăn các loại thức ăn không rõ nguồn gốc, thức ăn đường phố vì đó là nơi rất dễ bị nhiễm khuẩn, quy trình chế biến và bảo quản đều không bảo đảm. Đó chỉ là lới khuyến cáo “chung chung” cho có việc làm.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa cơ quan nào chịu nghiên cứu và công bố rõ ràng loại hóa chất tẩm vào gạo này có chất độc không? Dân đang chờ, nhưng… quan không vội!
Ông cục trưởng khuyên dân: Có chất độc vẫn ăn được
Chuyện ngược lại và cũng là thứ chuyện ngược đời là biết khoai tây Trung Quốc có độc nhưng người đứng đầu Cục Bảo Vệ Thực Vật thuộc Bộ Nông Nhiệp Phát Triển Nông Thôn (NNPTNT) VN lại nói “phải chấp nhận”.
Ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật – Bộ NN-PTNT, đã nhìn nhận như vậy quanh vụ 26 tấn khoai tây Trung Quốc có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt 16 lần ngưỡng cho phép vừa bị phát hiện tại TP Đà Lạt.
Khi được phóng viên hỏi: Thưa ông, nếu vừa qua TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng không phát hiện được 26 tấn khoai tây Trung Quốc có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt 16 lần ngưỡng cho phép thì người dân đã bị đầu độc?
Ông Nguyễn Xuân Hồng đã trả lời: Trong trường hợp như thế thì bất cứ nước nào trên thế giới đều phải chấp nhận. Bởi vì không phát hiện ra thì thôi, cũng như nhiều trường hợp, đi khám mãi mà bác sĩ không phát hiện ra bệnh nhưng thực chất là đang mắc bệnh.
Hiện nay, trên thế giới cũng chỉ đến mức độ như thế thôi, kể cả các nước phát triển nhất họ cũng đang áp dụng những biện pháp như vậy. Bất cứ phương pháp kiểm tra gì trên thế giới cũng có độ rủi ro chứ không bao giờ được tuyệt đối 100%.
Ông Hồng khẳng định “Mức dư lượng tối đa cho phép là mức mà trong thương mại người ta đưa ra, nó rất an toàn… không phải cứ vượt ngưỡng tối đa cho phép là mất an toàn”. Ông giải thích thêm: “… Hằng ngày, 1 thanh niên 18 tuổi phải ăn 3.000 cây xà lách hoặc 1 cô gái phải ăn 354 quả táo. Khi các loại rau quả này có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép, phải liên tục ăn như thế thì nó mới ảnh hưởng đến sức khỏe”.
Lại bảo vệ các thứ rau nhiễm độc nhưng… không độc
Sau khi khuyên người dân hãy cứ ăn khoai tây Trung Quốc nhiễm độc gấp 16 lần mức cho phép, và một mực bảo vệ củ khoai tây, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Xuân Hồng lại tiếp tục lên tiếng bảo vệ là rau ngót, quả mướp đắng dù có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng vài lần nhưng vẫn không độc. Và nếu có độc thì chẳng qua do người dân không biết ăn đúng cách.
Nhưng tại cuộc họp ngày 8/7, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát, đã yêu cầu các đơn vị chức năng phải kiểm tra, làm rõ sai phạm trong vụ khoai tây Trung Quốc tại Lâm Đồng bị phát hiện tồn lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép. Đồng thời ông cũng yêu cầu đưa rau ngót và mướp đắng vào chương trình giám sát cả năm nay.
Trong lúc các lãnh đạo đang ngồi phòng lạnh dự hội nghị trên, Cục trưởng bảo vệ củ khoai tây, lá rau ngót, Bộ trưởng chỉ đạo kiểm tra, giám sát, làm rõ… thì ngoài phòng họp, khoai tây Trung Quốc đã tràn ngập Hà Nội, với giá chỉ 10.000 – 14.000 đồng/kg. Không riêng gì ở Đà Lạt, TP Sài Gòn đã kiểm tra và thực tế khoai tây TQ vẫn được báy bán khắp chợ.
Kính thưa Cục trưởng: Chất độc không thể ăn được!
Ngay sau khi lời phát biểu của ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật – Bộ NN-PTNT, khi cho rằng dù dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép 16 lần nhưng khoai tây Trung Quốc vẫn an toàn đã bị dư luận phản đối dữ dội. Đây không phải lần đầu ông cục trưởng phát biểu gây sốc.
Bạn đọc có nick culi phản đối: “Ông trả lời với dư luận gì mà kỳ vậy? Ông chấp nhận nhưng những người mẹ, những người cha không thể “chấp nhận” cho con cái mình ăn những thứ độc phẩm như vậy được. Không có một quốc gia nào chấp nhận cho dân tộc mình ăn đồ độc”.
Bạn đọc có nick Râu rầu bất bình: “Không ngờ Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật lại có thể phát biểu những câu mà tôi đọc xong cảm thấy bị khinh thường như thể một người lớn đang dỗ dành em bé quấy khóc vì bố mẹ nó thất hứa không mua quà”.
Đối với bất kỳ ai và bất kỳ loài vật nào, chất độc không thể ngửi, hít, chứ chưa nói là ăn vào. Do vậy, ở riêng 26 tấn khoai tây Trung Quốc bị phát hiện dư lượng thực vật cao gấp 1 lần cho phép mà ông Hồng nói vẫn an toàn thì không một ai chấp nhận được.
Bạn đọc Hữu Châu nói: “Với cách lập luận của ông Nguyễn Xuân Hồng thì người tiêu dùng nên tự cứu mình thôi”.
Đây không phải lần đầu tiên ông Cục trưởng Nguyễn Xuân Hồng phát biểu gây sốc mà theo bạn đọc là quá vô cảm trước người dân.
Còn nhớ ở vụ táo Trung Quốc nhiễm độc, trên Báo Người Lao Động số ra ngày 22-6-2012, ông Nguyễn Xuân Hồng cũng khẳng định: Chất độc trong táo Trung Quốc ở ngưỡng an toàn. Dẫn kết quả phân tích 40 mẫu táo Trung Quốc có chứa hóa chất độc hại thiram với hàm lượng 0,08 ppm, trong đó 15 mẫu có hóa chất aren ở mức từ 0,02 – 0,11 ppm, ông Hồng khẳng định chất độc thấp hơn ngưỡng cho phép và trong ngưỡng an toàn khi sử dụng.
Ngay sau tuyên bố này, hàng trăm bạn đọc đã gửi ý kiến phản đối kịch liệt. Bạn đọc cho rằng chất độc vẫn là chất độc và khi đã là chất độc thì không có ngưỡng, chỉ thấy nguy hại cho sức khỏe.
Ban mttl nói tuột ra:
Thế thì không cần Cục Bảo vệ thực vật nữa. Dân Việt Nam chúng ta đang nuôi báo cô một số người vô tích sự…
Ban Lanh liên tưởng tới một số cơ quan có trách nhiệm khác:
Không chỉ riêng ông cục này, mà các ông cục khác, bộ khác như hải quan, quản lý thị trường,…. những người hàng tháng được người dân trả tiền lương vì công việc của mình thì hãy có trách nhiệm với công việc hơn, còn nếu thấy không làm được thì mạnh dạn từ chức để người khác lên làm, chứ đứng phát biểu như ông cục này thì người dân chúng tôi không hài lòng.
Tạm ngưng chuyện ông cục trưởng ở đây để bạn đọc khỏi bị ngộp.
Kinh khủng hơn nữa là ép dầu ăn từ lạc và… cao su
Người dân xã Điện Thọ (huyện Điện Bàn, Quảng Nam) đến mùa hái lạc xong, đem tới nhà ông Trương Căn (trú tại thôn Châu Lâu, xã Điện Thọ) ép lấy dầu. Nhưng khi đem hàng ngàn lít dầu lạc về để chế biến thức ăn thì phát hiện có mùi khét (giống mùi cao su bị cháy) cùng khói đen bốc lên.
Ông Căn sau đó thừa nhận, trong khi chạy máy để ép dầu lạc, ông đã dùng các miếng cao su (từ ruột lốp xe máy), có độ dài khoảng 10 cm, rộng 2 cm, để bỏ vào máy ép. Vì khi chạy máy ép dầu thì máy thường bị kẹt vì dầu lạc bám vào thân máy, bỏ cao su vào máy là để “bôi trơn”, chống máy bị kẹt.
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, dầu ăn trộn lẫn cao su có thể gây bệnh ung thư, nhẹ thì gây rối loạn tiêu hóa. Không biết bao nhiêu gia đình ở VN đã được dùng thứ dầu ăn đặc biệt này?
Làm giả con dấu thú y để bán thịt thối
Lâu nay thịt thối thường được các lái buôn tuồn đi tiêu thụ bằng cách trộn lẫn với thịt tươi để bán, hoặc tuồn vào các nhà hàng, quán ăn, nhưng những cách làm đó xem ra đã quá quen thuộc, dễ bị phát hiện, mà lúc nào cũng phải run sợ bị lực lượng chức năng kiểm tra, khách hàng cũng dè chừng hơn.
Nhưng mới đây, các con buôn thịt thối đã “cao tay hơn”, mà dùng từ chuyên môn gọi là “diễn biến phức tạp, với mức độ ngày càng tinh vi”, đó là làm giả cả con dấu thú y để đóng lên thịt và giấy tờ kiểm dịch.
Ngày 13/7 vừa qua, công an thị xã Dĩ An (Bình Dương), khi kiểm tra một xe tải đông lạnh chở 10 thùng xốp lớn, bên trong chứa khoảng 100 con heo sữa đã rỉ nước vàng, bốc mùi hôi thối, đang trên đường từ Quảng Ngãi vào quận 5 (Sài Gòn) để tiêu thụ. Chủ lô hàng được xác định là Nguyễn Hồng Thanh (30 tuổi, ở Tiền Giang).
Kiểm tra giấy tờ liên quan đến lô hàng, công an phát hiện và thu giữ một con dấu kiểm dịch thú y (hình vuông), có mã số của Chi cục Thú y tỉnh Quảng Ngãi. Chủ lô hàng khai đã tự khắc con dấu này tại nhà riêng, mỗi lần vận chuyển heo sữa từ Quảng Ngãi vào TP Sài Gòn sẽ sử dụng để đóng lên giấy tờ và đóng lên thịt heo…
Chỉ kể bằng ấy thủ đoạn và chất độc hại trong thực phẩm thôi, hầu như gia đình nào, già trẻ lớn bé đều cảm thấy mình đã bị lừa, bị đầu độc từ lâu mà không hể hay biết. Trong tình hình này thì mỗi gia đình đều phải tự cứu lấy nhau thôi. Tin cái gì, tin vào ai bây giờ?
Đến chuyện “bịa” như thật làm nhiều bà hết hồn
Gần đây, một nguồi tin rất “giật gân” được báo mạng lớn tại VN đưa lên rồi nhiều báo khác cứ thế đăng lại:
Chi cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình TP Sài Gòn mới đây đề nghị với UBND thành phố về việc bắt buộc khám sức khỏe trước khi làm thủ tục đăng ký kết với cả vợ lẫn chồng, mục đích là để tránh những bệnh có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc hôn nhân. Tiện thể, chi cục cũng đề nghị nên quy định về độ tuổi được phép mang thai của phụ nữ, cụ thể là không được quá 33 tuổi.
Trên tờ Báo Phụ Nữ VN ngày 11-07-2013 đã báo động “Không chửa gấp thì… không kịp?”
Mặc dù là một lời báo động vui nhưng thực sự nó cũng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều bà hiếm muộn không chỉ ở TP Sài Gòn mà còn ở nhiều địa phương khác bởi TP Sài Gòn thực hiện được thì các nơi khác cũng làm được.
Từ đó phát sinh nhiều chuyện “bên lề” nửa đùa nửa thật, khá thú vị. Ngay sau khi đọc xong tin trên mạng, Hà Mi, người 2 tháng nữa tròn 33 tuổi nhưng chưa lấy chồng, treo status: “Cần tìm người cho giống gấp hôm nay, muộn hơn không kịp chửa trước 34 tuổi, bị phạt thì chết em”. Hà Mi bảo, cô treo đùa vậy thôi, vì biết thừa một cái đề xuất vô lý như thế chẳng bao giờ được chấp nhận để áp dụng, thế nhưng cũng có người hết hồn. Con em họ tôi 32 tuổi, mới có một đứa con, lẽ ra cũng chửa đứa thứ hai rồi nhưng chồng nó lại đi học nước ngoài, gần 2 năm nữa mới về. Nó nói hay em bảo ảnh về ít ngày, đúc con rồi đi. Tôi mắng bảo mày khùng hả, tao còn chưa lo nữa là mày”.
Anh Đình Tú, 37 tuổi, kỹ sư công nghệ thông tin làm việc cho một cơ quan thuộc ngành giáo dục, kể, sáng nay mấy cậu trong phòng anh cứ rao ầm lên: “Chị em ai cần đúc con ngay không, anh em sẵn sàng hỗ trợ miễn phí đây. Chị nào gái ế, ba mấy tuổi chưa có chồng thì nhờ luôn kẻo lát nữa xếp hàng không kịp, chị nào chồng đi công tác đăng ký sớm nhé”. Chị em cũng hưởng ứng rôm rả không kém. Một chị, có chồng đang làm việc cách đó 9 cây số, bạo mồm: “Gọi chồng sang chắc không kịp, thôi cậu nào giúp chị thì giúp luôn kẻo hết giờ”.
Bà chị già nhất phòng kêu: “Cả tao nữa, tao cũng cần”. Mấy ông em nhao nhao: “Bà già rồi còn đú, 35 tuổi, quá đát mất 2 năm rồi nhá”. Chị cười hề hề: “Nhân lúc họ mới đề xuất chứ chưa được phê chuẩn, tao tranh thủ làm tí. Mai mốt cái quy định ấy được duyệt thì tao lỡ có chửa rồi, chả nhẽ bắt tao phá à?”
Đại khái có những chuyện “tếu” như vậy song không hẳn là không có những bà chị lớn tuổi mà chưa có chồng không lo lắng, “điệu này chắc hết lấy chồng được rồi!”.
Phóng viên vẽ rắn thêm chân
Nhưng thật ra đây chỉ là thứ chuyện “bịa” hoặc vẽ rắn thêm chân của một phóng viên báo mạng phỏng vấn bà Tô Kim Hoa – chi cục trưởng Chi cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình TP Sài Gòn, sau đó về tung tin này lên mạng.
Bà Tô Kim Hoa cho biết ngày 11-7 phóng viên C.T. của một tờ báo điện tử – tác giả bản tin đầu tiên đề cập đến việc đề nghị phụ nữ sau 33 tuổi không nên mang thai. Phóng viên C.T. đã thông tin không chính xác dẫn đến hiểu nhầm là Chi cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình TP Sài Gòn đề nghị quy định độ tuổi phụ nữ mang thai không quá 33. Thực tế, chi cục chỉ đề nghị quy định độ tuổi mang thai cho những trường hợp thụ tinh nhân tạo. Bà Hoa cũng xác nhận bản tin trên đã có sơ sót nhưng cũng đã nói rõ bối cảnh thông tin là trao đổi thông tin bên lề cuộc họp.
Tuy nhiên theo bà Hoa, nhiều trang thông tin và báo điện tử khi dẫn lại thông tin đã cố tình lờ đi bối cảnh trao đổi thông tin mà ghi thành “đó là đề xuất đã gửi đến UBND TP”.
Chưa dừng lại ở đó, một số trang thông tin và báo điện tử còn thêm thắt, dùng các từ “cấm”, “bắt buộc”, “yêu cầu”… rồi tạo diễn đàn, lấy ý kiến các chuyên gia, thậm chí cả một lãnh đạo cơ quan pháp luật ở Quốc hội về việc cấm phụ nữ trên 33 tuổi mang thai.
Bà Hoa nói: “Chính những bài báo này mới làm trầm trọng sự việc, gây ra bất bình đối với người dân. Thật sự tôi buồn và thất vọng”.
Như thế thì quả thật bây giờ chẳng còn biết tin nào thật tin nào giả ngay trên những tờ báo “chính thống” nữa, cũng như chuyện “huyền thoại tay không quật ngã trực thăng UH–1 của Mỹ” vậy.
Văn Quang
BS Hồ Hải - BÀN VỀ "KỶ VẬT" CHỦ TỊCH NƯỚC TRAO CHO TỔNG THỐNG OBAMA
BS Hồ Hải
Cách chơi khăm của các nguyên thủ quốc gia Hoa Kỳ với các nguyên thủ quốc gia không cùng chí hướng rất cay độc và trí tuệ mà không thể chối cãi được, vì họ luôn ở thế chiếu trên, không cần phải cầu cạnh những đối tác khó tin cậy. Chúng ta lược qua lịch sử và ý nghĩa của những việc tuy nhỏ, nhưng rất quan trọng này, để tìm ra cách nhìn khách quan trong các động tác ngoại giao.
Như lần ông Bush con đến Việt Nam trước khi hết nhiệm kỳ, ông nói hai vấn đề bạch hóa mà dân Việt ít ai biết được. Thứ nhất là, có người than phiến tiền kiều hối từ Hoa Kỳ cứ gửi về Việt Nam qua khúc ruột ngàn dặm là một yếu tố giúp chế độ độc tài ở Việt Nam tồn tại. Ông Bush con trả lời rất đơn giản và trí tuệ rằng, tiền của ta rồi nó sẽ lại về ta thôi, lo gì? Thứ hai là, ông lộ bí mật về con gái của thủ tướng đương nhiệm sẽ là dâu của nước Mỹ.
Lần này tại cuộc gặp mặt tại Nhà Trắng, cuối buổi họp báo của hai nguyên thủ quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam, ông Obama đã tiết lộ món quà "qúy báu" mà chủ tịch nước Việt Nam gửi tặng cho ông là lá thư của cụ Hồ gửi cho Tổng thống Truman ngày 28/02/1946, với tư cách chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng ông Truman bỏ lá thư này vào thư viện lưu trữ mà không trả lời. Lý do là, tháng 7/1945 lúc đó Hoa Kỳ chưa xác định được cụ Hồ chính là Nguyễn Ái Quốc, nên họ đưa nhóm OSS - Office of Strategic Services - tiền thân CIA sang đào tạo quân đội cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trong đó có viện trợ 200 ngàn đô la Mỹ. Nhưng đến ngày 02/9/1945 khi người Mỹ thấy cụ Hồ đọc tuyên ngôn độc lập chính là Nguyễn Ái Quốc, và là người của Quốc tế Cộng sản 3, có nhiệm vụ bành trướng chủ nghĩa cộng sản xuống toàn khu vực Đông Nam Á. Nên họ đã làm ngơ và, vì thế mới có hiệp định Genève 1954, và chia đôi đất nước, rồi nội chiến 20 năm.
Thiên hạ đang bàn nhau cái động tác chủ tịch Trương đưa lá thư của cụ Hồ cho Tổng thống Obama để có mục đích gì? Tôi xin phân tích về cả 2 nguyên nhân khách quan và chủ quan để rõ vấn đề. Vấn đề là tại sao giờ này mới đưa lá thư này mà trước nay không đưa? Đó là mấu chốt của vấn đề.
Có 5 yếu tố chủ quan từ Việt Nam
Thứ nhất là, sau 30/4/1975 với phong trào tự sướng của cộng sản toàn cầu, nó đã làm mụ mỵ não trạng cộng sản trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam đã cho rằng tư bản giãy chết, nên không có lý do gì phải cầu viện như cụ Hồ đã chân thành tha thiết cầu viện ông TT Truman.
Thứ hai là, đến 1990 khi cái nôi cộng sản sụp đổ, cộng sản Việt Nam cũng với não trạng như trên của cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, ông còn muốn nắm đầu cộng sản toàn thế giới trong chuyến đi tháng 10/1989 sang Đông Đức để họp, hòng kêu gọi cộng sản toàn thế giới đoàn kết lại. Nhưng thất bại, nên cuối cùng ông dẫn đầu đoàn cộng sản Việt Nam sang Trung Cộng quỳ gối để làm chư hầu bằng hội nghị Thành Đô 1990.
Thứ ba là, đến kỳ đi của cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 6/2007, lúc này kinh tế định hướng bán tài nguyên và con người để kiếm ăn đẩy tăng trưởng phồn vinh mà giả tạo của Việt Nam lên đỉnh điểm. Nên ông Triết đã chém gió phân hóa nội bộ Hoa Kỳ, vì cho rằng nền kinh tế định hướng bán tài nguyên và dân tộc để ăn sẽ thắng thế, trong khi Hoa Kỳ đang nợ ngập đầu sau vụ 11/9 sụp tòa WTC - World Trade Center - do bin Laden làm khủng bố.
Thứ tư là, bây giờ thì kinh tế định hướng bán tài nguyên và dân tộc đã sụp đổ. Hay nói cách khác là không còn gì để bán. Bên kia Trung Hoa cũng vậy đang sụp đổ. Nên dứt áo ra đi cầu viện Hoa Kỳ như cụ Hồ đã từng cầu viện.
Thứ năm là, hành động này là một lời nhắc khéo lại lịch sử như là một sai lầm của Hoa Kỳ trong ngoại giao đã đẩy hai nước đang có ban giao tốt trở thành thù địch.
Năm điều trên thể hiện một não trạng nô lệ ương hèn mà tôi đã viết trong bài Thoát Trung Luận 2, nó làm cho đất nước và dân tộc này mãi thấp hèn và kém cỏi.
Ba yếu tố khách quan của toàn cục
Đầu tiên là, Trung Hoa không còn là nơi để bám váy ăn xin, vì Trung Hoa đã và đang sụp đổ. Trung Hoa đã phá nát tài nguyên phi vật thể và vật thể của nước Việt. Bằng chứng về giá trị phi vật thể là, từ sau Hội nghị Thành Đô 1990 đến nay, Trung Hoa đã cho du nhập vào Việt Nam một nền văn hóa dối lừa; một nền kinh tế định hướng bán tài nguyên và dân tộc sai lầm; và một nền chính trị nửa phong kiến tập quyền, nửa tư bản hoang dã. Bằng chứng phá nát những giá trị vật thể là, từ Bauxite Tây Nguyên đến những công trình quốc gia như thủy, nhiệt điện và cả hàng hóa, từ rừng cao đến đồng bằng, và Trung Hoa cũng vừa là kẻ đã và đang có mưu đồ xâm chiến biển Đông, và làm cho nước Việt yếu hèn. Nó là động lực cho quyết định có chuyến ngoại giao Hoa Kỳ vội vàng, và cần hạ mình để xin cầu viện Hoa Kỳ trong lần này.
Kế đến là, Hoa Kỳ đang thả cái củ cà rốt Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế xuyên Thái Bình Dương - TPP - trong khi kinh tế Việt cần tới 100 tỷ đô la để cứu nền kinh tế đang sụp đổ. Thế mà cái công ty quản lý tài sản Việt Nam - VAMC: Viet Nam Asset Management Company - có chức năng xử lý nợ xấu, năm nay chỉ có thể giải quyết được 70.000 tỷ nợ xấu trong năm 2013 - tương đương chỉ hơn 3 tỷ đô la. Với cách giải quyết này thì phải 30 năm mới có thể giải quyết hết tình hình khủng hoảng kinh tế hiện nay. Trong khi đó cầu viện Hoa Kỳ thì nếu được vào TPP mỗi năm Việt Nam sẽ hy vọng kiếm được 26,2 tỷ đô la. Trong 4 năm kinh tế Việt Nam sẽ hồi phục hoàn toàn, và có cơ hội hùng cường, mà không cần phải quỳ lụy Trung Hoa. Hơn nữa, chuyến công du đến Trung Hoa trước đây hơn 1 tháng, ông chủ tịch chỉ mang về chưa đến 100 triệu đô la, và những ràng buộc song phương không có giá trị với một Trung Cộng tráo trở.
Và cuối cùng là, trong việc xoay trục chiến lược Thái Bình Dương của Hoa Kỳ lần này là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Vì Hoa Kỳ xoay trục đến đâu, thì ở đó có chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới II, Hoa Kỳ xoay trục đến châu Á Thái Bình Dương thì 2 cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, và chiến tranh Việt Nam 1954 -1975 tàn phá không thua chiến tranh thế giới. Sau 30/4/1975 Hoa Kỳ xoay trục sang Trung Đông, thì các cuộc chiến ở Kuwait, Iraq, cách mạng Bắc Phi và Trung Đông gần đây đã minh chứng rõ. Nên nó là động lực bắt buộc cộng sản ở Việt Nam phải chuyển hướng chiến lược hòng sống sót. Hay nói cách khác là, con tắc kè đổi màu cho phù hợp với môi trường thiên nhiên để sống còn trong quy luật đấu tranh sinh tồn.
Vấn đề còn lại là liệu Hoa Kỳ có tin cậy hay không, thì không ai trong chúng ta có thể biết được. Từ Joint Statement (Tuyên bố chung có ý nghĩa về mặt tinh thần và hứa hảo) đến Joint Agreement (Hiệp định chung có ý nghĩa cùng nhau thực hiện những cam kết đã ghi ra) là một khoảng trống chả bên nào muốn đi đến, nếu bên chiếu dưới không thực hiện trước. Nên chuyện 9 tuyên bố chung giữa Việt Nam và Hoa Kỳ và 10 tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Cộng cũng chỉ là những lời hứa hảo. Ôi, chữ với nghĩa.
Nhưng trước tiên, Việt Nam cứ hãy thực tâm làm sao trong 4 tháng tới đáp ứng 2 tiêu chí chính trị và kinh tế cho Hoa Kỳ thấy, để họ gật đầu cho vào TPP. Còn không thì cũng như lá thư mà cụ Hồ đã gửi cho ông Truman cách đây 67 năm trước, hội nghị hai nguyên thủ quốc gia, với 9 tuyên bố chung cũng chỉ là một kỷ niệm.
Tất cả những điều trên cho thấy ai đang giãy chết, và ai đang nhịp giò nhìn thế giới là con rối như những câu thơ của Chế Lan Viên viết cho cụ Hồ cách nay nửa thế kỷ trong bài thơ, Người đi tìm hình của nước, như sau:
"...Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi
Lòng ta thành con rối
Cho cuộc đời giật dây ..."
Asia Clinic, 9h55' ngày thứ Bảy, 27/7/2013
Trọng Thành - Gia đình nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa lo cho số phận ông trong tù
Trọng Thành (RFI)
Ngày 17/07/2013, trong cuộc gặp với gia đình, sau khi thông báo tin blogger Điếu Cày tuyệt thực, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đã bị các cán bộ trại giam lôi đi. Anh Nguyễn Trí Dũng, con trai ông Điếu Cày, sau cuộc gặp cha ngày 22/07, đã được chính ông thông báo người bạn tù Nguyễn Xuân Nghĩa đang bị "kỷ luật" biệt giam. Để chuyển đến quý thính giả thông tin về người tù lương tâm này, RFI đặt câu hỏi với bà Nguyễn Thị Nga, vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa.
Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa (DR)
Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, một đại diện của tổ chức đấu tranh dân chủ 8406, bị bắt giam từ tháng 9/2008, với bản án 6 năm tù giam, 3 năm quản chế. Ông là người bị án nặng nhất trong vụ án xét xử những người tổ chức treo biểu ngữ và rải truyền đơn kêu gọi dân chủ tại cầu vượt Lạch Tray (Hải Phòng) và Lai Cách (Hải Dương), tháng 8/2008. Ông bị nhiều bệnh tật nặng nề hành hạ và hiện đang bị giam giữ tại trại giam số 6 (Thanh Chương - Nghệ An), cùng với blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải.
Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa được trao giải thưởng nhân quyền Hellman/Hammett năm 2011, cùng với 7 nhà tranh đấu nhân quyền Việt Nam khác. Giải thưởng này tôn vinh những nhà tranh đấu nhân quyền bị chính quyền đàn áp vì các hoạt động phổ biến thông tin và quan điểm.
Bên cạnh nỗi lo âu thường trực về sinh mạng của người chồng đang bị giam cầm trong hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt, trong cuộc phỏng vấn bà Nguyễn Thị Nga thường nhắc đến một ưu tư lớn khác của bà là làm sao có nhiều người "lên tiếng giúp đỡ những người hiện đang còn trong tù, những người nổi tiếng, cũng như những người không nổi tiếng". Vì bà hiểu "cuộc sống trong tù dưới chế độ cộng sản" qua những chứng kiến và cảm nghiệm của bản thân. Bà hy vọng "mọi người lên tiếng mạnh mẽ, nhiều, để cho họ trùng đôi tay tàn bạo của họ xuống" đối với những tù nhân như ông Nguyễn Xuân Nghĩa và "tất cả những tù nhân khác ở trong đất nước Việt Nam này". Bà đặc biệt tố cáo hệ thống nhà tù Việt Nam đày ải "những người tù chính trị (vốn) đã phải vào tù rồi lại còn bị (thêm) một lần tù nữa" (tức bị biệt giam), chỉ cần làm khác ý các quản giáo là bị hành hạ, trừng phạt dã man.
RFI : Xin chào bà Nguyễn Thị Nga. Sau khi ông Nguyễn Xuân Nghĩa bị trấn áp vì tiết lộ việc blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải đang tuyệt thực, nhiều người rất lo ngại cho số phận của ông. Xin bà cho biết cụ thể về tình trạng của nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, hiện đang bị giam giữ tại trại giam tỉnh Nghệ An.
Bà Nguyễn Thị Nga : Tôi rất là lo lắng cho ông ấy từ hôm ấy (tức ngày 17/07). Cách hai ngày hôm sau, thì con của anh Điếu Cày có vào, do sức ép của gia đình, công luận này khác, thì họ cũng cho con trai của anh Điếu Cày vào. Thì lúc cháu ra nói với tôi rằng, bố cháu nói là bác Nghĩa đang bị « kỷ luật » từ hôm ấy.
Từ hôm ấy, cũng chưa có được thông tin gì, nhưng tôi cũng đã biết được là chồng tôi, ở trong đấy kỷ luật thì chỉ có một là biệt giam và hai là cùm chân. Thế thì ông Nghĩa thì đã thường bị biệt giam ở trại Nam Hà. Trong hai năm rưỡi, anh ấy đã từng bị biệt giam ba lần. Thì khi đến gặp tôi (lần này), thì chồng tôi cũng có nói rằng … cực khổ lắm. Họ cho vào một cái gian nhà tăm tối, rồi trong nhà không có đồ dùng gì, ngoài cái nhà vệ sinh trong một buồng biệt giam như thế. Tôi rất đau lòng, rất là lo lắng cho chồng tôi, nhưng bây giờ cũng không biết làm thế nào. Cũng mong đợi một ngày tới đây (vào giữa tháng tới) là đúng một tháng, thì tôi sẽ lên xem là anh ấy bị hình thức « kỷ luật » như thế nào. Vì chặng đường rất là xa anh ạ. Vào trong ấy, miền Trung, là 500 cây số. Nếu vào mà chưa đến tháng, thì họ cũng không bao giờ cho gặp thêm, vì mình đã thăm gặp rồi.
Nhân đây, tôi cũng muốn gửi thông điệp tới mọi người rằng làm sao ngăn chặn được bàn tay của họ. Khi những người tù chính trị đã phải vào tù rồi lại còn bị một lần tù nữa (tức bị biệt giam, đày ải trong tù). Một lần tù chỉ vì sai ý của họ thôi. Ví dụ, anh ấy nói chuyện là, chỉ có bàn luận hôm Quốc hội họp trên truyền hình – buổi tối các anh ấy xem TV có bàn luận này khác – nếu mà khác ý họ, hay làm họ phật ý một cái gì, thì họ mượn bàn tay của người khác, họ vu cáo anh ấy là thế này, thế kia, rồi là « tuyên truyền » ở trong ấy. Thế là lập tức họ gửi anh ấy sang một trại khác, họ biệt giam ba tháng. Sau khi hết ba tháng rồi, họ lại tiếp tục ký một cái lệnh biệt giam sáu tháng nữa. Thì cái đợt hai, anh thực thi được mấy ngày, thì họ chuyển anh ấy về trại Nghệ An.
Ông xã nhà tôi đối mặt với bao nhiêu bệnh tật, chính là khối u thành kén… anh ấy đi tiểu rất nhiều lần. Khi chuyển về trại Nghệ An, lại còn bị trĩ, trĩ độ 3, nên không thể đùn đẩy được nữa, thì trại giam họ mới cho cắt. Ngoài ra, còn bệnh sỏi thận nữa. Cái đợt trước, chắc là qua việc cắt trĩ, thì thấy hành xử của họ đối với gia đình tôi. Họ không từ một cái hành động dã man nào, đối xử với những tù nhân ở trong ấy. Ví dụ như hôm vừa rồi gặp chồng tôi, thì có hỏi anh là gửi cho anh thùng hàng anh có nhận được không, thì khi anh nhận được thùng hàng thì thối tha hết, chuột cắn… Họ vô lương tâm, vô trách nhiệm, họ vứt thùng hàng vào trong kho… Họ chỉ muốn giết mình thôi, họ tìm cách hành hạ mình một cách thật là tàn khốc để cho sức khỏe mình suy kiệt, để mình chết đi.
Qua đây, tôi thấy rằng rất là lo lắng cho tình trạng sức khỏe của chồng tôi. Nhân đây, tôi cũng nhắn gửi với mọi người rằng, lên tiếng nhiều và ngăn chặn bàn tay tàn độc của họ, đối với những tù nhân chính trị. Qua trang mạng tôi đọc thấy cháu Lê Sơn (blogger Paulus Lê Văn Sơn bị án tù 4 năm, hiện bị giam tại Hà Nam) cũng thế, bị họ đánh gẫy chân. Thế cho nên là, đã lên tiếng thì lên tiếng cho nhiều người, cho tất cả mọi tù nhân. Hành động biệt giam của họ là vô cùng tàn nhẫn và vô nhân đạo. Tôi đã biết hết tất cả qua mấy nhà tù, qua chồng tôi.
RFI : Xin bà cho biết thêm về hoàn cảnh hiện tại của gia đình mình.
Bà Nguyễn Thị Nga : Hiện tại, thì ở gia đình các cháu thì không ở nhà, có cháu đi làm xa lắm. Có một cháu mới học xong, cháu luôn luôn bị công an rình rập, gây áp lực lên gia đình tôi rất nhiều. Cháu học đại học địa chất, cháu là kỹ sư ngành dầu khí. Nhưng mà, cùng lớp với cháu, qua các đợt thi tuyển các bạn của cháu đi làm hết rồi. Còn cháu là họ gây sức ép. Khi cháu ra trường, cháu có xin được vào một công ty kỹ năng sống theo mô hình của Singapore, thì cháu là ứng viên cho lớp ấy, nhưng công an họ cũng tìm đến lớp ấy để trục xuất cháu đi khỏi. Sau đó cháu lại phải tìm đến một cái hãng giày lớn ở Hà Nội, làm nhân viên cho hãng, nhưng liên tục công an quận Hoàn Kiếm đến. Cuối cùng họ làm cho cửa hàng phiền quá nhiều, nên sếp của cháu làm ở đấy nữa. Bây giờ, thực trạng là cháu lang thang không có việc. Cháu kia thì cũng mới học hàng hải ra trường mới đi làm mấy tháng.
Trước đây lúc cháu đang học trong trường đại học ấy, (trường Địa chất), thì cháu có đi tham gia biểu tình với bố cháu, năm ấy cháu là sinh viên năm thứ nhất. Thế là đã vào ống kính của công an. Thế rồi, sau đó cháu đi biểu tình một, hai đợt nữa, thế là họ đến trực tiếp ở trường, họ làm khó dễ. Với lại, cháu còn theo một khóa học (về đấu tranh bất bạo động) ở bên Thái Lan. Khi về họ làm cho khổ lắm.
Gia đình hoàn cảnh rất là khó khăn, vì trước đây anh Nghĩa ở nhà cáng đáng được tất cả các công việc, thí dụ như đánh máy, soạn thảo văn bản… anh ấy là một người viết văn nữa, nên khách hàng đến rất là nhiều. Từ khi anh ấy bị bắt đến giờ, thì nói thật là tôi cũng không kham nổi, nên cửa hàng cũng ít khách đi. Còn các cháu tuy là học cao, học nhiều, nhưng cũng chưa có kết quả. Hơn nữa là chồng tôi lại tù đày. Nếu như nhà tù ở gần, thì đỡ, bây giờ đi lại rất xa. Mỗi lần đi gặp chồng tôi phải nghỉ ba ngày đóng cửa hàng…. Vất vả gian truân anh ạ. Nói chung là mọi người cùng khó khăn như mình thôi, nhưng qua đây cái lời chia sẻ anh hỏi thì tôi cũng muốn trả lời cái hoàn cảnh của gia đình tôi là như thế.
RFI : Xin bà cho biết những suy nghĩ của bà về các hoạt động của nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, dẫn đến việc ông bị tù đầy như vậy ?
Bà Nguyễn Thị Nga : Tôi rất là trân trọng ái mộ, ngưỡng mộ cái việc của chồng tôi. Vì tôi nghĩ rằng là bản thân chồng tôi là một nhà văn. Mà nghề của một nhà văn thì phải đấu tranh với cái xấu của xã hội. Chồng tôi thấy cái thể chế chính trị ở Việt Nam thế này…ở chế độ độc đảng như thế này, thì họ luôn luôn chỉ có tham nhũng và cai trị ngồi lên đầu dân. Cho nên, tất cả những cái gì mà chồng tôi làm, tôi thấy đều là đúng. Ngoài cái việc anh ấy treo khẩu hiệu bảo vệ biển đảo, anh ấy còn viết rất nhiều bài ở trên các trang mạng. Thí dụ như cái đợt mà anh ấy và cháu Nghiên (chị Phạm Thanh Nghiên) và bác Quận (ông Vũ Cao Quận), có ký vào một cái đơn xin biểu tình. Cái thời gian đó là lúc đất nước lâm vào cảnh lạm phát, thì thấy mọi người cực khổ, thấy mọi người dân ở vùng sâu, vùng xa, rồi những người đánh giầy… Những người công nhân, thì anh ấy nói rằng có mặt bằng để đấu tranh đòi tăng lương, còn những người bán hàng rong, những cháu bé đánh giầy thì không có, thì bây giờ muốn đánh thức chính phủ, muốn xin một cuộc biểu tình ôn hòa, bất bạo động, đi vòng quanh Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Những cái ấy chồng tôi làm hoàn toàn đúng luật pháp, chỉ có chính phủ không tuân thủ luật pháp. Tức điều 69 trong Hiến Pháp (1992) nói rằng mọi người dân được phép biểu tình, nhưng biểu tình phải xin phép. Tuy nhiên, xin phép họ lại không cho. Tôi thấy đây là một điều rất là vô lý : Khi ra luật Mẹ rồi, thì còn bao nhiêu luật con của Bộ Công an ra để tước bỏ cái quyền của người dân. Thì chồng tôi đòi hỏi chính phủ là phải tuân theo, Nhà nước này phải tuân theo Hiến pháp đã ban hành, tức là tuân theo luật Mẹ.
Tôi thấy việc làm của chồng tôi không có gì là sai cả ! Từ treo khẩu hiệu bảo vệ biển đảo, đòi đa nguyên, đa đảng, đòi tự do dân chủ nhân quyền cho mọi người, và viết các bài trên mạng đòi chính phủ phải thực thi theo Hiến pháp và luật pháp. Nhưng mà, với chế độ một đảng này, tôi thấy họ thích một đảng để chẳng phải chạy theo ai cả. Cho nên, khi đã đòi đến đa đảng, thì họ rất là ghét, và chính vì thế mà họ đưa chồng tôi vào tù. Tôi thấy việc làm của họ không có gì đúng đắn, còn việc làm của chồng tôi là đúng theo luật pháp ngay trong nước và của công ước quốc tế.
RFI : Trước khi chia tay, bà có chia sẻ gì thêm với thính giả ?
Bà Nguyễn Thị Nga : Tôi cũng muốn mọi người lên tiếng giúp đỡ những người hiện đang còn trong tù, những người nổi tiếng, cũng như những người không nổi tiếng. Vì cuộc sống trong tù dưới chế độ cộng sản cực kỳ khổ hạnh. Họ sẵn sàng đưa mình vào tù, bắt mình trong gang, trong tấc. Tôi rất muốn là mọi người lên tiếng mạnh mẽ, nhiều, để cho họ trùng đôi tay tàn bạo của họ xuống đối với những tù nhân như chồng tôi và tất cả những tù nhân khác ở trong đất nước Việt Nam này.
RFI xin cảm ơn bà Nguyễn Thị Nga đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn.
Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thương Binh Thương Tật
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Khi xem phim Saving Private Ryan, thỉnh thoảng, mấy đứa con tôi lại quay sang “tham khảo” với bố về tên các loại vũ khí của “bên mình” và “bên nó.” “Nó” đây là lực luợng quân đội Đức (đang chiếm đóng nước Pháp) và “mình” là một tiểu đội lính Mỹ, được lệnh phải đi tìm một binh sĩ – có tên là James Ryan – đang bị kẹt trong lòng địch.
Vì ba người anh của James Ryan cũng đều tham chiến, và đã cùng lượt hy sinh, nên có lệnh phải đi tìm cho bằng được cậu út (còn sống sót) để mang về “trả lại” cho bà mẹ – trước khi… quá muộn! Cuốn phim dài 2 giờ 46 phút, do Steven Spielberg làm đạo diễn, Robert Roda viết kịch bản, Tom Hanks và Matt Damon là tài tử chính, và (nghe đâu) đã nhận được cả tỉ giải Oscar mà sao tôi coi không “đã” mấy. Tôi cứ bị lấn cấn về chuyện “phe mình” và “phe nó.”
Dù ra đời sau khi Thế Chiến Thứ Hai đã chấm dứt từ lâu, tôi vẫn “đứng” về phe Đồng Minh để chống lại phe Trục. Tôi cũng hoàn toàn tán đồng với quyết định nhân bản của quân đội Hoa Kỳ là phải giải cứu binh nhất James Ryan, bằng mọi giá.
Tuy thế, tôi thấy hơi kỳ nếu cũng nhận (vơ) những quân nhân Mỹ thuộc… “phe mình” – một cách tự nhiên và hồn nhiên – như lũ trẻ. Tôi không sinh ra và lớn lên ở California như chúng nó. Tôi chỉ là một di dân, một người tị nạn ở Hoa Kỳ.
I came from Viet Nam. Và rất nhiều đêm, nếu không muốn nói là hàng đêm, tôi vẫn cứ lò dò trở về chốn cũ.
Tôi thường trở về Đà Lạt, nơi mà tôi đã lớn lên, và đã ướp đẫm tuổi thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng rất nhiều đặc sản của núi rừng: nước hồ Xuân Hương, sương mù, phấn thông vàng, mùi cỏ dại của Đồi Cù, và cả trăm loại hương hoa man dại.
Có khi tôi trở lại những đồi trà, nương khoai, rẫy bắp ở Blao. Tôi cùng lũ bạn tù mệt lả, lếch thếch trong nắng chiều vàng, trên đường về trại Tân Rai – sau một ngày dài lao cải.
Cũng có lúc tôi ghé qua Rạch Giá, đi loanh quanh trong chợ Nhà Lồng – thơm nức mùi thức ăn, vào một sáng mưa mù trời vì biển động – mắt láo liên quét nhanh qua những bàn ăn thâm thấp, chỉ chờ thực khách buông đũa là nhào vào húp vội phần canh thừa hay cháo cặn, còn sót lại trong tô.
Chính phủ, cũng như dân chúng Hoa Kỳ – chắc chắn – đều không happy gì cho lắm với một công dân part-time (ngày ở/ đêm về) như thế. Còn tôi, tôi chưa bao giờ thực sự sống hết lòng với phần đất mới nên không khỏi cảm thấy ngại ngần trong việc nhận (đại) những người lính Mỹ trong Thế Chiến Thứ Hai cũng thuộc “phe mình” – như bao kẻ khác.
Rồi chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Iraq xẩy ra. Quân đội Mỹ vừa chiếm xong Baghdad thì ngay ngày hôm sau bà hàng xóm (hớn hở) mang sang một phần thịt quay và mấy gắp bánh hỏi, cùng với một dĩa rau tươi “để anh Tư nhậu sương sương vài ly lấy thảo.” Tuy chúng tôi đều là người Việt, và là láng giềng của nhau từ nhiều năm nhưng quà cáp/ biếu xén kiểu này là một chuyện (rất) bất thường – ở Mỹ.
- Úy Trời, vụ gì đây cô Sáu? Bộ mới trúng lô tô hả?
- Đâu có, bữa trước em vái ông Địa cho tụi nó thua lẹ lẹ, chớ thấy lính mình qua bên đó nóng bức và nắng nôi tội nghiệp quá hà! Bữa nay, nó thua thiệt rồi nên em cúng tạ vậy thôi mà.
“Nó” đây là lính Iraq và “mình” (tất nhiên) là quân đội Hoa Kỳ. Chớ còn ai vô đó nữa? Rồi cô Sáu say mê kể lại chuyện lính Mỹ đã phải liều mạng ra sao trong chuyện giải cứu tù binh, và đã cứu được môt cô binh nhì Jessica Lynch nào đó. Nghe cũng hào hùng và cảm động y như chuyện… phim Saving Private Ryan vậy.
Cô Sáu không phải là người Mỹ gốc Việt duy nhất đã biểu lộ tình cảm của mình một cách chân thành, và hồn nhiên, như thế. Ở tiểu bang California, thuộc miền Tây nước Mỹ, “chỉ trong vài hôm người Việt tị nạn đã quyên góp và chuyển tới Hội Hồng Thập Tự gần 30.000 đô la để ủng hộ cho… tiền tuyến! Người cho 1 đồng, người cho 5, 10 đồng có người đến 2.000. Chúng tôi đi từng cơ sở thương mại, từng tư gia để nhắc nhở trách nhiệm mọi người khi đất nước đang phải đối phó với chiến tranh” (Ðức Hà.”Tấm lòng người di dân gốcViệt.” Viet Mercury, 11 Apr. 2003: B1).
Còn ở miền Đông, phóng viên Lê Thùy Lan đã tường thuật như sau: “… một phái đoàn phụ nữ người Mỹ gốc Việt… đến viếng Quân Y Viện Walter Reed tại Thủ Ðô Hoa Thịnh Ðốn để ủy lạo các thương binh trong trận chiến với Iraq… đồng thời phái đoàn cũng trao gần 80 tấm thiệp chúc mau lành bệnh mà các em nhi đồng, thế hệ sau của người Mỹ gốc Việt, đã thiết kế và gửi đến cho từng thương binh.”
Thiên hạ làm tôi chợt nhiên cảm thấy xấu hổ vì lối suy nghĩ, và cách sống (rất) thiếu cởi mở của mình ở phần đất mới – nơi đã bao dung để cho tôi và vài triệu người Việt khác nữa có một cuộc sống an bình – từ bấy lâu nay.
Bữa đó, sẵn có thịt quay bánh hỏi, tôi nhậu cho tới bến luôn. Rồi tôi quyết định: từ nay sẽ từ bỏ cái kiểu sống của “công dân part-time” ở Hoa Kỳ. Cũng kể từ nay, tôi cũng sẽ coi lính Mỹ thuộc “phe mình” luôn – cho nó khỏe! Chớ ôm rơm (hoài) làm chi cho thêm nặng bụng, hả Trời?
Tình ngỡ đã quên đi nhưng tình bỗng lại về!
Và “nó” về (hoàn toàn) không đúng lúc.
“Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận được từ một người không hề quen biết, không kèm theo một dòng chữ nào, bức hình một người đàn ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ. Hình chụp người đàn ông đang ngồi trên giường có trải chiếu, đằng sau là bức tường loang lổ, hoen ố những vết đen mốc. Ông có một bộ ria, tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ còn một con. Ông không còn chân tay. Hai chân bị cụt trên đầu gối. Và hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách.”
“Trong hình có ghi tên ông. Ông tên là Thìn, Nguyễn Văn Thìn. Năm sinh được ghi là 1952. Hàng chữ phía dưới cho biết ông là thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Đơn vị cuối của ông là Trung đoàn 49, Sư đoàn 25 Bộ binh. Cấp bậc của của ông là Trung sĩ Nhất. Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng là Thìn. Ông không còn chân tay. Từ 30 năm nay, ông không có chân, cũng không có tay”.
“Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy năm không có hai chân mà cũng không có cả hai tay. Tôi tưởng tượng, không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra được những khó khăn của ông. Trong một chế độ thân thiện với ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu luôn cả hai chân. Huống chi trong một khung cảnh không thân thiện nếu không muốn nói là thù nghịch, thì ông còn khổ biết là bao nhiêu nữa. Tôi không dám tưởng tượng thêm ra những chuyện khác trong đời sống hàng ngày của ông, nếu đó có thể gọi được là một đời sống.”
Những dòng chữ (in nghiêng, trong ngoặc kép) mà bạn vừa đọc là bức Thư Gửi Bạn Ta của ký giả (“hạng nhất”) Bùi Bảo Trúc. Ông không hiểu bằng cách nào tấm hình của thương binh Nguyễn Văn Thìn đã đến tay mình. Còn tôi thì không hiểu tại sao thư của ông viết ngày 24 tháng Giêng (từ năm 2003) mà mãi đến bây giờ mới nhận được.
Tôi không rời mắt được khỏi tấm hình. Tôi không chỉ nhận ra rằng đây mới đúng là “phe mình” mà còn nhìn thấy chính mình qua thân thể, với cấp độ tàn phế 100%, của ông Thìn.
Tôi cũng tuổi Thìn, và cũng là kẻ thất trận trong cuộc chiến vừa qua. Sao trung sĩ Nguyễn Văn Thìn mất hết cả chân tay và đui luôn một mắt mà tôi lại còn được nguyên vẹn cả hình hài, không sót một ngón chân hay ngón tay nào cả - vậy Trời?
Bỗng dưng mà tôi cảm thấy choáng ngợp vì sự may mắn (đến độ dư thừa) mà cuộc đời đã quá hào phóng dành cho bản thân mình. Lẽ ra, ít nhất, tôi cũng phải mất bớt một cánh tay để chia sẻ với ông Thìn - để ông ấy có thể “đánh răng rửa mặt buổi sáng, ôm mấy đứa con, xoa đầu chúng, cầm tay chúng, hay thậm chí gãi một chỗ ngứa” chứ.
Rồi tôi loay hoay tìm kiếm thì biết thêm rằng ông Thìn đã qua đời vào khoảng năm 2005 hay 2006 gì đó – ở Sài Gòn. Cả ngày hôm ấy, tôi tự hỏi: hơn một phần tư thế kỷ qua, liệu có phái đoàn nào ở miển Tây Hoa Kỳ ghé thăm ông Thìn không? Có tấm thiệp nào từ miền Đông Hoa Kỳ gửi đến cho ông ấy không?
Có ai “đi từng cơ sở thương mại, từng tư gia để nhắc nhở trách nhiệm của mọi người” đối với những phế binh còn ở lại quê nhà – như người ta đã làm để đền ơn đáp nghĩa đối với những chiến binh ở Irak – không?
Hàng năm, cứ vào ngày 19 tháng 6 , tại nhiều thành phố lớn ở khắp mọi nơi trên thế giới – ngoài Việt Nam - những người bạn đồng đội của ông Nguyễn Văn Thìn vẫn tổ chức Ngày Quân lực để vinh danh những chiến sĩ VNCH. Trong những bài diễn văn long trọng đọc vào dịp này, không mấy khi người ta nhắc đến những phế binh – như trung sĩ Nguyễn Văn Thìn.
Tương tự, trong những bài diễn văn long trọng được đọc hàng năm vào ngày thành lập Quân đội Nhân dân – ở Việt Nam – những đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cũng đều kiêng (cữ) nói đến đám phế binh.
Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh
Bên nào thắng thì nhân dân cũng bại (N.D).
Nói chi đến những phế binh, bất kể bên nào!
Khi thấy một phế nhân lê la xin ăn trên hè phố Sài Gòn, xin đừng vội nghĩ đó là thương binh của quân đội miền Nam – những kẻ thuộc bên thua cuộc. Không nhất thiết như thế đâu. Bây giờ ăn mày là một cơ hội đồng đều (equal opportunity) không phân biệt tuổi tác, giới tính hay thành phần xã hội.
Có năm, nơi thành phố tôi đang tạm cư, người Việt đã tổ chức Đại Hội Giúp Thương Phế Binh QLVNCH. Bên cạnh dư luận đồng tình, tán thưởng, tôi cũng nghe được vài ba điều tiếng eo xèo:
- Sao lại tổ chức vào lúc đó? Bộ có âm mưu gì sao? Chỉ cách có …hai ngày, ngày 19 tháng 5 là sinh nhật Hồ Chí Minh mà!
- Sao ban tổ chức lại dùng panneau là hình của một con tem cũ, vẽ một phế binh đang chống nạng “đạp” trên lá cờ vàng ba sọc đỏ. Như vậy là miệt thị cờ của VNCH.
Hoặc:
- Tiền mang về đến Việt Nam có khi lại vào tay phế binh… “bên nó”!
Bao giờ những người cộng sản còn nắm được quyền bính ở Việt Nam thì con số tổn thất về sinh mạng cũng như tài sản của nhân dân hai miền trong cuộc chiến (“thần thánh”) do họ phát động sẽ còn được dấu kín. Khó mà có thể ước đoán được bao nhiêu trăm ngàn người đã trở thành phế binh, và bao nhiêu kẻ khác nữa đã trở nên phế tật – về tâm lý!
NHẤT LINH - CẬU ẤM ĐI BẮN VỊT TRỜI
NHẤT LINH
Ấp cụ Án ở cách xóm Cầu Mới vài trăm thước. Cụ Án ông đã mất hơn
hai mươi năm trước nên người trong xóm không ai biết mặt. Cụ Án bà thì vì liệt một bàn chân, đi lại rất khó khăn và phải chống nạng nên không ra khỏi cửa, vì thế cũng rất ít người biết mặt. Chung quanh ấp lũy tre bao vây dầy đặc, “con gà chui không lọt”; vào ấp chỉ có một lối đi nhưng có đến ba cái cổng: ở ngoài cùng là một cái cổng gạch, ô-tô đi lọt, cái cổng thứ hai và thứ ba trước kia bằng gỗ nhưng bây giờ vì đổ nên thay bằng hai cái cổng tre trống. Trước kia vì cụ Án còn ruộng ở chung quanh nên người ra vào tấp nập; gần đây cụ bán dần hết nên không mấy người vào ấp nữa; mọi người đều ngại gọi cổng, phải đợi người nhà ra mở ba cái cửa, lại đợi người nhà đóng hết ba cái cửa, rồi vào đến sân lại gặp một đàn chó dữ. Vả lại cũng không ai có công việc gì cần vào ấp. Dân xóm ngày ngày nhìn thấy cái lũy tre cao trước mặt nhưng còn ở trong lũy tre ấy cái nhà cụ Án ở và cả cụ Án nữa mà họ vẫn nhắc đến tên luôn thì đối với họ như là ở một thế giới xa xôi, bí mật. Mỗi ngày hai lần người nhà ra phố mua thức ăn nhưng anh người nhà lại rất ít nói và hình như có lệnh cấm không được nói chuyện với ai về công việc ở trong ấp. Mợ Ấm Hải con dâu cụ Án thỉnh thoảng lắm mới ra phố và mỗi lần nàng ra phố là cả dân phố ngừng công việc để ngắm. Họ tưởng mợ như vừa ở trên trời rơi xuống, mới ở một cảnh tiên nào hiện ra. Mợ ăn mặc rất sang, người mợ đẹp, mắt đen và sáng và nhất là nước da của mợ được họ chú ý đến nhất. Mợ đi đến cửa nhà lão Nhai thì Hai Diên ở cách đấy một nhà thì thầm bảo chồng:
- Người đâu trắng như bột.
Mợ đi qua nhà Hai Diên thì cả nhà Hai Diên lại đứng yên tắp để ngắm và lại đến lượt mẹ Liễn ở bên cạnh khen:
- Hai má như hai quả trứng gà bóc.
Hai bà cụ Huế vì ở Kinh Đô nên thường tấm tắc:
- Trắng hơn cả bà Hoàng Hậu.
Chỉ có cậu Ấm Hải là hay ra phố luôn hoặc đi chơi hay đi bắn chim nên ai cũng thấy cậu tầm thường, không có gì đặc biệt hơn người. Cũng vì thế nên Hải thấy mình tự do, đi đâu không ai chú ý, không như vợ chàng mỗi lần ra phố về lại than phiền:
- Họ cứ nhìn tròng trọc vào mình như nhìn một con vật lạ.
Có lần Hải bảo vợ:
- Thì tại em là một con vật lạ thật. Ai bảo lại ăn mặc sang thế kia.
- Thì chỉ có mỗi một bộ áo, không mặc nó thì mặc áo cánh ra phố à?
- Thế tại làm sao da lại trắng thế?
- Giời sinh ra, làm thế nào?
- Thế tại sao mắt Duyên lại đẹp thế, má Duyên lại hồng thế, môi duyên lại tươi thế?
Thế là Hải kéo vợ vào lòng, hôn luôn mấy cái:
- Mình ăn mặc thế này hôn mình tưởng như là hôm mới cưới nhau. Sao mình không mặc luôn?
- Mặc luôn thì rách.
Bỗng Duyên đẩy chồng ra:
- Cái áo gần mười năm, ôm chặt lấy người ta rách tung cả ra rồi.
Hai vợ chồng cùng cười rồi lại ôm chặt lấy nhau hơn trước và sung sướng. Hôm ấy Duyên phải ngồi cả buổi chiều mạng lại chỗ bục ở vai. Nàng sung sướng nghĩ đến tình vợ chồng yêu nhau cứ mỗi ngày một tăng. Tuy nhà bắt đầu sa sút, không có nhiều tiền để sắm sửa thêm, nhưng tiền riêng của nàng vẫn còn một ít và đồ tư trang của nàng vẫn còn nguyên, nếu tần tiện thì cũng không phải tiêu đến nó. Hai đứa con nàng còn nhỏ, chưa phải đi học nên cũng không mấy tốn kém. Họa chăng tốn tiền nhất là những hôm Hải đi Hà Nội mua đạn:
- Mua đạn để toàn bắn những cò là cò.
Hải hay bắn cò vì cò dễ bắn trúng và lúc nào muốn bắn cũng có sẵn cò, không phải đi xa tìm kiếm.
Tuy là tốn tiền mà chỉ được ăn thịt cò, ăn nhiều đến nỗi bây giờ nuốt không trôi nữa phải đem cho, nhưng mỗi lần chồng hỏi tiền để đi Hà-Nội mua đạn thì nàng vẫn đưa một cách vui vẻ vì thấy chồng chỉ có mỗi cái thú bắn cò ấy. Độ này Duyên lại thấy Hải hay đi bắn luôn và tuy không được con cò nào (hay được nhiều quá nhưng không dám đem về sợ vợ buồn nôn chăng) nhưng đạn thì chóng hết và hay đi Hà-Nội luôn.
*
- Cậu lại sắp đi bắn à? Bắn luôn thế tốn đạn chết?
Ăn cơm sáng xong, thấy chồng đem súng tháo ra lau dầu, Duyên đến gần xem. Hải nói:
- Có lau hộ người ta không nào?
- Bẩn tay chết.
Hải cầm cái giẻ đầy dầu quệt mạnh một cái lên bàn tay trắng nõn của vợ:
- Bây giờ lau đi, lau súng chứ không phải lau tay, đằng nào cũng bẩn rồi; nói léo nhéo cái gì.
Duyên dí ngay bàn tay bẩn vào mũi Hải; xoa xoa mấy cái cho mũi Hải thật đen bóng. Hải cứ để yên mặc vợ xoa không nói gì.
Duyên cười:
- Người ta mới nói có thế mà đã tìm cách báo thù. Hay là chỉ cốt bắn phung phí cho chóng hết đạn để lên Hà-Nội với con ranh nào...
Đương lau súng, Duyên như chợt nghĩ ra một điều gì, bảo chồng:
- Bắn, sao độ này không nghe thấy tiếng súng?
Hải trả lời ngay vì câu trả lời đã nằm sẵn ở trong óc chàng từ lâu:
- Người ta đi bắn vịt giời, ở mãi tận cánh đồng Nậu.
Duyên ngơ ngác, lấy làm phục:
- Cậu mà cũng bắn được vịt giời cơ à?
Hải nhấc cái nòng súng đưa ra ánh sáng, nhắm một bên mắt và nhìn vào vợ chứ không nhìn vào lòng súng rồi nói:
- Bắn được.
Yên lặng một lúc Duyên lại hỏi:
- Thế có trúng không?
- Không trúng.
Duyên gật gù đầu:
- Tài nhỉ.
- Tôi tài hay vịt giời tài?
Hải nhìn ra sân không có ai, vội đưa đầu ra đằng trước và hôn vào môi vợ một cái.
Duyên nghiệm ra rằng độ này chồng hay có những lúc vui vẻ đột ngột, nói đùa luôn miệng và có khi đương đêm cũng đánh thức nàng dậy:
- Người ta đương thấy thinh thích trong người, dậy đi nói chuyện với nhau cho vui đi em.
Hôm nay, thấy tự nhiên đang lau súng Hải lại hôn mình, nàng nhìn chàng nói:
- Lại lên cơn điên vui có phải không?
Bỗng nàng ngơ ngác, nét mặt yên tắp. Nàng vừa để ý đến vết dầu đen ở mũi chồng và chợt hiểu tại sao chồng lại hôn mình. Hải nhìn vào mũi Duyên rồi cất tiếng cười to.
Duyên nói:
- Đồ tiểu nhân báo thù.
Hải đáp:
- Khổng-Tử đã dậy: Không nên làm cho người khác cái gì mà mình không muốn ngưòi khác làm cho mình.
- Thế sao cậu lại làm mũi em đen?
- Câu ấy ám chỉ vào một mình mợ thôi, còn tôi hôn tức là tôi theo đúng lời thánh dậy: làm cho người khác cái gì mà mình thấy thinh thích muốn người khác làm cho mình. Mợ hiểu ý chưa?
Chàng đưa đầu ra đằng trước, chờ Duyên hôn lại, Duyên cười:
- Thánh đâu lại dậy cái câu buồn cười thế. Thánh đâu lại nói thấy thinh thích...
Duyên hôn lại chồng, vừa hôn vừa nói:
- Đằng nào mũi cũng đen rồi.
Hải cười, nói:
- Ồ, mợ làm thơ. “Đằng nào mũi cũng đen rồi,” nhưng câu thơ ấy buồn lắm.
Một lúc sau, bác người nhà lên đưa Hải đôi giầy. Bác nhìn vào mũi cậu Ấm rồi lại nhìn vào mũi mợ ấm, nhưng bác không dám cười, vội vàng đi ngay xuống nhà dưới.
Hải đi giầy, đeo súng, với cái mũ đi săn đội lên đầu, nhìn cái đầu súng rồi lại nhìn vợ. Duyên cũng nhìn đầu súng rồi nhìn chồng gật đầu mấy cái, tỏ vẻ hiểu ý chồng. Hải ra tủ lén vợ lấy cuốn tiểu thuyết đút vào túi. Rồi chàng cho tay vào ngực xem đã có gói chè tàu ngon trong ấy chưa.
Duyên đứng nhìn theo chồng đi ra sân, nghĩ thầm:
- Độ này anh Hải lại dám bắn cả vịt giời. Nhưng chưa khoe với mình vì chưa bắn trúng con nào.
Nàng nuốt nước bọt vì nàng nghĩ bắn mãi thì rồi cũng có ngày trúng một con và thịt vịt trời chắc hẳn phải ngon, không như thịt cò tanh chết, cho bao nhiêu xả cũng không hết tanh, mà ăn mãi lại sợ mùi xả hơn cả mùi tanh của cò.
*
- Cậu Ấm đi bắn vịt giời.
- Cậu Ấm đi sang cánh đồng Nậu.
Đó là những lời trẻ con ở xóm nói với Hải mỗi lần chàng vác súng đi qua. Trước kia còn đi bắn cò, bắn chim gáy, bao giờ theo sau Hải cũng có hai ba đứa trẻ; chúng lội xuống ruộng, chui vào bụi rậm để nhặt chim cho chàng. Hải đuổi chúng đi, chúng cũng không đi. Thành thử rất khó khăn cho việc riêng của chàng bây giờ. Vì vậy chàng nghĩ ra kế đi bắn vịt trời ở tận cánh đồng Nậu, xa quá chúng không theo được. Chúng đợi mãi chưa thấy lần nào Hải xách vịt về nên chúng thất vọng và có đứa bảo Hải:
- Cậu Ấm không đi bắn cò để cháu xách nữa à? Vịt giời thì cậu bắn thế nào được?
Nghe câu ấy, Hải nghĩ bắn vịt trời dễ hơn bắn cò vì vịt trời to hơn nhưng cái khó là làm thế nào đến được gần sát nó như là đến gần cò. Cái súng cổ của chàng không thể bắn xa mà chết vịt được, chỉ trừ may ra trúng ngay đầu vịt, chứ thực ra tài bắn của chàng không đến nỗi để đến cả trẻ con cũng khinh. Súng chàng không bắn được vịt trời, biết thế nhưng chàng không nói ra cho vợ rõ và tuy những đứa bé tỏ lời khinh thị chàng cũng không nói ra để chống chế. Súng không bắn được vịt trời mà cứ đi bắn vịt trời là một sự vô lý.
Hải đi qua Xóm Cầu Mới, đi qua phố Phủ rồi đến nửa đường sang làng Nậu, tới chỗ cái quán làng Cầu có cây đa con gà, chàng ngồi xuống lấy thuốc lá hút. Hút xong chàng ngồi nghỉ, giở tiểu thuyết ra đọc và khi đã đến giờ, chàng đứng lên. Đưa mắt tìm không có con chim nào, chàng bắn chỉ thiên một phát để có chứng cớ là súng có bắn đạn. Lúc đầu chàng còn chịu khó đi đến tận cánh đồng làng Nậu vì chàng nghĩ nếu gặp vịt dẫu xa đến đâu thì xa cũng cứ bắn bừa một phát may ra trúng đầu vịt hay mắt vịt chăng. Về sau chàng thấy vô ích và đi xa quá mỏi chân, cứ đến quán làng Cầu là chàng ngừng lại. Chỗ ấy vắng, không ai biết chàng ra đấy và nếu có ai quen đi qua cũng chỉ cho là chàng đi săn mệt, ngồi nghỉ chân một lát.
Lúc trở về, Hải không đi qua Xóm Cầu Mới. Trước khi đến cầu, chàng rẽ sang con đường đi về làng Trò vì từ ở Phủ về ấp của chàng có hai con đường: con đường đi qua Xóm Cầu Mới thì có cầu và con đường đi qua làng Trò gần hơn một ít nhưng lại phải qua đò. Đi trên con đường vào làng Trò có thể trông thấy lũy tre ấp và tuy biết là đứng ở hiên nhà nhìn ra không thấy được con đường (chàng đã xem xét cẩn thận rồi) và Duyên ít khi đem con ra cổng đứng chơi, nhưng chàng cũng để súng sát vào cạnh sườn bên trái ngộ nhỡ Duyên có ra cổng ngoài nhìn về phía ấy thì ở xa không có súng không thể nhận ra chàng được. Vào làng, Hải chọn những con đường vắng nhất và tuy vác súng đi vào làng Trò để kiếm chim là một sự tự nhiên mà thấy có người tò mò nhìn, chàng cũng ngường ngượng như là người ta đã biết chàng vào đấy không phải là để bắn chim. Nhất là lúc chàng đi khỏi, nếu họ nói với nhau câu gì chàng nghe không rõ thì chàng lo sợ tưởng họ nói cạnh đến mình. Tới chỗ đường rẽ ra bến Trò, Hải cũng cứ đi thẳng. Đến tận cuối làng, chỗ có cái cổng gạch làng mở ra cánh đồng, quay lại nhìn phía sau không có ai chàng đi rẽ sang bên phải lần theo hàng dậu ruối đi thật nhanh và khi đến cổng một cái nhà tranh, chàng dừng lại, đứng sát vào cửa cho người đi ở ngoài đường cái làng không trông thấy.
Hải nhìn qua những cành tre ở cạnh cổng. Một cơn gió thoảng qua; bóng lá tre và bóng nắng chạy loang loáng trên sân đất nhẵn bóng và quét sạch. Tuy trời giá rét nhưng chàng thấy cái cảnh bóng lá tre rung động là mát và cả gió cũng mát nữa. Có hai con gà đứng sưởi nắng ở cạnh gốc đậu ván, lấm tấm hoa tím. Cả những cảnh nhỏ nhặt ấy chàng cũng để ý đến và thấy đẹp như trong một thế giới bồng lai nào.
Chàng cất tiếng gọi:
- Bác Hiên ơi!
Có tiếng kẹt cửa rồi bác Hiên gái bước ra, mỉm cười nói:
- Bẩm cậu đến.
Bác ra chống cửa tre, đợi Hải đi qua, lại hạ xuống ngay, cài chốt rồi đi vào nhà và cũng đóng ngay cửa nhà lại. Hải nhìn thấy cái giường không, thất vọng:
- Bác giai đi vắng?
- Vâng thưa cậu, thầy cháu có việc phải sang Yên Ninh.
- Thế độ bao giờ thì về.
- Bẩm cậu không biết có lẽ tối xẩm mới về.
- Phiền nhỉ, bây giờ mới độ ba giờ chiều mà đợi đến tối thì tôi không thể đợi được.
Nói thế nhưng chàng cũng cứ bỏ mũ, đặt súng, lại giường ngồi, nói với bác Hiên gái:
- Làm thế nào bây giờ?
Bác Hiên gái không trả lời câu Hải hỏi, nàng nói:
- Để cháu đi đun nước.
Hải móc ở túi ra gói chè đưa cho bác Hiên và hỏi:
- Nhà còn thuốc không?
Nhà còn thuốc nhưng bác Hiên gái đáp:
- Thưa cậu không, để cháu chạy đi mua, chỉ một lát thôi.
Hải nhìn bác Hiên một lúc rồi ngượng ngập nói:
- Nhưng tôi không biết tiêm.
- Cháu biết tiêm. Nếu cậu không chê là tiêm vụng thì để hôm nay cháu tiêm hầu cậu.
- Thôi cũng được.
Biết là sức mình chỉ hút hết hai hào chàng cũng đưa cả cho bác Hiên ba hào để bác đi mua, ăn bớt thì vừa đúng ngữ say của chàng.
Bác Hiên đi khỏi, Hải kéo gối nằm ngửa trên giường, nhìn trần nhà.
*
Lần đầu tiên chàng đến đây đã trên tám tháng. Hôm ấy chàng bắn chết một con chim gáy và chim lại rơi vào phía sau nhà bác Hiên. Trẻ con không có đứa nào theo nên chàng phải vào nhặt và vì tay rấy máu chim chàng phải lại cái cóng nước gần chỗ bác Hiên trai nằm hút thuốc để rửa tay. Bác Hiên ngồi dậy rồi chào mời chàng vào uống nước và sơi điếu thuốc cho đỡ mệt. Thế là sự tình cờ đã xui chàng hút điếu thuốc phiện đầu tiên trong đời. Chàng hút luôn hai điếu nữa chỉ cốt hút nhiều một tí để có cớ trả tiền, bác Hiên khỏi từ chối. Lại vì sự tình cờ hút ba điếu là vừa đúng ngữ say (về sau chàng mới biết rõ là đúng ngữ) nên hôm ấy chàng thấy chưa bao giờ trong người sung sướng dễ chịu như thế.
Ở nhà bác Hiên đi ra, chàng đứng lại ở sân nhìn và không bao giờ chàng quên được lúc đó. Gió rét nhưng trong người chàng ấm áp; chàng ngạt mũi thấy nóng và hơi ngứa ở hai lỗ mũi phải thở mạnh luôn nhưng cả đến cái ngạt mũi cũng dễ chịu lắm. Người chàng hơi lảo đảo, lơ mơ nhưng không lúc nào trí chàng sáng suốt đến thế, óc chàng như trong hẳn ra. Cái sung sướng của chàng không phải là cái sung sướng mê man của những người đương yêu hay say rượu; từng thớ thịt, từng thớ xương, khắp người chàng thì sung sướng bàng hoàng nhưng trí chàng thì lại tỉnh táo để nhận thấy rõ hơn cái sung sướng của thân thể.
Gió lạnh rào rào trong lũy tre, lá tre rung rung, và các đầu ngọn tre ngả nghiêng trước gió, mọi cái chàng nhìn thấy rõ ràng trước mắt nhưng hình như lại ở tận đâu đâu, ở một thế giới nào khác và thế giới ấy là một thế giới sung sướng, vui vẻ.
Tối về nằm, gối đầu vào cánh tay vợ, lúc đó thuốc đã ngấm cái thú của chàng lại hơi khác. Chàng có cái khoan khoái của người đương thiu thiu buồn ngủ sau mấy đêm không được ngủ và cái thú thiu thiu buồn ngủ ấy lại kéo dài đến mấy giờ đồng hồ. Thỉnh thoảng chàng lại cựa quậy mấy cái, sợ mình ngủ thật đi mất; ngay những lúc mà chàng thiêm thiếp tưởng mình ngủ rồi thì lạ lắm, óc ngủ nhưng riêng thân thể chàng vẫn thức để cảm thấy sung sướng; cái sung sướng ấy nó cũng ngủ như thân thể chàng; đến khi chàng cựa tay, lắc đầu cho tỉnh giấc thì cái sung sướng ấy cũng thức dậy.
Thế rồi nửa tháng sau chàng lại đến nhà bác Hiên và cứ đến đều đều như thế trong ba tháng. Rồi cái hạn rút ngắn xuống mười ngày, một tuần lễ; bây giờ thì cứ năm ngày chàng đến một lần và chàng cố giữ như vậy đã được hai tháng rồi. Chàng đã bắt đầu phải để ý đến tiền hút nhưng đối với bác Hiên chàng vẫn chi tiền rộng rãi vì chàng nghĩ một tháng hút sáu bẩy lần không tốn bao nhiêu; hai giờ đồng hồ chàng nằm ở nhà bác là hai giờ sống thần tiên, chàng muốn hai bác Hiên lúc nào cũng vui vẻ tiếp đãi chàng. Tiền Duyên đưa chàng đi Hà Nội và tiền mua đạn chàng đã để dành được một số; đã lâu chàng không đi Hà Nội nữa, đi chơi vơ vẩn ở các làng xa đến giờ xe lửa đêm ở Hà Nội về thì chàng cũng về nhà ga như mình ở xe lửa xuống. Đạn thì mỗi lần chỉ bắn một viên; sợ trẻ con theo đông không tiện và sợ mọi người không nghe thấy tiếng súng nên chàng bỏ bắn cò và vì thế chàng đi bắn vịt trời.
*
Bác Hiên gái đã đi mua thuốc về. Bác đặt lên giường cái khay thuốc và thắp đèn. Bác đi xuống nhà bếp lấy ấm nước sôi pha chè rót vào một cái chén riêng mời Hải uống.
- Xin phép cậu.
Nàng vén áo ngồi lên giường và bắt đầu hơ nướng thuốc. Hải lấy ở túi ra một cái bánh khảo nhân đỗ đen và một quả quýt mới mua ở phố phủ. Bao giờ chàng cũng phải mua quýt, cam hay bưởi để khi về đến cổng thì cấu một ít vỏ lấy nước thơm soa lên môi cho vợ khỏi ngửi thấy mùi thuốc phiện. Cứ thế bao lần rồi mà Duyên không để ý.
- Đàn bà tinh ranh lắm nhưng vợ mình thì ngớ ngẩn.
Hải ngồi dậy, cởi giầy rồi kéo cái chăn đắp lên chân. Chàng nằm nhìn bác Hiên gái nướng thuốc. Không biết vì thuốc có pha hay vì vụng tay mà điếu thuốc cứ thỉnh thoảng lại rớt xuống đèn. Mỗi lần có một giọt sắp rớt xuống thì môi bác Hiên lại trễ xuống một cái. Rồi nàng lại mỉm cười nhìn Hải.
Hải vẫn thấy bác Hiên đẹp nhưng lần đầu tiên chàng được nhìn kỹ nét mặt. Nằm đợi bác tiêm, Hải tha hồ ngắm: đôi mắt bác, chàng thấy có vẻ thơ ngây vì có hàng lông mi dài và cong lên; đôi môi bác có duyên ở chỗ hai bên mép lại cong xuống một tí, hai cái lúm đồng tiền thì một cái cao một cái thấp và vì thế miệng lại có vẻ tinh nghịch. Chàng giơ bàn tay như để che ánh đèn chói nhưng thực ra chỉ cốt để che nửa mặt dưới chỉ nhìn hai con mắt, rồi lại che hai con mắt chỉ nhìn nửa mặt dưới. Chàng thấy như là nhìn hai người đàn bà và bất giác bật cười làm bác Hiên lại nhìn chàng nhanh một cái tưởng như Hải chê mình tiêm vụng.
Hải nghĩ nếu lần nào cũng được bác Hiên gái tiêm thì thật hoàn toàn. Căn nhà này ở chỗ cuối làng, đi ra đi vào không ai nhìn thấy; nhà lại chỉ có hai vợ chồng tính nết kín đáo, và không có con, không có khách, chàng nằm hút hàng giờ được yên tâm. Hai vợ chồng vì thỉnh thoảng chàng đến hút kiếm thêm được ít nhiều, nên chiều chuộng chàng hết sức. Mỗi lần chàng đến, chàng có cái ý nghĩ đã làm cho người khác được nhờ mình và cái ý nghĩ làm cho người khác vui vẻ ấy cũng cần cho cái thú hút thuốc phiện của chàng như nước chè ngon và bánh khảo.
Chàng thích nhất - và cái thích ấy hơi khác cái tính thích thông thường của những người hút thuốc - là căn nhà chàng nằm không tối hẳn và cũng không sáng quá. Tiếng gió trong lá tre, hoa nắng và bóng lá tre lấp loáng trong buồng, qua các cửa chắn song hé mở, ánh phản chiếu của nước sông phía sau chạy lăn tăn vàng trên mái nhà, tất cả những cái đó - trong khi chàng say thuốc lơ mơ nằm yên - thì hoạt động quanh người chàng, tiếng gió rào rào lúc to lúc bé, ánh nắng vàng lúc sáng lúc nhạt, tất cả những cái rung rinh của thế giới ở ngoài làm tăng thêm rất nhiều cái thú yên tĩnh và thâm trầm ở trong thân thể chàng.
Hải đã hút đến điếu thứ năm và đã bắt đầu say. Trong khi cái hạn đến hút của chàng thu ngắn lại thì số điếu thuốc đúng ngữ say của chàng tăng lên. Bây giờ chàng phải hút tám điếu mới đủ.
Bỗng Hải ngạc nhiên thấy bác Hiên đặt dọc tẩu và tiêm xuống, tay ôm bụng, đôi lông mày cau lại, thở mạnh.
- Bác sao thế?
- Bẩm cậu cháu đau bụng.
- Bác đau bụng à, hút một điếu thì khỏi ngay.
Hải giơ tay đỡ dọc tẩu để bác Hiên hút; nhìn thấy nàng hút có vẻ thạo, chàng hỏi:
- Bác đã hút bao giờ chưa?
Bác Hiên nằm ngửa, đưa tay ấn vào bụng; một lúc sau bác nói một mình:
- Kiến hiệu thật, hết hẳn đau.
Rồi nàng nói to với Hải:
- Bẩm cậu, khi nào đau thì phải hút. Lúc thường thầy cháu không cho.
Nàng vẫn nằm yên ngửa mặt, hai hàng lông mi đưa lên đưa xuống, và đôi môi mở rộng để thở. Hải thấy nàng nằm yên lâu lắm; chàng nóng ruột.
- Bác khỏi đau rồi thì lại tiêm đi chứ.
Bác Hiên ngồi thẳng dậy nói:
- Chết chửa.
- Bác cứ nằm tiêm cũng được chứ sao.
- Bẩm cậu, cháu không quen nằm tiêm. Bây giờ hết đau rồi, ngồi cũng không sao.
Hải thấy nét mặt bác Hiên biến đổi hẳn: hai con mắt sáng long lanh, đôi gò má ửng hồng và đôi môi đỏ thắm lại trông như mới nở mọng ra một ít và hơi khô khô; cả mặt như bừng bừng nóng, lông mi và đôi môi rung rung vì sung sướng.
Bác Hiên đưa mắt nhìn Hải và thấy hai con mắt Hải nhìn mình có vẻ khác. Hải nói:
- Cổng trống, bác cài then rồi chứ?
- Bẩm cậu cài rồi, cả cửa nhà nữa ạ.
Câu hỏi ấy rất thường vì lần nào Hải đến cũng dặn dò đóng cổng ngoài cẩn thận, nhưng hôm nay nàng thấy mang máng câu hỏi ấy có vẻ gì khác lạ. Vừa tiêm xong điếu thuốc, nàng đưa cho Hải. Hải ngồi dậy:
- Bác hút thêm một điếu nữa.
- Thưa cậu cháu khỏi đau rồi.
- Khỏi đau cũng cứ hút cho đủ say.
Hải đặt dọc tẩu vào bàn tay nàng; Hiên đẩy ra, và trong lúc giằng co tay Hải nhiều lần chạm vào tay nàng. Sau cùng Hải nắm hẳn lấy bàn tay Hiên, kéo nàng nằm xuống và bắt hút; Hải cũng giơ tay đỡ dọc tẩu và như vô tình bàn tay chàng đặt lên bàn tay Hiên. Tuy chàng đã hơn ba mươi tuổi nhưng lần này là lần đầu tiên trong đời chàng dám tình tứ cầm lấy tay một người đàn bà không phải vợ mình. Quả tim chàng đập mạnh, mặc dầu lúc đó vì say thuốc chàng đã trở nên bạo dạn gấp mười lúc thường.
Bác Hiên hút xong đặt dọc tẩu xuống, hai mắt nhắm lại và hai môi mở rộng ra thở mạnh.
- Cậu làm cháu say quá!
Tiếng nàng nói Hải nghe ấm áp và đầy lẳng lơ. Chàng cũng cố lấy giọng âu yếm nói tiếp theo:
- Say thế mới thú chứ!
Hải nhắm mắt lại: chàng nghĩ nếu được hôn vào đôi môi một người đàn bà đương say thuốc chắc là một cái thú mê hồn nhưng tuy thèm muốn, chàng cũng không dám đi xa hơn nữa. Không phải chàng sợ; bác Hiên trai có đột ngột trở về cũng phải gọi cổng, bác Hiên gái nếu không thuận cũng không dám làm rầm. Chàng chỉ sợ nếu bác Hiên không thuận thì chàng sẽ ngượng lắm, ngượng riêng với bác ta thôi và cái ngượng ấy sẽ làm vẩn đục cả cái vui của chàng mỗi khi đến đây hút thuốc. Thà bỏ qua một cái thú trong chốc lát về nhục dục còn hơn mất một chỗ hút thuận tiện và thú vị lâu bền. Hải cất tiếng nói với bác Hiên, giọng chàng trở lại bình thường:
- Bây giờ lại tiêm cho tôi hút chứ. Tôi thì tôi chưa đủ say như bác.
Hiên cười rồi ngồi dậy. Nàng cũng thấy nóng ran cả người vì thèm muốn chứ không phải vì say thuốc. Lấy một người chồng xấu xí nghiện ngập, lại không có đứa con nào, đời nàng thiếu thốn. Tuy vậy chưa một lần nào, nàng dám có ý nghĩ bất chính với chồng; nhưng hôm nay ngồi cùng một giường với một người đàn ông đẹp trai, và con nhà giòng dõi trong một căn nhà vắng, các cửa đóng hết, không sợ ai nghi ngờ, nàng đã thấy trong lòng hồi hộp và khổ sở vì thèm muốn. “Biết đâu không có đứa con” nàng nghĩ thế để che đậy sự rạo rực về nhục dục. Chính nàng đã giả vờ đau bụng để Hải mời hút thuốc và như thế nàng sẽ bạo dạn hơn.
Hiên với dọc tẩu, bắt đầu tiêm. Nhìn Hải, nàng biết thế là hết. Nàng thất vọng nhưng cũng thấy nhẹ người vì đã giữ được trong sạch với chồng.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)