Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013
Âu Dương Thệ - Ca tụng Tập Cận Bình và im lặng trước việc Bắc kinh bắn ngư dân:Đấy là đỉnh cao đạo đức của NguyễnPhú Trọng?
Âu Dương Thệ
Đài Bắc kinh ngày 27.3 cho biết, sáng 20.3 hải quân Trung quốc đã truy đuổi 4 tầu đánh cá của ngư dân VN và bắn một tầu của ngư dân VN đang đánh cá trên biển Đông gần quần đảo Hoàng sa do Trung quốc chiếm đóng của VN từ 1974. Trong nhiều ngày những người cầm đầu CSVN–từ Tổng bí thư kiêm Bí thư quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã im lặng, một sự im lặng lạ lùng! Mãi tới ngày 24.3 tờ Tiền phong mới đưa tin, nhưng chỉ vài giờ sau đã phải gỡ xuống. Mãi tới ngày 25.3 bộ Ngoại giao VN mới lên tiếng phản đối và xác nhận tầu đánh cá của ngư dân VN đã bị „tàu Trung Quốc truy đuổi và nổ súng bắn cháy cabin“ (1)! Ngay sau đó Bắc kinh đã nói trắng là: ”Tàu chiến của Hải quân Trung quốc xua đuổi tàu thuyền đi vào lãnh hải Trung quốc phi pháp, giữ gìn chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi biển quốc gia là hoàn toàn chính đáng.” (2)
Nguyễn Phú Trọng
Nhưng giữa khi ấy, một ngày (21.3) sau khi hải quân Trung quốc bắn vào ngư dân VN thì Nguyễn Phú Trọng lại vẫn điện đàm thân mật trực tiếp chúc mừng tân Chủ tịch nước và Tổng bí thư Tập Cận Bình nhân dịp ông này được bầu làm Chủ tịch nước Trung quốc. Sau những lời ca ngợi ĐCS Trung quốc và chúc Tập Cận Bình ”đưa Trung quốc tới thắng lợi“, ông Trọng đã đã thề với Tập Cận Bình là,“Đảng và Chính phủ Việt Nam coi trọng cao tình hữu nghị truyền thống Việt – Trung”. Tuyệt đối không có một lời nào Nguyễn Phú Trọng phê bình hành động sai trái và tàn bạo của Bắc kinh. Trong cuộc điện đàm Tập Cận Bình đã đáp lại rất kịch cỡm là “quan hệ Trung – Việt phát triển lành mạnh và ổn định”, chủ trương “giữ gìn hòa bình của khu vực” và “thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung – Việt phát triển ổn định và lành mạnh.“ (3)
Đối với các quan sát viên chính trị thì những sự kiện quan trọng trên đây cần phải nhận định và giải thích như thế nào về tình hình nội bộ trung ương ĐCSVN, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng và mối quan hệ Việt-Trung hiện nay?
Có một số trường hợp phải được đặt ra để tìm hiểu:
1. Nguyễn Phú Trọng đã không được thông tin kịp thời và đầy đủ việc sáng ngày 20.3 các tầu hải quân Trung quốc đã truy đuổi và bắn cháy tầu của ngư dân VN. Trong trường hợp này thì Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh và các cơ quan an ninh đối ngoại đã không thông tin cho ông Trọng, mặc dầu ông là Bí thư Quân ủy Trung ương, tức là Tổng tư lệnh quân đội VN. Như vậy phải hiểu là uy tín của ông Trọng đã mất trong nhóm lãnh đạo. Trong điều kiện hiện nay giả thuyết này khó có thể xẩy ra.
2. Nguyễn Phú Trọng đã được thông tin đầy đủ biến cố sáng ngày 20.3 nhưng ông vẫn giữ kín, đồng thời còn ra lệnh không cho phép các báo và đài tường thuật kịp thời và đầy đủ cho nhân dân VN và dư luận quốc tế về hành động cực kì ngang ngược và tàn ác với ngư dân VN của nhà cầm quyền Bắc kinh. Ông Trọng làm như vậy chỉ vì muốn giữ cuộc điện đàm ngày hôm sau (21.3) với Tập Cận Bình. Như đã trình bày ở phần trên, trong cuộc điện đàm này, mặc dù vẫn nói là trong tinh thần „đồng chí“ và „anh em“ nhưng Nguyễn Phú Trọng đã không dám phê bình những hành động vô cùng sai trái và tàn bạo của hải quân Trung quốc. Không nhưng thế, ông Trọng lại chỉ thề là, “Đảng và Chính phủ Việt Nam coi trọng cao tình hữu nghị truyền thống Việt – Trung”. Trong trường hợp này, ông Trọng đã chứng tỏ thái độ cúi đầu quị lụy với Bắc kinh. Không những thế Nguyễn Phú Trọng đã lạm dụng quyền lực để cấm đoán các cơ quan của Đảng và Nhà nước thông tin nhanh chóng và trung thực, như vậy là cố tình đánh lừa nhân dân VN và dư luận thế giới trước hành động cực kì sai trái và bạo ngược của Bắc kinh. Như vậy Nguyễn Phú Trọng đã không thực hiện đúng trách nhiệm của Tổng bí thư và Bí thư Quân ủy Trung ương!
Hãy hình dung một biến cố: Người hàng xóm đã đánh đập tàn nhẫn con cái mình, nhưng người cha vẫn mở miệng ca tụng ông hàng xóm là „làng giềng thân thiện“. Khi đó phải đặt lại tư cách và trách nhiệm của người cha!
***
Tuy mới chỉ hơn hai năm làm Tổng bí thư ông Trọng đã để lại nhiều dấu ấn rất đặc biệt:
Đối với Bắc kinh: Sau chuyến thăm Trung quốc với tư cách Tổng bí thư (10.2011) Nguyễn Phú Trọng đã nhượng bộ Bắc kinh thỏa thuận giải quyết tranh chấp giữa hai nước trên nguyên tắc song phương giữa hai bên. Chính nhượng bộ sai lầm này của Nguyễn Phú Trọng đã mở đường cho chế độ Bắc kinh ngang ngược theo sách lược được đằng chân lân đằng đầu. Họ đã thiết lập quận huyện hành chánh trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa của VN, tăng cường hải quân và mở các cuộc tập trận, đồng thời còn tàn bạo săn đuổi và bắn vào các tầu đánh cá của ngư dân VN. Từ khi nắm quyền Tập Cận Bình đã giương cao khẩu hiệu „Thực hiện giấc mơ vĩ đại của Trung quốc“, nghĩa là làm sống dậy chủ nghĩa bá quyền theo kiểu Thiên triều đối với các thuộc quốc lân bang như vài thế kỉ trước đây! (4)
Nguyễn Phú Trọng đã thất bại trong việc chống tham nhũng, một tệ trạng rất nhức nhối trong toàn bộ xã hội VN, khi bất lực không đẩy được Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi chức Thủ tướng tại Hội nghị Trung ương 6 (10.2012). Trong Đảng và ngoài xã hội đều biết rất rõ, suốt hơn 6 năm làm Thủ tướng, Nguyễn Tấn Dũng đã sai lầm và thất bại nghiêm trọng trong kinh tế tài chánh, nhất là lãnh vực Kinh tế Nhà nước, làm thua lỗ và thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng tiền thuế của nhân dân. Trong khi ấy Nguyễn Tấn Dũng vẫn chỉ lo thu vén cho gia đình và vây cánh theo tiêu chí „lợi ích nhóm“ đặt trên quyền lợi chung từ trong trung ương tới các địa phương. Hiện nay phe cánh của Nguyễn Tấn Dũng đã lấn lướt và qua mặt cả trong Bộ chính trị lẫn Trung ương đảng. (5)
Hiện nay Nguyễn Phú Trọng còn đang hồ hởi tung ra chiêu bài sửa đổi Hiến pháp xuyên qua Dự thảo Hiến pháp 1992 và giả bộ kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến với tiêu đề „không cấm kị“ cả những ý kiến trái chiều. Nhiều trí thức, nhân sĩ, nhà báo, thanh niên, các tôn giáo và cả những đảng viên tiến bộ đã nhiệt tâm đóng góp ý kiến với mục tiêu xây dựng một đất nước dân chủ, văn minh và phú cường. Họ đã tố cáo ý đồ giả dối tìm cách đánh lừa nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp. Vì nội dung Dự thảo Hiến pháp sửa đổi hầu như giống hệt Hiến pháp phản dân chủ 1992. Như Điều 4 trong Dự thảo Hiến pháp hầu như vẫn giữ nguyên tiếp tục để ĐCS độc quyền trong mọi lãnh vực của xã hội, quân đội vẫn phải trung thành với Đảng thay vì trung thành với tổ quốc và nhân dân và đất đai vẫn là quyền sở hữu của Nhà nước…Chỉ trong vòng ít tuần lễ đã có hàng chục ngàn người kí tên ủng hộ các „Tuyên bố“ và „Kiến nghị“. Nguyễn Phú Trọng đã không cám ơn những sự đóng góp chân thành này, ngược lại đã lo sợ, lúng túng và bộc lộ tư cách rất phản động, cao ngạo kết án và phê phán rất ngang ngược là „suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống“ và ra lệnh cho cấp dưới phải ra tay „xử lí“ (6), nghĩa là mở phong trào bôi nhọ, đe dọa và cưỡng ép viết bài hay trả lời trong các báo đài tỏ ý ăn năn.
***
Ông Trọng cần phải nhận thức sớm một sự thực không ai có thể phủ nhận được là, trong thời đại toàn cầu hóa và thông tin điện tử thì chủ trương một vài người suy nghĩ cho tất cả mọi người đã vĩnh viễn đi qua rồi. Ngày nay mọi hành động sai lầm và đàn áp nhân dân bất cứ ở đâu chỉ trong vài giây sẽ được truyền đi khắp thế giới và tạo ra phản ứng và thái độ đồng loạt, không có cách nào có thể bưng bít được và tạo ra sức mạnh của quần chúng khó liệu được!
Nhiều trí thức, nhân sĩ, nhà báo, thanh niên và cả những đảng viên tiến bộ biết quí lòng tự trọng đang thấy rất rõ thái độ rất ngạo mạn quyền lực của Ông đối với nhân dân, nhưng lại rất quị lụy hèn nhát với kẻ thù của dân tộc. Chính những việc làm của Ông đang tự phơi bày sự sa đọa của quyền lực, sự suy thoái đạo đức của người có quyền lực! Chính Ông đã bộc lộ tư cách cực kì phản động khi kết án những đóng góp chân thành của các giới là „suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống“, trong khi đó Ông lại coi sự cúi đầu quị lụy Bắc kinh là chính đáng, là „đỉnh cao đạo đức“!
Ông Trọng nên biết rằng, khi các tầng lớp nhân dân ý thức được quyền chính đáng của mình và biết rõ được tâm địa tồi tệ của người cầm quyền thì khi đó tương lai của bạo quyền chắc chắn không còn xa!
Ghi chú:
1.Cộng sản điện tử 25.3
2. Đài Bắc kinh 27.3
3. Đài Bắc kinh 22.3, Cộng sản 21.3
4. và 5. Xem cùng tác giả „Hai năm làm Tổng bí thư (1.2011 – 1.2013) Nguyễn Phú Trọng đang đưa chế độ và đất nước đi về đâu?“, http://dcpt.org/thoisu/baithoisu2013/adt1.htm
6. BBC 26.2
Tiêu Dao Bảo Cự - Sự đoàn kết hiệp đồng giữa các thế hệ trong cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước trên tầm chiến lược.
Tiêu Dao Bảo Cự
Sự khác biệt, mâu
thuẫn, xung đột giữa thế hệ già và trẻ là điều
bình thường trong các xã hội dân chủ. Tình trạng thế
hệ trẻ phục tùng thế hệ già chỉ là một dấu chỉ
của sự trì trệ, bảo thủ trong các chế độ phong kiến
và độc tài.
Việc lên tiếng của
Nguyễn Đắc Kiên trong bài viết “Trách nhiệm với chữ
ký” có phần phê phán thái độ của ông Nguyễn Đình
Lộc và cả ông Nguyễn Huệ Chi sau vụ ông Lộc “lên
Tivi” để nói về chuyện Kiến nghị 72 là một sự kiện
đáng chú ý, một dấu chỉ của xã hội dân chủ bắt
đầu trưởng thành. Chưa kể đến ý kiến của Nguyễn
Đắc Kiên phê phán Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, dẫn
đến phong trào Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do,
nằm trong sự đối lập giữa người dân với nhà cầm
quyền, việc sau này có thể nói diễn ra giữa những
người đấu tranh cho dân chủ.
Các thanh niên “thế
hệ chiến tranh”trước đây đã từng lên án những
người đi trước là để lại cho họ một gia tài rách
nát với chiến tranh tàn khốc, đất nước phân ly, tương
lai mù mịt. Thế hệ trẻ hiện nay cũng có thể oán trách
cha anh đã để lại cho họ một chế độ độc tài toàn
trị mà từ nhỏ đến lớn họ bị tuyên truyền nhồi
sọ, thui chột tinh thần sáng tạo và bị tước đoạt
nhiều quyền tự do đáng ra họ phải được hưởng từ
khi đất nước thống nhất. Có thể khi thế hệ này già
đi, họ lại bị thế hệ kế tiếp phê phán vì chưa làm
được gì nhiều cho tương lai và cũng để lại nhiều
gánh nặng. Tất cả đều trải qua tuổi trẻ, tuổi già
và nằm trong “gọng kềm lịch sử”.
Khi tuổi già đến,
mọi người sẽ ngẫm nghĩ nhiều về quá khứ nhưng khi
còn tuổi trẻ, hầu như chẳng ai bận tâm suy xét gì
nhiều chuyện đã qua. Thế mạnh của tuổi trẻ là nhiệt
huyết, trong sáng, dũng cảm, dám nghĩ dám làm. Thế mạnh
của tuổi già là từng trải, khôn ngoan, trầm tĩnh và
kinh nghiệm trong xử sự, giải quyết tình huống. Nhược
điểm của tuổi trẻ là nông nổi, thiếu kinh nghiệm, dễ
chán nản. Nhược điểm của tuổi già là bảo thủ, ích
kỷ, hèn nhát. Những điều chung này ai cũng biết và dĩ
nhiên có ngoại lệ cho cả già lẫn trẻ. Thời hiện đại
với cuộc cách mạng về công nghệ thông tin đã tạo ra
một tình thế mới cho việc tiếp cận thông tin, tri thức
và giao tiếp xã hội, trong đó người trẻ nhanh nhậy và
có khả năng tiếp thu, sử dụng nhanh hơn người lớn
tuổi.
Trong tình hình hiện
nay, việc đấu tranh dân chủ hóa đất nước bắt đầu
từ những người lớn tuổi và những năm gần đây có
sự tiếp sức của những người trẻ, càng ngày càng trẻ
hơn. Sự hợp tác giữa các thế hệ là điều đáng mừng
vì công cuộc khó khăn gai góc này đòi hỏi sức mạnh
đoàn kết của toàn dân tộc nhưng cũng sẽ phát sinh
những vấn đề cần có sự giải quyết khôn ngoan, hợp
lý mà ý kiến của Nguyễn Đắc Kiên trong vụ việc nói
trên và vô số bình luận trái chiều nhau trên mạng đã
trở thành sự kiện cho nhiều người suy ngẫm.
Ý kiến của Nguyễn
Đắc Kiên rất thẳng thắn, buộc những người lớn
trong cuộc và mọi người nói chung phải suy nghĩ. Nhưng
nếu những điều Kiên đề nghị được thực hiện (ấn
định thời gian lấy chữ ký, lập đoàn đại biểu, yêu
cầu chính quyền công khai trao đổi tranh luận) được
thực hiện thì tình hình sẽ đi đến đâu? Nếu nhà cầm
quyền vẫn lờ đi như lâu nay thì công việc tiếp theo sẽ
là gì, hay cũng là những vụ việc phản ứng theo tình
thế mà phía những người đấu tranh cho dân chủ chỉ
chạy theo chứ không hề chủ động.
Một số người đã
nói đến sự cần thiết của một chiến lược dài hạn
cho cuộc đấu tranh nhưng cho đến nay ai đã làm được
việc đó, với lộ trình rõ rệt, có chỗ cho mọi người
trong cuộc đấu tranh? Thực tế có thể cũng đã có
người, tổ chức đề ra được chiến lược như thế
nhưng chưa tạo ra được sự chú ý hay đồng thuận trong
đa số, trước hết là những người đấu tranh cho dân
chủ vì nhiều lý do. Một trong những lý do là nhiều
người bị hút vào những vụ việc có tính cách thời
sự, gây chấn động, đôi khi nhỏ nhặt, mà quên đi
chuyện đường dài. Mặt khác sự chia rẽ, óc kỳ thị,
tính hẹp hòi, bảo thủ, kể cả sự kiêu ngạo vô lối
đã làm cho người ta không những không chịu thừa nhận
nhau mà còn kích bác, đả phá nhau. Trong khi đó những
người cầm quyền của chế độ toàn trị lại có sẵn
chiến lược dài hạn và những sách lược ngắn hạn,
trung hạn để đối phó với sự nổi dậy của người
dân. Việc sửa đổi Hiến pháp hiện nay là điều đã
được chuẩn bị kỹ càng tuy họ vẫn bị bất ngờ
trước một số phản ứng của người dân.
Thành phần thức tỉnh
để đấu tranh cho dân chủ hiện nay là ai, chiếm bao
nhiêu phần trăm dân số? Nổi bật là trí thức, văn nghệ
sĩ, cựu đảng viên – quan chức và những người trẻ
chiếm bao nhiêu phần trăm trong tầng lớp của họ? Chưa
có sự thống kê chính thức nhưng nhìn thực tế e rằng
còn quá ít. Và lực lượng đông đảo ủng hộ họ để
khi cần có thể trở thành sức mạnh vật chất trong cuộc
đấu tranh là ai, hàng ngàn, hàng vạn hay hàng triệu
người, trên những địa bàn chiến lược nào? Chưa ai có
hiểu biết cặn kẽ hoặc có thẩm quyền, ngoài những
phỏng đoán mà phần lớn là chủ quan duy ý chí như đã
từng được thực tiễn trắc nghiệm, để có thể khẳng
định điều này. Chính vì thế cuộc đấu tranh hiện nay
vẫn là một cuộc đấu chưa cân sức.
Tình hình như thế
đòi hỏi một cuộc tổng duyệt và tập họp mọi thành
phần có khả năng ủng hộ dân chủ để chuyển hóa chế
độ độc tài toàn trị. Các thành phần này có quá khứ
khác nhau, lợi ích cục bộ khác nhau, cách suy nghĩ và ứng
xử khác nhau nhưng có cùng chung khát vọng tự do dân chủ
và ước mơ đất nước hòa bình, phát triển. Tất cả
sẽ tập hợp thành lực lượng, sức mạnh đích thực
của dân tộc.
Thành phần, cá nhân
nào cũng có nhược điểm nhất định. Nếu cứ vì nhược
điểm mà tấn công lẫn nhau thay vì tấn công đối
phương, chưa kể đến một số người chỉ chuyên “chưởi
cho sướng miệng” bất chấp lợi ích chung hoặc với
mục đích gây chia rẽ, thì chuyện thành công chỉ là
“nhiệm vụ bất khả thi”. Nếu ta đặt mình vào vị
trí của người khác ta sẽ hành xử như thế nào trong
tình huống đó hay cũng chỉ như thế và có khi còn tệ
hơn. Một chút thiện vẫn hơn một chút ác, dĩ nhiên hơn
toàn ác.
Cuộc tranh đấu hiện
nay rõ ràng là chưa cân sức trong toàn cảnh mâu thuẫn
lớn nhất của thời đại giữa nhân dân bị trị và chế
độ độc tài toàn trị. Trong ngắn hạn và trung hạn,
lực lượng dân chủ có thể vẫn còn ở trong thế yếu
nhưng dài hạn, nếu biết dựa vào và khơi dậy sức mạnh
của dân tộc, chắc chắn lực lượng dân chủ sẽ chiếm
thượng phong và giành chiến thắng vì nhân dân không thể
chấp nhận mãi sự đày đọa của một thiểu số độc
tài. Trong viễn cảnh đó, sự đoàn kết hiệp đồng
chiến đấu giữa các thế hệ để đấu tranh hiện nay
nhất định cần một cương lĩnh có tầm chiến lược,
trong đó có chỗ và cơ hội hành động cho mọi người
khao khát tự do dân chủ, kể cả lối thoát cho những
người cộng sản và đảng cộng sản để tránh một bi
kịch lịch sử tiếp theo, chắc chắn sẽ có rất nhiều
hận thù, máu và nước mắt.
28/3/2013
Tiêu Dao Bảo Cự
Thụy Khuê - Vấn Đề Trí Thức và Độc Tài Đảng Trị
Thụy Khuê
LTS. Bài dưới đây là chương 25 trích từ cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc của Thụy Khuê. Chương này tiếp tục khảo sát cuốn Une Voix Dans La Nuit của Nguyễn Mạnh Tường, về "Vấn đề trí thức và Độc tài đảng trị", một vấn đề rất đặc thù trong chế độ cộng sản tại Việt Nam.
(Tiếp theo và hết)
● Đám ma đảng Dân Chủ và Xã Hội
"Buổi chiều đó, Đảng Cộng sản tổ chức tại nhà hát Hà Nội đám ma hai đảng anh em: đảng Xã Hội và đảng Dân Chủ.
Trên sân khấu, những chiếc ghế bành được dành cho chóp bu ba đảng. Khách mời bước vào nhà hát chói mắt vì sự lạm phát màu sắc: màu đỏ choé lên khắp các băng vải trúc bâu giăng trên tường, chữ vàng óng dán trên vải tán dương sự vinh quang của bộ ba mác-xít Mác - Enghen - Lênin, của chủ tịch Hồ và con đường chính trị của Đảng. Nhưng lần này, những băng-rôn cất tiếng ca tụng sự đoàn kết, tình hữu nghị anh em ba đảng. Điều thiếu nhất là không khí đưa ma, đáng lý phải làm cho cử tọa nghiêm chỉnh lên tới độ u ám đau buồn. Nhưng người ta cứ cười nói tự nhiên như không. Tất cả đều cho thấy, nếu như người ta không thích thú, thì cũng chẳng ai buồn bã gì cho cái chết của hai đảng con hoang. Mấy tay giễu dở còn tuyên bố rằng quét sạch hai đảng anh em khỏi sân khấu chính trị, chúng ta để dành được món tiền to đã trợ cấp cho chúng. Một kẻ khác chêm vào: Ôi may mắn thay! Từ nay, trong những buổi họp công cộng cũng như trong ra-đi-ô hay trên truyền hình, ta chỉ phải chịu (trận) diễn văn của Đảng cầm quyền và được tha bổng khỏi diễn văn nhái của hai đảng anh em. Tổng cộng, chúng ta không phải rỏ một giọt nước mắt nào cho số phận người quá cố, ngược lại, chúng ta được cười hể hả vì thoát khỏi bọn rách việc!" (1)
Trong buổi lễ, chẳng ai nghe diễn văn chính thức, riêng các thành viên của hai đảng mới chết, ghé tai nhau thì thầm những giai thoại, những bi hài kịch mà họ đã trải qua.
"Sự kết án tử hình đảng Xã Hội mà đảng cộng sản là cha đẻ, là vú nuôi, không gây một tiếng vang nào trong giới trí thức Việt Nam. Nó sống hay chết, người trí thức cũng không mất ăn mất ngủ vì nó!
Mỗi năm, vào ngày 3 tháng 2, sinh nhật Đảng Cộng Sản, là ngày lễ quốc khánh. Chính quyền không ban sắc lệnh gì về việc này, nhưng tất cả các tổ chức, không loại trừ hình thức nào, dưới sự hướng dẫn của Đảng Cộng Sản, đều hết sức vinh hạnh được long trọng tổ chức những buổi họp mặt để ca tụng vinh quang và thắng lợi của Đảng Cộng Sản trong quá khứ và chúc mừng Đảng tương lai ngày càng sáng lạng hơn. Một cái đảng cầm đầu một dân tộc; dân tộc này, ít ra ngoài mặt, tung hô niềm tin vào Đảng, quỳ mọp trước Đảng để thề nguyện trung thành, vì lợi mà cũng vì hèn, sợ bị hành hạ, bị trừng phạt dưới mọi hình thức, đó là cảnh tượng bầy ra trước mắt những người cộng sản cầm quyền. Trước thành công tuyệt vời đã đạt được, họ ngủ yên mãn nguyện vì đã thoả lòng ham muốn, đã toại nguyện ước ao".(2)
● Đối thoại giữa hai trí thức, thành viên đảng Xã Hội
"Hai người, bác sĩ y khoa Xuân và luật khoa tiến sĩ Mạn đi từ từ xuống bậc thềm, dáng mơ mộng. Hai thành viên của cái đảng Xã Hội bị giết và chôn hôm nay trao đổi kỷ niệm với nhau.
- Anh còn nhớ thời ở Hà Nam, cách Hà Nội sáu mươi cây số trong Liên Khu Hai không? Gia đình tôi trú ngụ trong nhà một địa chủ. Tôi chữa mắt cho bệnh nhân và dạy nhãn khoa trong trung tâm huấn luyện y khoa bên kia sông Đáy.
- Còn tôi, luật sư Mạn trả lời, gia đình tôi được một gia đình công giáo ở Bích Tri đón nhận. Mỗi tháng tôi bị gọi lên toà án Binh làm luật sư cãi cho bị can. Một hôm đồng chí Châu là Chánh Án Toà Đại Hình đến chơi. Ông ta cho biết có đảng Xã Hội Việt Nam mới được dựng nên ít lâu nay:
"Chúng tôi biết ông rất kỵ cái việc vào Đảng Cộng Sản vì ông không thích làm chính trị, nên tôi mời ông vào đảng Xã Hội. Đảng này không có kỷ luật chặt chẽ: không có tiểu tổ và không phải họp hàng tuần. Đảng này, đúng như tên gọi của nó, có bổn phận xây dựng tại Việt Nam một chủ nghiã xã hội, loại bỏ sự bóc lột trong kinh tế và xã hội, bảo đảm ưu thế của người lao động, dù chân tay hay trí óc. Tôi không đi vào chi tiết nhưng có thể bảo đảm với ông rằng đây là một đảng tiến bộ phù hợp với người trí thức. Cũng xin nói thêm là đã được một học giả nổi tiếng là cụ Bùi Kỷ gia nhập".
- Châu cũng nói với tôi những điều tương tự. Tôi cũng được người ta cho biết là không nên từ chối lời mời của Đảng cầm quyền. Nhất là nếu mình chẳng được gì thì cũng chẳng mất gì.
- Chúng ta có thể tự hỏi vì lý do gì Đảng cầm quyền đã cảm thấy sự cần thiết phải xây dựng hai đảng "anh em". Theo ý tôi, lý do chính là những người cầm quyền không muốn và không thể để cho bọn trí thức và bọn tư sản lọt ra ngoài vòng kiểm soát của họ. Những đảng anh em được tạo ra nhằm mục đích "nhốt trại chính trị" (encaserner politiquement) tầng lớp trí thức. Không một cá nhân, không một nhóm người nào có thể để cho tự do được. Sự tự do bị cấm ở Việt Nam. (La liberté est intredite au Vietnam).
- Tôi còn thấy một lý do khác: Phong trào thúc đẩy trí thức và tư sản về Hà Nội đoàn tụ với bà con ngày càng không cưỡng lại được. Vì lẽ gì? Trước hết vì sự bất ổn do máy bay oanh tạc và đêm hôm bị lính com-măng-đô lẻn vào cướp của giết người. Sau cùng là sự kiểm soát quá tỷ mỷ của những người cầm quyền cộng sản, công an nổi, công an chìm, thêm sự đói khổ cùng cực vì kiếm sống ở chiến khu vô cùng khó khăn. Chẳng một người chồng nào dù kiên nhẫn và chịu đựng đến đâu, có thể đeo mãi bên cạnh lũ vợ con không ngừng than van khóc lóc ngày đêm. Kiệt lực, anh ta đành đầu hàng, thuê một chiếc thuyền tam bản chở cả gia đình lúc nhúc ngược sông Đáy về tới Đông Quan, cửa thành Hà Nội. Đảng Xã Hội có thể tập trung phong trào này, chận đứng nó lại và giữ những người trí thức còn lại không cho bỏ vào thành. (...)
- Làm sao có thể quên được sự thống khổ mà chúng ta đã trải qua trên hành trình đi tới nơi hẹn mà chúng ta được các nhà lãnh đạo mời, tại một căn nhà lá biệt lập ở phía nam Phủ Lý, chỗ con đường rẽ hai, ngã phải đi Ninh Bình và ngã trái về Nam Định (?)(...) Tôi chắc mái tranh người ta hẹn chỉ là nơi trú của những người canh đêm. Khi bước vào, sự bần cùng dơ dáy tởm lợm đến khó chịu. Trên nền đất, một cái chiếu rách được trải ra. Vách đất há hốc đầy lỗ thủng lớn. Trên bức vách trong cùng, một giải băng vải đỏ hò hét những chữ vàng: "Đảng Cộng Sản Việt Nam muôn năm!" Lá cờ Liên Xô với dấu hiệu búa liềm đối diện với cờ Việt Nam sao vàng trên nền đỏ. Ba vị thánh mác-xít ngự trị vai kề vai với chủ tịch Hồ. Ba đồng chí cộng sản trong đó có Châu, đón và giải nghĩa cho biết là chúng ta được mời đến để làm lễ tuyên thệ với Đảng Cộng Sản và Đảng Xã Hội. Họ yêu cầu chúng ta phải thề vâng lệnh và trung thành với cả hai đảng; chúng ta giơ tay phải và thề. Buổi lễ đơn giản khốn cùng không gây cho chúng ta ấn tượng gì. Nếu ngày nay chúng ta nhớ lại chỉ bởi vì cái đám táng của hai đảng Xã Hội và Dân Chủ vừa được tổ chức với những nghi thức đập vào mắt. (...)
- Tôi nghĩ rằng người ta đã rắp tâm cho chúng ta biết trước những gì có thể chờ đợi ở đảng Xã Hội. Người ta muốn nhấn mạnh rằng tổ chức này chỉ là bà con nghèo mà người ta giữ trong nhà vì lòng từ thiện, chỉ được hưởng phần cơm thừa canh cặn, chỉ có nhiệm vụ hầu hạ và tuyệt đối gọi dạ bảo vâng. Họ mời ta là để cho biết không nên có ảo tưởng gì về vai trò của mình!
- Dĩ nhiên là chúng ta hiểu rõ điều đó. Và nếu ngày hôm nay cái đám tang mà chúng ta đau buồn đến dự được trọng thể như thế này, lý do quan trọng là để, trái với những gì đã xẩy ra trong hơn một thập kỷ, người ta muốn thổi phồng tầm quan trọng của đảng Xã Hội, cho nó một vai trò mà nó chưa bao giờ có. Trong bối cảnh chế độ đa nguyên đang mở rộng và thắng thế trên thế giới, nước Việt Nam muốn chống lại bằng một sự khước từ dứt khoát, quả quyết. Người ta đã làm một trò bịp bợm lớn lao: Phần "Quan Trọng" của đảng Xã Hội đã tự nguyện tự huỷ để củng cố và mở rộng đảng Cộng Sản mà độc quyền lãnh đạo đã được xây dựng trong sự thoả hiệp nhất trí giữa các đảng phái dân tộc. Bộ dạng trịnh trọng ngày hôm nay là để công bố cho mọi người biết cái chết tự chọn của các đảng phái "anh em" và sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Khá khen cho cho những nhà lãnh đạo trong thủ đoạn quỷ quyệt của họ, ngày trước họ dựng nên và ngày nay họ tiêu diệt hai đảng anh em. Một sự thực mà đến mãi bây giờ chúng ta mới hiểu và cuối cùng chúng ta đã hiểu rằng chính quyền cộng sản không bao giờ sai lầm, ngay cả khi họ không có quyền hảnh xử như họ đã làm! (3).
● Độc quyền lãnh đạo
Sau khi đi dự buổi lễ vinh thăng Đảng Cộng Sản nhân ngày kỷ niệm sinh nhật 3/2, Đắc và Hiên dừng lại ở một công viên thì thầm trò chuyện. Hiên hỏi:
- Anh nghĩ sao về việc kết án tử hình hai đảng anh em mà đảng Cộng Sản là cha đẻ và cha nuôi?
- Thực ra thì tôi thấy không cần phải bóp cổ hai đứa con mà đảng Cộng Sản đã cho ra đời. Đó là những hài nhi ngoan ngoãn khó bì, giữ trò con rối tuyệt vời. Những máy người này được vô dầu mỡ tốt đến độ chúng chạy hay như những người máy. Đó là những máy hát thời xưa chỉ biết đọc những đĩa cũ. Mặc dù hai đảng anh em biểu thị rõ đặc điểm câm và ỳ, nhưng chúng vẫn là những đảng chính trị có thể làm lợi cho phong trào đa nguyên đa đảng. Vì vậy, đảng Cộng Sản Việt Nam thấy cần phải khẳng định sự độc quyền lãnh đạo.
- Đi từ thực tế Việt Nam, chúng ta thử trình bầy sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản:
Một cái đảng giữ độc quyền lãnh đạo khai trừ tất cả những đảng khác, là hình ảnh một kỵ sỹ phi ngựa một mình. Quyền lực của nó là tuyệt đối, nó không lệ thuộc vào bất kỳ điều kiện nào. Nó không cần ai làm cố vấn, không cần hỏi ý kiến người khác. Không thể làm gì nếu không có lệnh của nó và tất cả mọi lệnh mà nó ban ra phải được thi hành. Nó không chịu bất cứ sự kiểm soát nào. Nó cho phép, thậm chí khuyến khích tung hô những cái hay mà nó làm, nhưng cấm phán đoán và phê bình những cái dở do nó gây ra. Luật pháp diễn tả ý nguyện của dân, nhưng cái đảng này ở trên luật pháp và ở trên dân. Không một thẩm quyền nào có thể xử án cái đảng, bởi vì nó không thể tạo ra một toà án để xử chính nó. Nó có thể ra lệnh cho thuộc dân của nó phải tự kiểm thảo, nhưng bản thân nó không làm. Không có con đường kháng cáo nào chống lại một trong những quyết định bị dân kêu ca của nó. Chỉ có nước chờ sự phán xét của Thượng Đế! Nhưng cái đảng còn ở trên Thượng Đế!
Khuyết tật cơ bản của chế độ này là kẻ cầm quyền, khi cần quyết định, không thể lựa trong một số biện pháp khác nhau đã được tuyển chọn, mà hắn chỉ có một biện pháp duy nhất là của chính hắn, mà chưa chắc đã hay.
Người ta có thể phản bác rằng lãnh tụ thế nào chả hỏi ý kiến những nhân vật trong Bộ Chính Trị, trong Ban Bí Thư, trong Ủy Ban Trung Ương Đảng. Nhưng đừng nên quên rằng, trong Đảng bao trùm một không khí kỷ luật sắt và sự lo sợ bị trừng phạt và tham vọng được thăng quan tiến chức và được hưởng đủ loại ân huệ bổng lộc, từ nhà ở, lương bổng, đến những công vụ béo bở ở nước ngoài, rồi những lợi lộc mà con cái được hưởng, và sự sợ hãi cũng như tham vọng làm tê liệt cái lưỡi của hơn một người cộng sản và giải thích tại sao tất cả những thuộc hạ khi được Lãnh Tụ hỏi ý kiến luôn luôn nghiêng mình với nụ cười và tuyên bố kinh ngạc trước thiên tài và sự thông bác của Lãnh Tụ!
Người dân cũng vậy, không thể nào khác, một khi có vinh hạnh được Đảng hỏi đến!
Lãnh Tụ có thể than thở như Moïse: "Tôi đầy quyền lực nhưng cô đơn", nhưng hắn không thể đợi một sự cứu trợ nào của Thượng Đế bởi vì chính hắn là Thượng Đế trong xứ sở của hắn. Hắn bị cấm cố chung thân trong cô đơn!
Hai cuộc Cải Cách Ruộng Đất và Cải Tạo Tư Sản dẫn tới sự tịch thu đơn thuần ruộng đất trong tay địa chủ ở thôn quê và nhà cửa trong tay gia chủ ở thị thành.
Cuộc cách mạng hoàn tất năm 1945 tự nhận là vô sản. Những người cách mạng vô sản không những thiếu văn hoá trí thức, lại cũng không có động sản và bất động sản nữa, có nghiã là họ không thể cai trị một xứ sở, điều khiển một dân tộc. Không thể đòi hỏi gì ở những người bụng rỗng, quần áo rách, không có cơm ăn, không có nhà trú qua đêm. Khi người ta thiếu tiền, người ta lấy ở chỗ có. Đó là ăn cắp và trong một xã hội có luật, có cảnh sát, thì sẽ bị bắt, bị tù. Nhưng những người cách mạng vô sản nào có coi luật lệ ra gì: họ chỉ cần tuyên bố trắng rằng sở hữu là ăn cắp! Rằng những người có đất có nhà đồng loã với phản động, rằng tất cả đều phải biết câu: lấy của kẻ cắp, không phải là ăn cắp! Về phương diện kỹ thuật thì chỉ cần ban sắc lệnh bãi bỏ sở hữu cá nhân. Là xong! (4).
● Vai trò của Quốc hội
Hiên và Đắc, hai trí thức đích thực còn sống tới thập niên 90, nhận định hiện tình sau "đổi mới":
"Luật được "bầu" ở Quốc Hội. Nay cái quốc hội này gồm trăm phần trăm cộng sản chính thức và cộng sản ngầm (crypto communistes) luôn luôn bày tỏ, xác nhận sự trung thành triệt để đối với chính quyền. Cũng có thể mức độ văn hoá của những thành viên trong quốc hội không cho phép họ đề xuất những cuộc thảo luận và phê bình quá khó khăn về kinh tế và luật pháp. Cái quốc hội này được coi là đại diện của dân nhưng nó lại là đại diện của Đảng, và tất cả những điều luật được nó biểu quyết đều do chính quyền gợi ý hay làm ra!
Đảng và Nhà Nước điều khiển Quốc hội, ngự trên tất cả luật pháp. Quốc Hội lập pháp không đảm trách bất cứ một chức năng chính trị nào, nó không can dự vào việc thành lập chính phủ, cũng không lật đổ chính phủ bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm. Những người cầm quyền, như vậy, không thể bị tố cáo trước pháp luật, họ ở trên pháp luật và công lý. Trong tất cả các nước văn minh, nguyên tắc thiêng liêng thần thánh là phải tôn trọng sự độc lập của quan toà trong khi họ thi hành nhiệm vụ. Vậy mà ở Việt Nam, các thẩm phán trước khi quyết định tuyên án phải hỏi ý kiến người cầm đầu Đảng. Nhưng nếu đối với phần đông thiên hạ, công lý chẳng có trên đời, thì ở đây câu này lại càng đúng hơn nữa: thẩm quyền công lý không bao trùm những tội ác lớn nhỏ của những người cầm quyền. Cho nên sự vô trách nhiệm của họ thật toàn diện, trọn vẹn, không chỉ trong địa hạt chính trị mà cả pháp lý (...).
Bây giờ chúng ta đã biết thế nào là sự độc quyền cai trị ở đó sự tuyệt đối vô trách nhiệm trải rộng trên mọi địa hạt! Trong môi trường xã hội như thế, nếu cái vi mô đi cạnh cái vĩ mô thì chắc chắn cái vĩ mô sẽ nuốt chửng cái vi mô, không cho nó cơ hội sống theo ý muốn, theo sở thích, mà buộc nó phải chịu theo kỷ luật tập thể, tổ chức cuộc đời bằng cách bắt chước người khác, không được tỏ ý kiến riêng về một lối sống, một ý thích cá nhân nào. Xã hội là một trại lính mênh mông và kỷ luật tập thể áp dụng cho tất cả. Xin một giấy phép đặc biệt để ra trại vô cùng khó khăn và trong đời sống hàng ngày, triệt để cấm diễn tả tự do ý kiến của mình, nhất là ý kiến phê phán cấp trên và những người có chức quyền. Tất cả những ai vô tình hay cố ý vi phạm kỷ luật tập thể, sẽ bị kết tội có khuynh hướng "phản động" và bị trừng phạt nặng nề. Người ta không ra lệnh cho dân phải mặc đồng phục, chỉ vì sự đói khổ đã bắt họ mặc cái đồng phục tôi đòi. Nhưng người ta có thể cưỡng bức nhét vào mọi đầu óc, sự tôn thờ cùng một sắc độ chính trị, chấp nhận cùng một thái độ trí thức, cùng tôn sùng những thánh thần cộng sản. Một tiếng kèn trổi lên, tất cả bắt đầu cùng bước, cùng cất giọng đồng ca!
Người ta dạy dân tín điều Mác-xít xưa nay Việt Nam không ai biết, còn thực hành thì người dân chỉ biết những cấm điều phải tuyệt đối tuân theo, mặc dù trong những diễn văn gửi đến cử tọa quốc tế, các lãnh đạo chối tiệt, bảo ở Việt Nam làm gì có cấm. Ví dụ người ta hay nói đến dân chủ, nhưng những quyền tự do đương nhiên và quyền con người thì không được biết đến ở Việt Nam. Hay quyền tự do ý kiến, có trong tất cả các nước dân chủ, cũng không được biết ở Việt Nam. Cấm phê bình chỉ trích những người cầm quyền trong Đảng và những quyết định của họ, cấm cả sự không tán thành (...)
Tất cả báo chí, dù ở đâu, tuyệt đối không dám có một bài viết, bài báo ngắn hay bản tin để lộ một ý kiến xấu đối với những người cầm quyền hay đối với đường lối chính trị của Đảng. Một sự kiểm duyệt tỷ mỷ, cẩn mật, đầy cảnh giác không bao giờ cho in những dòng chữ khiếp đảm như thế". (5)
Phải công nhận rằng Đảng đã kiến trúc sự độc quyền lãnh đạo một cách hoàn hảo! Đó là một công trình bất hủ không thể khám phá ra một vết rạn nhỏ và sự thiết bị cũng tuyệt vời đến nỗi không một con kiến nào có thể lọt qua mà không bị bắt quả tang trong tầm thấy của người gác (détenteur) và qua mắt ống chuẩn trực (collimateur)!" (6)
Về hiện tình kinh tế thị trường định hướng xã hội chũ nghiã: "Có người kết luận: Như thế chế độ cộng sản chỉ kéo dài ở Việt Nam trong có một thế hệ. Con cái những nhà cách mạng tiên phong đã trở thành những nhà tư bản chính cống, giết cha về mặt chính trị. (...)
Nay, độc quyền đảng trị cho phép tất cả cán bộ cộng sản được quyền ban những quyết định có trọng lượng vàng: Một chữ ký dưới cái giấy chứng nhận mang lại cho người ký một phong bì đầy đô la, đưa tận tay, kín đáo, vắng bặt những con mắt hiếu kỳ ô uế, câm tiệt những xì xào của kẻ xấu miệng".(7)
Une voix dans la nuit, tác phẩm áp chót của Nguyễn Mạnh Tường, viết xong ngày 19/3/1993, ở tuổi 84-85, cho tới nay là cuốn sách có hệ thống, khúc chiết và sâu xa nhất bao trùm toàn bộ hành trình thiết lập chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam.
Hiện nay, mọi người dường như đã "thích nghi" với "chế độ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã".
Ngậm miệng là điều kiện cần và đủ để thành công mọi mặt, từ công việc làm ăn đến thăng quan tiến chức. Từ miếng giấy thông hành về nước, đến việc dạy học, việc mở hội thảo ở Việt Nam.
Ngoại trừ những khuôn mặt can trường đã vào tù, tinh thần trí thức hướng dẫn xã hội và dân tộc đến bình đẳng tự do, dân chủ, đã bị dẹp tan, gần như diệt chủng, kể cả những "trí thức" đã đi du học, làm việc ở nước ngoài, đã được giải thưởng quốc tế, cũng lộn về để nhận ân sủng, phẩm hàm, nhà cửa.
Thông điệp Nguyễn Mạnh Tường để lại cho chúng ta, mạnh mẽ và dứt khoát: Sống không chỉ có ăn mặc, có nhà cửa, có phẩm hàm, địa vị, mà còn phải có văn hoá, tư tưởng. Phải đòi cho được quyền làm người. Cho chính mình và cho người khác. Nếu không, con người sẽ chẳng khác gì con vật.
Paris ngày 17/9/2011
Bổ sung lần cuối ngày 9/9/2012
Thụy Khuê
Chú thích
(1) Trang 87.
(2) Trang 95.
(3) Trang 95.
(4) Trang 96-97.
(5) Trang 100- 101.
(6) Trang 99.
(7) Trang 102.
Ngự Thuyết - Vô xứ
Ngự Thuyết
Biển mênh mông. Không bờ bến, không một hòn đảo, không một mỏm đá, không một bãi san hô. Chỉ có nước và sóng. Trên mặt sóng trôi giạt một con thuyền nhỏ, quá nhỏ. Như con sâu cái kiến trên sa mạc hoang. Nhưng kiến bò từng đàn, quẩn quanh đâu đấy, rồi quay về tổ không xa mấy. Con thuyền thì một mình, trôi giạt mãi.
Chiếc thuyền này được đặc biệt đóng theo hình dáng một quả trứng ngỗng, mái, sườn, đáy, cửa, đều bằng gỗ chắc, khít khao, liền lạc. Đặc biệt, đáy khá nặng. Khi sóng dồi gió dập, người hoa tiêu bảo, đóng kín tất cả cửa và mái thuyền lại, thuyền sẽ quay cuồng lăn lộn như con rái cá rồi cuối cùng cũng nổi lên và trở lại vị thế cũ, đáy nằm dưới, mái bên trên. Như con mèo bị túm bốn chân mình lật ngửa, rồi bị thả xuống từ một độ cao ngắn, nó vẫn có thể xoay thân hình lại và rớt xuống bằng bốn chân an toàn.
Nhưng chiếc thuyền phải nhỏ. Vâng, nó nhỏ lắm, và khá chắc, chỉ chứa được một gia đình gồm vợ chồng và hai đứa con, đứa chị khoảng 16 tuổi, đứa em trai khoảng 12 tuổi. Và người bạn thân của gia đình đồng thời là hoa tiêu. Năm người tất cả. Không có hải đồ, chỉ có chiếc la bàn cũ kỹ mua ở chợ trời. Người hoa tiêu, một sĩ quan hải quân, yêu cầu mang theo hành lý, lương thực, nước uống tối thiểu, vì, theo anh ta, chỉ vài ba ngày hy vọng gặp tàu lớn vớt, bằng không, bốn năm ngày sau cũng đến được một hòn đảo của Mã Lai, hoặc Tân Gia Ba, hoặc Nam Dương. Vùng Biển Đông Nam Á chi chít đảo. Cho nên thuyền chở nặng làm gì, chỉ thêm khó xoay xở mà thôi.
Người chồng lên tiếng:
“Liều mạng đi vào mùa biển động, nhưng kìa, biển lại yên, gió lại lặng, thuyền chạy êm ru. Bây giờ trời mới sáng mà mình đã đi ra ngoài hải phận rồi, phải không? Mình may mắn quá cậu ơi?”
“Cho đến phút này thì may.” Người lái vui vẻ nói. “Biết đâu tối nay...Nhưng đừng lo, chiếc thuyền này sẽ chấp hết. Cứ việc bão tố đi, ta chả sợ.”
“Này Vĩnh,” người chồng tiếp lời, “tôi sung sướng quá. Càng xa bãi Phan Rí, càng xa dải đất hình chữ S đó, tôi càng cảm thấy lồng ngực như đang nở ra, tiếng nói như vang dội lên, con mắt thì tha hồ mở to để nhìn đến, đến, đến vô cực. Và tâm hồn thì, tâm hồn thế nào cậu nhỉ?”
“Tâm hồn hả? Tâm hồn bay bổng”
“Đúng, bay bổng.”
Nói xong, ông Cảnh, người chồng hát lớn, giọng ồm ồm, lạc điệu, lạc nhịp, ông Vĩnh cũng hát theo, cũng lạc điệu, lạc nhịp, hai giọng hòa với nhau lộn xộn: “Ra khơi ... thấy lòng phơi phới ... thấy tình thế giới ... thấy mộng ngày mai ... thấy niềm tin mới...”
Đứa con trai mở to mắt ngạc nhiên nhìn bố, mẹ nó cũng mở to mắt nhìn theo. Chờ hát xong, người mẹ góp lời:
“Anh Vĩnh ơi, tôi cũng biết bài hát này. Bài Viễn Du của Phạm Duy chứ gì?”
Ông Vĩnh vừa trả lời người mẹ vừa ngoảnh nhìn cô gái rồi hét to:
“Đúng thế. Mình là cá gặp nước rồi. Như cá gặp nước hề, ta vẫy vùng. Chị có thấy thế không, anh có thấy thế không, cháu Hiền có thấy thế không?” Rồi cuời lớn.
Ông Vĩnh là bạn vong niên của ông Cảnh, thua ông Cảnh trên dưới mười tuổi. Cô gái, Hiền, lặng lẽ vịn một tay lên thành ghe mân mê, mắt hoang mang nhìn xa về phía trời và biển gặp nhau làm thành một đường gần như cong cong dài mút mắt.
“Hết thấy chim trên bầu trời rồi, phải không cháu?” ông Vĩnh quay lại hỏi cô gái.
“Dạ, đúng thế.” Cô gái hơi giật mình trả lời nhỏ nhẹ.
“Cháu biết tại sao không?”
Cô gái lơ đãng:
“Thưa không.”
“Tại mình đã đi xa bờ, chim bay không tới.”
“Chú nói lạ chưa,” cô có vẻ bắt đầu quan tâm đến câu chuyện. “Chim có thể bay hàng ngàn cây số, hàng chục ngàn cây số. Loài chim trốn lạnh có thể bay từ miền Bắc Cực xuống Nam Bán Cầu kia mà. Phải không chú?”
Ông Vĩnh mỉm cười:
“Đúng thế. Nhưng chú muốn nói những loài chim của đất liền như chim sẻ, quạ, hay ngay cả bồ nông chẳng hạn, chúng không bay xa lắm. Còn những loài di điểu khác, có loài bay thật cao trên trời xanh hay trên những lớp mây, mình không thấy được đâu. Và cũng thường bay ven bờ biển hoặc trong đất liền.” Cười khẽ. “Lỡ mỏi cánh, đói, kiếm chỗ đậu, chỗ ăn chứ.”
“Nhưng cháu nhớ ở vùng cháu cứ cuối mùa thu là thấy chim bay đầy trời, bay thành nhiều đàn theo hình chữ V hướng về phía Nam. Hết lượt này đến lượt khác. Cứ thế cho đến gần nửa tháng mới hết.” Ngẫm nghĩ, cô nói tiếp: “Không, chưa hết đâu. Sau đó cũng còn lại năm bảy cánh chim lẻ tẻ trên bầu trời. Có lẽ đó là những con chim già yếu bay theo không kịp.”
“Cháu nói đúng. Đó là lúc chúng nó mới khởi hành. Về sau bay càng lúc càng cao, như chú vừa nói, bay trong mây, rồi vượt lên trên những đám mây cao nhất và bay mãi, bay mãi. Thế là ta hết thấy.”
“Giống chim đó là hải âu, phải không chú?”
“Di điểu có nhiều loại, nhưng chim hải âu có thuộc loại đó hay không, chú không rõ lắm. Có thể đó là loại di điểu bay không xa lắm. Chỉ biết rằng chim hải âu luôn luôn nhớ biển, như một ám ảnh không rời. Chúng sống lẩn quẩn bên bờ biển, thường bay là đà trên mặt nước để bắt cá. Nhưng khi nào đậu trên mặt đất, thì thật là lạ.”
“Lạ ra làm sao?”
Ông Cảnh nói chen vào:
“Chú Vĩnh là sỹ quan hải quân, lại biết nhiều chuyện biển lắm. Hai người có vẻ tâm đầu ý hợp, con cứ việc tra khảo đi.”
Ông Vĩnh tiếp:
“Người ta nói cáo chết ba năm quay đầu về núi. Đấy chỉ là ẩn dụ. Giống chim hải âu mới là lạ. Những lúc bay đã mỏi cánh, hoặc những lúc biển vắng người, chúng thường họp nhau thành một đám khá đông, năm bảy chục con, đậu sát bên nhau, ngồi im trên mặt đất, giấu chân dưới hai cánh, tất cả đều quay về một phía, thường là hướng về biển, mắt nhìn mê mải. Như đó là thói quen có từ muôn đời.”
Cô gái ngắt lời:
“Nhưng chú vừa bảo đó là một ám ảnh không rời mà. Chứ đâu phải là thói quen.”
“Thì cái ám ảnh lâu đời biến thành quán tính, thành thói quen.”
Cô ta dường như chưa thỏa mãn với lời đáp ấy. Cô quay nhìn ông Vĩnh trong một khoảnh khắc ngắn, rồi lại đưa mắt nhìn xa về phía trời và biển gặp nhau. Dường như cô quên hẳn ông Vĩnh vừa nói chuyện với mình. Cô nói nhỏ như chỉ để một mình mình nghe:
“Di điểu có bay đi luôn không? Hay hết lạnh lại quay về? Bầy chim én cũ qua thành phố, thơ ai thế? Còn mình thì sao?”
“Cháu nói gì?”
Cô thảng thốt:
“Dạ, cái gì ạ ...Vâng, cháu nói những con chim già yếu, bệnh tật bay theo không nổi lại phải bỏ cuộc hoặc chết ở dọc đường.”
Ông Vĩnh cười:
“Hiền đa sầu đa cảm lắm đấy.”
Cô gái cũng cười theo, cười guợng, tiếng cười trong veo, đáp:
“Không, có gì đâu mà sầu với cảm hả chú. Cháu chỉ tưởng tượng vớ vẩn thế thôi.”
Nói xong, cô lại lơ đãng nhìn xa, rồi hầu như quên ngay người vừa đối thoại, lẩm bẩm:
“Mà ngay cả những con chim không già yếu cũng có thể vì một lý do nào đấy bay đi lạc đàn. Trời bao la, biển bao la, một cánh chim.”
Cô gái sắp tuổi dậy thì, tóc dài mượt mà, mắt to đen, người hơi gầy, những ngón tay thon đầu tháp bút. Trông cô thanh thoát như hình ảnh những thiên thần trong “chuyện đời xưa”. Đứa em trai trông nghịch ngợm, dường như thích thú từng giây từng phút của chuyến vượt biển, chốc chốc cười rú lên.
“Hòa! Yên đi nào. Đừng cười nữa có được không? Chị đang…”
“Thì cứ để nó vui được phút nào hay phút ấy,” người mẹ mắng nhẹ cô gái. “Mà hình như con có chuyện gì, chuyện gì ... lo nghĩ.”
“Dạ không.”
Người cha chen vào:
“Con Hiền thỉnh thoảng vẫn thế. Con gái mới lớn mà, thỉnh thoảng ‘trở trời trái gió’ đấy thôi. Bà đừng quan trọng hóa vấn đề.”
“Không phải thế đâu,” người vợ ngắt lời. “Tôi để ý … chỉ mới đây thôi, từ ngày mình quyết định vượt biển.”
Nước mắt rưng rưng, cô gái nhìn bố. Ông Cảnh cau mày, rồi như không muốn biết thêm tại sao đứa con gái của mình có cử chỉ như thế, ông quay qua ông Vĩnh bắt chuyện:
“Cậu biết tại sao tụi nó tệ hại đến như thế hay không?”
“Tụi nào?”
“Thì tụi nào nữa. Cái bọn đã làm cho cả Miền Nam tan hoang.”
Ông Vĩnh nhún vai trả lời:
“Cộng Sản mà. Nga, Tàu, rồi Việt. Cá mè một lứa thế thôi.”
Ông Cảnh sôi nổi:
“Không, không đơn giản như thế. Chúng nó có mẫu số chung, nhưng đồng thời cũng có những nét cá biệt. Chẳng hạn Cộng Sản Việt Nam man trá nhất, độc ác nhất, tráo trở nhất, lật lọng nhất.”
“Anh nói có quá lời không?”
“Không quá lời một chút nào cả. Tất nhiên có nhiều nguyên do, mà cái khiến cho ta vừa thương hại vừa ghê tởm, đó là cái mặc cảm của chúng…”
“Anh cứ nói tiếp đi,” ông Vĩnh giục.
“Chiếm được miền Nam bỗng chúng nhận ngay rằng chúng thua kém đủ thứ. Nếu là người có lương tri, lương tâm, thì ráng rèn luyện, học hỏi để có ngày theo kịp người khác. Đằng này vì mặc cảm tự ti, chúng dối mình, dối người, bóp méo sự thật, rồi dùng bạo lực và gian trá chà đạp lên tất cả những gì trái ý chúng.”
“Tôi thông cảm với anh. Trước những mất mát lớn lao, người ta đâm ra có những ý nghĩ lạ, có khi cực đoan.”
Ông Cảnh gắt, to tiếng:
“Nghĩa là cậu bảo tôi nói sai?”
Hình như to tiếng là thói quen của ông Cảnh, chốc chốc ông lên giọng một lần thế thôi, chứ không phải đó là biểu lộ giận dữ.
“Không phải thế. Anh nói không sai nhưng … tôi chưa tìm ra chữ nào cho thích hợp. Đúng rồi, anh quả là người ngay thẳng của ngày xưa còn sót lại. Trong sáng quá, lương thiện quá, trắng đen phân biệt rành mạch quá, trong cái thế giới ma quỷ bây giờ.”
Người mẹ chăm chú nghe hai người đàn ông tranh luận, thằng Hòa ngồi sát mạn thuyền vói tay ra ngoài như muốn đón hết những đợt sóng nhấp nhô, cô gái thì nhìn trời thỉnh thoảng thở dài. Hình như cô có điều gì khó nghĩ.
Ông Vĩnh không muốn tranh luận tiếp, quay qua cô gái nói:
“Hiền, cháu nghĩ gì, nói cho chú nghe được không.”
“Dạ, cháu nghĩ … Thì còn nghĩ gì khác ngoài chuyện mong sao đi nhanh cho thoát.”
“Chú cảm thấy cháu … Cháu xem chú như người dưng nước lã, không muốn nói hết những gì muốn nói, chứ gì.”
Cô gái hơi bối rối:
“Không phải vậy đâu chú. Để cháu cố nói hết nhé. Dường như cháu muốn làm một cái gì đấy, quan trọng đối với cháu lắm thì phải, mà … mà … cháu chẳng biết đó là cái gì cả. Cháu nói thật đấy, tin hay không tùy chú.”
Ông Vĩnh im lặng nghe, chờ cô bé nói tiếp. Nhưng cô xoay qua mẹ thì thầm. Trời đang trong sáng bỗng nhiên nổi lên một đám mù bao trùm cả không trung. Rồi như có một loài thủy quái khổng lồ chạy điên cuồng dưới đáy, mặt biển sôi sục, tiếng gào phát ra ghê rợn. Hai người đàn ông vội đóng kín mái thuyền và mấy cái cửa hông. Chiếc thuyền trồi lên, trụt xuống, cuốn quanh. Chỉ trong một khoảnh khắc, biển lặng, sóng êm. Mấy cánh cửa được hé mở, mọi người nhìn ra ngoài, thở dài nhẹ nhõm. Đồ đạc mang theo đã được ràng rịt chặt chẽ, thế mà nhiều thứ bị sổ tung nằm ngổn ngang. Ông Vĩnh mở các cánh cửa và đẩy cái mái của chiếc thuyền ra cho ánh sáng uà vào, xong loay hoay tìm kiếm. Bỗng ông la to:
“Ô, chiếc la bàn vỡ rồi!”
“Chết chưa,” ông Cảnh la toáng, “thế phải làm sao?”
“Nguy quá, để tôi nghĩ xem,” ông Vĩnh đáp.
Người mẹ đầu bù, tóc rối, mặt tái mét, thằng Hòa đứng thun mình co ro run rẩy. Hiền không tỏ vẻ quá lo sợ, lẩm bẩm:
“Biết làm sao đây!”
Mọi người thu dọn lại đồ đạc trong thuyền, nhìn nhau sững sờ. Nước uống chứa trong mấy thùng nhựa bị đổ tháo gần hết, thức ăn, áo quần và các thứ đồ lỉnh kỉnh ướt mèm. Ông Vĩnh kiểm soát lại toàn bộ chiếc thuyền.
“OK chứ”, ông Cảnh hạ giọng xuống hỏi.
“Vâng, chưa đến nổi. Nhưng cái la bàn hỏng rồi, đi hướng nào bây giờ. Có lẽ phải cho thuyền trôi thật chậm, chờ đến tối nhìn sao định huớng, rồi …Nhưng mùa này biển động, ngày thường âm u, đêm không sao.”
Ông chưa dứt lời bỗng từ xa sóng nổi lên cao như ngọn đồi làm mặt biển nghiêng hẳn. Ông nhanh tay kéo kín cái mái trong khi mấy người kia hối hả đóng kín các cửa hông. Chiếc thuyền chìm nổi, lăn lộn trong cơn thịnh nộ của biển. Hơn mười phút sau, biển lặng, sóng êm. Các cửa được mở ra, nước vào ngập kín đáy thuyền. Mọi người vội vàng tát nước. Thằng Hòa cũng bắt chước làm theo. Khi đã tát cạn, ông Cảnh lo lắng nói:
“Sao nước vào nhiều thế. Thuyền bị gì rồi chắc?”
“Không phải đâu, tại vì mình đóng cửa không kịp.” Ông Vĩnh trấn an.
Người mẹ quỳ xuống, hai tay chắp lại, lâm râm cầu nguyện, thằng Hòa quỳ cạnh mẹ. Cô gái đứng vịn tay lên khoan thuyền nhìn xa ngẩn ngơ xuất thần. Ông Cảnh đằng hắng:
“Hiền, con … con vói lấy cho bố chiếc khăn lông.”
Cô thảng thốt nhìn cha, có vẻ ngượng. Trao xong chiếc khăn, cô đến bên mẹ thì thầm:
“Cho con nói với mẹ một chút nhé.”
Người mẹ đáp nhỏ:
“Yên nào.” Rồi tiếp tục cầu nguyện.
“Nhưng có chuyện này gấp lắm mẹ ơi.”
Người mẹ ngạc nhiên nhìn con. Cô gái nói hối hả:
“Con nhớ con có đọc một truyện trong một cuốn sách. Hồi đó con thấy nó buồn cười ...”
“Thôi con, giờ này mà con còn …”
“ Mẹ, mẹ, cho con nói tiếp. Nay con không còn thấy buồn cười nữa.”
“Chuyện chi vậy?”
“Trầm hà.”
“Là cái gì, mẹ không hiểu.”
Ngừng một chốc, cô nói:
“Con nhớ lời Phật dạy, đời người ngắn ngủi, vô thường. Ai rồi cũng sẽ ra đi, kẻ trước người sau, cách nhau có bao lâu đâu trong thời gian vô cùng. Chẳng hạn bố mẹ đi trước hay con đi trước thì cũng thế thôi. Mẹ ơi, bố ơi, đừng buồn, đừng giận con, tội nghiệp con lắm nhé.”
Người mẹ mở tròn mắt nhìn con, hoảng hốt:
“Hiền, sao con nói gì kỳ quặc vậy. Mẹ sợ quá!” Bỗng bà la thất thanh:
“Kìa lại sóng kìa! Lại sóng kìa!”
Mái thuyền và các cửa lần này được đóng lại rất nhanh kịp thời ngăn nước biển tràn vô. Chiếc thuyền quay tít. Biển lại gào lên như điên, như cuồng. Như muốn ra tay thanh toán cho xong ngay một món nợ truyền kiếp nào đó.
Mươi phút sau biển lặng.
Ông Vĩnh và ông Cảnh kiểm soát lại con thuyền. Ông Vĩnh nói lớn, giọng nói không còn bình tĩnh:
“Bánh lái gãy, chân vịt kẹt, nước đã tràn vô qua mấy kẽ nứt, lỗ hủng.” Ngẫm nghĩ trong vài giây, ông hét to: “Tát nước! Tát nước cái đã! Chuyện khác tính sau!”
Mọi người kẻ dùng nồi soong, người dùng thau, chậu, ông Vĩnh thì lấy ngay cái nón đang đội trên đầu, hì hục tát nước. Hiền đứng yên như tượng đá chờ đợi. Lại một đợt sóng thần khác chồm lên khỏi mặt biển trông như bức tường cong quái đản khổng lồ lù lù cuốn tới sắp nuốt chửng con thuyền bé. Mọi người không còn hồn vía, vất hết các thứ đồ dùng để tát nuớc, nằm nép mình xuống sát lòng thuyền. Hiền ngoảnh nhìn mọi người rồi đột nhiên lao ra khỏi mạn thuyền, dật dờ trên mặt sóng trong chớp mắt rồi chìm xuống nhanh, với mái tóc xanh lòa xòa là những gì được trông thấy sau cùng. Bà mẹ đang nằm co quắp bỗng rú lên một tiếng kinh hoàng, đồng thời chồm người lên lao ra theo, người cha nhanh tay kịp ôm chầm lấy người mẹ. Lạ thay, bức tường nước đang tiến tới bỗng dưng chùn lại, rồi từ từ chìm rạp xuống, chìm rạp xuống. Mặt biển rùng mình sủi bọt trắng xóa. Sau một chốc, những ngọn sóng xanh trong veo lại nhấp nhô thay thế đám bọt trắng. Một cơn gió nhẹ thổi tới mơn man hòa với tiếng sóng rì rào tạo thành những điệu ru êm êm, vỗ về. Như những lời thì thầm muôn đời của biển. Mẹ Thiên Nhiên mới lên cơn thịnh nộ đấy bây giờ đã khéo làm lành.
Người mẹ chết giấc nằm gọn trong lòng người cha đang ngồi khóc không ra tiếng, không ra nước mắt, thằng Hòa như người vô hồn, ông Vĩnh gục đầu vào mạn thuyền bất động như cái thây ma. Chiếc thuyền không người lái lềnh bềnh, lắc lư trôi. Ông Vĩnh là người lấy lại bình tĩnh trước tiên, lặng lẽ tìm những thứ vặt vãnh còn sót lại trên thuyền dựng thành một cánh buồm nhỏ để gió đưa thuyền đi. Ông Cảnh nhìn vợ thẫn thờ, nói trong tiếng nấc:
“Con Hiền … nó đã muốn đi, và đã đi. Số phận của nó là thế … em hãy để nó yên tâm mà đi … đừng buồn …”
Ông Vĩnh nhỏ nhẹ nói với bạn:
“La bàn hỏng rồi, cái động cơ cũng hỏng. Tôi không định huớng được, nhưng phải cho thuyền nó chạy từ từ. Để nó trôi lềnh bềnh thì không cần phải sóng thần như lúc nảy, chỉ một đợt sóng không lớn lắm cũng đủ làm nó lật.”
“Lật thì cứ việc lật đi, chả còn gì đáng kể.” Một chốc: “Không lật thì cứ trôi, đi đâu cũng được.” Ông nghiến răng, dằn giọng: “Nhưng đừng, đừng, đừng lộn ngược về cái xứ sở khốn nạn ấy.”
Người vợ bỗng cựa mình lẩm bẩm:
“Con ơi, con chờ mẹ với.”
Nói xong bà lại chìm vào giấc mơ mê man.
Chiều hôm đó, chiếc thuyền nhỏ rách nát được một tàu buôn của người Anh vớt. Người mẹ tỉnh dần, nằm trên chiếc giường nhỏ có trải tấm “ra” trắng tinh. Bà quay đầu phía này, phía nọ, mệt nhọc, ngơ ngác, đảo mắt nhìn quanh con tàu, hết góc này đến góc kia. Thỉnh thoảng bà cố nhổm người dậy, ông Cảnh ngồi bên cạnh vỗ vỗ cho bà nằm xuống. Bà lại nằm yên từ từ nhắm mắt như thể để làm vừa lòng chồng. Cho đến khi hai dòng nuớc mắt của bà chảy ra hai bên má, ông Cảnh biết rằng bà lại chìm dần vào giấc ngủ mới. Cứ thế trong nhiều ngày. Có khi ông nghe bà nói trong giấc ngủ, “Không sao đâu mẹ. Bây giờ con thấy bình thản lạ”. Ông Cảnh không giấu nổi mối thương tâm, những nét đau khổ hằn sâu lên khuôn mặt hốc hác. Thằng bé chốc chốc khóc rưng rức.
Ông Vĩnh giọng nói đầy ân hận, ngập ngừng:
“Tôi cứ tuởng tôi đóng được một chiếc thuyền có thể …”
Ông Cảnh ngắt lời:
“Thôi, cậu đừng nhắc đến chuyện đó nữa. Có ai học được chữ ngờ. Mà ông Trời sao độc ác đến thế.”
“Nhưng cũng tại tôi nữa. Nghĩ mình có thể làm được chuyện phi thường, một con thuyền độc đáo.”
Sau một tiếng thở dài, ông tiếp:
“Xin anh chị cũng đừng quá buồn khổ. Trước khi ra đi, mình đã chấp nhận cái xấu nhất có thể xẩy ra. Nhiều gia đình chết hết là chuyện thường. Nay dù sao mình cũng còn chút may mắn.”
Ông Cảnh cười gượng:
“Cậu nói đúng. Có cả hàng ngàn, hàng vạn trường hợp đau đớn hơn gia đình tôi nhiều. Nhưng tôi thật không ngờ con Hiền nó đành đoạn bỏ chúng tôi. Hình như nó đã có quyết tâm từ trước. Lạ thật, tôi có linh cảm nó biết trước tai họa sắp xẩy ra. Cậu thấy đó chứ, trước đấy không lâu khi trời chưa trở chứng, khi biển còn lặng, nó đã nhỏ to chuyện gì đó với mẹ nó, rồi nó nhìn tôi như nhìn lần cuối.”
Ông Vĩnh gật gật đầu tỏ vẻ hiểu ý. Bầu máu nóng trong người ông Cảnh bỗng dưng sôi sục trở lại, ông nói lớn bất chấp những người khác trên tàu có bực mình hay không:
“Tai họa đến càng khiến tôi căm thù bọn chúng. Mọi điều ngang trái đều vì bọn chúng mà ra cả. Tất cả bọn chúng tuốt, không sót một tên nào.”
“Anh nói lạ,” ông Vĩnh nhẹ nhàng đáp. “Chẳng lẽ chúng nó cũng làm nên sóng gió ngoài biển hay sao? Lại nữa, anh không nên vơ đũa cả nắm. Chính danh thủ phạm là tụi chóp bu thôi. Bọn thừa hành kể chi.”
“Ông Cảnh trợn mắt, nói như hét:
“Thế sao ông không ở lại?” Ngừng một chốc, ông nói tiếp, “Xin lỗi, tôi coi cậu như ruột thịt tôi mới nói thẳng thừng như vậy. Theo tôi nghĩ, nếu không có những tên chế tạo vũ khí giết người, những lũ tuớng tá mưu mô, qủy quyệt, những đám quân lính khát máu, tàn bạo, liệu Hitler và cả bộ tham mưu làm được gì? Cộng sản cũng thế thôi, liệu chúng làm được gì nếu không có bọn tay sai say máu, mù quáng. Còn nữa, tụi Cộng Sản Việt Nam đúc không được một viên đạn, chỉ giỏi nịnh bợ, làm tôi mọi cho ngoại bang, nghe lời chúng nó xúi giục đem xe tăng, thiết giáp, sơn pháo, đại pháo, về dày xéo Miền Nam.”
“Thì ta cũng xài súng Mỹ.”
“Nhưng ta tự vệ, chúng nó xâm lăng, chúng nó cướp. Đúng thế, cướp. Hồi 45 chúng ‘cướp chánh quyền’, chữ ‘cướp’ do chúng nó thú nhận, và tiêu diệt những đảng phái quốc gia yêu nước. Vừa rồi, miền Nam ta lo xây dựng để trở thành một nước dân chủ hùng mạnh ở Đông Nam Á, chen vai thúc cánh với Đại Hàn, Thái Lan, Nam Dương, còn chúng thì ngày đêm bóp trán suy nghĩ, mưu toan, lập kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, để cướp.”
Ông Vĩnh đăm chiêu:
“Tôi đồng ý với anh, nhưng có lẽ ta phải có đủ một độ lùi nào đó mới có thể nhìn lịch sử một cách đúng đắn hơn. Bây giờ tôi xin hỏi thật, chắc anh bị bọn đó hành hạ hết cỡ nên … nên anh căm thù chúng nó lắm?”
Ông Cảnh ngắt lời:
“Ông nghĩ rằng tôi bị hành hạ nên bây giờ muốn báo thù, muốn nói xấu chúng nó cho hả giận? Nếu thế ông lầm rồi. Gia đình tôi chỉ là nạn nhân chung chung như hàng triệu người khác. Tôi lại còn không bị đi tù cải tạo như ông. Nhưng chỉ sống với chúng nó chưa đầy một năm, tôi ngán ngược. Trước kia nghe nói bọn ấy độc ác, dối trá, gian manh, tàn bạo, đểu cáng, mình nghĩ rằng đó chỉ là lối tuyên truyền tố cộng quá trớn. Nay mới thấy những lời tố giác ấy còn quá nhẹ.”
“Cũng đồng ý đi, nhưng không hoàn toàn đồng ý. Thuộc cấp thì phải theo lệnh trên, dù muốn, dù không. Hơn nữa, những đứa càng ngu dốt càng cuồng tín, trên bảo gì, dưới nghe răm rắp. Nhưng cũng có không ít những người ưu thời mẫn thế bị ép vào guồng máy. Họ nín thở qua sông.”
Ông Cảnh phì cười, đốp chát:
“Thế thì những người đó hết đất dụng võ rồi. Trước kia nín thở lặn lội qua sông Bến Hải gặp chúng ta, nay sông nào? Còn chuyện này nữa. Cậu có biết tại sao chúng nó tìm mọi cách nhục mạ và hành hạ chúng mình đến thế không?”
“Tại sao?”
“Tại vì, như tôi đã nói, và đây cũng là một trong những lý do chính, chúng tự ti mặc cảm. Nếu chúng nó có bản lĩnh, và tài giỏi hơn ta, và giàu có hơn ta, và còn một chút nhân tính, và còn biết nghĩ đến tình nghĩa đồng bào trong một nước dù Bắc dù Nam, chúng sẽ có cách đối xử khác hẳn.”
“Anh Cảnh này …”
“Khoan, khoan, để tôi nói tiếp. Đằng này chúng chẳng có gì cả. Thì chỉ có việc cướp. Vừa ăn cướp vừa la làng: ‘Chúng ông đến đây vì lý tưởng cao cả quyết trừ hung, diệt bạo, tóm cổ lũ phạm tội, hành hạ chúng nó, tịch biên gia sản, đất đai, nhà cửa, công xưởng.’ Làm như thế mới nuốt trôi được của cướp. Muốn được hiệu quả tối đa, trước khi ra tay, chúng họp nhau thảo luận thật kỹ càng, chu đáo những phương cách dối trá, lừa gạt, đổi trắng thay đen. Xong, tập dượt, tổng duợt hàng trăm lần từ bọn chóp bu đến lũ tốt đen, tốt đỏ. Thế là khi hành sự, tên nào cũng nhuần nhuyễn đường lối, làm và nói ro ro như máy. Chẳng hạn, ngay cả thời kỳ trước 75, vụ Huế Mậu Thân, chúng giết, chúng chôn sống hàng ngàn người chứng cớ rành rành, chúng cũng dám trâng tráo đổ tội cho Mỹ Ngụy không chút ngượng ngập. Chúng thừa biết chẳng ai tin chúng, nhưng chúng lại nghĩ rằng cứ nói láo mãi sẽ đến ngày có người tin chúng, hoặc những thế hệ sau chẳng biết gì sẽ tin chúng. Một lũ lưu manh, mặt dày, trơ trẽn!”
(Còn tiếp một kỳ)
Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013
Bs Hồ Hải - Tự Diễn Biến
Bs Hồ Hải
Hơn tháng nay, nào VTV, nào các báo quân đội, báo nhân dân, báo đại đoàn kết, báo Sài gòn giải phóng và báo công an liên tục đưa những bài "phản biện" có tính ngụy biện để bảo vệ thể chế chính trị đơn nguyên đi ngược lại với quy luật mâu thuẫn và các mặt đối lập, hòng giữ vững chế độ độc quyền của đảng.
Họ còn có những bài ngụy biện để bảo vệ chế độ công hữu tư liệu sản xuất, trong đó, có công hữu đất đai của toàn dân, nhưng nhà nước đại diện để quyết định về mọi quyền và lợi ích. Điều này giúp cho tha hóa và tham nhũng đất đai mà hiện nay là vấn đề đáng lo ngại cho sự lâm nguy của tổ quốc hơn cả ngoại bang giày xéo quê cha đất tổ.
Họ còn ngụy biện cả độc quyền chính trị hóa quân đội và công an, để hòng bảo vệ quyền và lợi của họ trên ngai vàng, hơn là vì quyền lợi của tổ quốc và dân tộc. Điều này đã được minh chứng rõ ràng qua câu chuyện quân đội và công an đã được chính quyền huyện Tiên Lãng huy động để đàn áp gia đình anh Đoàn Văn Vươn hồi tháng 01//2012.
Họ lại còn ngụy biện rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước do dân, vì dân và của dân, nhưng không có tam quyền phân lập. Mục đích tất cả những điều trên là triệt tiêu mâu thuẩn, triệt tiêu đối lập để họ được mọi quyền hành thâu tóm quyền và lợi về cho họ với chiêu bài rất cũ, rất đi ngược lại triết học duy vật biện chứng mà, họ đã biến nó thành môn kinh tế chính trị học ở hầu hết các trường từ phổ thông lên đến đại học, để ru ngủ quần chúng, hòng dễ bề cai trị, tham nhũng và tha hóa, mà không ai có thể ngăn cản được họ.
Cộng đồng người Việt trong và ngoài nước cứ mỗi lần tới chương trình thời sự VTV buổi tối là nhao nhao lên án, đả kích và thậm chí cả chửi thề vì những quan chức ngụy biện, rất dễ hiểu và dễ thông cảm cho dân, vì dân bị nghe theo kiểu một chiều phi khoa học và áp đặt thông tin thời kỳ đồ đá, chứ không phải của thế kỷ XXI.
Thông tin truyền thông là quyền lực thứ tư đứng cùng với hành pháp, lập pháp và tư pháp, họ cũng độc quyền thâu tóm. Trong tất cả các phương tiện truyền thông ấy, tích cực và hiệu quả nhất là đài vô tuyến truyền hình quốc gia: VTV làm công việc đưa tin vào giờ cao điểm hiệu quả nhất. Có 3 cái hiệu quả mà báo và đài truyền hình làm rất được trong thời gian qua như sau.
Thứ nhất là, khi toàn dân đã mất hết niềm tin vào nhà cầm quyền thì những bài báo và thông tin truyền hình ngụy biện trên không còn là phương thuốc làm xoa dịu lòng căm phẫn, nỗi bất mãn và mất lòng tin với chính quyền mà, nó có tác dụng ngược làm nặng nề thêm lòng căm phẫn, nỗi bất mãn và càng mất niềm tin của toàn dân và trí thức hơn nữa, vì mọi thông tin không khoa học mà ai cũng thấy.
Thứ hai là, chỉ trong một tháng qua, chính VTV đã có công lao rất lớn làm hạ uy tín ông tổng bí thư đảng cộng sản khi đưa tin ông nói chuyện tại tỉnh Vĩnh Phúc đầu xuân Quý Tỵ. Sau việc đưa tin này, uy tín ông tổng bí thự bị hầu hết toàn thể nhân dân cả nước lên án và có những bức xúc tràn ngập trên các diễn đàn mạng, đến nỗi, một nhà báo trẻ phải viết bài nói thẳng với ông và chấp nhận mất việc, vì cái bức xúc mà mọi người cho là rất phi khoa học của ông tổng bí thư.
Thứ ba là, cách đây vài hôm cũng chính VTV đã đưa thông tin và hình ảnh rõ ràng ông cựu bộ trưởng tư pháp trả lời phỏng vấn rằng ông chỉ tham gia vào kiến nghị 72 về sửa đổi hiến pháp vào giờ chót và bị áp đặt vào vị trí trưởng đoàn kiến nghị khi đến văn phòng quốc hội để đưa kiến nghị. Mặc dù, trước đó hơn 2 tháng, ông là người ký vào bản kiến nghị này đầu tiên - vị trí số 33 - trong hàng ngàn người ký vào bản kiến nghị 72. Uy tín của ông sụt giảm nghiêm trọng, khi mọi người thấy ông trên truyền hình khi trả lời phỏng vấn mà mắt không dám nhìn thẳng và giọng nói ngập ngừng, với nụ cười cầu tài đáng thương hơn đáng trách.
Thực ra, với hiện trạng xã hội Việt Nam trong 68 năm qua, thì việc có hiến pháp hay không có hiến pháp, thì cái hiến pháp đó cũng chưa bao giờ được chính quyền tôn trọng để điều hành đất nước. Việc điều hành đất nước của chế độ cộng sản trong 68 năm qua là những nghị quyết, nghị định và quy định dưới luật của đảng, mà hầu hết những nghị quyết, nghị định và qui định ấy đều vi hiến và vi luật pháp. Ví dụ, khi cụ Hồ ký quyết định về cải cách ruộng đất và đánh Nhân Văn Giai Phẩm năm 1957 là vi hiến cái hiến pháp năm 1946 mà, chính cụ và tinh hoa đất nước theo cụ lúc ấy soạn ra. Thế thì đâu cần phải huy động toàn bộ ngành truyền thông độc quyền ra tay một cách quá mức như thế?
Cho nên, với trường hợp VTV và báo chí gần đây trong việc quảng bá những cái phi khoa học trong sửa đổi hiến pháp là một cách cho thuốc quảng cáo quá liều. Toàn dân bị ngộ độc. Ngộ độc ấy đã làm hạ uy tín những quan chức hàng đầu của chế độ và hạ thấp uy tín của đảng cầm quyền xuống mức thấp nhất chưa từng thấy trước đây. Chẳng những thế, liều thuốc ấy còn làm cho chế độ có thể bị lung lay khi lòng căm phẫn của người dân chuyển từ lượng sang thành chất. Liều thuốc này không thua cái cuộc tái hôn của ông cựu tổng bí thư đảng lấy bà vợ đại biểu quốc hội, khi mồ vợ cũ chưa cỏ mọc - một sự lăng mạ thuần phong mỹ tục dân tộc ngàn đời nay. Nó như cú hạ đo ván vào đảng cầm quyền.
Câu chuyện này làm tôi nhớ lại ngày đầu tiên học môn Dược lý học - Pharmacology - ở trường Y. Ông thầy trưởng bộ môn Dược Lý Học nói với chúng tôi rằng: "Thuốc là độc, không độc không phải là thuốc. Người ta chỉ uống thuốc để tự tử, không ai có thể uống nước để tự tử bao giờ. Nên anh chị nên nhớ rằng, đặt bút để ghi toa các anh chị phải luôn đặt mình là trường hợp của người bệnh". Bây giờ ra làm nghề đã đến lúc đi hết cái nghề thấy được cái nghiệp, tôi vẫn thấm thía lời căn dặn này.
Liệu có phải vì họ đang tự diễn biến chăng?
Asia Clinic, 10h10' ngày thứ Ba, 26/3/2013
Thụy Khuê - Vấn Đề Trí Thức và Độc Tài Đảng Trị
Thụy Khuê
LTS. Bài dưới đây là chương 25 trích từ cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc của Thụy Khuê. Chương này tiếp tục khảo sát cuốn Une Voix Dans La Nuit của Nguyễn Mạnh Tường, về "Vấn đề trí thức và Độc tài đảng trị", một vấn đề rất đặc thù trong chế độ cộng sản tại Việt Nam.
(Tiếp theo)
● Cá nhân và tập thể
Để giải thích sự xung đột giữa những cặp phạm trù: Cá nhân và tập thể, trí thức và cộng sản, Hiên nhắc lại sự xâm nhập cá nhân chủ nghiã vào Việt Nam:
"Trước tiên, phải công nhận rằng cá nhân và cá nhân chủ nghiã không phải là sản phẩm Việt Nam mà được nhập cảng từ Pháp, nó phát sinh từ cách mạng 1789.
Trong xã hội cổ truyền của ta, tập thể gia đình ngự trị. Tất cả mọi thành viên trong gia đình sống chung dưới một mái nhà, cùng làm việc trên một mảnh đất, ăn chung một mâm cơm. Kết quả nẩy sinh một sức mạnh chung là tổng hợp những sức mạnh của mỗi cá nhân trong gia đình, và sợi dây liên lạc máu mủ cùng lợi ích vật chất và kinh tế cũng không bị lỏng lẻo, suy yếu.
Cá nhân chủ nghiã, được nhập cảng, đã đến nước ta từ khi Pháp xâm chiếm; bởi vì nó thúc đẩy và kích động sản xuất, bởi vì nó tác động trực tiếp tới lợi ích cá nhân, tới tính ích kỷ của người lao động cho nên nó kích thích mọi cố gắng (...)
Vì vậy, khi chính quyền Pháp đem kinh tế thị trường vào cùng với chủ nghĩa kinh tế cá nhân, hệ thống mới này chinh phục ngay xã hội ta, vì nó biểu hiệu một mô hình hoạt động vô cùng cao hơn hệ thống hiện hành. Những thành phố sinh sôi nẩy nở, kinh tế thành thị mở rộng tiểu công nghệ, tiểu sản xuất kỹ nghệ và thương mại.
Trong điều kiện mới này, sự sản xuất nông nghiệp trong kinh tế nông thôn suy đồi dần, tập thể gia đình bị giải tán. Con cái bỏ cha mẹ lên tỉnh làm việc, và không có gì ngạc nhiên khi thấy cá nhân chủ nghiã đã tiến những bước khổng lồ"(1).
Trở lại vấn đề văn hoá, Hiên nói tiếp:
"Văn hóa là tinh chất của cá nhân, nó ưu đãi sự nẩy nở cá nhân chủ nghĩa nơi người trí thức. Trong thời phong kiến, mẫu người có văn hoá điển hình là ông quan cai trị. Nhưng ông ta được tôn kính không phải vì chức năng mà vì sự học rộng, vì cái nhã độ trong phong cách, vì sự lịch lãm trong ngôn ngữ và sự minh triết trong cách xử thế.
Khi kinh tế thực dân ngự trị đất nước, điều khiển những phương tiện sản xuất và bất động sản tư nhân, thì cá nhân chủ nghiã thắng lợi trên mọi phương diện. Những người trí thức tân tiến mà văn hoá đã cá nhân hoá trí tuệ, chễm chệ trong tiện nghi của căn nhà mới. Tuy nhiên, nhờ sự tự trọng và biết trọng danh dự, họ giữ vững được lương tri của mình và tôn trọng ý thức quần chúng, cộng thêm cái uy tín của sự hiểu rộng, người trí thức vẫn được quần chúng ngưỡng mộ".
Hiên kết luận: "Vấn đề trọng đại của nước ta và dân tộc ta là vấn đề xung đột giữa văn hoá và chính trị.
Sự xung đột này có thật và hiện hữu, phải liệt kê những lý do phát sinh. Mặc dù trí thức được vinh danh trong xã hội phong kiến, chế độ cộng sản đã quay ngược tình thế và tìm cách trói họ vào cột bêu đầu tội phạm, để công chúng nguyền rủa; trách họ không tha thiết đến số phận người dân, chui đầu vào những thú khoái lạc dâm ô, tự khép kín trong những tháp ngà mà cảm khoái nghệ thuật ngăn cản không cho họ nghe thấy tiếng thở than của lớp người cùng khốn. Sự hủ bại sâu xa của người trí thức, là do cá nhân chủ nghiã, nó đã giới hạn tầm nhìn của con người, đã ngăn chặn họ thừa nhận sự hiện diện của quần chúng bình dân, của tập thể lao động vất vả ngày đêm để đảm bảo tiện nghi đời sống. Cái cá nhân chủ nghĩa của bọn trí thức đáng bêu thây, sỉ nhục.
Nhưng chiến dịch phỉ báng những người có văn hoá cũng chỉ kéo được một số trí thức khốn khổ, bị sợ hãi và tham vọng bám riết, tới quỳ mọp dưới chân chính quyền, còn phần đông đều giữ vững quan điểm, giữ được sự tôn trọng và quý mến của quần chúng thành thị". (2)
Hiên nói tiếp: "Theo tôi, người cộng sản thấy người trí thức là đại diện quan trọng nhất, đủ tư cách nhất, thậm chí là hiện thân của chủ nghiã cá nhân. Thế mà chúng ta lại biết rằng chủ nghiã cá nhân là đối cực của chủ nghiã cộng sản, giữa hai thực thể này đã có cuộc đấu tranh quyết liệt chỉ ngừng khi một bên bị triệt hạ hoàn toàn. Mọi người cũng lại biết rằng người trí thức không thể chịu được bất cứ sự hỗn tạp, chung lộn nào, bởi chung lộn là bắt buộc phải chung đụng với những phần tử mà mình không thích. Một mặt khác, người trí thức cho rằng cái xác định con người, là nhân cách riêng của nó: mỗi cá thể là một nhân cách. Con người thay đổi và có nhiều mặt (3), chính tính cách đa diện là dấu ấn đặc biệt của con người. Chúng ta đã thấy dưới thời phát xít Hitler và Mussoloni, khi những thực thể sống động là con người phải mặc cùng một loạt đồng phục, cùng bước một nhịp, cùng hô một khẩu hiệu, cùng có một cử chỉ, thì những thực thể ấy đã trở thành người máy, sự tự động đã thay thế cho sự biến đổi, máy móc thay thế cho đời sống! Nhưng cuối cùng, không ai thành công trong sự máy móc hoá dân tộc mình mãi mãi.
Hơn nữa, sự thù nghịch của cộng sản đối với trí thức còn được giải thích bằng sự gắn bó không thể tiêu diệt (l'attachement indéfectible), không thể khước từ (irréfragable) của trí thức đối với những giá trị dân chủ. Vậy từ đâu mà có sự gắn bó này? Là bởi vì, trong mối song quan (dilemme): chính quyền - dân chúng, không một người trí thức nào lựa chọn chính quyền, trừ phi họ bị những tham vọng đê tiện dẫn dắt. Ta đứng về phía dân chúng bởi vì chính ta là người dân. Chế độ dân chủ cho tới bây giờ là hình thức chính quyền duy nhất thực hành công bằng và công lý, làm việc cho dân. Uy tín của chế độ này đã khiến chính những chế độ cộng sản cũng không ngừng tự xưng mình là dân chủ, là làm việc cho dân! (4)
● Trí thức và cộng sản: ngày và đêm
Đào sâu hơn nữa vào sự xung đột giữa cộng sản và trí thức, Hiên nói tiếp: "Sự xung đột giữa đôi bên không thể giải quyết được bởi vì nó đụng tới bản chất và lý do tồn tại của chủ nghiã cộng sản. Thực thế, hai quan niệm về đời sống và về con người, chống nhau trong một sự kình địch chỉ có thể biến mất khi chế độ cộng sản xụp đổ!
Trước hết, chủ nghiã tập thể đặt nền móng trên một quan niệm toán học về con người. Theo đó, con người không là gì cả, chỉ một con số trừu tượng, có thể thay người này bằng người kia, hệt như một người lính thuộc quân số của một đơn vị nhà binh dưới mắt người chỉ huy. Tên, tuổi, trọng lượng, tầm vóc, của mỗi người không quan trọng, chỉ có tổng số lính là đáng kể! Thế mà cá nhân chủ nghiã lại nhấn mạnh đến chất lượng của cá thể, tức là những dấu hiệu đặc thù phân biệt người này với người kia trong cùng một chủng loại và tuyên bố mỗi con người là một thực thể khác nhau.
Chủ nghiã tập thể, không tha thiết gì đến con người và từ chối sự khác biệt giữa người và người. Con người được chính quyền tạo ra để sử dụng đã gây tổn thất nặng nề cho cá nhân, yếu tố mà tập thể không thèm biết đến sự hiện hữu.
Ngược lại, cá nhân chủ nghiã đưa con người lên mức quan tâm hàng đầu. Con người tự lấy mình làm cứu cánh, không phải là phương tiện để phục vụ bất kỳ một cái gì. Cây người phải được vun trồng cho nở hoa và đơm trái. Để đạt tới mục đích này, cần phải học, phải biết rõ con người, biết tất cả những dấu hiệu khác biệt của nhân cách qua những yếu tố tối giản của cá tính.
Vì vậy, chủ nghiã tập thể và chủ nghiã cá nhân đối nghịch như ngày với đêm: có cái này thì không thể có cái kia: hai bên không bao giờ gặp nhau. Chủ nghiã cộng sản tập thể không bao giờ hiểu được chủ nghĩa cá nhân của người trí thức.
Dân chủ là chiến trường thứ nhì giữa trí thức và cộng sản. Ở thời điểm người cộng sản tranh đấu bí mật, họ dựa trên dân, nhờ dân nuôi dưỡng và che chở khỏi sự lùng bắt của mật thám. Từ khi lên nắm chính quyền, họ luôn luôn cam đoan trung thành đối với những ân nhân xưa, tuyên bố nguyện ước tranh đấu cho dân và làm tất cả vì dân. Nhưng đó chỉ là những lời hứa hão và cái hố càng ngày càng đào sâu giữa người dân và chính quyền cộng sản. Người trí thức, từ lòng dân tộc mà ra, tự cảm thấy mình có sứ mệnh dân chủ.
Người cộng sản khi lên cầm quyền, từ chối thay đổi khẩu hiệu, tiếp tục tuyên bố: Vì dân. Do dân. Nhưng cái dân tộc mà họ vin vào đó, biết rõ hơn ai hết rằng chẳng có cái gì do dân làm cả, lý do hiển nhiên là dân không có quyền bầu những đại biểu của mình trong chính quyền và vì vậy dân không có quyền biểu quyết những chính sách được áp dụng ở trong nước. Quốc hội và tất cả những cơ quan cầm quyền, trong mọi lãnh vực hoạt động, đều tràn đầy cộng sản, từ ủy ban chỉ đạo tới ủy viên bình thường, không có một cái gì làm ở trong nước mà không qua sự chỉ đạo và kiểm soát của những người cộng sản hoặc những người sắp vào đảng, họ đánh nhau để chiếm chỗ, ra sức ngoan ngoãn, dễ bảo, tận tụy với Đảng. Biểu thức "Do dân" vì vậy không có ý nghiã gì.
Trực diện với độc quyền mở vào con đường lộng hành, bất công, bất bình đẳng và những đàn áp đủ mọi hình thức, giấc mơ duy nhất để an ủi là quay về với dân chủ (...)
Những người trí thức bị nghi ngờ nuôi dưỡng hy vọng dân chủ trong lòng, bị coi là những kẻ thù của chế độ. Để cấp cho những hình phạt mà họ quyết định ở toà án một cái bề ngoài hợp pháp, những kẻ cầm quyền trở thành luật gia ngẫu hứng, bịa ra một tội ác không có ở bất cứ bộ luật nào, là tội "phản động". Tất cả mọi người trí thức không chia sẻ đường lối cộng sản đều bị coi là "kẻ phản động" và bị giáng từ 10 đến 20 năm tù. Những quyền tự do cơ bản và nhân quyền, phản ảnh kích thước văn minh của một nước bằng sự đề cao danh dự và phẩm cách con người, không được biết đến ở Việt Nam.(5)
● Đảng Xã Hội và Đảng Dân Chủ
Nguyễn Mạnh Tường, thành viên của đảng Xã Hội, xoay ống kính vào hậu trường chính trị của sự ra đời và xoá sổ hai đảng Xã Hội và Dân Chủ. Năng được triệu tập đến dinh Tổng Bí Thư, để bàn về việc dẹp hai đảng Xã Hội và Dân Chủ, đã được dựng nên trong thời kháng chiến. Đầu tiên hết, Tổng Bí Thư giải thích nguồn cội sự ra đời của hai đảng để Năng nắm rõ tình hình:
"- Như đồng chí đã biết, Đảng ta đã lập ra đảng Xã Hội và đảng Dân Chủ. Đảng Xã Hội dành cho bọn trí thức và đảng Dân Chủ dành cho bọn tư sản. Đồng chí cũng biết rằng Đảng không làm điều gì mà không cân nhắc kỹ. Những người mác-xít cố chấp có thể trách ta đã xây dựng những đảng phái sai trật hẳn với quan niệm mác-xít của một đảng chính trị.
Rằng hai đảng này không đáp ứng đúng đòi hỏi mác-xít, chúng ta xin lỗi, nhưng ta có cái lý của ta. Trước cách mạng, trường Pháp đã đào tạo ra nhiều thế hệ trí thức đã theo ta trong kháng chiến. Nhưng trong 10 năm kháng chiến, trường Pháp còn đào tạo thêm những thế hệ trí thức khác. Khi trở về Hà Nội, một số đã bỏ ta, đi làm, đi học ở nước ngoài. Đối với những kẻ ở lại, ta không thể bỏ rơi họ. Trước hết, vì lợi ích của chính họ, giúp họ theo kịp những tiến bộ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của ta. Rồi khi trở về Hà Nội sau mười năm kháng chiến, ta vấp phải một tầng lớp dân chúng đã quá quen nghe nói đến tự do và nhân quyền; vì không muốn lộ bộ mặt chậm tiến, nên ta phải nói cùng thứ ngôn ngữ với bọn thực dân Pháp cũ. Ta phải giả đò tôn trọng quyền của người dân được lập những đảng phái chính trị để bảo vệ quyền lợi của họ. Sau cùng, về mặt đối ngoại, chúng ta phải bảo đảm với dư luận thế giới, về những tự do chính trị mà chúng ta sẽ cho dân hưởng sau khi người Pháp đi khỏi. Nhưng dĩ nhiên là dưới cái bề mặt phỉnh gạt ấy, chúng ta không thể mất cảnh giác, mà phải tiếp tục điều khiển hai cái đảng mà chúng ta gọi là "anh em" từ lúc mới dựng chúng nên và trong suốt thời gian chúng còn hoạt động. Ta đã khuyến khích một vài trí thức nổi tiếng cái ý lập hai đảng. Vậy là dưới sự thúc đẩy của ta và nhờ sự cố vấn của ta mà hai cái đảng này được khai sinh trong đời sống chính trị và chập chững bước đầu. Chính ta cấp ngân quỹ cho hai đảng anh em. Chính ta đã gài trong mỗi đảng những uỷ viên chính trị có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của chúng để báo cáo kịp thời cho ta biết những chệch hướng hay những lệch lạc có thể xẩy ra, và trực tiếp truyền lệnh của ta cho chúng thi hành. Bây giờ, đồng chí hãy báo cáo cho tôi biết sự hoạt động của chúng mà đồng chí có trách nhiệm theo dõi.
- Xin báo cáo đồng chí Tổng Bí Thư: tình hình là lạc quan. Hai đảng anh em cư xử rất được. Những ủy viên chính trị mà ta gài vào đã làm việc thật tuyệt vời. Ngay khi đến, họ đã biết kết hợp cương với nhu, họ đã làm cho hai uỷ ban trung ương và hai chủ tịch của hai đảng này hiểu rõ rằng không có một văn kiện chính thức nào - diễn thuyết, thông điệp, tuyên ngôn, diễn văn khai mạc hay bế mạc - có thể được ký mà không qua ý kiến của họ. Không có một cuộc trả lời phỏng vấn nào mà không có họ chứng kiến. Bọn kia tuân thủ răm rắp. Hai tên tổng bí thư cũng như toàn thể đảng viên của hai cái đảng này đều là kháng chiến cũ. Chúng đã được giáo dục tốt. Không màu. Không mùi. Vô hại. Có miệng nhưng câm như hến. Tránh liên quan. Cung kính tuyệt đối trước lãnh đạo! Đối với chúng, ta có thể yên tâm ngủ khò.
Nhưng tôi có bổn phận phải báo cáo đồng chí Tổng Bí Thư cái mặt trái của mề đai. Trước hết, số đảng viên quá ít. Ngoài phố họ cười ầm lên, mỗi đảng không được một trăm mống! Điều bất hạnh là trong cái đảng Xã Hội mệnh danh "trí thức", chỉ có độ mươi mống trí thức chính hiệu! Chỗ còn lại là giáo viên tiểu học, thợ thủ công, cán bộ hạng xoàng, được đưa vào để gồng số đảng viên. Trong cái đảng Dân Chủ, số tư sản có chút vốn chỉ độ hai, ba mạng, phần còn lại toàn bọn buôn bán lẹt đẹt, cán bộ tép riu. Để được vào hai đảng này, chỉ cần xuất trình phẩm trật kháng chiến!
Bọn chúng được cấp giấy hạnh kiểm tốt, chứng nhận tận tụy với Đảng cầm quyền mà chúng khoe là "anh em". Uy tín của chúng đối với quần chúng là zê-rô, chúng cũng chẳng có ảnh hưởng chính trị gì, mặc dù những tên cầm đầu vênh vang trên ô tô nhà nước và trong những buổi hội họp công cộng, chúng được nhận những chức vụ mà ta dùng cho lãnh đạo Đảng ta, nhưng của chúng chỉ để gáy. Đúng là một vở tuồng mà ta cho chúng diễn và chúng đóng trò hề này rất cần mẫn chăm chỉ. Mặc tất cả những cung kính mà ta dành cho chúng trong những lễ nghi chính thức, những kẻ xấu miệng vẫn gọi chúng là con rối, là bù nhìn, họ kêu ầm lên: "Giễu! Sao Đảng chẳng chọn những diễn viên khôi hài hơn, dệt những con rối tức cười hơn để giải trí!"
- Nếu chúng ta quyết định dẹp hai cái đảng này và ra sắc lệnh chấm dứt trò hề, đồng chí có thấy bất tiện không?
- Nếu được phép nói thật, tôi sẽ thú thực với đồng chí Tổng Bí Thư rằng xây dựng một cái đảng đã là tế nhị, mà giải tán một cái đảng lại còn vô cùng tế nhị hơn. Nhất là trong hoàn cảnh hiện thời! Dù bọn nhà trò có giễu dở đến đâu, dù vở tuồng có nhạt nhẽo thế nào, công chúng đã có thói quen xem chúng múa may trên sân khấu, chơi trò hề và làm phụ diễn hài hước cho khán giả cười bể bụng. Không hiếm người than phiền chế độ ta hà khắc bởi chính trị len vào khắp cả và cơ hội được cười thả cửa quá hiếm. Hai đảng "anh em" bộ điệu nghiêm trọng không hề nao núng, chấp hành hết sảy công tác nhái mà ta dạy, kích thích khán giả phì cười, nhưng trước bàn dân thiên hạ, mọi người lại phải ôm bụng nhịn, về nhà mới dám xả láng với bà con bè bạn.
- Những lời đồng chí vừa nói khiến ta càng dứt khoát quyết định không làm trò hề cho thiên hạ nữa. Thực ra, Đảng cũng ớn việc cứ giơ sườn ra cho chúng chế giễu, nhạo báng làm mất uy tín. Chúng ta rất nhạy cảm với sự châm biếm và không gì làm chúng ta đau lòng hơn là thấy quần chúng giễu ta và những nhân vật chỉ có một tội ác duy nhất là đã vâng mệnh ta một cách dễ bảo không ngờ, thậm chí bất ngờ! Khi ta hạ màn, trả họ về với những bận rộn hàng ngày, phẩm giá của những người "anh em" đã sốt sắng tự hạ mình để phục vụ ta, sẽ đỡ bị sứt mẻ và Đảng ta sẽ lấy lại được cái uy tín mà những sai phạm đã ít nhiều làm tổn hại.
Ngoài ra, như đồng chí cũng đã biết, gần đây ở một vài nước châu Âu đã bắt đầu có mầm mống phong trào đa nguyên. Bổn phận của chúng ta là phải trang bị một ý thức chính xác về mối nguy cơ này cho Đảng.
Lấy cớ rằng mỗi đầu người có một ý kiến, và chính sự đối chất giữa các ý kiến khác nhau sẽ nẩy sinh ra sự thật, rằng sự độc quyền một đảng, bất cứ giá trị của đảng viên như thế nào, cũng dẫn thẳng đến sự chuyên chế, độc tài; bọn chúng đề nghị chúng ta cho phát triển sự đa đảng. (...)
Chúng ta không đặt mình vào địa vị đối lập với chân lý và tiến bộ. Nhưng chúng ta từ chối làm kẻ Bị Lừa Bịp, tin lời Lường Gạt của bọn Lang Băm. Những điều mà chúng đề nghị tưởng mới mẻ gì, thực ra đã cũ mèm từ hai thế kỷ: chế độ đại nghị! Một chế độ chính trị cũ rích.
Dưới mắt những người cộng sản chúng ta, chủ nghiã đa nguyên là một trò hề nực cười nhất. Bắt đầu bằng cuộc bầu cử. Trong đó kẻ nào chửi bới đối phương một cách hèn hạ nhất sẽ thắng, người ta sáng chế ra những dối trá nếu cần, để hạ địch thủ. Còn về chương trình hành động, người ta đua nhau ném ra những lời hứa biết trước là không thể giữ được. Có quan hệ gì? Miễn là được bầu. Một khi đã qua cầu rồi thì không kẻ nào quay nhìn phía sau, nhớ lại những điều lường gạt đã tung ra để lấy phiếu. Cử tri đóng vai ngố rừng trong trò bịp bợm này. (...)
Làm sao một chính quyền thối nát ngay từ đầu có thể làm tròn phận sự? Lại càng khó khăn hơn khi chính quyền này bị chia cắt làm ba: Lập Pháp chiếm ưu thế, được chọn thành phần Cầm Quyền (Hành Pháp), rồi tới phiên Hành Pháp chọn nhân viên của Tư Pháp. Đúng lô gích thì Lập Pháp mạnh thế, bởi được dân bầu trực tiếp, có quyền chỉ định thành phần Cầm Quyền. Rủi thay, quyền của họ chỉ dừng ở đó. Họ không có quyền kiểm soát hữu hiệu và thường trực hoạt động của nhà Cầm Quyền, và họ cũng không có quyền hội họp hàng ngày, phải đợi được triệu tập trong những điều kiện pháp định.
Về Tư Pháp, người ta nhìn nhận nó có quyền độc lập khi thi hành nhiệm vụ, nhưng cũng không thể chối cãi là ngành này gồm những công chức, phụ thuộc vào nhà Cầm Quyền để được thăng quan tiến chức, vậy họ phải tìm cách ở trong ân sủng của nhà Cầm Quyền, điều này có nghiã gì, ai mà chẳng biết (...)
Thấy ông Tổng Bí Thư có vẻ lạc đề, hăng hái trong việc "mô tả" chế độ đại nghị, Năng tìm cách đưa ông trở lại đề tài quan trọng trước mắt là làm sập tiệm hai cái đảng Xã Hội và Dân Chủ:
- Thưa đồng chí Tổng Bí Thư, nếu đồng chí cho phép dùng thứ ngôn ngữ hình ảnh, tôi xin so sánh hai đảng này như hai cái nhà chòi được dựng trong hội chợ và tháo rỡ khi tan hội. Để thu hút khách xem, có một kẻ cầm loa rêu rao khoác lác những điểm lạ thường trên thân chú lùn, người khổng lồ, hoặc người đàn bà mình cây, ở trong chòi. Nhưng đám đông cứ tỉnh bơ, bởi chủ nhà chòi làm ăn dở quá. Ngược lại, Đảng ta gợi hình ảnh một toà lâu đài vĩ đại mà nền móng thách đố sự vận chuyển nhiều thế kỷ, đầy tràn một xã hội công an hoá và một lớp hầu cận kiểu cách (personnel stylé).
Ở đây ta làm tốt công việc, dưới quyền điều khiển của những xếp thông minh, nhìn suốt hiện tại đến tương lai, bước ra ngoài phạm vi lâu đài để ôm lấy toàn thể đất nước và ra khỏi bọn cư dân để đến với toàn thể nhân dân!
- Này đồng chí, ý ta muốn đạp đổ luôn hai cái nhà chòi của đảng Xã Hội và đảng Dân Chủ. Bởi chúng huỷ hoại cảnh đẹp, làm xấu tầm nhìn, gây sốc cho cảm quan. Vậy theo đồng chí, nếu hai cái nhà chòi này biến mất có làm dư luận bất bình không?
- Tôi chắc là không. Hai cái đảng này thiếu đảng viên và không có một ảnh hưởng nào trong xã hội. Dĩ nhiên ai cũng biết bọn đảng viên của hai cái đảng này vô hại, không mùi, không màu, và người ta cũng biết chúng là con hoang của Đảng ta, không ai chú ý đến sự hiện diện của chúng! Vì chẳng ai để ý đến sự có mặt của chúng cho nên cũng chẳng ai thấy sự biến mất của chúng! Nhưng tôi vẫn chưa hiểu tại sao chúng ta lại từ chối quyền sống cho hai cái đảng này? Chúng chỉ chiếm một chỗ rất nhỏ, chỉ mở miệng để hô khẩu hiệu và hót muôn năm, vạn tuế Đảng.
- Chúng ta đã phạm sai lầm khi khai sinh ra chúng và đã để chúng héo mòn không cho chúng quyền hiện hữu, không cho chúng quyền cộng tác với chúng ta, cùng làm việc cho hạnh phúc vĩnh cửu chung. Trong những điều kiện như thế, ta nhận thấy rằng hài kịch đã kéo dài quá lâu mà chẳng có lợi lộc gì cho ta và nhất là cho lũ con rối mà ta đã tạo ra! Lý do trọng đại hơn, chính là chúng ta phải hết sức cảnh giác vì trên thế giới mới xuất hiện một phong trào, dưới nhãn hiệu bảo vệ dân chủ, kích thích sự sinh xôi nẩy nở các đảng phái chính trị để chặn đứng con đường chuyên chế vinh quang của đảng cộng sản!
- Thưa đồng chí Tổng Bí Thư, làm sao mà đồng chí không có lý cho được. Một khi những căn nhà chòi đã bị tiêu diệt, chỉ cần vài nhát chổi là xoá sạch dấu vết. Trong tất cả mọi gia đình người ta đều quên tiệt bọn con hoang.
Với sự cho phép của đồng chí Tổng Bí Thư, chúng tôi sẽ tìm cách tổ chức cho chúng một đám ma trọng thể để chứng tỏ lòng ngưỡng mộ của chúng ta đối với hai cái đảng "anh em" mà sự dễ bảo xứng đáng được hưởng những lời khen thưởng của tất cả những chủ nhân ông đang thiếu kẻ hầu người hạ!" (6)
(Còn một kỳ)
Chú thích:
(1) Trang 72.
(2) Trang 74-75.
(3) Con người thay đổi và có nhiều mặt NMT lấy lại câu: L'homme est ondoyant et divers" của Montaigne.
(4) Trang 77.
(5) Trang 80-81.
(6) Trang 85-86-86 bis-87.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)