Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2013
Trần Doãn Nho - Tự Lực Văn Đoàn và chuyện văn phong
Trần Doãn Nho
“-
Trời muốn trở rét...
Nói
xong và nghe tiếng mình nói, Trúc nhớ lại rằng câu ấy
chàng đã thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy. Sự rung
động êm ái và hiu hắt buồn trước cơn gió lạnh đầu
tiên khiến vẻ mặt Trúc trở nên dịu dàng và thoáng
trong một giây chàng sống lại hết cả những ngày mới
trở rét trong đời.” - (Đôi bạn)
“Trời
lạnh”, “trời rét” là sự kiện. “Trời trở rét”
nghe đã khác. “Trời muốn trở rét” lại càng khác hơn
và trở thành một cái gì riêng của Nhất Linh. “Sự
rung động êm ái và hiu hắt buồn” lại càng riêng hơn
nữa.
Cũng
là trời rét, nhưng Dương Nghiễm Mậu viết khác hẳn:
“Trời
trở rét làm cho nền trời co nhàu lại, mọi người đi
đứng một cách nhẹ nhàng như con mèo khôn khéo lựa mình
chui vào lần chăn trong đêm mùa lạnh” (Tuổi
nước độc)
Những
cái khác, cái riêng đó tạo nên một hiện tượng ngôn
ngữ gọi là văn phong.
Mô
tả thân xác một con người ta có nhà sinh lý học, mô tả
trăng sao, ta có những nhà thiên văn học, mô tả cây cỏ
sông núi, ta có những nhà địa lý học, nói chuyện đạo
đức thì có những nhà tu hành, chuyện học hành thì có
những nhà giáo dục. Những cách viết đó, ta cần sự
kiện, cần chi tiết, cần tài liệu và tất nhiên cần
văn phạm, cú pháp, nhưng không cần một cái gì quá riêng
gọi là văn phong. Nhưng viết văn thì cần văn phong. Hay
nói một cách khác, chỉ có văn phong mới tạo nên những
nhà văn.
Có
lẽ ông Buffon là người đầu tiên bàn về văn phong trong
nghệ thuật viết văn. Trong bài diễn văn Discours
sur le style1
đọc trước Hàn Lâm
Viện Pháp vào tháng 8/1753, Buffon đưa ra một lời phát
biểu đã đi vào lịch sử: Văn tức là người (Le style,
c’est l’homme). Nhận xét này - theo Nhất Linh2,
do Phạm Quỳnh dịch ra tiếng Việt - trở thành danh ngôn
bàn về chuyện viết văn, thực ra khác với nguyên văn.
Nguyên văn của nó là: Ces
choses sont hors de l'homme, le style est l'homme même.3
Những
sự vật này (tức là lượng
kiến thức, những sự kiện độc đáo…) thì nằm ngoài
con người, nhưng văn phong chính là con người. Theo tôi
hiểu, văn là để diễn tả sự vật, nhưng không phải
là sự vật, mà nó là sản phẩm của chính con người.
Nói cách khác, con người không tạo ra sự vật, nhưng tạo
ra văn phong. Văn phong, do đó, mang tính cách người. Tính
cách người nói chung chứ không phải là cá tính nhà văn.
Tất nhiên, văn phong có thể phản ảnh một phần nào đó
con người riêng tư của nhà văn, nhưng không có nghĩa là
phản ảnh tính tình, phẩm cách nhà văn. Viết hung bạo
không có nghĩa là nhà văn ấy tính tình hung bạo, viết
thanh cao không có nghĩa là tính tình nhà văn ấy thanh cao,
viết bạo về tình dục không có nghĩa là nhà văn ấy đa
dâm. Biến sự vật bên ngoài, qua trung gian của những con
chữ, thành một cái gì để con người thưởng thức, lưu
giữ, xúc động và hành động…chính là văn phong.
Quan
niệm của Nhất Linh và Thạch Lam về chuyện viết
Nhất
Linh bàn khá kỹ về vấn đề văn phong trong Viết
và đọc tiểu thuyết
4.
Theo ông, "Văn tức là người" là một câu vắn
tắt chỉ cốt bày tỏ rằng: mỗi người có một lối
văn khác biệt, không ai giống ai. Tâm hồn nhà văn, ý
tưởng cùng sở thích riêng của từng nhà văn không ít
thì nhiều cũng biểu lộ ra trong lối hành văn, người
đọc có thể nhận được nếu tinh ý (…) Nói tóm lại
"con người" của nhà văn thế nào cũng biểu lộ
ra trong văn, không sao
giấu
giếm được.
Tuy
thế, Nhất Linh khẳng định: “Trong tiểu thuyết, không
cần văn chương”. Vì “văn trong tiểu thuyết là thứ
ít quan trọng nhất.” Theo ông, “đặt văn chương lên
một bực quá ư quan trọng trong tiểu thuyết” là một
điều sai lầm. Ông cho đó là một thành kiến văn chương,
và chính cái thành kiến văn chương đó đã cản trở
nước ta không có những truyện hay. Để viết được một
cuốn truyện, cái chính là “có những chi tiết, việc
xảy ra hay, nhận xét đúng, hiểu biết thâm thúy cuộc
đời và sự rung động tế nhị; những cái ấy mới khó,
nghìn vạn người mới có một. Viết xong chỉ việc nhờ
người sửa lại cho đúng mẹo, đúng chính tả, chấm câu
cho mạch lạc; việc này có hàng vạn người làm nổi.
Những mánh khóe về viết: đặt câu cho khỏi sai mẹo,
chỗ nào nên xuống dòng, nên chấm phẩy, chấm câu, chỉ
ít lâu là thâu thái được, không khó gì.” Ông cho rằng
“đức tính” của một tiểu thuyết gia là: một linh
hồn phức tạp, dồi dào, dễ rung động, một bộ óc có
trí nhận xét, quan sát tinh vi, hơn cả những người có
học rộng (bởi vì học rộng đến đâu cũng không làm
cho tâm hồn mình dễ cảm xúc hay nhận xét giỏi hơn).”
Để
chứng minh cho luận điểm này, Nhất Linh dẫn chứng tài
kể chuyện của những ông đồ, ông khóa, theo đó, “Chỉ
bằng vài nét nho nhỏ, những người đó đã làm cho các
nhân vật như sống dưới mắt ta với cả những việc
xảy ra trong đời sống hằng ngày với tất cả cái phức
tạp xấu lẫn đẹp của cuộc đời. Lúc họ kể chuyện
họ tự nhiên, họ thành thực, họ chính là họ (…)
Chính tôi đã được nghe một bà kể lại cho nghe một
chuyện vừa xảy ra, bà ta kể một cách linh động và rất
dí dỏm đến nỗi tôi thấy tôi cố rán sức viết lại
cũng không thể nào hay hơn được. Bà ấy thực đã "viết
tiểu thuyết" bằng lời nói, bà đã "viết văn"
bằng lời nói.”
Dẫu
văn “không giữ địa vị quan trọng trong tiểu thuyết
nhưng tiểu thuyết vẫn có văn.” Văn, theo Nhất Linh, là
“xếp đặt chữ, hoặc xếp đặt câu theo một thứ tự
nào để chữ và câu diễn được đúng cái ý mình định
diễn tả.” Ông đề cao cách viết giản dị. Thế nào
là giản dị? Giản dị là viết “như lời nói thường,
càng giản dị, càng không có văn chương càng hay. Khi nhìn
thì nói nhìn, đi thì nói đi, quả tim đập thì nói quả
tim đập v.v...”. Ông cho rằng điều quan trọng là “tìm
ra được những chi tiết hay”. Nếu không tìm ra được
những chi tiết hay thì “có nắn nót đến mấy đi nữa
văn vẫn là văn trống rỗng, không đánh lừa được ai.”
Nói tóm lại, khi mình đã có được cái chính (nhận xét
đúng, nhìn đời một cách riêng biệt, tìm được những
chi tiết hay, v.v...) thì mình sẽ thành được một văn sĩ
có tài, còn văn chương chỉ là thứ phụ thêm vào.
Chính
trong quan điểm đó, ông thích Tolstoï vì “lối văn của
Tolstoï lúc nào cũng trong sáng giản dị như lời nói
thường mà vẫn sâu sắc vô cùng.” Và ông không mấy
thích Dostoïevsky, vì “Lối văn của Dostoïevsky nặng nề
khó hiểu, loanh quanh”. Ông nhận thấy “Sự
băn khoăn của Tolstoï (nhất là khi ông trở về già) khác
hẳn sự quằn quại bệnh hoạn của Dostoïevsky”.
Trong
một cái nhìn như thế, Nhất Linh không thích những nhà
văn “cách tân” sau này. Ông gọi họ là “những nhà
văn lập dị", chỉ chú trọng quá về mặt hình thức.
Ông quả quyết: “Hình thức của họ chỉ là một thứ
hình thức kỳ quặc để cốt độc giả chú ý và tưởng
họ thâm thúy. Nhưng độc giả họ tinh khôn lắm, không
dễ bị ai đánh lừa và lối văn lập dị hiện nay chẳng
bao lâu cũng sẽ biến mất.” Ông khen họ là có đầu óc
tìm tòi cái mới lạ, nhưng theo ông, văn phong chỉ là cái
vỏ bề ngoài. Mà “cái vỏ ngoài thì dù đẽo gọt chạm
trổ khéo đến đâu, làm cho nó lạ mắt đến đâu, cái
vỏ bao giờ cũng chỉ là cái vỏ.” Nhất
Linh kết luận về văn phong: “Tuyệt đích, đối với
tôi là viết giản dị mà không lạt lẽo, rất bình
thường mà vẫn sâu sắc, giọng văn hơi điểm một chút
khôi hài rất nhẹ, kín đáo.”
Viết
và đọc tiểu thuyết,
được viết từ 1952-1960, không phải là một lý thuyết
văn học, hiểu như một quan điểm được soạn thảo
nhằm xây dựng và hướng dẫn một khuynh hướng văn học,
mà chỉ là một tổng kết kinh nghiệm về việc viết (và
đọc) tiểu thuyết của chính ông, đồng thời “giúp
đỡ một phần nào vào sự cố gắng của hàng nghìn hàng
vạn các anh chị em có chí muốn tiến trên đường văn
nghệ”,
nhất
là những người
“mới
bước chân vào làng văn.”
Trước
đó khá lâu, Thạch Lam, trong Theo
giòng, vài ý nghĩ về văn chương5,
đã bàn về việc viết và đọc tiểu thuyết. Cũng như
Nhất Linh, Thạch Lam cho rằng “văn tức là người”.
Ông viết: “Theo ý tôi, một tác phẩm nào của nhà văn
cũng có một chút ít nhà văn trong ấy; muốn dùng danh từ
gì mặc lòng, tả chân, khách quan, hay chủ quan, cái bản
ngã của tác giả cũng lộ ra trong những câu văn tác giả
viết.” Thạch Lam nhấn mạnh đến vai trò của tâm hồn.
Theo ông, “tài năng không phải ở cách xếp đặt các
câu văn, xếp đặt cốt truyện cho có mạch lạc; cái
thực tài của nhà văn nguồn gốc ở chính tâm hồn nhà
văn; một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú những
tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ
văn khéo mà thôi.”6
Cũng
như Nhất Linh, Thạch Lam chuộng sự thành thật, xem thành
thật là tiêu chuẩn để trở thành nhà văn. Một nhà văn
“không thành thực, không bao giờ trở nên một nhà văn
có giá trị. Không phải cứ thành thực là trở nên một
nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là
một người thợ khéo tay mà thôi.”7
Tại sao phải thành thực? Vì “Sự thật bao giờ cũng
giản dị và sâu sắc”8
Trong tiểu thuyết, xây dựng một nhân vật hoàn toàn quá,
thánh thiện quá, chỉ đó chỉ là loại phường tuồng.
“Một nhân vật hoàn toàn là một nhân vật không thực”
và gọi cái “hoàn toàn” đó là một thứ “hoàn toàn”
lạnh lẽo, theo ông.9
Tuy
nhiên khi bàn về cách viết, Thạch Lam khác với Nhất
Linh. Trong lúc Nhất Linh quả quyết rằng “văn trong tiểu
thuyết là thứ ít quan trọng nhất” và do đó, “đặt
văn chương lên một bực quá ư quan trọng trong tiểu
thuyết” là một điều sai lầm thì với Thạch Lam, “Bên
ta, có bao nhiêu người viết văn, tưởng mình là văn sĩ,
là thi sĩ một cách quá dễ dàng. Họ làm thơ để có một
bài thơ, viết truyện để có một quyển truyện. Họ
không muốn một tý cố công nào, họ viết thế nào xong
thôi, thế nào cũng được. Làm thợ, đi buôn còn phải
khó nhọc, còn phải học nghề; tại làm sao viết văn lại
không muốn học, không muốn cố?” Những người này,
theo ông, “cái gì cũng viết, chỗ nào cũng đăng, làm
cho ta chán nản”. Ông tán đồng ý kiến của André Gide
khi nhà văn Pháp nổi tiếng này cho rằng “Nếu họ viết
ít đi, ta sẽ thấy thích viết hơn” vì, theo Gide, trong
chuyện viết, “Có hai mươi cách diễn đạt ý tưởng,
nhưng chỉ có một cách là đúng”. Thạch Lam, trong khi
chê bai loại nghệ sĩ mà ông gọi là “thợ văn khéo”
nhưng thiếu tâm hồn, lại nhấn mạnh về vai trò quan
trọng của việc viết văn: “Trước khi đến được
cách đúng ấy còn phải bao nhiêu ngày giờ, bao nhiêu khó
nhọc, bao nhiêu công tìm. Mà cũng có khi chỉ cần đến
chỗ đúng mà thôi. Những nhà văn giá trị ít khi mình
lại tự bằng lòng mình. Mỗi câu văn viết ra thường là
một dịp cho họ ân hận, băn khoăn.”10
Về
cách viết văn, tôi đồng ý với Thạch Lam.
Văn
phong: cuộc phiêu lưu của chữ
Văn
phong, nói chung, là cách viết. Tất nhiên là viết thì
phải có câu, có kéo, phải nắm vững từ ngữ, ngữ âm,
các quy tắc tu từ của ngôn ngữ, biết cách mô tả các
chi tiết, vân vân, tức là biết cách dùng câu, chữ cho
phù hợp với sự kiện, hoàn cảnh và nhân vật.
Nhưng
viết như thế nào không phải là điều đơn giản. Tôi
hoàn toàn tán đồng ý kiến của Nhất Linh khi ông cho
rằng “đức tính” của một tiểu thuyết gia là “một
linh hồn phức tạp, dồi dào, dễ rung động, một bộ óc
có trí nhận xét, quan sát tinh vi” nhưng hoàn toàn không
tán đồng lối nói khẳng định của ông “Trong tiểu
thuyết, không cần văn chương”. Nhận xét này có gì mâu
thuẫn với những nhận xét khác, cũng của Nhất Linh,
theo đó, viết hay là “tả đúng sự thực”, “diễn tả
được một cách linh động” các trạng thái phức tạp
của cuộc đời, đi thật sâu vào sự sống với tất cả
những chuyển biến mong manh, tế nhị của tâm hồn”.
“Tả đúng”, “diễn tả được một cách linh động”
chính là văn phong hay theo cách dùng chữ của ông, “văn
chương”. Với văn phong, ta mới có thể biến những cái
- theo cách nói của Nhất Linh -
“giản
dị mà không lạt lẽo, rất bình thường mà vẫn sâu
sắc”, những cái “mông lung bí ẩn của tâm hồn”
thành hiện thực. Nếu như thế, theo tôi, viết không đơn
giản chỉ ghi lại trung thực những gì xảy ra rồi “nhờ
người sửa lại cho đúng mẹo, đúng chính tả, chấm câu
cho mạch lạc” là xong.
Nhất
Linh đưa ra những người có tài kể chuyện như là bằng
chứng cho luận điểm của ông. Thực ra, kể chuyện (hay)
hoàn toàn khác với viết (hay). Kể chuyện cũng như diễn
kịch: có tiếng nói, có âm thanh, có thái độ, cử chỉ
cụ thể, có bày tỏ cảm xúc; những yếu tố này góp
phần làm cho lời kể - những con chữ nói ra - trở nên
sống động. Tuy nhiên, khi viết lên giấy, tức là sử
dụng những ký hiệu vô hồn, thì mọi điều khác hẳn.
Viết làm sao cho những ký hiệu này có âm thanh, có màu
sắc, gây nên cảm xúc vân vân đòi hỏi phải vận dụng
chữ một cách nào đó, vừa phản ảnh những trạng thái
phức tạp của tâm hồn vừa truyền đạt chúng đến
người đọc. Văn phong quan trọng ở chỗ đó. Không tạo
nên được một văn phong cần thiết thì không thể có
văn chương, dù tâm hồn của anh có phong phú, sâu sắc
đến đâu chăng nữa!
Hãy
đọc một đoạn văn bình thường, rất bình thường của
Nhất Linh:
Bóng
chiều sẫm dần dần; không khí mỗi lúc một trong hơn
lên, trong như không có nữa, mong manh như sắp tan đi để
biến thành bóng tối. Một mùi thơm nhẹ thoảng đưa,
hương thơm của tóc Loan hay hương thơm của buổi chiều?
Mắt Loan lặng nhìn Dũng, nàng nói:
-
Em nghe thấy tiếng sáo diều ở đâu
Dũng
đặt tay vào rá đậu ván tìm mấy chiếc lá lẫn trong
quả đậu.
-
Tôi thích trước cửa buồng có một giàn đậu ván vì
hoa đậu ván đẹp
Loan
đáp:
-
Hoa đậu ván màu tim tím…
Nàng
nói câu ấy, tiếng khẽ quá như sợ hãi điều gì. Một
bàn tay Loan rời cạnh rá, đặt gần tay Dũng. Mấy ngón
tay thong thả cời những quả đậu lên lại bỏ xuống.
Dũng nghĩ nếu lúc này đặt tay mình lên tay Loan và nắm
lấy, Loan sẽ yên lặng: Loan, cũng như chàng, chắc sẽ
phải cho thế là một sự tự nhiên. Một giây phút đợi
chờ.
Đoạn
văn này tả sự kiện “tình trong như đã” của hai nhân
vật Loan và Dũng trong “Đôi bạn”. Câu kéo rất đơn
giản, không có gì cầu kỳ, tưởng như cầm bút lên là
viết được. Nhưng không phải thế! Đọc một đoạn văn
như thế, người ta thường có cảm giác rằng có một
Loan đàn bà và một Dũng đàn ông đang đứng gần nhau,
rằng có mùi thơm, rằng có tiếng sáo diều, rằng có hoa
đậu ván màu tim tím và nhất là tưởng rằng có bàn tay
của Loan đặt gần tay Dũng và Dũng muốn đặt tay anh ta
lên tay Loan, vân vân và vân vân. Thực ra, tất cả chỉ
là cách sắp chữ: từ “mong manh như sắp tan”, “lặng
nhìn”, “hoa đậu ván màu tim tím”…cho đến “tiếng
khẽ quá như sợ hãi điều gì”, “thong thả cời những
quả đậu lên rồi bỏ xuống”, “Loan sẽ yên lặng”,
“một giây phút đợi chờ”. Nhà văn đã dùng văn phong
của riêng mình, để tạo cho ta cái cảm giác (rất thật)
rằng có những sự kiện như thế. Nhà văn đã dùng cái
giả để tạo ra cái thật. Chính Nhất Linh, khi đề cập
đến kỹ thuật viết trong các tác phẩm “luận đề”
của mình, cũng thú nhận: “Độ
ấy tôi chỉ coi nhân vật như những quân cờ để đánh
một ván bài, họ không phải là cái chính và chỉ dùng
những chi tiết nào lợi cho cái ý chứng tỏ của mình
không theo sát cuộc đời thực là mục đích chính của
tiểu thuyết mà đổi cuộc đời thực đi để lại luận
đề của mình.”11
Thực
ra, theo tôi, không những nhân vật mà tất cả các chi
tiết nêu ra đều là “những quân cờ” và điều này
diễn ra không chỉ trong những tác phẩm luận đề, mà
trong tất cả các cuốn tiểu thuyết khác của Nhất Linh.
Viết là chọn cách viết, là sử dụng chữ để mô tả
những gì mà mình cho là cần thiết. Có lẽ vì thế mà
Huỳnh Phan Anh có một cái nhìn rất khác về Nhất Linh
trong “Bướm trắng”: “Bướm
trắng
không chỉ là một cuốn sách thêm vào số lượng
tác phẩm của Nhất Linh. Nó còn thể hiện ước muốn
tích cực của người viết, viết chống lại những gì
mình đã viết, viết không có nghĩa là viết lại một
tác phẩm nào đó đã viết, viết khác đi, viết như thế
tác phẩm mình chưa hề hoàn tất, cũng chưa hề bắt đầu
và chỉ đang hứa hẹn”.12
Cũng
ở điểm này mà
Phan
Huy Đường cho rằng “văn không là người” vì cùng một
người có thể có nhiều văn phong khác nhau. Ông viết:
“Văn
không
là
người, nó hiện-thực dưới dạng ngôn-ngữ quan-hệ của
một
người với thế-giới ở một
thời điểm nhất định của đời mình trong một
vấn đề và một
hoàn cảnh lịch-sử nhất định của loài người.”13
Khác
với cách nhìn của Nhất Linh, tôi nhận thấy chính văn
phong của Nhất Linh đã tạo nên Nhất Linh, chứ không
phải là những điều linh tinh khác.
Cách
viết của mỗi tác giả ở mỗi tác phẩm, với tôi, là
một điều bí ẩn. Cái lạ là, nó không có gì bí ẩn
cả. Cũng chừng ấy chữ, cũng chừng ấy dấu chấm,
phẩy, ai cũng viết ra được. Thế mà không phải ai cũng
viết ra được như thế. Lại càng không bắt chước
được. Nếu muốn viết thì rồi cũng viết ra được một
cái gì đó, nhưng một là, nó nhạt nhẽo, vô hồn, hai là
nó không giống ai. Chẳng thế mà Thạch Lam bảo viết một
câu văn ra không dễ, mà phải học, phải tìm, phải cố.
Cách viết văn đâu chỉ là cái mẹo về văn phạm, ngữ
pháp! Vì như Nhất Linh nói, văn, có người viết điềm
đạm, có người viết, hóm hỉnh, có người viết nặng
nề, có người viết tối tăm, bí hiểm…Cái điềm đạm,
hóm hỉnh hay nặng nề, bí hiểm đó đến từ đâu nếu
không biểu lộ qua cách viết. Tôi gọi đó là hơi văn,
hay nói giản dị hơn, hơi chữ. Hơi chữ khác từ tác giả
này đến tác giả khác. Đôi khi cùng một tác giả, mà
mỗi bài, mỗi truyện hay thậm chí mỗi đoạn lại có
một hơi khác nhau. Cũng có bài, ta không thấy có hơi.
Trong lúc đó, có một số tác giả, văn của họ tỏa ra
một hơi hướm riêng biệt vì có cách hành văn khác
thường, độc sáng. Có khi, cách viết làm cho ta say mê
đến nỗi quên cả cốt truyện và nhân vật. Hơi văn,
hơi chữ có thể không quyết định chuyện hay, dở của
một tác phẩm nhưng nhất định nó đóng góp phần riêng
rất lớn của nó vào đó.14
Trong
cuộc thăm dò sự vật và tương quan giữa con người và
sự vật, tiếc thay và cũng vui thay, chúng ta không có cách
nào, không có phương tiện nào khác ngoài những con chữ.
Nhân vật, sự kiện, thái độ, tiếng khóc, nụ cười,
nỗi buồn, niềm vui cho đến trăng, sao, mây, nước, gì
gì thì cũng phải qua chữ. Đau cũng phải dùng chữ mà
đau, nhớ thì cũng phải dùng chữ mà nhớ. Khi bàn về
một tiểu thuyết hay một truyện ngắn, ta thường bàn về
nhân vật, về cốt truyện, về sự kiện, về tư tưởng,
tưởng như không có chúng sẽ không có văn chương. Ta
quên rằng chất liệu để chúng thành hình là chữ, hay
nói cho đúng hơn là cấu tạo chữ, là xếp đặt chữ
làm sao để cho chúng trở thành những sinh thể. Ấy thế
mà, ta chỉ có vài chục chữ cái, khoảng chừng vài ngàn
từ vựng và một số rất giới hạn các dấu chấm câu!
Chính vì thế, văn phong theo tôi, – xin dùng lại một chữ
của Paul Ricoeur - là “một cuộc phiêu lưu của chữ”
(aventure du mot).15
Phiêu
lưu vì trong văn chương, người ta dùng cái giới hạn của
chữ để nói lên những điều vô hạn của cuộc đời.
Không phiêu lưu thì văn phong chỉ là một trò vẽ chữ vô
hồn.
"Chuyến
tầu đêm nay không giống như mọi khi, thưa vắng người
và hình như kém sang hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên
lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực
vui vẻ và huyên náo.
Con
tầu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một
thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng
sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác Siêu.
Ðêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và
ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng."
(Hai chị em/Thạch Lam).
“Con
tầu như đã đem một chút thế giới khác đi qua.” Với
một cách sắp chữ độc đáo như thế, câu văn đọc lên
nghe vang vang cả một trạng thái tâm hồn phức tạp: ước
ao, tiếc nuối, buồn, tuyệt vọng…
Nhà
văn, như thế, không viết chữ mà điều động chữ, hà
hơi thở sống vào trong chúng. Và khi cần, họ bất chấp
văn phạm, mẹo luật. Họ vượt ra ngoài những quy tắc
ngữ pháp thông thường. Họ lệch chuẩn. Chẳng thế mà
Henry de Montherlant (1895-1972), nhà văn Pháp, phát biểu:“
Nhờ sự táo bạo dám phạm những lỗi văn phạm mà chúng
ta có được những nhà văn lớn.”16
Đúng thế, trong cuộc phiêu lưu của mình, chữ có khi như
muốn phá tung mọi xiềng xích của ngữ pháp, mẹo luật.
Chúng muốn được giải thoát, tự do. Trong một số
trường hợp, câu thúc chữ sẽ đồng nghĩa với câu thúc
trí tưởng tượng và câu thúc ham muốn diễn tả. Cái lạ
là: dường như càng ra ngoài vòng cương tỏa của cú
pháp, càng “lệch chuẩn”, thì chữ có lúc lại càng
phản ảnh được nhiều hơn bản chất của sự việc, sự
vật và cảm giác.
Thật
lâu. Trong tối. Rồi khóc một mình, khóc ngồi lên, khóc
xuống giường, khóc chân đất đi ra (…) Nàng đưa chúng
trở lại bàn. Kéo ghế. Ngồi xuống. Hai bàn tay trắng
muốt của nàng, ngón út cong lên, khởi sự cuốn dần
những cuốn bi tròn trĩnh. Xong. Nàng nhặt từng cuốn,
nhúng vào nước chấm. Và bắt đầu ăn. Nàng ăn, đói
bụng, đẹp mắt, ngon lành, phúng phính, đầy miệng. Và
vừa ăn vừa khóc tiếp
(Một truyện rất ngắn/Mai Thảo)
Ở
những đoạn văn như thế này, Mai Thảo bóc chữ khỏi
câu, bóc câu khỏi đoạn. Chữ, như bị nén lại. Một
chữ hay một cụm chữ bây giờ chứa đựng nhiều chữ
khác. Cái ngắn tạo nên cảm giác bứt rứt, bồn chồn.
Những dấu chấm và dấu phết bây giờ không mang giá trị
của những ngắt quãng mà là những âm vang, những dồn
nén. Chúng là những ý tưởng không nói ra. Chúng trở
thành những con chữ dấu mặt. Ở đây, quy luật văn phạm
chào thua. Không có. Không cần có. Chính cái không cần đó
lại làm giàu thêm nội dung của con chữ.
Tả
một người thổi kèn, Dương Nghiễm Mậu viết: “một
lần da sần sùi không hơi nóng, không thoi thóp thở, một
thứ gì sượng sần, nhớp nháp, tim tôi đập mạnh, mồ
hôi đổ nóng, má tôi chạm vào một lần đất sỏi khô.
Một điệu kèn ré lên buốt nhức (…) Tiếng kèn thấu
vào lục phủ ngũ tạng hắn, như một nhịp điệu man rợ,
như ngọn lửa nhiệt đới oằn oại, dấy lên những đam
mê, dục lạc, những thèm khát đớn đau của thân phận
nhược tiểu.
(Dương Nghiễm Mậu/Buồn
vàng).
Thoi
thóp thở, sượng sần, nhớp nháp, man rợ, oằn oại,
thèm khát đớn đau…Dương Nghiễm mậu tận dụng tính
chất cụ thể, gợi hình của hình dung từ. Câu văn tạo
cảm giác.
Túy
Hồng lại có một cách viết khác:
Thương
chồng, thương luôn những ly rượu của chồng. Thương
chồng, thương cả chiếc miệng nói nhanh. Thương chồng,
thương cả tật rung đùi, thương từ ngón chân cái, ngón
chân út đến sợi tóc sớm bạc trên đỉnh đầu, thương
từ đầu gối thương lên đôi môi lười biếng tạo
những chiếc hôn, đôi môi chỉ biết hôn khi có chuyện
cần…
Chữ
của Túy Hồng thả rong, nghe như cái gì tuôn chảy. Đọc
Túy Hồng như lội trong giòng chảy miên man của chữ kéo
theo những bứt rứt, những lo toan, những buồn vui và cả
những rác rến của cuộc đời. Việc và vật như hòa
chung với chữ, tan loãng trong chữ, tưởng chừng như văn
không còn là phương tiện, là con đò chở cuộc sống mà
chính là cuộc sống. Đọc Túy Hồng, ta nhớ văn hơn là
nhớ sự.
Còn
Sinh, Sinh yêu tôi vô tả vô tận, yêu bám lấy tôi như
vẩy cá dính vào con cá. Xá tội mà yêu, nhắm mắt mà
yêu, ở xa cũng yêu. Ở gần, chàng van xin tôi như hát vè
con cá, ở xa, chàng liên miên thú tội trên mặt giấy.
Sinh khư khứ nắm lấy tình yêu như cái lỗ mũi cố níu
lấy hơi thở. Sinh yêu tôi cho đến giấc ngủ chung thân,
chứ không phải như một kẻ níu lấy mạn thuyền bơi
một hồi rồi bỏ. Yêu đến ngây thơ rồ dại, nhưng,
cũng chín chắn lắm lắm, son sắt lắm lắm. Trên cuộc
đời này, hầu hết đàn ông đều đểu, chỉ còn lại
Sinh và vài người là khác. Chàng dệt mối tình từ đầu
đến cuối, từ mặt tiền đến mặt hâu. Nhưng tôi đã
coi Sinh giống như bất cứ người đàn ông nào khác.”
(Túy Hồng/Những sợi sắc
không)
Trong
lúc đó, ở Phạm thị Hoài:
Man
Nương, em không rón rén nhưng cũng không thật đàng hoàng
băng qua một hành lang dài bếp dầu xô chậu và guốc dép
vãi như kẹo trước mỗi cửa phòng nào cũng bốn mét
nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét tám màu xanh lơ. Trước
cửa phòng tôi chỉ có một đôi dép nhựa tái sinh nâu
thô kệch cở bốn mươi sáu là ít nhất. Động tác đầu
tiên của em là cúi nhón đôi giày tràn trề nữ tính vừa
trút ngoài cửa vào theo, đặt chính xác ở góc càng mở
cửa càng là tàng hình. Rồi mới úp mặt vào ngực tôi
mở sẳn, rồi hai bàn chân trần tìm trèo lên hai chân tôi
cũng đã mở sẳn em có thêm năm centimet bệ đỡ để
nhích úp mặt vào cổ tôi, rồi hai cánh tay tìm ghì lên
vai tôi để em đu úp mặt vào mặt tôi, thế là tới
đích.
Câu
chữ kéo lê, co dãn. Lại thừa. Trạng từ chen lẫn tính
từ, giới từ giành giựt chỗ đứng với danh từ và
động từ. Dường như những khía cạnh giấu ẩn của sự
vật, những trạng thái tâm lý phức tạp đòi hỏi những
con chữ phải dịch chuyển một cách tự do, tùy hứng.
Điều này có lẽ không khác mấy trong trường hợp hội
họa lập thể: phá tung phép phối cảnh, phá tung những
hình dạng tiêu chuẩn là con đường mở ra để đi sâu
hơn vào bản chất của hình thể sự vật và nội tâm
con người. Nói như Alain Robbe-Grillet, “Tất
cả cái lợi của những trang sách diễn tả - nghĩa là vị
trí cuả con người trong những trang này - không phải nằm
trong những sự vật được diễn tả, mà nằm ngay trong
chuyển động của sự diễn tả.”
Tại sao? Ông khẳng định “Văn
bản không phải là sự phô bày một chân lý, mà là cuộc
phiêu lưu của một tự do.”17
Thử
đọc thêm một trích đoạn của một nhà văn hiện nay:
Miên
đứng dậy và ngay trước mắt chúng, lột phăng bộ da
của mình như cởi một bộ đồ lặn. Bộ da còn hơi non
nên một số chỗ bị rách. Miên ném phịch bộ da đó lên
bàn. Bọn chúng đưa tay sờ mó vào bộ da, nhăn mặt nghĩ
ngợi. Một số đứa sờ vào tấm thân trần truồng nóng
hổi của Miên. Chúng ấn ấn vào những mạnh máu, có đứa
còn kéo căng những sợi gân của Miên rồi thả chúng
đánh bạch một cái vào da thịt.(Tạ
Xuân Hải/Lột/trang
mạng Tiền Vệ)
Tạ
Xuân Hải diễn tả những điều không-cần-phải-là-hiện-thực.
Chữ ở đây không cần quy chiếu vào bất cứ cái gì,
bất cứ một hiện thực nào hay một ý tưởng nào rõ
nét. Diễn tả ở đây chỉ là để diễn tả. Chỉ là
cách trình diễn ngôn ngữ. Trong ý hướng này, Nguyễn
Hưng Quốc quả quyết: Viết
văn là ném chữ vào cái thế giới tối tăm mù mịt của
những điều chưa biết và không biết. Chữ bay đến đâu,
biên giới của tác phẩm trải dài ra đến đó. Biên giới
của tác phẩm trải dài đến đâu, lãnh thổ văn học
được mở rộng đến đó. Viết, với các nhà hậu hiện
đại chủ nghĩa, nghĩ cho cùng, là một cách thăm dò chính
khả thể và khả tính của cái viết.
(Chủ nghĩa hậu hiện đại/Những mảnh nghĩ rời/trang
mạng Tiền Vệ).
Qua
sự khai phá của những nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn
(TLVĐ), chữ bắt đầu một cuộc phiêu lưu trên những
trang giấy, đưa chúng ta qua nhiều chuyến hành trình văn
chương thú vị với nhiều thế hệ, nhiều chặng đường
khác nhau. Mỗi một thế hệ, mỗi một hoàn cảnh cung cấp
cho văn chương Việt Nam những khía cạnh đa dạng của
phiêu lưu chữ. Nguyễn Tuân, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu,
Võ Phiến, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Cung Tích Biền,
Nguyễn Thi Ngh…rồi những Kiệt Tấn, Trần Vũ, Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Lynh Barcadi…và
nhiều, nhiều nữa. Tùy từng cá nhân và tùy từng tác
phẩm, những con chữ bơi lội, vùng vẫy, dẫn chúng ta
vươn tới những vùng trời xa lạ, mới mẻ.
Cuộc
phiêu lưu của chữ vẫn tiếp tục và gần như vô tận!
Một cuộc phiêu lưu không có ngày kết thúc. Đó là một
phiêu lưu trong việc đi tìm bản lai diện mục của sự
vật và cũng là cuộc phiêu lưu đi tìm bản lai diện mục
của chính những con chữ.
Văn
là thời
Cách
viết văn TLVĐ đã tạo nên một bước ngoặt cho nền văn
chương đương đại Việt Nam. Vì thế, nói không ngoa,
cuộc cách mạng của TLVĐ là cuộc cách mạng văn phong.
Cố
gắng vượt ra khỏi vòng kiểm thỏa của thứ văn biền
ngẫu, đăng đối, sáo mòn, đầy dẫy những từ Hán
Việt, những lối nói văn hoa những rỗng tuếch kiểu
"Sao anh chẳng lo xa đến cái nỗi gió kép mưa đơn,
sương thu nắng hạ, bây giờ em đã tàn tã trong mưa, tơi
bời trước gió", những nhà văn TLVĐ đã sáng tạo
ra một cách viết mới, thấm nhuần ngôn ngữ Việt. Nó
được Việt-nam-hóa một cách toàn diện. Đó là một thứ
văn phong trong sáng, tiêu chuẩn, đơn giản, trở thành một
dụng cụ sử dụng trong việc diễn tả sự, việc,
người, cảnh, tâm tình…trong mọi tình huống khác nhau
và trong quá trình hư cấu hóa, vốn là đặc điểm hàng
đầu của văn chương. Với cách viết này, những nhà văn
TLVĐ đã sáng tạo ra những Loan, Dũng, Mai, Lộc, Phạm
Thái, Lan, Ngọc, Trương, Hậu, Trương, bà mẹ Lê…, những
trạng huống tâm lý phức tạp trong “Bướm trắng” hay
những hình tượng lý tưởng về cái đẹp trong “Đẹp”
của Khái Hưng (KH) hay những đoạn tả cảnh, tả tình
hết sức đặc sắc và độc đáo trong nhiều truyện ngắn
của Thạch Lam. Với cách viết hoàn toàn mới, văn chương
Việt Nam thoát khỏi thứ văn chương “lý tưởng hóa”,
thứ văn chương đã tạo ra những nhân vật “hoàn toàn”
mà Thạch Lam gọi là cái
“hoàn
toàn lạnh lẽo”.
Ông nhận xét: “Những tiểu thuyết luân lí ngày xưa
khiến chúng ta lãnh đạm và không làm chúng ta cảm động,
chính vì các nhân vật trong truyện hoàn toàn quá. Những
nhân vật ấy hình như ở một thế giới riêng, không có
những hèn yếu và băn khoăn của người đời và chúng
ta không thấy hình ảnh mình ở những nhân vật ấy. Sự
bịa đặt, dù hoàn toàn, không bao giờ bằng sự thực.”18
Văn
TLVĐ có những ông
tham, bà phán, trường bảo hộ, ô-tô, thầy thư ký, quan
lớn, ái tình, xem tiểu thuyết, nhà giây thép…và
không có hư
vô, thân phận, nhược tiểu, da vàng, đại bác đêm đêm
dội về thành phố, hư hao, quằn quại, hơi thở rướn
cong,
vòng tay học trò, nụ hôn, hao hụt, mệt nhoài, ray rứt,
vết chém, vết thù…Thời
đó chưa có những trào lưu triết học hiện đại, hay đã
có, nhưng chưa gây ảnh hưởng vào xã hội và văn chương
như phân tâm, thiền, tính dục, cộng sản… Thời đó
cũng chưa có chiến tranh, xã hội tuy là thuộc địa nhưng
tương đối an bình, ổn định. Những xung đột, mâu
thuẫn xã hội chưa gay gắt. Văn cũng như chính đời
sống, luôn luôn nằm trong không khí của thời đại của
mình, cách này hay cách khác. TLVĐ cũng không thể khác
hơn. Có thể nói, văn
là thời.
Le style, c’est le temps. Văn phong TLVĐ mang đầy hơi hướm
của một thời.
Tuy
nhiên:
Mai
tỳ tay lên bao lơn cửa nhìn xuống con sông sâu thẳm,
nước đỏ lờ đờ, điểm hạt mưa xuân lấm tấm. Chiếc
buồm trắng con con, xen lẫn vào bọn buồm nâu sắc thẫm,
to bản, cột cao, trôi theo giòng nước, theo chiều gió
trôi đi như lướt trong cảnh rộng bao la, mà biến vào
đám xa xa mờ mịt. Mai thở dài lo sợ vẫn vơ cho số
phận chiếc thuyền con, lại chạnh nghĩ vơ vẫn đến số
phận mình...(…) Xe hỏa sang bên kia cầu đã lâu, mà Mai
vẫn còn tựa nhìn ra ngoài, vì cô có cái cảm giác Lộc
đương nhìn cô, nên cô ngượng mà không dám quay lại. Xe
từ từ dừng bánh trước ga Gia Lâm. Mai mỉm cười, tưởng
tượng trời đương mưa gió sấm sét bỗng tạnh bặt.
- Cô nghĩ gì thế?
Mai
quay đầu lại. Lộc vẫn ngồi bên cạnh. Cái nụ cười
của cô vẫn còn nở trên cặp môi thắm, khiến Lộc nhìn
cô rồi cũng cười.
(Khái Hưng/Nửa chừng xuân)
Hay:
Trương
ký tên rồi nhúng tay vào chén nước trên bàn rỏ mấy
giọt vào quãng giữa bức thư. Chàng lấy tay áo thấm qua
cho nước làm hoen nhòe mấy chữ.
Trương không buồn đọc lại bức thư, tắt đèn nằm yên đợi giấc ngủ đến. Nhà bên cạnh hôm nay cũng tắt đèn sớm, chắc là không có khách. Một lúc sau lại có tếng hát rời rạc và buồn thiu:
Sân lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Buồn trong cửa bể chiều hôm…
Tiếng người chồng gắt:
- Hát buồn bỏ mẹ. Thôi im đi cho người ta ngủ.
Trương mỉm cười: tấn kịch nhỏ ấy đủ diễn hết cả nỗi buồn của đôi vợ chồng sa sút một đêm vắng khách, cũng đương nằm ngủ không được vì nhớ quê hương. (Bướm trắng/Nhất Linh)
Đọc
lại những đoạn văn khá bình thường này, gần 80 năm
sau khi nó ra đời, ta cảm thấy gì? Quá cổ xưa? Quá lạc
lõng? Quá TLVĐ? Không. Lâu rồi, đọc lại, tôi thấy lạ
là cách diễn đạt vẫn mới mẻ, vẫn hiện đại và vẫn
hao hao như ai đó mới sáng tác hiện nay. Chỉ trừ một
số cây bút cách tân độc đáo (không ai có thể bắt
chước được), cho đến bây giờ, theo thiển ý, văn
chương Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng của TLVĐ,
cách này hay cách khác.
Phiêu
lưu theo cuộc chữ, như một kẻ đi xa, giang hồ phiêu
bạt, sống với văn minh thị thành, với đèn đường,
với quán rượu, với vũ trường…bây giờ trở về đọc
lại Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu, Thạch Lam, Hoàng Đạo
tưởng như được về thăm căn nhà cũ, thăm cô láng
giềng lúc tóc còn để chỏm, thăm ngôi đình đầu làng,
thăm bến đò, cái ao, mảnh vườn xưa, tìm thấy những
gì thân quen, đầm ấm ở đó.
Nhưng
cũng như thân phận con người, trong cái “thời”, văn
đã có ươm mầm mống cho sự “vượt thời”. Vượt
thời mà cũng là “vô thời” (intemporel).
Hậu
ngồi sát lại bên tôi, tôi nghe thấy hơi thở của cô
rồn rập. Buổi sớm cô mặc cái áo lụa mỏng màu đỏ,
càng tươi bên nước da trắng muốt của Hậu. Tôi đoán
thấy cái thân hình mềm mại, hai cánh tay chắc rắn, đôi
vú nhỏ và tròn. Người Hậu như thoảng ra một thứ
hương thơm ngát và say sưa"
(…) Hậu
đưa tay nắm lấy tay tôi, lần lên vai rồi kéo tôi lại
gần mình. Mái tóc chúng tôi vướng vào nhau, tôi thấy
trước môi tôi cái miệng xinh thắm của nàng. Chúng tôi
lặng lẽ ôm lấy nhau, say sưa trong cái hôn đầu tiên đắm
đuối của linh hồn.
(…)
Vừa xuống thuyền, Hậu đã ôm quàng lấy tôi, kê ðầu
vào má tôi, ngập ngừng nói những lời ân ái. Tôi thấy
tấm thân trẻ và dẻo dang của Hậu quấn lấy tôi như
một giây leo. Chúng tôi hòa hơi thở với nhau, tóc nàng
bỗng buông sõa trên người tôi, thoảng ra một thứ hương
ngát dịu và đầm ấm. (Nắng
trong vườn/Thạch Lam)
Mấy
ai nghĩ đó là thứ văn phong đã được viết ra cách đây
tám thập niên về trước, khi văn chương đương đại
Việt Nam đang còn ở trong thời kỳ trứng nước. Nhận
xét về cách viết của Thạch Lam, Khái Hưng phát biểu:
"Ở Thạch Lam sự thành thật trở nên sự can đảm,
đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả
tâm hồn. Tôi xin thú thật rằng những điều nhận xét
gay go về mình và những người sống chung quanh mình, tôi
cũng thường có song vị tất đã dám viết ra. Tôi vẫn
ước ao có cái can đảm ấy nhưng không sao có được cái
can đảm mà tôi thấy ở Tolstoi, mà trong đám văn sĩ mới
ở nước ta tôi thấy ở Thạch Lam. 19
Và
đây là một viễn kiến về văn chương tương lai trong tư
tưởng của Khái Hưng qua phát biểu của nhân vật Nam với
một cô gái tên Trinh trong “Đẹp”:
"Tôi
định viết một quyển tiểu thuyết thực dầy, dầy ít
ra là một nghìn trang chữ corps 8. Một quyển tiểu thuyết
không có chuyện. Trong đó tôi sẽ ném vào từng nắm việc
thường xảy ra hàng ngày, và từng nắm tư tưởng nhạt
nhẽo và đậm đà, giả dối và thành thực, y như những
việc làm, những lời nói ở cửa hàng bán đồ nấu. (…)
Còn chuyện, nếu có chuyện, thì tôi cho nó đi như nó đi,
nghĩa là nó muốn đi thế nào mặc nó, quí hồ nó đến
được chỗ kết cục." (Nhân
vật Nam trong “Đẹp, Phượng Giang xuất bản,1952, tr.
193)20
Nghe
như Khái Hưng đang nói về một cuộc phiêu lưu nào của
chữ trong việc đi tìm sự vật!
*
Xin
được kết luận bài viết bằng một đoạn văn trích từ
đoạn kết của “Đôi bạn” của Nhất Linh:
Tiếng
nhạc ngựa ở đâu vẳng tới, giòn và vui trong sự yên
tĩnh của buổi chiều. Trước mặt hai người, về phía
bên kia cánh đồng, ánh đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt
trong sương trông như một nỗi nhớ xa xôi đang mờ dần...
Thế
nào là “một nỗi nhớ xa xôi”? Và thế nào là “một
nỗi nhớ xa xôi đang mờ dần…” Chắc không ai phải
mất công trả lời một câu hỏi như thế. Tại sao? Tại
vì nỗi nhớ đó là thứ nỗi nhớ của chữ, nỗi nhớ
văn chương. Chữ, và cách xếp đặt chữ - văn phong - có
khác biệt, có cá biệt, có thời tính, có cách tân kiểu
này kiểu nọ, nhưng bản chất vẫn là vô thời.
Chữ
là cái còn lại sau khi tất cả đều mất.
Với
chúng ta, Nhất Linh, bây giờ, là một nỗi nhớ xa xôi.
Rất xa xôi.
Hôm
nay, ngày 7 tháng 7. Năm mươi năm rồi còn gì!
Trần
Doãn Nho
(7/2013)
1
Georges-Louis
Leclerc, Count de Buffon (1707 - 1788), Discours
sur le style, xem
ở:
http://pedagogie.ac-toulouse.fr/philosophie/textes/buffondiscourssurlestyle.htm
2
Nhất Linh, Viết
và đọc tiểu thuyết,
NXB Đời Nay, Sài Gòn 1972; bản
điện tử do trang mạng Talawas thực hiện. Xem ở:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9297&rb=08
3
Les
ouvrages bien écrits seront les seuls qui passeront à la
postérité: la quantité des connaissances, la singularité des
faits, la nouveauté même des découvertes, ne sont pas de sûrs
garants de l'immortalité: si les ouvrages qui les contiennent ne
roulent que sur de petits objets, s'ils sont écrits sans goût,
sans noblesse et sans génie, ils périront, parce que les
connaissances, les faits et les découvertes s'enlèvent aisément,
se transportent et gagnent même à être mises en oeuvre par des
mains plus habiles. Ces choses sont hors de l'homme, le style est
l'homme même.
Phan Huy Đường dịch: “Chỉ những tác phẩm viết hay
mới được lưu truyền hậu thế : lượng kiến
thức, những sự kiện độc đáo và ngay cả những phát
minh mới lạ đều không đảm bảo chắc chắn sự vĩnh
cửu : nếu những tác phẩm lưu chứa chúng chỉ bàn
chuyện nhỏ nhen, bị trình bày thiếu nhã nhặn, thanh
cao, thiên tài, chúng sẽ tiêu vong, bởi vì kiến thức,
sự kiện và phát minh đều có thể bị rút đi, chuyển
đi nơi khác và có khi nên được những bàn tay khéo léo
hơn sử dụng. Tất cả những thứ ấy ở ngoài con
người, [trong khi đó] văn phong [của một con người] là
chính nó.Phan Huy Đường, xem ở:
http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/vankhonglanguoi.htm
4
Nhất Linh, Viết
và đọc tiểu thuyết,
trang mạng Talawas.
5
Thạch Lam, Theo
dòng, vài ý nghĩa về văn chương,
Nxb
Đời Nay (1941). Có thể xem ở trang mạng “sách xưa”,
6
Thạch Lam, tr. 26,27
7
Thạch Lam, tr. 10
8
Thạch Lam, tr. 32
9
Thạch Lam, tr. 41
10
Thạch Lam, tr. 8,9
11
Nhất Linh, bài đã dẫn.
12
Huỳnh Phan Anh, Đi
tìm tác phẩm văn chương
(tiểu luận phê bình), Đồng Tháp xuất bản, Sài Gòn,
1972, tr 130, tr.130, tr.131, xem ở Việt Nam Thư Quán,
http://vnthuquan.org/%28S%28iik5ka45p2fnll45fcyd2j45%29%29/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn0n4n3n1n31n343tq83a3q3m3237n2n
13
Phan Huy Đường, Văn
không là người,
http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/vankhonglanguoi.htm
14
Xem Trần Doãn Nho, Hơi
chữ,
Da Màu, http://damau.org/archives/10057#comments
15
Paul Ricoeur, La
métaphore vive,
tr. 51. Thực ra, Ricoeur dùng cụm từ “cuộc phiêu lưu
của chữ” để chỉ hiện tượng ẩn dụ trong văn
chương.
17
Un
texte n’est pas le dévoilement d’une vérité, mais l’aventure
d’une liberté. Alain Robbe-Grillet, Pour
un nouveau roman,
Collection “Critique”, Les Éditions de Minuit, 1963, tr. 9
18
Thạch Lam, Theo
dòng,
vài
ý nghĩa về văn chương,
tr.
43
19
Dẫn theo
Phạm Thế Ngũ, Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên.
Xem ở Thụy
Khuê, http://thuykhue.free.fr/stt/t/thlam01.html
20
Bản điện tử:
http://tinhhuong.net/threads/dep-trong-tu-luc-van-doan-phuong-giang-1952-khai-hung-260-trang.11230/#.Udy92G2s_Xg
Đoàn Thanh Liêm - Ý hướng Xây Đời Mới Trong Chương Trình Phát Triển Quận 6, 7, 8 Saigon (1965 – 1971)
Hồi
tưởng
của Đoàn Thanh Liêm
của Đoàn Thanh Liêm
Vào
khỏang tháng 6 năm 1965, một số thanh niên chúng tôi đang
ở lứa tuổi 25 – 30 cùng hội họp bàn thảo với nhau
liên tục trong nhiều ngày và cuối cùng chúng tôi đã đúc
kết cuộc thảo luận thành một tài liệu lấy tên là Dự
Án về một chương trình họat động xã hội, tài liệu
này dài chừng 30 trang có nhan đề là:
“Phong Trào Xây Đời Mới
Chương
Trình Phát triển Quận 8 Saigon”
Bản
Dự Án này liền được đệ trình lên văn phòng của vị
Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung ương (tức là Thủ tướng
Chính phủ) lúc đó do Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm trách.
Sau
khi xem xét ít lâu, Tướng Kỳ đồng ý chấp thuận trên
nguyên tắc mấy đề nghị của chúng tôi và chỉ thị
cho Bô Thanh niên và Tòa Đô chính Saigon cùng đứng ra bảo
trợ cho công việc thực hiện Chương Trình Phát Triển
này.
Thế
là vào khỏang trung tuần tháng 8 năm 1965 đó, anh em thiện
nguyện chúng tôi bắt đầu cùng “xuất quân” xuống
quận 8 là một địa phương tương đối nghèo túng và
kém mở mang nhất tại Saigon thời ấy.
Sau
một năm họat động, chương trình này đã mở rộng phạm
vị họat động sang hai quận lân cận là quận 6 và quận
7. Và trong suốt 6 năm hăng say họat động (1965 – 1971),
chương trình đã thực hiện được một số công trình
xây dựng cụ thể đem lại sự thay đổi cải tiến rõ
rệt trong nếp sống vật chất và tinh thần của người
dân trong cả ba quận ở về phía Tây Nam thành phố
Saigon.
Trong
mấy năm gần đây, tôi đã có dịp tường thuật chi tiết
về chương trình xây dựng này trong nhiều bài viết, nên
trong bài này tôi khỏi cần nhắc lại những điều đã
ghi ra trước đây nữa. Mà tôi chỉ xin nhắc lại cho rõ
hơn về cái ý hướng tích cực góp phần vào công cuộc
xây dựng Đời Sống Mới của lớp thanh niên thiện
nguyện chúng tôi vào cái thời kỳ đất nước mình còn
đang sôi động với cuộc chiến tranh tàn khốc cách nay
đã gần 50 năm. Xin thật ngắn gọn trong vài mục như sau
:
I
– Không phải “Phong trào Xây Đời Mới” - mà là “Kế
Hoạch Xây Đời Mới”
Mặc
dầu như đã ghi ở trên, bản Dự Án đệ trình lên văn
phòng Thủ tướng có viết rõ là “Phong trào Xây Đời
Mới” như là một tổ chức thực hiện “Chương trình
Phát triển Quận 8” - thì đến khi tra tay vào giai đọan
hành động cụ thể tại địa phương, anh em chúng tôi
lại không bao giờ nhắc đến danh xưng “Phong trào Xây
Đời Mới” nữa.
Lý
do là vì các anh em trong ban điều hành cho rằng danh xưng
“Phong trào Xây Đời Mới” này dễ gây hiểu lầm nơi
nhiều người coi như đây là một thứ tổ chức chính
trị - chứ không phải là một chương trình thuần túy
họat động xã hội nữa. Vì thế mà mọi họat động
của nhóm anh em thiện nguyện chúng tôi - ngay kể từ lúc
khởi đầu vào tháng 8 năm 1965 - thì đều được đặt
trong khuôn khổ của một chương trình phát triển cộng
đồng tại địa phương quận 8 mà thôi. Và chỉ sau một
thời gian ngắn, qua những việc làm cụ thể có ích lợi
rõ rệt cho đồng bào địa phương, thì chương trình đã
bắt đầu tạo ra được sự tin tưởng của số đông
người dân – để rồi từ đó mà tiến lên thêm bước
nữa với những công tác có quy mô lớn lao rộng rãi hơn
mãi.
Vì
thế mà qua năm 1966, khi được phép mở rộng phạm vi
họat động sang các quận 6 và 7, thì cơ cấu tổ chức
cũng phải được nới rộng ra. Cụ thể là, ngòai Chương
trình Phát triển Quận 8 rồi, thì lại có thêm hai đơn
vị nữa, đó là : Chương trình Phát triển Quận 6 và
Chương trình Phát triển Quận 7. Và ở trên cả ba Chương
trình này là một cơ quan để phối hợp điều khiển –
được anh em cho khai sinh dưới cái tên chính thức là:
“Kế Hoạch Xây Đời Mới”.
Qua
danh hiệu Kế hoạch Xây Đời Mới này, ta có thể thấy
ngay được cái ý hướng Xây Đời Mới vẫn được duy
trì như từ lúc ban đầu. Tức là mọi họat động nhằm
cải thiện về gia cư, chỉnh trang các ngõ hẻm, đặt hệ
thống thóat nước cho đến việc mở mang thêm trường
học, tổ chức các lớp dậy nghề, chăm sóc về y tế vệ
sinh công cộng v.v...- thì tất cả những công tác đó đều
nhằm mục tiêu duy nhất là : Góp phần xây dựng cuộc
sống mới tại địa phương sao cho mỗi ngày một thêm
tốt đẹp, thoải mái tươi vui hơn mà thôi.
II
– Vai trò làm “chất men, chất xúc tác” nhằm khơi
động quần chúng tham gia vào công cuộc xây dựng ở địa
phương.
Vì
chủ trương theo đuổi công cuộc phát triển lâu bền tại
hạ tầng cơ sở ở địa phương (at the grassroots), nên
anh em chúng tôi phải kiên trì bám sát địa bàn họat
động qua những cuộc tiếp súc tham khảo thường ngày
với các vị thân hào nhân sĩ là những nhân vật có uy
tín đối với đồng bào trong khu vực. Các vị này thường
là giới giáo chức, giới tu sĩ của các tôn giáo, giới
công tư chức đã về hưu và cả giới tiểu thương tiểu
chủ của các cơ sở kinh doanh nhỏ v.v... Qua những cuộc
tham khảo bàn luận với quý vị tôn trưởng như vậy,
chúng tôi lần hồi mới đề ra được những công tác có
ích lợi cụ thể thiết thực để mời gọi bà con trong
cộng đồng cùng ra tay chung sức với nhau – người góp
công, kẻ góp của – mà thực hiện cho có kết quả tốt
đẹp, đem lại sự cải tiến cho môi trường sinh họat
của địa phương sở tại.
Làm
việc sát cánh với bà con trong các xóm hẻm trong thời
gian lâu dài, chúng tôi nhận ra được là nơi đâu, lúc
nào thì cũng đều có những người có tấm lòng tốt
luôn quan tâm đến việc giúp đỡ những người kém may
mắn hơn mình – cũng như lưu tâm đến sự an vui của
tập thể dân chúng ở địa phương nơi gia đình mình
cùng sinh sống. Những người có thiện chí như thế chính
là những nhân tố thiết yếu cho sự thay đổi của xã
hội (essential agent for social change). Họ khôn ngoan tìm cách
khuyến dụ lôi kéo thêm những bà con khác cùng tham gia
vào công việc đem lại ích lợi chung cho cả tập thể
cộng đồng. Và chỉ khi nào mà số đông bà con ở địa
phương cảm nhận được cái nhu cầu cần phải cải
thiện xã hội như thế nào đó (felt need), thì chính khối
quần chúng nhân dân đông đảo đó họ mới hăng hái đem
hết công sức ra mà thực hiện những công việc có ích
lợi chung cho tòan thể cộng đồng.
Như
vậy, vai trò chính yếu của mỗi thanh niên thiện nguyện
chúng tôi là làm chất men, chất xúc tác (catalyst) được
vùi trong môi trường quần chúng nhân dân – nhằm khơi
động mọi người ý thức được cái nhu cầu cải tiến
xã hội – và rồi tiếp theo là họ sẽ nhập cuộc tham
gia vào công việc xây dựng cộng đồng cho thêm phần tốt
đẹp hơn. Một anh bạn khi đến thăm và thấy công chuyện
chúng tôi làm ở quận 8, thì anh đã phát biểu như thế
này: “Các bạn đích thực là những người đang khơi
động công trình phát triển cộng đồng ở địa phương
này đấy” (nguyên văn tiếng Pháp : Animateurs de
développement communautaire).
Nói
khác đi, điều chúng tôi thực hiện lúc đó, thì chính
là khai mở ra cái quá trình gây lên men, gây ý thức và
vận động quần chúng dấn thân tham gia vào công cuộc
phát triển tòan diện ngay tại địa phương sở tại
(mass fermentation, mass conscientisation, mass mobilization).
Linh
mục Bernard Pineau có lần nói với tôi như sau : “ Luật
sư Trần Văn Tuyên trong dịp gặp gỡ gần đây, có trao
đổi với tôi về chuyện công tác xã hội các em đang
làm ở Quận 8 – thì cả hai chúng tôi đều coi đó là
một việc làm thật sự có ích. Rõ ràng đây là một thứ
“micro-réalisation” (nguyên văn) rất thích hợp trong hòan
cảnh chiến tranh hiện nay…”
III
– Một số công trình xây dựng điển hình với giá trị
lâu bền.
Trong
những năm tháng họat động hăng say nhiệt thành sát cánh
với bà con tại địa phương các quận 6,7 và 8 Saigon thời
ấy, chương trình đã thực hiện được hàng mấy trăm
những công trình xây dựng lớn nhỏ trong các lãnh vực
chỉnh trang tái thiết gia cư, cải thiện hạ tầng cơ sở
nơi các khu ổ chuột (slum areas), mở mang thêm trường
học, tổ chức các lớp dậy nghề v.v... Anh chị em thiện
nguyện viên phải chia nhau đến tham dự các phiên họp
của ủy ban công tác nơi các xóm hẻm – hầu hết là
hội họp vào ban đêm hay các ngày nghỉ thứ bảy, chủ
nhật - vì chỉ lúc đó bà con mới có thời gian rảnh rỗi
để tham gia sinh họat cộng đồng, sau khi đã làm xong
công việc buôn bán hay ở sở làm.
Xin
đơn cử một số công trình xây dựng điển hình mà hiện
vẫn còn có giá trị thiết thực ở địa phương như
sau.
1
– Trường Trung học Lương Văn Can khởi sự từ năm 1966
tại Quận 8.
Trường
này được thành lập do sự vận động của số đông
thân hào nhân sĩ trong quận 8 và được Bộ Giáo dục
chấp thuận cho họat động với điều kiện địa phương
phải lo xây dựng sao cho đày đủ cơ sở vật chất và
trang bị bàn ghế cho các lớp học – trong khi Bộ cử
giáo sư về lo việc giảng dậy. Như thế, đây là một
thứ trường công lập để học sinh khỏi phải đóng học
phí – nhờ vậy mà con em các gia đình nghèo túng ở địa
phương mới có cơ hội học tiếp lên bậc trung học.
Vì
thế mà ban đầu, trường có tên là “Trung học Cộng
đồng Quận 8” - đây là lọai trường trung học đầu
tiên ở miền Nam mà do người dân địa phương đứng ra
xây dựng và thành lập, rồi được Bộ Giáo dục chấp
thuận và cử thày giáo đến chăm lo phụ trách việc dậy
dỗ. Sau này, trường đổi tên là “Trung học Lương Văn
Can” và hiện vẫn còn họat động cho đến ngày nay. Và
sau 47 năm họat động, thì tính ra đã có đến hàng vạn
học sinh đã hòan tất chương trình học tập tại cơ sở
này, và nhiều cựu học sinh Lương Văn Can nay đã trở
thành ông nội, bà ngọai với tuổi đời trên dưới 60
nữa rồi.
2
– Cây cầu “Phát Triển” ngang qua rạch Ụ Cây, sau chợ
Xóm Củi.
Rạch
Ụ Cây là một con rạch nhỏ bề ngang chừng 40 mét, ngăn
cách khu vực Xóm Đầm thuộc phường Hưng Phú với phường
Xóm Củi là nơi thị tứ sầm uất nhất ở quận 8. Hằng
ngày, có đến hàng ngàn người dân ở Xóm Đầm phải
băng qua con rạch này để đến mua bán ở chợ Xóm Củi
và học sinh thì qua học tại trường Tiểu học Xóm Củi.
Mà họ phải trả tiền cho người chủ con đò nổi trên
con rạch – chủ đò mỗi năm phải đấu thầu nơi Sở
Tài chính của đô thành Saigon để được độc quyền
khai thác dịch vụ chuyên chở ngang qua con rạch. Có gia
đình vì nhu cầu mua bán ở chợ và con cái đi học, thì
phải trả rất nhiều tiền cho việc đi qua con đò nổi
này. Vì thế mà bà con bày tỏ sự mong ước có được
một cây cầu bác ngang qua con rạch để vừa đi lại cho
an tòan, thuận tiện, mà cũng vừa đỡ tốn tiền nữa.
Về
phương diện kỹ thuật, việc xây cất một cây cầu nho
nhỏ với bề rộng cỡ 2 mét và chiều dài chừng 50 –
60 mét, thì tương đối không phải là chuyện quá khó
khăn. Nhưng cái khó là làm sao vận động để chánh quyền
tại Tòa Đô chánh chấp thuận cho xây dựng cây cầu đó
- và như vậy thì phải bãi bỏ chuyện đấu thầu –
khiến cho ngân sách hàng năm của nhà nước mất đi một
khỏan thu nhập đáng kể. Đó là chưa kể sự chống đối
rất mạnh mẽ quyết liệt của người chủ con đò - vì
họ không muốn mất đi một số lợi khá lớn cho cả gia
đình, nói gì đến quyền lợi của giới có chức có
quyền mà vẫn được người chủ con đò mua chuộc lấy
lòng bằng đủ thứ lọai quà cáp này nọ.
Nhưng
vì cần phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của số
đông bà con lao động như vậy, nên chương trình chúng
tôi đã phát động một chiến dịch vận động rất mạnh
mẽ rộng lớn để giới chức chính quyền thể theo
nguyện vọng của đồng bào mà chấp thuận việc xây
dựng cây cầu này. Và kết cục chính quyền đã đồng ý
và dự án xây dựng cây cầu được thực hiện trong một
thời gian thật ngắn. Và đó là căn nguyên của công
trình được mang tên là Cầu Phát Triển như nhiều bà
con tại khu Xóm Đầm ngày nay vẫn còn nhớ đến vậy.
3
– Khu tái thiết 1,200 căn nhà tại phường Cầu Tre Bình
Thới, quận 6.
Trong
vụ tấn công xâm nhập vào thành phố của quân đội
cộng sản hồi Tết Mậu Thân năm 1968, thì có đến mấy
chục ngàn căn nhà tại 3 quận 6,7, 8 bị phá hủy. Vì thế
mà chương trình phát triển chúng tôi phải ưu tiên dồn
mọi cố gắng vào công cuộc tái thiết thật quy mô mà
được dàn trải ra đến trên 20 khu chỉnh trang tái thiết
– do các gia đình nạn nhân cùng hợp nhau thành lập
thành các Ban Tái thiết cho từng khu vực để điều hành
công việc xây dựng thật khó khăn mệt nhọc này.
Khu
tái thiết lớn nhất nằm trong địa hạt phường Cầu
Tre thuộc quận 6, giáp ranh với quận Tân Bình Gia Định,
phía sau ngôi chùa cổ Giác Viên, thì có đến trên 1,200
đơn vị gia cư. Cái khó trong việc này là khu vực đó
không bị tàn phá bình địa, mà vẫn còn lại nhiều căn
nhà còn nguyên vẹn hay chị bị hư hại nhẹ – thế
nhưng vì cần phải mở rộng đường xá cho ngay ngắn tại
khu tái thiết rộng lớn này, thì cần phải hy sinh đập
bỏ hết số căn nhà đó đi, để mà xây dựng lại thành
những lô nhà theo họa đồ chỉnh trang hòan tòan mới.
Việc này, nếu chính các chủ nhân không tự nguyện cho
đập bỏ, thì chương trình chúng tôi cũng không có phương
cách nào mà bó buộc cưỡng ép họ được. Do đó mà
chúng tôi chỉ có thể gợi ý cho Ban Tái thiết trong khu
ráng tìm cách thuyết phục các vị chủ nhân đó thỏa
thuận cho phá bỏ căn nhà của mình đi – với điều
kiện họ được quyền ưu tiên chọn căn nhà ở lô mặt
tiền hay căn bìa.
Và
kết cục, sau chừng vài năm khu tái thiết Cầu Tre Bình
Thới này đã được hòan tất tốt đẹp như ta còn có
thể thấy ngày nay vậy.
*
* *
Bài
viết đã dài rồi, tôi chỉ xin ghi tóm tắt thêm một vài
chi tiết thật ngắn gọn như sau :
- Trong lòng khối quần chúng nhân dân, thì bất kỳ ở đâu, lúc nào cũng đều có sẵn một tiềm năng thật quý báu dồi dào phong phú - để có thể sử dụng vào công cuộc xây dựng và cải tiến xã hội về mọi mặt tại mỗi địa phương. Như vậy, vấn đề là người cán bộ xây dựng xã hội phải tìm ra đúng cái phương pháp để khơi động khai thác được cái kho tàng năng lựợng vô biên đó. Có làm được như vậy, thì mới mong phát huy được cái sức mạnh tổng hợp của quần chúng hầu thực hiện được những công trình có quy mô rộng lớn.
- Chương trình phát triển ở các quận 6,7,8 Saigon mới chỉ là một thí điểm trong thời gian ngắn ngủi có 6 năm đó (1965 – 1971) – mà lại giữa cái thời chiến tranh ác liệt – thì cũng chỉ mới gặt hái được một số thành quả tương đối còn khiêm tốn hạn chế mà thôi.
- Tuy nhiên, chương trình này cũng đã có thể coi như là một chứng minh cho cái phương thức vận động quần chúng phấn khởi hăng hái tham gia nhập cuộc vào những dự án phát triển cụ thể thiết thực ở mỗi địa phương. Điểm đáng ghi nhớ tại đây là ở chỗ chương trình đã tìm cách đáp ứng đúng với nguyện vọng sâu xa cuả quần chúng là được sống an vui trong một xã hội trong đó phẩm giá của mỗi con người đều được tôn trọng đúng mức.
- Cụ thể là cái ý hướng “Xây dựng Đời Sống Mới” đã được thể hiện thông qua nhiều công trình xây dựng cải tiến thiết thực – ngay tại nơi những xóm hẻm khuất nẻo nghèo túng, trong các khu nhà ổ chuột của tầng lớp người dân lao động cần cù lương hảo.
Và
đây cũng là một minh họa cho vai trò của các đơn vị
thuộc khu vực Xã hội Dân sự trong công cuộc xây dựng
một cuộc sống tươi vui tốt đẹp cho chính khối quần
chúng nơi những khu vực kém may mắn trong xã hội chúng
ta vậy (the most underpriviledged areas).
Costa
Mesa California, trung tuần tháng Bảy năm 2013
Đoàn
Thanh Liêm
Phụ Lục
I
- Vào giữa năm 1990, lúc tôi bị giam giữ tại trại B34
trong khu Tổng Nha Cảnh Sát cũ ở Saigon, thì nhân kỷ niệm
năm thứ 25 ngày khởi sự của Chương trình Phát triển
Quận 8 (1965 – 1990), tôi có làm mấy câu thơ để tặng
các bạn cùng làm việc chung với nhau tại Chương trình
này trong khuôn khổ của Kế Hoạch Xây Đời Mới (1965 –
1971).
Bài
thơ gồm có 4 câu như sau đây - xin được ghi lại để
đính kèm bài viết có nhan đề “Ý hướng Xây Đời Mới
trong Chương trình Phát triển Quận 6,7,8 Saigon (1965 –
1971)
Tặng
các bạn Xây Đời Mới
Quận
Tám năm xưa cùng Phát Triển
Ngày
đêm lặn lội - vai sánh vai
Đời
Mới ước mơ - thời trai trẻ
Vẫn
còn tươi nét – chẳng phôi phai.
Trại B34 Saigon
Tháng 8 năm 1990
Đoàn Thanh Liêm
II
– Nhân dịp kỷ niệm năm thứ 48 kể từ ngày khởi sự
Chương trình Phát triển Quận 8 (1965 – 2013), tôi cũng
xin được bày tỏ lòng thương nhớ đến các vị thân
hào nhân sĩ, các bạn thiện nguyện viên và các thân hữu
– vốn đã cùng sát cánh bên nhau trong những ngày tháng
miệt mài vất vả cực nhọc để góp phấn xây dựng
cuộc sống tốt đẹp hơn tại địa phương các Quân
6,7,8 Saigon – mà nay đã từ biệt cõi đời để ra đi về
miền miên viễn. Vì con số quá nhiều, nên tôi không thể
ghi hết danh tính từng cá nhân ở đây được.
Xin
nguyện cầu Quý Vị và Các Bạn luôn thanh thản nơi cõi
Vĩnh Hằng (RIP)
California,
Tháng Bảy 2013
Đoàn
Thanh Liêm
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)