Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Âu Dương Thệ - Hai năm làm Tổng bí thư, Nguyễn Phú Trọng đang đưa chế độ và đất nước đi về đâu?



(Tiếp theo phần I - Đối ngoại: Lẫn lộn giữa bạn và thù)

II. Nội bộ phe cầm quyền: 
Nguyễn Phú Trọng chủ quan khinh địch
nên Nguyễn Tấn Dũng vẫn giữ ghế Thủ tướng

Âu Dương Thệ

Trong hai năm đứng đầu chế độ Nguyễn Phú Trọng đã tổ chức 6 Hội nghị Trung ương (HNTU), trong đó quan trọng nhất là các HNTU 4, 5 và 6. Theo tính toán của Nguyễn Phú Trọng, sau một năm chuẩn bị cả mặt nhân sự lẫn tổ chức để củng cố quyền hành nên cuối năm 2011 ông đã triệu tập HNTU 4 (26-31.12.11) với mục tiêu là giải quyết „những việc cần làm ngay“, trong đó ưu tiên giải quyết dứt khóat vấn đề nhân sự ở cấp cao nhất. Tuy vào lúc đó Nguyễn Phú Trọng không nói thẳng ra, nhưng nhiều quan sát viên biết là ông muốn cô lập và loại Nguyễn Tấn Dũng. (i)  Vì trong thế giới quan cực kì bảo thủ CS như ông Trọng thì trong Đảng không thể có chỗ cho hai vua. Nếu tình trạng này được tiếp tục kéo dài sẽ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.


Trong hơn 6 năm dưới thời của Nguyễn Tấn Dũng vai trò của chính phủ ngày càng lấn át vị thế của Đảng. Đặc biệt Nguyễn Tấn Dũng đã biết lợi dụng việc chỉ huy các tập đoàn, tổng công ti nhà nước thành chỗ nuôi vây cánh; đồng thời dùng các dự án xây dựng các hạ tầng cơ sở, các khu công nghiệp và địa ốc do các nguồn tài trợ rất lớn mỗi năm hàng chục tỉ USD từ ODA và FDI  để mua chuộc bọn tham quan ở các tỉnh và thành phố.  Chỉ trong vài năm Nguyễn Tấn Dũng đã gây được thế lực rất mạnh ngay trong Trung ương đảng. Chả thế ông đã dám cho con trai còn rất trẻ nhẩy vào Trung ương đảng rồi nắm ghế Thứ trưởng bộ Xây dựng, con gái giữ vai giám đốc một công ti chứng khoán và địa ốc với sự hậu thuẫn của một ngân hàng quốc doanh rất lớn và người con trai út làm Ủy viên Trung ương Đoàn Thanh niên CSHCM. (ii)

Tính tham lam vô độ và thủ đoạn nham hiểm của ông Dũng làm chính bản thân ông Trọng đã trải qua nhiều kinh nghiệm đau đớn trong các năm sau này, khi ông thất bại liên tiếp một số lần trong việc buộc tội ông Dũng phải chịu trách nhiệm trong vụ Vinashin làm ăn thất thoát trên 86.000 tỉ đồng (4,5 tỉ USD) vào 2010. Mặc dù Bộ chính trị đã có „Kết luận“ ngày 6.8.2010:
„Vinashin đang gặp nhiều khó khăn rất lớn, bộc lộ nhiều yếu kém, sai phạm nghiêm trọng...Tình hình tài chính đứng trước bờ vực phá sản: Theo số liệu ban đầu, ước tính dư nợ hiện đang rất lớn, lên tới khoảng 86.000 tỉ đồng”(iii)

Khi đó Bộ chính trị còn nêu đích danh Chính phủ phải chịu trách nhiệm.  Và chính ông Trọng khi đó đã sử dụng tư cách Chủ tịch Quốc hội bắt Nguyễn Tấn Dũng phải ra điều trần và nhận trách nhiệm 24.11.2010 (xem phần sau). Nhưng sau đó vì muốn nhẩy lên ghế Tổng bí thư, nên ông Trọng đã phải tạm thời chấp nhận  thỏa hiệp ra một „Kết luận“ mới của Bộ chính trị theo cách hòa cả làng và tha bổng Nguyễn Tấn Dũng. Thật vậy, chỉ ba tháng sau Bộ chính trị lại ra „Kết luận“ ngày 8.11.2010:
„Căn cứ kết quả kiểm phiếu và theo quy định của Điều lệ Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân.“ (iv )

Tuy nhiên, ông Trọng không thể bỏ qua việc này, nên sau khi nắm chức Tổng bí thư ông bắt tay ngay vào việc tìm cách chấm dứt tình trạng một vua một chúa. Vì ông lạc quan tin rằng, nay với vai trò Tổng bí thư ông sẽ có đủ uy lực giải quyết thành công trong việc này. Cho nên khẩu hiệu trung tâm của HNTU 4 là „Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay“. Trong diễn văn khai mạc ngày 26.11.11 Nguyễn Phú Trọng báo động:
„Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin đối với Đảng. Vướng mắc chính là ở chỗ nào?(v)
5 ngày sau trong diễn văn bế mạc ngày 31.12.11 ông Trọng cảnh báo và đe dọa Trung ương đảng về tình trạng chia bè phái trong Đảng:
„Nếu Đảng ta không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên.“(vi)

Và ông Trọng tin rằng, giải pháp tự phê bình và phê bình (TPB&PB) là vũ khí sắc bén nhất để làm sạch Đảng, và chờ đợi những người có quyền lực cao nhất phải đi đầu làm gương:
„Ở đây, sự gương mẫu của Trung ương là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Từng đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tự giác, gương mẫu làm trước; tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình; cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa; tránh xa mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài; tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ tệ hại.(vii)

Từ các nhận định trên HNTU 4 đã ra Nghị quyết đề ra ba mục tiêu, trong đó mục tiêu đầu tiên coi thanh lọc hàng ngũ trong Đảng là công việc cấp bách nhất!:
„Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng. (viii)

Đồng thời đưa ra „4 nhóm giải pháp“, trong đó „nhóm giải pháp tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cấp trên và của người đứng đầu là giải pháp quan trọng nhất.“ (ix)

Vì tha hóa đạo đức, lối sống ích kỉ nên tệ trạng tham nhũng đã bộc pháp ngày càng bất trị. Do đó trong HNTU 4 ông Trọng đã xếp việc chống tham nhũng lên hàng đầu cần phải giải quyết. Đây là vấn đề bức xúc nhất trong xã hội mà cả trong đảng ngoài dân đâu đâu cũng ca thán. Ông chọn đúng mục tiêu đánh phù hợp với mong mỏi của quần chúng, nhưng không phải  là diệt tham nhũng thực sự. Vì nếu quả thực như thế thì ông Trọng đâu có đòi giữ độc quyền cho Đảng và vẫn để doanh nghiệp Nhà nước làm chủ đạo trong kinh tế. Bởi vì ông thừa biết chính hai cơ chế này là nguồn gốc của tham nhũng, mua chức chạy quyền. Nhưng ông Trọng vẫn giữ nguyên nó trong Cương lĩnh Chính trị 2011 mà chính ông là tác giả, mặc dù rất nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và cả nhiều cán bộ cấp cao đã can gián và chống đối. (x)

Do đó tại HNTU 4 khi giương cao ngọn cờ chống tham nhũng ông Trọng chỉ muốn gây thanh thế, dùng áp lực của dư luận để hạ Nguyễn Tấn Dũng, vừa là Thủ tướng và kiêm Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng. Đó là kế sách mượn gió bẻ măng, giương đông kích tây của Nguyễn Phú Trọng.  Chủ tâm này thể hiện càng rõ trong các việc làm tiếp theo của ông.

Sau khi phất cao ngọn cờ „chống tham nhũng“ trong HNTU 4, chỉ hai tháng sau Nguyễn Phú Trọng cho tổ chức Hội nghị Cán bộ toàn quốc với sự tham dự của trên 1000 cán bộ cao cấp kéo dài ba ngày từ 27. tới 29.2.12. Ông Trọng hãnh diện bảo đó là hội nghị lớn nhất từ trước tới nay của ĐCSVN. Tại đây ông dùng khẩu khí và ngôn ngữ điêu luyện của người đã từng mấy chục năm cầm đầu công tác tư tưởng và tuyên truyền để tìm cách đánh động lòng người, đi sâu vào tâm trạng của đảng viên, mong mở ra một cuộc chiến tranh tâm lí có lợi nhất cho mình. Vì thế trong diễn văn dài trên 12.000 chữ, ngay trong phần đầu nói về „bản thân Đảng“ ông Trọng đã dùng cách tả chân nhằm gây xúc động cho trên một ngàn cán bộ cao cấp cũng như nhân dân biết rõ mức cách biệt giầu nghèo và phân chia giai cấp sâu sắc ngay trong nội bộ đảng hơn 60 năm cầm quyền của chính ĐCS, và đặt câu hỏi làm liên tưởng tới thời kì Đảng chống địa chủ, phú hào trước đây hơn nửa thế kỉ:
“ Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu - nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? „(xi)

Thế rồi để tỏ ra là người dù đang nắm chức cao nhất nhưng vẫn giữ tấm lòng vô sản chân chính so với nhiều đại quan đã trở thành triệu phú Dollar, sống trong biệt thự và nhung lụa, ông Trọng còn tự đắc nhắc câu của L. Feuerbach :„ Người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh.“. Rồi ông lại mỉa mai và đe dọa, „Mai kia Đảng này sẽ là đảng của ai? (xii)

Sau khi khơi dậy tâm lí căm thù, ông Trọng đã tuyên bố phát động phong trào TPB & PB rộng lớn trong toàn Đảng vào thời gian tới. Ai sẽ là đối tượng của phong trào chỉnh đảng đã được ông Trọng nói rõ trong phần cuối diễn văn.  Đó chính đối thủ chính trị vẫn ngồi cạnh ông, dù bất lực nhưng lại chỉ lo thu vén cho gia đình:
„Cán bộ lãnh đạo…,đặc biệt là người đứng đầu“ „phải tự giác, gương mẫu làm trước“ „tự kiểm điểm, soi lại mình, đơn vị mình, gia đình mình“. (xiii)

Trong nguyên bản của diễn văn này chỉ ba chữ „gia đình mình“ đã cố tình cho in đậm nét. Như thế người cầm đầu chế độ và tác giả của diễn văn này đã muốn chiếu tướng ai, đe dọa ai trong phong trào TPB & PT vào các tuần tới thì ai cũng hiểu được! Như vậy ông Trọng đã cho mọi người biết lời giải đáp ông đã nêu ra trong diễn văn bế mạc HNTU 4: „Vướng mắc chính là ở chỗ nào?“

Trong việc chống tham nhũng và sự suy thoái đạo đức của cán bộ Nguyễn Phú Trọng tin rằng, chỉ thanh toán một số cán bộ ăn bẩn thì tự nhiên Đảng sẽ sạch và chế độ sẽ vững. Thật vậy như  trình bày ở phần trên, ông Trọng đã nhấn mạnh nhiều lần trong diễn văn, chống tham nhũng và chỉnh đốn Đảng không phải là giải tán ĐCS, mà chính là củng cố sự lãnh đạo toàn diện của đảng này:
„Thực tế ở nước ta cho thấy, càng đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập lại càng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng“.(xiv)

Và ông Trọng vẫn tự đắc quả quyết, „sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng VN“ và ngạo mạn nhấn mạnh thêm „trước kia đã như vậy, hiện nay đang như vậy và sau này cũng sẽ như vậy“.(xv)

Các nhận định trên cho thấy, Nguyễn Phú Trọng vẫn để tư tưởng cực kì bảo thủ và lạc hậu làm kim chỉ đạo hành động. Ông vẫn tin chủ nghĩa tư bản sẽ đến ngày rẫy chết :„Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc.“ (xvi) Và vẫn tin rằng, chủ nghĩa Tư bản không chống lại được sức mạnh của  „ba dòng thác cách mạng“, một học thuyết tuyên truyền của Liên xô (cũ) và  CS Trung quốc từ các thập niên 50, 60 của thế kỉ trước:
„Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội với các thế lực đế quốc cực đoan, hiếu chiến đang diễn ra dưới nhiều hình thức, sắc thái mới, rất quyết liệt.„(xvii)

Mặc dầu đứng đầu chế độ vào đầu Thế kỉ 21, nhưng tư duy của ông Trọng vẫn thụt lùi và  đóng khung như thời kì giữa Thế kỉ 20. Cho nên - như trong phần I đã trình bày- cũng trong dịp này đứng trước trên 1000 cán bộ cao cấp, Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh tới cái gương của ĐCS Trung quốc:
„Đảng Cộng sản Trung quốc trong cải cách, mở cửa cũng luôn luôn khẳng định dứt khoát phải kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, và trong những lần trao đổi với chúng ta, BẠN thường nhấn mạnh không để bị "Tây hóa", "tha hóa", "thoái hóa".“(xviii)

Như vậy thâm ý của Nguyễn Phú Trọng qua phong trào chỉnh đảng là nhằm hai mục tiêu, đó là loại trừ đối thủ chính trị ở cấp cao nhất và nhân danh Đảng để mở rộng quyền thống soái cho chính ông và vây cánh cho giai đoạn về sau này. Vì thế ông còn tập trung mũi tấn công cả trong thành phần đảng viên tiến bộ và trong hàng ngũ thanh niên, trí thức, văn nghệ sĩ yêu nước. Ông Trọng đã kết tội các đảng viên tiến bộ là những người đã „sám hối“, „trở cờ“, „tự diễn biến“.  Còn cuộc vận động dân chủ của các tầng lớp nhân dân thì Nguyễn Phú Trọng  khinh khỉnh, gọi là „diễn biến hòa bình“(xix)  (xem phần III).

Cho tới lúc đó Nguyễn Phú Trọng vẫn đinh ninh rằng, ông có thể chỉ cần dựa vào thành phần bảo thủ, mà ông tin là vẫn còn nắm chủ động trong Đảng, và tận dụng sức mạnh của hệ thống báo chí mà phe ông đang nắm giữ thì có thể tạo một  dư luận áp đảo cô lập và loại trừ được vài đối thủ chính trị ở cấp  cao, đặc biệt là Nguyễn Tấn Dũng. Cho nên ông đã lạc quan cho là, Hội nghị Cán bộ toàn quốc cuối tháng 2.12 đã tạo được một tâm lí hồ hởi và hi vọng cả trong Đảng lẫn ngoài xã hội ủng hộ cuộc chỉnh đảng của ông.

 Điều này làm ông Trọng đã tự tin và mạnh dạn đi thêm một bước. Cho nên tại HNTU 5 (7.-15.5.12) ông đã thành công trong việc tước một phần quyền của Nguyễn Tấn Dũng bằng cách chấm dứt nhiệm vụ của ông Dũng  trong chức Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng. (xx) Nhưng thay vì biết lắng nghe ý kiến của nhiều giới khuyên nên để cho Ban mới này được độc lập để chống tham nhũng hữu hiệu, Nguyễn Phú Trọng đã nhân cơ hội này thừa thắng giành cầm đầu Trưởng ban mới và tái lập Ban nội chính Trung ương để giúp ông trong việc này, đồng thời ép Quốc hội ra một đạo luật chống tham nhũng mới nửa người nửa ngợm. [xem phần III]. Không những thế, trong HNTU 5 Nguyễn Phú Trọng còn chính thức cho khai triển giải pháp TPB&PB được ông coi nó là phương pháp hữu hiệu trong việc làm sạch Đảng và còn hồ hởi quyết định để Bộ chính trị và BBT đi tiên phong trong việc này.

Chỉ ba tháng sau Nguyễn Phú Trọng lại cho triệu tập Hội nghị Cán bộ toàn quốc mới (13.8.12) để hồ hởi tường thuật phương pháp và kết quả ông đã thực hiện  bắt các Ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư trong nhiều đợt đã TPB&PT suốt 21 ngày trong hai tháng 7 và 8. (xxi) Tại Hội nghị này Nguyễn Phú Trọng còn tìm cách siết kỉ luật và linh thiêng hóa cuộc chỉnh đảng do ông lãnh đạo, bằng cách lên giọng ra chỉ thị „toàn Đảng đang bước vào thời kì rất thiêng liêng và hệ trọng“. (xxii) Tuy là người vô thần, nhưng Nguyễn Phú Trọng vẫn phải dùng từ „linh thiêng“ để mong đánh động tâm lí và uy hiếp tinh thần cán bộ, đặc biệt bọn tham quan ở các vị trí then chốt. Vì ông nắm bắt được tâm lí của cán bộ tham nhũng các cấp đi lễ thần thánh để cầu tài, cầu quan nườm nượp về đền Trần vào đầu mỗi năm, dùng cả xe công!

Với cách chuẩn bị và những bước đi bài bản như vậy nên Nguyễn Phú Trọng tin rằng, thời gian đã chín mùi cho việc hạ bệ đối thủ trong Đảng. Vì thế ông đã cho tổ chức HNTU 6 và tin rằng, nó sẽ là cao điểm chiến thắng chính trị của ông. Hội nghị kéo dài suốt 15 ngày từ 1. tới 15.10.12 và được coi là một trong vài hội nghị dài nhất từ trước tới nay của ĐCS. (xxiii)  Một trong những trọng tâm chính của HNTU 6 là Bộ chính trị công bố kết quả TPB&PB trong hai tháng 7 và 8 và để Trung ương „thảo luận và cho ý kiến về kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân Bộ chính trị, Ban bí thư.“ Chỉ riêng đề tài này đã chiếm trọn 1/3 thời gian của HNTU 6.

Trong HNTU 6 ông Trọng đã vạch ra những sai lầm và thất bại trong lãnh vực kinh tế, tài chánh của Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng:
„Áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn còn lớn. Thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp; nợ xấu ngân hàng ở mức cao; tăng trưởng tín dụng thấp; hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ phần thiếu minh bạch, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; lãi suất ngân hàng vẫn còn quá cao so với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán vẫn chưa được cải thiện; thị trường vàng còn nhiều biến động. Các đề án tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại còn có nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện“ (xxiv)

Không chỉ kết án những sai lầm và thất bại của người cầm đầu Chính phủ, Nguyễn Phú Trọng còn kết tội sự tha hóa đạo đức, tinh thần vô trách nhiệm và suy tính ích kỉ, gia đình và phe nhóm của ngay nhiều cán bộ cao cấp đương quyền. Tuy không nêu trực tiếp tên người cầm đầu Chính phủ, nhưng đoạn dưới đây trong diễn văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng đã cho thấy ông Dũng là trọng tâm trong tầm bắn của ông Trọng:
„Việc một số cán bộ cao cấp (cả đương chức và nguyên chức) có lúc, có việc còn biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó. Chưa tập trung chỉ đạo làm rõ, đánh giá đầy đủ thực chất tình hình để kịp thời có biện pháp kiên quyết khắc phục một số tiêu cực (như chạy chức, chạy quyền, chạy tội...) và một số trường hợp phân công, đề bạt cán bộ chưa chính xác, chưa được dư luận đồng tình. Trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết và kết luận của Trung ương, nhất là về doanh nghiệp nhà nước, còn lúng túng, buông lỏng; kiểm tra, giám sát không chặt chẽ, dẫn đến một số tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước (điển hình là Vinashin, Vinalines) hoạt động kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất lớn, để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Một số hạn chế, khuyết điểm, chưa được làm rõ thực chất, mức độ, địa chỉ cụ thể, ai phải chịu trách nhiệm, như tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm…“ (xxv)

Mặc dầu đem tất cả uy tín để tấn công dồn dập và mạnh bạo như vậy, nhưng vào ngày cuối với đa số rất lớn HNTU 6 đã bác bỏ đòi hỏi phải có biện pháp kỉ luật với Nguyễn Tấn Dũng. Chính việc này ông  Trọng phải nhìn nhận. Vào cuối Hội nghị trong tư cách đứng đầu Bộ chính trị, ông đã yêu cầu Banh chấp hành Trung ương quyết định kỉ luật với Bộ chính trị, đặc biệt là „một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị“:
„Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị. (xxvi)

Tuy ông Trọng không nói tên ra, nhưng người mà ông đã từ lâu muốn ra tay trừng trị là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng thật là bất ngờ cho Nguyễn Phú Trọng, đa số ủy viên Trung ương đảng đã bác bỏ lời yêu cầu của Nguyễn Phú Trọng:
„Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị „(xxvii)

Những người am hiểu tình hình ĐCS cho biết, đây là lần tiên Trung ương đảng đã dám chống cả Tổng bí thư lẫn Bộ chính trị.  Như thế sẽ hiểu được tại sao, qua màn ảnh truyền hình, khi đọc tới đoạn trên Nguyễn Phú Trọng đã „nghẹn ngào“ như muốn khóc. Giữa khi ấy Nguyễn Tấn Dũng ngồi ở hàng đầu lại nheo mắt cười mũi. (xxviii)

Trong Đảng và ngoài xã hội đều biết sau hơn 6 năm cầm đầu chính phủ, Nguyễn Tấn Dũng là Thủ tướng tồi tệ về tư cách, thất bại trong các lãnh vực kinh tế tài chánh, chỉ lo thu vén cho gia  đình và xây dựng bè nhóm. Giữa tháng 1 vừa qua phía Chính phủ đã phải nhìn nhận, chỉ riêng lãnh vực các tập đoàn và tổng công ti Nhà nước dưới quyền chỉ tuy của Nguyễn Tấn Dũng đã tạo ra món nợ khủng khiếp lên tới 60 tỉ USD, tức khoảng trên một nửa ngân sách quốc gia trong năm qua. (xxix) Không những thế, it nhất ông Dũng đã hai lần lừa đối Quốc hội, nhân dân và đảng viên với những lời hứa nhận trách nhiệm về những sai lầm và thất bại trong việc lãnh đạo các doanh nghiệp Nhà nước các năm vừa qua. Lần thứ nhất, trong vụ Vinashin, ngày 24.11.2010….trong tư cách là Thủ tướng, ông Dũng đã công khai xin lỗi:
.„Là người đứng đầu Chính phủ, tôi xin nhận trách nhiệm về những hạn chế yếu kém nêu trên của Chính phủ. „ (xxx)

Và ông Dũng còn long trọng hứa trước Quốc hội:
„Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình là phải thực hiện tốt nhất chức trách nhiệm vụ được giao, tập trung sức thực hiện có kết quả Kết luận chỉ đạo của Bộ Chính trị“. (xxxi)

Nhưng chỉ một năm sau (8.12.11)  Nguyễn Tấn Dũng đã phủ nhận lời xin lỗi và nhận trách nhiệm của mình:
"Xảy ra chuyện như Vinashin, cuối cùng Thủ tướng đứng ra nhận trách nhiệm. Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai".(xxxii)

Lần thứ hai là trong dịp cao điểm của phong trào chỉnh đảng với TPB&PB mới đây. Ngày 22.10.12 ông Dũng cũng ra Quốc hội xin lỗi:
„Với trọng trách là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, tôi nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn của người đứng đầu Chính phủ và xin thành thật nhận lỗi trước Quốc hội, trước toàn Đảng, toàn dân về tất cả những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành, nhất là những yếu kém, khuyết điểm trong kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; một số tập đoàn, tổng công ty, điển hình là Vinashin, Vinalines, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất và hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt, ảnh hưởng lớn đến uy tín và vai trò của kinh tế nhà nước. „ (xxxiii)

Nhưng chỉ 3 tuần sau, ngày 14.11.12 Nguyễn Tấn Dũng đã phủ nhận trách nhiệm cá nhân và đổ lỗi cho tập thể Bộ chính trị và cho Đảng:
„Đảng lãnh đạo trực tiếp tôi, hiểu rõ về tôi, Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Đảng đã phân công tôi tiếp tục làm nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội bỏ phiếu bầu tôi làm Thủ tướng Chính phủ thì tôi sẵn sàng chấp nhận và hoàn thành nghiêm túc mọi quyết định của Đảng, của Quốc hội“  (xxxiv)
Hai lần xin lỗi, rồi hai lần phủ nhận lời xin lỗi của mình, qua đó ông Dũng đã tự bộc lộ bản chất tráo trở, không còn biết tự trọng của một người cầm đầu chính phủ!

Chính vì thế, thất bại thê thảm của Nguyễn Phú Trọng trong việc không thuyết phục được Trung ương đảng ra kỉ luật với Nguyễn Tấn Dũng trong HNTU 6 đã làm bất bình và thất vọng rất lớn trong thành phần đảng viên. Trong cuộc tiếp xúc cử tri ở Hà nội vào 1.12.12 Nguyễn Phú Trọng đã phải nghe lời trách móc của TS Trần Viết Hoàn, nguyên giám đốc khu di tích Bác Hồ tại Phủ chủ tịch:
„ Dân chúng tôi căm giận những người tham nhũng, quan liêu đến cực điểm, nên dân chúng tôi lo cho nghị quyết trung ương 4 của Đảng, lo cho Luật phòng chống tham nhũng, nếu làm không kiên quyết, không triệt để thì nó lại về như cũ mà còn tồi tệ hơn. Việc phê bình, tự phê bình vừa qua gần như hòa cả làng. Gần như không thấy ai tốt, ai xấu, chẳng thấy bộ phận không nhỏ suy thoái đâu cả. Trên các văn bản vẫn là những điệp khúc muôn thuở.  (xxxv)

***
Câu hỏi ở đây là, tại sao Nguyễn Tấn Dũng đã đi vào những sai lầm và thất bại nghiêm trọng như vậy, nhưng Nguyễn Phú Trọng vẫn bị Nguyễn Tấn Dũng quật ngược lại ngay tại HNTU 6?

Sau ba HNTU và hai Hội nghị Cán bộ toàn quốc với nhiều thủ đoạn khác nhau, nhưng ông Trọng vẫn không thuyết phục được các Ủy viên Trung ương đứng về phía mình, ngược lại đa số rất lớn trong Trung ương đảng đã từ chối yêu cầu thi hành kỉ luật với ông Dũng. Sự kiện rõ ràng nhất là các ủy viên trong Bộ chính trị vài khóa về sau này đều như cá mè một lứa, không một nhân vật nào có uy tín và khả năng trội bật, chỉ là sống lâu lên lão làng và biết nhịn, biết nín! Nguyễn Phú Trọng cũng ở trong trường hợp này. Vì trong cuộc họp báo đầu tiên trong tư cách tân Tổng bí thư ông đã xác nhận cho tới ngày chót vẫn chưa biết ai sẽ làm Tổng bí thư. (xxxvi)

Cả trong cuộc bầu các Ủy viên Trung ương và Bộ chính trị khóa 11 ông Trọng cũng đạt được số phiếu rất thấp. Nhiều đảng viên không tin vào khả năng của ông Trọng là có cơ sở. Vì suốt gần hai thập niên có chân trong Bộ chính trị, trước khi nắm chức Tổng bí thư ông Trọng đã đảm nhiệm nhiều chức vụ quan  trọng, từ Bí thư Thành ủy Hà nội, Trưởng ban Tư tưởng trung ương (nay là Ban Tuyên giáo), Chủ tịch Hội đồng lí luận trung ương và Chủ tịch Quốc hội. Nhưng trong tất cả các chức vụ quan trọng này ông Trọng đã không tạo được một thành tích đặc biệt nào. Trái lại, tuy bề ngoài giữ phong độ giản dị, nhưng ông đã để lại các ấn tượng rất xấu trong Đảng cũng như ngoài xã hội về lập trường chính trị của ông: Nguyễn Phú Trọng là người CS cực kì giáo điều, rất thần phục Bắc kinh, đàn áp trí thức và coi thường nhân dân! Như vậy, ngoài uy tín thấp, ông Trọng lại chỉ tin vào cánh bảo thủ trong Đảng và mạt sát đảng viên tiến bộ, một bộ phận ngày càng lớn mạnh.

Sự thất bại thê thảm của Nguyễn Phú Trọng trong HNTU 6 chứng minh rằng, ông Trọng đã rất chủ quan và thiếu tầm nhìn, không thấy được hai việc: 1. Chủ trương duy trì độc đảng đồng thời để Kinh tế thị trường định hướng XHCN với việc để cho các tập đoàn và tổng công ti nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong hai thập niên vừa qua, nhất là dưới thời Nguyễn Tấn Dũng, khiến cho bọn tham quan như cá gặp nước tự do vùng vẫy. Vì thế bọn tham quan đã chiếm ưu thế ngay trong Trung ương đảng, từ các cơ quan then chốt trong đảng, các bộ trong chính phủ tới các cơ quan thành ủy, tỉnh ủy cả nước. Do đó trong HNTU 6 họ đã bảo vệ nhau và gạt yêu cầu kỉ luật với Nguyễn Tấn Dũng. 2. Trong tình hình như vậy thì giải pháp TPB&PT mà ông Trọng tin tưởng và thực hiện trong thời gian qua chỉ như cách gãi ghẻ đối với bọn tham quan. Nay ông Trọng –ví như một bác sĩ- phải nhìn thấy rằng, lần này món thuốc TPB&PB được ông coi là thần dược dù đã được ông cho con bệnh dùng liều lượng tới mức tối đa (qua việc các ủy viên trong Bộ chính trị và BBT phải trải qua mấy tuần và nhiều đợt TPB&PB, các Hội nghị Cán bộ toàn quốc và các HNTU), nhưng cuối cùng bệnh còn trầm trọng hơn. Chính vì thế Nguyễn Phú Trọng đã tâm sự về nỗi sợ hãi bị bọn tham quan trả thù: “kỷ luật mà không tính kỹ thì lại rối, mai kia là ân oán, thù hằn, đối phó, thành phe phái, rối nội bộ."(xxxvii)  Lời nhìn nhận thất bại của người cầm đầu chế độ toàn trị đã cho thấy, sức mạnh của quyền-tiền đã đốt cháy đạo đức, bán đứng lương tâm; lợi ích nhóm  và nạn sứ quân đang tung hoành ngay trong các cơ quan đầu não của chế độ toàn trị!

Chính vì vậy, những lời thề  sắt đá „linh thiêng“, „hệ trọng“ kèm theo những lời đe dọa đanh thép suốt từ HNTU 4 (12.2011) tới HNTU 5 (5.12), rồi hai  Hội nghị Cán bộ toàn quốc (2.12 và 8.12) và cả những cuộc họp TPB&PT ở các cấp cao nhất là Bộ chính trị và Ban bí thư kéo dài mấy tuần lễ kèm cả chồng hồ sơ dầy mấy trăm trang vạch tội bọn quan tham nhũng, bất tài, vô trách nhiệm và chỉ biết lo thu vén gia đình-đứng đầu là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cuối cùng không làm ai sợ và cũng chẳng thuyết phục được đa số trong Trung ương đảng. Vì thế HNTU 6 (10.12) phải coi là một cao điểm thất bại nghiêm trọng trong việc chỉnh đảng của Nguyễn Phú Trọng sau hai năm làm Tổng bí thư! Nó hoàn toàn đi ngược lại những kì vọng của Nguyễn Phú Trọng  đã tuyên bố trong ngày bế mạc  HNTU 4 (31.12.2011):
„Nếu Đảng ta không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên.“ (xxxviii)

Vì thế, thay vì tiến tới đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự kình chống lẫn nhau ngay trong Bộ chính trị đã tới mức không còn coi nhau ra gì và công khai tấn công và chửi bới lẫn nhau. Vì thất bại đau đớn, bị phe của ông Thủ lột mặt nạ ngay tại HNTU 6 khiến ông Trọng trở thành Tổng ngố. Cho nên chỉ vài ngày sau HNTU 6 ông Trọng đã hằn học đe dọa „chưa phải là xong“. Còn Chủ tịch nước đã nhạo báng gọi Nguyễn Tấn Dũng là „đồng chí X“ và khuyên ông Dũng „không đủ uy tín thì nghỉ, ở làm gì nữa“ và còn thách đố "Nếu chúng ta hèn nhát thì làm đơn gửi cho Đảng chúng ta nghỉ, chúng ta rút lui đi để cho những người dũng cảm làm việc". (xxxix)

Hiện nay tình trạng sứ quân, một triều đình có hai  vua nhiều chúa đã trở thành công khai. Sau khi cho nổi lửa cao ngất trời như hỏa diệm sơn nhưng chẳng thiêu được quan tham nào và bị tắt ngóm trong HNTU 6, nay phe ông Trọng đang tự an ủi đi kiếm củi để „nhóm lò“ lại. (xl) Như ông đã mời Bí thư tỉnh ủy Đà nẵng Nguyễn Bá Thanh –người nổi tiếng được coi là dám nói dám làm (?) - ra Hà nội làm Trưởng ban Nội chính trung ương, một Ban vừa được tái lập để giúp Nguyễn Phú Trọng trong công tác chống tham nhũng. (xli) Nhưng ông Thanh chưa ngồi nóng ghế Trưởng ban mới thì giữa lúc ông Trọng thăm Âu châu, Nguyễn Tấn Dũng đã vội vã tố cáo công khai Thành ủy Đà nẵng dưới thời của Nguyễn Bá Thanh đã có những  sai lầm trong chính sách đất đai và gây thiệt hại cho công quĩ cả hàng ngàn tỉ đồng (xlii). Qua đó cho thấy, ông Dũng đã công khai coi thường người cầm đầu chế độ, tìm cách bẽ gẫy những quyết định và tính toán của ông Trọng. Giữa khi đó trong cuộc phỏng vấn đầu năm, khi hỏi về thất bại trong việc thực thi Nghị quyết Trung ương 4 mà cao điểm là HNTU 6, Trương Tấn Sang nay bảo là, „không lùi bước, không thể không làm“ và „không nên chán nản!“ (xliii)

Như vậy thật là rõ ràng, toàn Đảng và nhân dân đang chứng kiến tận mắt từng ngày những người có quyền lực cao nhất, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng, đang xô đẩy Đảng và Chính phủ chống lẫn nhau rất kịch liệt. Thay vì tập trung tâm trí và sức lực vào việc giải quyết những khó khăn kinh tế, canh tân đất nước, tạo ấm no hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước sự thôn tính của Bắc kinh thì họ lại đang dùng tiền bạc của nhân dân qua tiền đóng thuế và lợi dụng các cơ quan nhà nước để lập phe nhóm chống đối và thanh toán lẫn nhau rất tàn bạo và tồi tệ!

(Xin theo dõi phần III: Nội trị: Đàn áp trí thức, thanh niên và coi thường nhân dân)

25.1.2013


Lưu Tường Quang / Tú Anh - Nhật Bản: Chiến lược 'an ninh dân chủ kim cương' đối phó với Trung Quốc



Lưu Tường Quang / Tú Anh
(RFI)

Sau chiến lược « tái định vị » của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương và « hướng đông » của Ấn Độ, Nhật Bản thông báo chính sách « hướng nam » mà thủ tướng Shinzo Abe gọi là « Chiến lược An ninh Dân chủ Kim cương » tăng cường vòng vây án ngữ Trung Quốc.


Thủ tướng Shinzo Abe phát biểu trước Quốc Hội Nhật Bản. - Reuters

Sau nửa thế kỷ tự kềm trong chính sách hiếu hòa, Nhật Bản bắt đầu chuyển mình để đảm nhận vai trò của một đại cường kinh tế và quân sự. Trong thông điệp 31/01/2013 gửi Quốc hội, tân thủ tướng Shinzo Abe thông báo ông muốn « tu chính bản Hiến pháp » được soạn thảo dưới sức ép của Hoa Kỳ sau đệ nhị thế chiến, ngăn cấm Nhật Bản vĩnh viễn không được sử dụng đến chiến tranh.

Tân thủ tướng Nhật mong muốn xây dựng một chiến lược địa chính trị mới « hướng nam » và được đặt tên là « An ninh Dân chủ Kim cương » liên kết tất cả những quốc gia từ Ấn Độ kéo dài xuống Đông Nam Á và đến tận Úc. Tất cả những quốc gia này có cùng một mối quan ngại chung là bị sức mạnh quân sự của Trung Quốc đe dọa.

Để có thể chủ động trong thế phân tranh Washington-Bắc Kinh, chiến lược « an ninh dân chủ kim cương » được Tokyo xây dựng với bốn quốc gia dân chủ trụ cột là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc. Tuy không nói ra, nhưng đối tượng nằm trong tầm nhắm của vòng đai này là Trung Quốc

Chỉ trong vòng một tháng cầm quyền, thủ tướng Nhật liên tục có một loạt động thái chinh phục cảm tình các quốc gia trong vùng Thái Bình Dương từ Úc , Ấn, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam.

Đầu tháng giêng, thủ tướng Nhật chọn Hà Nội để thăm viếng đầu tiên, và sau đó sang Thái Lan và Indonesia. Tại Jakarta, ông thông báo « 5 điểm cơ bản chỉ đạo bang giao ». Cùng lúc đó, phó thủ tướng Taro Aso sang Miến Điện và ngoại trưởng Fumio Kishida đi Úc, Brunei , Philippines và Singapore.

Giới phân tích quốc tế gọi đây là chiến lược « định vị hướng nam ». Trong bài báo cùng tên trên AsiaTimes, nhà phân tích Richard Javal Heydarian nhấn mạnh về một chuỗi sự kiện cụ thể : Tokyo đang được tăng cường quan hệ quân sự với Washington, gia tăng ngân sách quốc phòng, hào phóng cung cấp 12 tàu chiến và 10 tàu đổ bộ cho Philippines, xem xét khả năng bán tầu ngầm tối tân Soryu cho Úc và Việt Nam.
Vì sao chiến lược « trỗi dậy » của Nhật Bản được đặt tên là « dân chủ kim cương » ?

Trong thế trận đối phó với Trung Quốc, phải chăng đây là một cơ hội cho Đông Nam Á và Việt Nam ?

 RFI đặt câu hỏi với nhà phân tích Lưu Tường Quang từ Sydney.

« Chính sách an ninh dân chủ kim cương có thể coi đó là phản ứng chiến lược của Nhật Bản đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc đặc biệt là về quân sự đã trở thành một mối đe dọa cho nhiều nước trong vùng kể cả Nhật Bản và Việt Nam. Trong những năm cuối thế kỷ 20 thì Nhật Bản cũng trỗi dậy nhưng sự trỗi dậy hòa bình của Nhật không đem lại căng thẳng trong vùng. Trái lại, vào đầu thế kỷ 21, sự trỗi dậy của Trung Quốc về kinh tế và quân sự tạo ra căng thẳng đến mức Tổng thống Obama đã thực hiện chính sách «tái định vị » tại châu Á Thái Bình Dương và Ấn Độ đã theo đuổi một cách tích cực hơn cái chính sách gọi là « Hướng Đông ». Bây giờ có thêm chính sách mới từ Nhật Bản là « chính sách kim cương về an ninh và dân chủ ». Điều này cho thấy lực đối trọng từ Hoa Kỳ, Nhật và Ấn Độ đã bắt đầu hình thành…

Ông Shinzo Abe đã trình bày khái niệm « an ninh dân chủ kim cương » lần đầu tiên vào năm 2007 khi ông đi thăm quốc hội Ấn Độ với tư cách thủ tướng Nhật. Ông trình bày khái niệm về sự giao thoa giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương mà ông cho rằng có nhiều điểm chung về hòa bình, ổn định, tự do lưu thông hàng hải. Nhưng ông cũng lập luận là khi Trung Quốc coi 85% Biển Đông là « đại hồ » của Trung Quốc thì điều này gây tai hại cho giao thương hàng hải. Đến tháng 12/2012, trước bầu cử quốc hội tại Nhật, ông Shinzo Abe đã phổ biến bài tham luận của ông dưới cái nhan đề « An ninh Dân chủ Kim cương » tại châu Á.
Trong cốt lõi ông nói rằng thái độ xác quyết của Trung Quốc tại biển Hoa Đông và Hoa Nam đã tạo ra cái « ưu tiên » cho chính sách ngoại giao của Nhật Bản và Nhật Bản phải mở rộng tầm nhìn chiến lược . Cũng theo ông Abe, Nhật Bản là một cường quốc hàng hải và dân chủ trưởng thành nên cái sự lựa chọn chiến lược của Nhật cũng phản ảnh thực tế đó : bốn nước Úc Ấn Mỹ và Nhật hợp thành một chuỗi kim cương bảo vệ tài sản chung của nhân loại, bảo vệ tự do giao thông hàng hải trong khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương…

Thật ra cái khung hợp tác chiến lược đã được thực hiện từ lâu ở cấp tam cường Mỹ-Nhật-Úc và ở cấp song phương với các hiệp ước an ninh chung giữa Mỹ- Nhật hay Mỹ-Úc …do vậy chiến lược mới sẽ được hình thành nhanh chóng…

Tháng Giêng 2013, trong chuyến công du Việt Nam, Thái Lan và Indonesia , thủ tướng Shinzo Abe trình bày tại Indonesia 5 nguyên tắc gọi là Hướng dẫn chỉ đạo bang giao giữa Nhật Bản và các quốc gia trong vùng mà nguyên tắc thứ nhất là « quý trọng những giá trị đại đồng về dân chủ và nhân quyền », thứ hai là « coi trọng tự do thông thương hàng hải », thứ ba là « tạo một hệ thống phát triển kinh tế và thương mại chung », thứ tư là « duy trì phát triển truyền thống văn hóa châu Á và thứ năm là « trao đổi giới trẻ ». Năm điểm này không gây vấn đề gì (cho các nước Đông Nam Á ) trừ điểm thứ nhất « tôn trọng dân chủ nhân quyền » có thể gây ra những khó khăn giữa Tokyo và Hà Nội…. »


Việt-Long - Canh bài “phóng hỏa tiễn - thử hạt nhân" của Bắc Hàn



Việt-Long, RFA


Khi người dân trong chế độ “ngu dân” này từ hơn 60 năm nay đã mù quáng tin tưởng vào chính quyền đến mức đó, mà vẫn chỉ thấy đói kém, thì lãnh đạo không còn cách nào khác hơn là phải tiến tới, dấn tới, đánh tới đồng tiền cuối cùng trong ván bài nguy hiểm này.


Hỏa tiễn Unhab-3 rời giàn phóng hôm 12 tháng 12, 2012 - salon.com photo

Bị trừng phạt, càng làm liều

Tình hình Đông bắc Á sôi động lên sau khi Bắc Hàn, hôm 12 tháng 12, phóng hỏa tiễn đưa vệ tinh nặng gần 100 kg lên quỹ đạo trái đất, thực chất là thử nghiệm thành công hỏa tiễn đạn đạo liên lục địa.

10 ngày sau Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã biểu quyết tuyệt đối đồng thuận với toàn thể 15 phiếu, chấp thuận nghị quyết trừng phạt Bắc Hàn. Lần này Trung Quốc cũng đồng lòng nhất trí với toàn thể Hội đồng Bảo An về nghị quyết lên án và gia hạn cấm vận, nhưng phản đối biện pháp cấm vận nghiêm ngặt thêm nữa.

Lần này Trung Quốc không những đứng chung lập trường với quốc tế mà còn hành động cứng rắn hơn trước đây, khi Bình Nhưỡng tuyên bố sẽ nổ thử nghiệm bom hạt nhân lần thứ ba. Báo Trung Quốc Global Times cho biết Bắc Kinh có thể sẽ cắt giảm viện trợ nếu Bắc Hàn không hủy bỏ vụ nổ hạt nhân. Trung Quốc có cùng quyền lợi và mối quan tâm với các quốc gia châu Á Thái Bình Dương về nguy cơ Bắc Hàn có vũ khí hạt nhân; Bắc Hàn lại chứng tỏ có phương tiện để phóng trái bom hạt nhân ấy tới được tận giữa lãnh thổ Hoa Kỳ, nghĩa là có thể đánh vào bất cứ tọa độ nào ở Trung Quốc, Liên Bang Nga, Nhật Bản, Nam Hàn, cùng tất cả các thành phố và quốc gia nằm trong bán kính gần 10 ngàn km tầm xa của hỏa tiễn. Dù là đồng minh và nước đỡ đầu giúp đỡ Bắc Hàn trong lúc kiệt quệ nhất, Trung Quốc và các nước kế cận Bắc Hàn và những nước nằm trong tầm hỏa tiễn liên lục địa của họ không thể nào yên tâm đối với một quốc gia mà hành vi không thể đoán trước.

Công luận quốc tế cho rằng vụ phóng thành công đã nâng vị thế của chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong-Un trên trường quốc tế. Nhưng vị thế được nâng lên cách nào khi người lãnh đạo chứng tỏ Bắc Hàn vẫn mang nhân cách của một quốc gia “Chí Phèo”, đói ăn vụng túng làm liều? Càng bị áp lực giải thể vũ khí hạt nhân thì càng ngang nhiên tăng cường võ trang, và công khai hóa, không cần dấu diếm ý định chế tạo vũ khí hạt nhân.
Trước đây khi lãnh tụ Kim Jong-Il còn trị vì thì Bình Nhưỡng còn nói quanh về ý định chế tạo bom hạt nhân, mà nay đến ông con là Kim Jong-Un, người mà quốc tế và Hoa Kỳ từng đặt hy vọng sẽ đem đến thay đổi cho Bắc Hàn, lại càng dấn sâu vào con đường hiếu chiến.
Dường như lãnh tụ Kim J


Phóng đồ giả định tầm hoạt động tối đa của hỏa tiễn Unhab-3 trên đất Hoa Kỳ- RFA Google map sketch

ong-Un và các tướng lãnh Bắc Hàn cảm thấy bị dồn vào đường cùng khi Bình Nhưỡng vẫn bị Liên Hiệp Quốc cấm vận, trừng phạt kinh tế triền miên. Quốc tế không thể hòa hoãn hơn khi Bắc Hàn vẫn không xuống thang, không nhượng bộ, lại còn đòi hỏi hơn trước.

Có thể đó là đường lối do Kim Jong-Un quyết định, hay là bị thúc đẩy do giới tướng lãnh xưa nay vẫn theo chính sách diều hâu do chính lãnh tụ tiền nhiệm Kim Jong Il đào tạo cho họ. Nhưng lần này Bắc Hàn đã sai lầm khi nhất quyết dấn tới trong hành động thách thức quyết tâm của Hoa Kỳ và quốc tế.
Bần cùng sinh đạo tặc?

Phải chăng Bình Nhưỡng đã ở vào vị thế không lùi lại được nữa? Giới lãnh đạo trong gia đình nhà họ Kim từ Kim Il-Sung qua Kim Jong-Il đến Kim Jong-Un ngày nay luôn luôn động viên người dân và giáo dục quần chúng Bắc Hàn về sức mạnh quân sự như một tài sản và vốn liếng đòi hỏi của Bắc Hàn, đến mức người dân tin chắc rằng đó một công cụ đe dọa hữu hiệu để bắt buộc quốc tế phải viện trợ, phải nhượng bộ.

Khi người dân trong chế độ “ngu dân” này từ hơn 60 năm nay đã mù quáng tin tưởng vào chính quyền đến mức đó, mà vẫn chỉ thấy đói kém, thì lãnh đạo không còn cách nào khác hơn là phải tiến tới, dấn tới, đánh tới đồng tiền cuối cùng trong ván bài nguy hiểm này. Trong khi đó vốn liếng của họ chỉ là vũ khí hạt nhân chưa thành tựu, và vài chiếc hỏa tiễn lẻ tẻ có thể bắn tới nước Mỹ nhưng con đường kỹ thuật còn rất xa để Bắc Hàn chế tạo được một trái nổ hạt nhân, rồi làm cho trái nổ đó nhỏ lại vừa tầm đầu đạn hạt nhân để gắn vào hỏa tiễn mà vẫn giử nguyên hiệu quả nổ. Chưa kể phi đạn nhắm tới Mỹ chắc chắn sẽ bị bắn rơi trong khoảng từ lúc rời giàn phóng đến lúc chưa được ¼ quỹ đạo đến Hoa Kỳ.

Tuy nhiên Bắc Hàn vẫn dương dương tự đắc vì loại hỏa tiễn đạn đạo vừa được cho là thí nghiệm thành công có tầm xa hơn 6 ngàn 200 dặm tức là khoảng 10 ngàn km; nếu ta vẽ một đường bán kính 10 ngàn km từ tâm điểm là bờ biển phía đông của Bắc Hàn thì ta sẽ thấy vòng cung tầm hoạt động của chiếc-phi-đạn-còn-lâu-mới-có đó bao phủ toàn bộ lãnh thổ Canada, 4/5 Ngũ đại hồ, qua hết các tiểu bang Iowa, Kansas, New Mexico, đến tận vịnh California và bán đảo Baja California của Mexico. Trọn một nửa tây bắc của lãnh thổ Hoa Kỳ và góc tây bắc của Mexico nằm trong tầm ngắm của vũ khí hạt nhân từ Bắc Hàn, tất nhiên bao gồm trọn tiểu bang California của Mỹ. Từ đó Bắc Hàn cho là vốn liếng của họ có thể đe dọa được Hoa Kỳ.
Trước hết về mặt kỹ thuật liên quan đến quỹ đạo hỏa tiễn và khí động học không chắc hỏa tiễn từ Bắc Hàn có thể bay theo đạn đạo về hướng đông, như vừa phác họa trên bản đồ, để tới một nửa nước Mỹ, trong lúc kỹ thuật đầu nổ hạt nhân của Bắc Hàn vẫn chưa “ra ngô ra khoai” thế nào cả. Nhưng dù vậy Bắc Hàn vẫn tự tin trong hoang tưởng và cho đó là mối đe dọa đối với Hoa Kỳ khiến Mỹ phải nhượng bộ.


Phòng chỉ huy phóng hỏa tiễn - KCNA photo

Từ sự hoang tưởng, “thừa thắng xông lên”, Bình Nhưỡng ồn ào tung tin sẽ thí nghiệm trái nổ hạt nhân. Hội đồng quốc phòng dưới quyền lãnh đạo của Kim Jong-Un chính thức tuyên bố nguyên văn:
“Chúng tôi không dấu diếm rằng nhiều lọai vệ tinh và hỏa tiễn tầm xa sẽ được Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều tiên phóng liên tiếp cái nọ sau cái kia, và một cuộc thí nghiệm hạt nhân cấp cao sẽ được nước này thực hiện trong hành động tổng thể sắp tới, một giai đoạn mới trong cuộc tranh đấu chống Mỹ mà đã kéo dài từ thế kỷ này sang thế kỷ nọ, sẽ nhắm vào Hoa Kỳ, kẻ thù truyền kiếp của nhân dân Triều Tiên”.

Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta nói ông không thấy dấu hiệu nào từ bên ngoài là Bắc Hàn sẽ sớm nổ thử nghiệm hạt nhân, nhưng họ vẫn tỏ ra đang chuẩn bị. Hình ảnh vệ tinh theo dõi căn cứ Punggye-ri cho thấy nhân viên Bắc Hàn hoạt động như đang bít kín cửa một đường hầm đã đào sâu vào chân núi, là nơi các chuyên viên cho nổ thử nghiệm trái nổ hạt nhân ở đáy đường hầm, chống sức nổ tàn phá và phần lớn phóng xạ phát tán.

Tuy nhiên các chuyên gia về hạt nhân và động đất của Nam Hàn cho biết khó phân biệt một vụ nổ hạt nhân thật với vụ nổ cực mạnh bằng chất nổ quy ước để giả làm vụ nổ hạt nhân. Người ta không loại trừ giả thuyết Bắc Hàn sẽ làm vụ nổ giả để đe dọa thế giới.

Vai trò của Trung Quốc

Nhiều người không tin Bình Nhưỡng sẽ tung hết vốn liếng vào canh bạc nguyên tử này. Nếu họ tung cạn vốn thì thật là một điều dại dột, mà người ta cho rằng giới lãnh đạo Bắc Hàn không phải những kẻ dại dột như vậy. Theo cung cách hành xử xưa nay, thường thì Bắc Hàn cứ tỏ ra sẵn sàng tố hết láng, nhưng sẽ chưa vội bỏ ra hết tiền vốn. Bắc Hàn cũng sẵn sàng làm vụ nổ giả để lừa gạt người dân của họ dù có thể không lừa được thế giới.

Lý do là, một phần như đã nói, họ đã tự đưa mình vào đường cùng không thể thoái lui trước mặt người dân Bắc Hàn, nên phải ra vẻ như làm tới cùng để mong được Mỹ nhượng bộ đôi chút. Trong khi đó tin của hãng UPI dẫn nguồn tin ngoại giao từ Bắc Kinh cho biết một số viên chức cao cấp của Trung Quốc sẽ đi Bắc Hàn để thuyết phục Bình Nhưỡng bỏ ý định nổ thí nghiệm bom hạt nhân. Và có nhiều cơ may Bắc Hàn sẽ nghe theo lời Trung Quốc.

Như vậy người ta có thể thấy Bắc Hàn xuống thang, sau khi các viên chức Trung Quốc đi Bình Nhưỡng. Nhưng liệu Hoa Kỳ có thể nghe theo đề nghị của Trung Quốc và có hành động để đổi lấy việc Bắc Hàn xuống thang vũ khí hạt nhân hay không?

Hoa Kỳ khó lòng nhượng bộ nhanh chóng như vậy. Hiện tại ta thấy Hoa Kỳ tỏ ra rất tự tin, tin rằng áp lực quốc tế sẽ khiến Bắc Hàn lùi bước.

Mặt khác, không nhanh chóng nhượng bộ nhưng Hoa Kỳ trước nay vẫn tỏ ra sẵn sàng hòa hoãn, chỉ cần Bắc Hàn có một hành động cụ thể để tỏ thiện chí trong việc từ bỏ kế hoạch vũ khí hạt nhân.

Người ta cũng thấy vai trò của Trung Quốc lần này rất có giá trị. Trung Quốc đã tỏ ra có thái độ cư xử của một nước lớn có trách nhiệm đối với những vấn đề quốc tế. Tuy nhiên thái độ của Trung Quốc có nhằm để trao đổi một cái gì đó với Mỹ và Nhật Bản hay không thì vẫn là một dấu hỏi. Riêng việc Bắc Hàn thì có thể Trung Quốc, bằng đòn bẫy viện trợ, sẽ thuyết phục được Bắc Hàn trở lại bàn hòa đàm 6 bên ở Bắc Kinh sau khi Bình Nhưỡng hoãn lại cuộc thí nghiệm bom hạt nhân.

Lời khuyến cáo của Trung Quốc về giảm viện trợ cho Bắc Hàn có nhiều cơ may đem lại hiệu quả. Bắc Hàn cũng có một lý do chính đáng để tỏ ra nghe lời nước đồng minh vĩ đại trụ cột của mình, tỏ ra có thiện chí hòa hoãn với thế giới.


Dân Bắc Hàn nhày múa mừng phóng hỏa tiễn thành công- KCNA photo

Song song, chế độ “Chí Phèo” ở Bình Nhưỡng cũng có thể sẽ không ngần ngại làm ra một vụ nổ nguyên tử giả trong đường hầm núi ở Punggye-ri để lừa dân trong nước, trong sự thỏa thuận ngầm với Trung Quốc và qua Trung Quốc trấn an thế giới về ý đồ bất hảo của họ. Sau đó Bắc Hàn vẫn có thể nói với dân rằng họ trở lại bàn hòa đàm 6 nước Bắc Kinh trong thế mạnh nhờ hỏa tiễn và bom hạt nhân.

Đó là lúc sau khi Hoa Kỳ và Hàn quốc có một hành động chính trị và nhân đạo tượng trưng nào đó, theo sự thỏa thuận và sắp đặt của Trung Quốc.


Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Lê Trung Thành - Tái cơ cấu Vinashin – Thành hay bại???


Lê Trung Thành

Theo kế hoạch, ngày hôm nay, 28-1-2013, Chính phủ sẽ bắt đầu trình lên Bộ Chính trị đề án tái cơ cấu mới (lần thứ hai) Tập đoàn Vinashin. Tại sao lại phải “tái cơ cấu” đến lần thứ hai? Thế thì kết quả của tái cơ cấu lần thứ nhất trong hai năm qua của cái “Tập đoàn thép”… rỉ này như thế nào? Đấy là những câu hỏi mà bất kỳ ai từng theo dõi với tất cả ưu tư “sự cố dông bão Vinashin” cũng như số phận hiểm nghèo hiện tại của nó không thể không đặt ra. Chưa thấy báo chí nào có được một lời giải đáp thỏa đáng. Dưới đây BVN xin đăng bài viết của cộng tác viên Lê Trung Thành, kỹ sư và nhà báo trong ngành giao thông vận tải, người từng có cả một hệ thống bài phóng sự chấn động trên trang mạng chúng tôi về thực trạng của Tập đoàn đóng tàu Vinashin trong những năm tháng danh nổi như cồn của nó cho đến giữa năm 2010.Bauxite Việt Nam

Tháng 6/2010, những tin tức đầu tiên về sự đổ vỡ của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (VINASHIN – VNS) xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm dư luận xã hội xôn xao và lo lắng…

Tới ngày 31/7/2010, sau khi nghe Ban Cán sự Đảng Chính phủ các ngành chức năng báo cáo, Bộ Chính trị đã có văn bản chính thức về tình hình VNS và chỉ đạo Chính phủ, các bộ liên quan khẩn trương tìm biện pháp cứu vãn VNS bên bờ vực phá sản với số nợ 86.000 tỷ đồng, trong đó, nợ đến hạn phải trả là 14.000 tỷ đồng, tỉ lệ nợ tính trên vốn chủ sở hữu gấp 11 lần… Theo chỉ thị này, Chính phủ phải đưa ra kế hoạch tái cơ cấu VNS trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị trung ương 3 (Khóa IX) về thí đỉểm mô hình tập đoàn kinh tế đồng thời thành lập Ban Chỉ đạo tái cơ cấu VNS và cử ông Nguyễn Sinh Hùng – khi đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng thường trực – làm Trưởng ban. Ngày 18/11/2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định số 2108 QĐ – TTg phê duyệt đề án tái cơ cấu VNS với ba ngành nghề chính là công nghiệp đóng tàu, sửa chữa tàu biển với qui mô phù hợp, tiếp tục phát triển công nghiệp phụ trợ và đào tạo, nâng cao tay nghề cho cán bộ, công nhân ngành đóng tàu.

Cũng trong thời gian ấy, nhiều nhân vật chính, liên quan đến sự sụp đổ của VNS đã bị bắt tạm giam, nhiều người khác bị đưa vào “tầm ngắm”. Để mau chóng ổn định tình hình, Thủ tướng điều động ông Nguyễn Ngọc Sự – nguyên Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (phụ trách tài chính) – giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên VNS và ông Trương Văn Tuyển –  Anh hùng Lao động, nguyên Trưởng ban Quản lý dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất, nguyên Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam – làm Tổng Giám đốc VNS.

Đưa hai ông về trấn giữ VNS đang lúc nước sôi, lửa bỏng, người ta hy vọng các vị thuyền trưởng mới sẽ xắn tay trục vớt được con tàu VNS chìm sâu dưới đáy… Và, ít tháng sau, văn phòng Tập đoàn VNS thay đổi khá nhiều vị trí, dưới các Tổng Công ty thành viên cũng có sự điều chuyển một số người đứng đầu nhằm củng cố lại tổ chức đang rệu rã sau những biến cố động trời làm nhân tâm ly tán…

Ngoài việc điều chuyển một số dự án, nhà máy, đội tàu biển sang Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), thực chất là để san sẻ gánh nặng lỗ lã, nợ nần, thất thoát mà VNS đã gây ra, Chính phủ hứa sẽ tăng vốn điều lệ cho VNS… để hà hơi, tiếp sức, khẩn cấp cứu nguy cho VNS. Có chút vốn còm cõi cấp cho các nhà máy đóng tàu thanh toán lương, nợ đọng nhiều tháng, có tiền chi trả đơn hàng, vật tư, thiết bị để hoàn thành một số tàu đang đóng dở dang. Thu được một chút kết quả nhỏ nhoi, nhiều quan chức lớn tiếng vỗ về dân chúng rằng tái cơ cấu VNS đã đi đúng hướng và sau một vài năm sẽ trả hết nợ nần rồi làm ăn có lãi vào năm 2013, 2014…

Trong bầu không khí “lạc quan”, Ban Chỉ đạo tái cơ cấu VNS và các tân lãnh đạo tập đoàn đưa ra một bản kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2011 với sản lượng 22.763 tỷ đồng, tăng 198% so với năm 2010! Chính phủ giao cho VNS năm 2011 phải hoàn thành 73 tàu… và tiếp tục giải cứu VNS bằng mọi cách. Nào là yêu cầu Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) cho VNS vay không lãi suất tới 290 tỷ đồng để trả nợ lương và đóng bảo hiểm xã hội, nào là khoanh nợ, giãn nợ khiến nhiều ngân hàng thua lỗ vì phải trích quĩ dự phòng rủi ro, ảnh hưởng lớn tới uy tín và hoạt động kinh doanh của họ. Điển hình là, trong tổng số nợ xấu của VDB tính đến ngày 30/12/2010 là 22.664 tỉ đồng thì có tới 3970 tỉ mà VDB đã cho VNS vay không để thu hồi. Còn Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) vì cho VNS vay hơn 3.000 tỷ đồng không phát sinh lợi nhuận (trong tổng số dư nợ xấu là 3729 tỷ đồng) đã phải ngậm ngùi xóa một thương hiệu có tiếng về quản trị và văn hóa doanh nghiệp sáp nhập vào Ngân hàng cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB). Đau xót hơn, bà Tổng giám đốc Habubank kiêu hãnh một thời bị đưa xuống bộ phận “thu hồi công nợ” của SHB!

Mặc dù được ưu ái vay không lãi suất, hoãn nộp thuế nhập khẩu vật tư, thiết bị, được “bật đèn xanh” để dễ dàng vay vốn ngân hàng… nhưng VNS vẫn không gượng dậy như mong muốn.

Sự dao động, hoang mang kéo dài khiến người lao động sống trong cảnh tạm bợ, lắt lay, việc làm không ổn định gây tâm lý chán chường. Nhiều kỹ sư giỏi, được đào tạo bài bản cũng tìm tháo thân khỏi VNS. Hết 8 tháng đầu năm 2011, VNS chỉ giao trả khách hàng được 13 tàu, báo hiệu cho sự đổ vỡ lớn “cái kế hoạch” vội vàng và thiếu khoa học mang nặng tính hình thức, duy ý chí. Để trám vào lỗ hổng, người ta “phát động thi đua”, dồn dập ngày đêm cố sức làm và bàn giao được 61 con tàu. Dẫu có cố gắng nhưng VNS chỉ hoàn thành 43.9% kế hoạch năm với sản lượng 9.982 tỷ đồng và doanh thu đạt 10.656 tỷ đồng, chỉ bằng 50% kế hoạch năm.

Thực tế phũ phàng ấy không biết liệu đã là hồi chuông cảnh tỉnh những người lãnh đạo Tập đoàn và cả Ban Chỉ đạo tái cơ cấu VNS chưa, nhưng ít nhất cũng cho họ thấy rõ những khó khăn chồng chất từ hậu quả kinh hoàng của số nợ 96.700 tỷ đồng (theo số liệu của Thanh tra Chính phủ công bố tháng 6/2011); lỗ lũy kế là 4.985 tỷ, lỗ “tìêm tàng” do chi phí sản xuất kinh doanh dang dở của những hợp đồng đóng tàu bị hủy là 2.787 tỷ và 4.688 tỷ là các khoản thu nội bộ nhưng chưa xác định được bên phải trả (?) và 1.036 tỷ tiền phạt và trả lãi cho các chủ tàu do VNS vi phạm hợp đồng. Những thất thoát cực lớn này khiến nhiều ngân hàng vốn liều mạng mở hầu bao cho VNS tiêu phí các năm trước, bây giờ cũng chùn tay, vì vậy, năm 2011, VNS chỉ vay được khoảng 15% số vốn cần thiết nên kế hoạch đóng tàu bị đảo lộn hoàn toàn. Số tàu đóng mới cho Tổng Công ty Hàng hải ViệtNam hầu như giậm chân tại chỗ vì Vinalines cũng thua lỗ nặng nề lấy tiền đâu mà chuyển cho VNS?

Sang năm 2012, lãnh đạo VNS có vẻ “khiêm nhường” hơn nên chỉ đưa ra kế hoạch sản lượng tăng 10 – 15% so với sản lượng thực hiện được trong năm 2011 nhưng bản thân ông Chủ tịch Hội đồng thành viên VNS Nguyễn Ngọc Sự, đã thấy trước việc không có hợp đồng đóng mới thì chẳng có chuyển biến gì đáng kể. Và sự thật đã chứng minh, hồi giữa năm 2012, VNS nín thở chờ tin gói hợp đồng đóng mới hơn 20 tàu 53.000 DWT từ Hy Lạp… nhưng rồi… các nhà thầu Trung Quốc đã nhanh tay chộp mất với giá chào hạ hơn VNS. Giữa thời buổi vận tải biển suy thoái, kiếm được hợp đồng dẫu chỉ đủ sở hụi cũng là may mắn rồi. Do vậy, nhiều hãng đóng tàu sẵn sàng giảm giá để có việc làm.

Đối với VNS, năm 2012 là một năm khốn khó nhất, cộng 9 tháng đầu năm, sản lượng mới đạt hơn 1.500 tỷ và đến hết năm chỉ nhặt nhạnh thêm vài ba trăm tỷ nữa. Cả tập đoàn “hợp nhất” sản lượng mà chỉ đạt xấp xỉ một trăm triệu đô la Mỹ đã làm tiêu tan mọi hy vọng của mục tiêu chủ yếu nhất trong kế hoạch tái cơ cấu. Nó cũng dẫn tới hệ lụy cho các năm tiếp theo còn lún sâu vào khó khăn. Không có việc làm là không còn đội ngũ thợ trung thành nữa, không còn khả năng trả lãi, trả gốc những khoản nợ đang dần đến hạn, đặc biệt là khoản vay 750 triệu USD trái phiếu Chính phủ phải trả đầu năm 2016.

Làm cả năm không đủ nuôi nhau, lấy tiền đâu tích lũy mà trả lãi, nói gì đến trả nợ gốc quá lớn như vậy???

Câu trả lời còn ở phía trước nhưng cách duy nhất sẽ lại lấy công khố thanh toán nợ cho VNS để giữ thể diện quốc gia?

Kế hoạch tái cơ cấu VNS năm 2011-2013 đã đi được hai phần ba chặng đường nhưng kiểm điểm lại, chẳng có mục tiêu nào đạt! Ông Phạm Viết Muôn, Phó Văn phòng Chính phủ, bây giờ về Ban Đổi mới sắp xếp doanh nghiệp nhà nước từng công bố, hơn hai năm qua, Ban Chỉ đạo tái cơ cấu VNS đã có 80 cuộc họp và ban hành 200 văn bản liên quan đến Tập đoàn VNS. Về mặt hành chính, đây là một số liệu đáng nể vì bình quân, một tháng có 4 cuộc họp hay một tuần một lần họp và theo đó, một tháng có 9 văn bản, mỗi tuần có hơn 2 văn bản. Vậy mà VNS vẫn chìm nghỉm dưới đáy sâu. Làm sao vực lên được khi công việc đóng tàu, sửa chữa tàu ở các nhà máy chủ lực nổi danh như Bạch Đằng, Phà Rừng, Hạ Long, Nam Triệu, Bến Kiền… im ắng (may mắn nhất, chỉ có nhà máy đóng tàu Sông Cấm liên doanh với Tập đoàn Damen – Hà Lan. Họ lo vật tư, tiền vốn, thiết bị… và Sông Cấm “làm công, ăn lương”, nên thu nhập của người lao động ổn định nhưng tính theo giá trị sản lượng thu về cho VNS chẳng được là bao).

Hải Phòng, Quảng Ninh – căn cứ chính của VNS, nơi nhiều dự án ngốn hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng mới triền đà từ bảy tám chục ngàn tấn đến một trăm ngàn tấn – mở rộng nhà máy thêm hàng chục hecta, và để phát triển nóng ngành công nghiệp phụ trợ, VNS vội vã đầu tư nhà máy nhiệt điện, nhà máy cán thép… cùng hàng loạt khu công nghiệp ở Nam Định, Hải Dương, Quảng Ninh. Vốn chẳng dồi dào, lại chia năm, xẻ bảy, đã vậy các chủ đầu tư móc nối với nhà thầu, khoản thì mua thiết bị cũ nát, khoản thì đút túi… nên lúc khủng hoảng, hầu hết nằm bất động. Người ta cứ tự trấn an mình bằng luận điệu “VNS không thất thoát, tài sản còn “nguyên vẹn” đấy chứ?”. Nếu có dịp ghé thăm “Khu công nghiệp VNS Cái Lân”, mới thấy xót xa vì nhiều nhà máy đã “khánh thành”, đã cho “mẻ thép” đầu tiên, đã cho dòng điện đầu tiên, giờ nằm xếp xó, cả ngàn tỷ đồng thành đống sắt vụn… chào bán mãi đâu thấy người mua.

Về tới Thủy Nguyên – Hải Phòng nơi VNS chôn nhiều tiền nhất dưới đáy sông, đáy biển thì mới cảm nhận rõ nhất về sự “không thất thoát” bởi những bãi cọc khổng lồ, bởi những cột bê tông trơ thép hoen gỉ, bởi những khung nhà xưởng phơi trong mưa nắng và những triền đà mốc meo. Chúng “trơ gan cùng tuế nguyệt” biết tới khi nào sẽ “sinh lợi” cho các ông chủ ở Nam Triệu, Phà Rừng, Bạch Đằng???

Ngay cả Nhà máy đóng tàu Dung Quất đã chuyển giao cho Tập đoàn Dầu khí cũng chẳng khấm khá hơn dù ông chủ mới có tiềm lực mạnh gấp mấy lần VNS. Hiện tại, khu triền đà thứ hai dang dở vẫn mênh mông nước, và khu nhà máy đầu tư bằng trăm triệu USD vay của Trung Quốc vẫn là mấy dãy nhà hoang lạnh, ngoài sân cỏ mọc lút đầy. Ông chủ mới chỉ khai thác triền đà thứ nhất, đóng xong tàu chở dầu trọng tải 104.000 DWT nhưng đến nay, con tàu trị giá 1200 tỷ chưa hoạt động vì còn thiếu nhiều loại giấy chứng nhận đăng kiểm. Chủ tàu PV Trans phải bỏ thêm 4 triệu USD cho nhà máy mua thiết bị bổ sung từ Hàn Quốc… Hiện nay, nhà máy tiếp tục cố đóng cho xong tàu chở dầu 105.000 DWT để hoán cải thành kho chứa dầu nổi trên mặt biển. Chi phí hoán cải tăng thêm 20 triệu USD. Đến năm 2014 nếu đóng xong tàu này là hết việc. Hai, ba năm rồi, cũng chưa ký được hợp đồng đóng mới nào. Thỉnh thoảng, có vài ba tàu kéo, xà lan… của ngành dầu khí vào sửa chữa. Những kỳ vọng đóng tàu hơn trăm ngàn tấn, sửa chữa tàu tới ba, bốn trăm ngàn tấn mà VNS theo đuổi tan thành mây khói. 


Đóng tàu lớn làm gì để đến nông nỗi này? Ảnh: LTT

Khi đang hưng thịnh, tiền vay dễ dàng, VNS như thỏi nam châm cực mạnh hút hết đám doanh nhân xu thời, chạy chọt các cửa để doanh nghiệp của họ được gắn mác Vinashin. Mấy trăm con cháu sinh sôi nảy nở trong vài ba năm mang đủ màu sắc, nhưng khi vỡ nợ mới thấy VNS buôn thương hiệu nhiều hơn là góp vốn thực. Tuy nhiên, đám cháu con chẳng phải tay vừa, chúng cũng tranh thủ lợi dụng VNS đục nước, béo cò, gây bao hậu quả khôn lường. Ông Nguyễn Ngọc Sự đã hy vọng sẽ nhanh chóng sớm giải quyết dứt điểm 216 doanh nghiệp này. Hồi ấy, ông lạc quan tuyên bố rằng VNS đầu tư vào 216 doanh nghiệp số vốn 23.000 tỷ đồng. Ông sẽ lấy lại số tiền đó trả nợ thì tổng nợ còn 53.000 tỷ. Ông sẽ cổ phần hóa, ông sẽ bán các loại vật tư, thiết bị tồn kho… lấy thêm mười mấy ngàn tỷ nữa. Số nợ sẽ còn lại chừng 40 ngàn tỷ. Số nợ này so với số vốn đăng ký kinh doanh là 14.650 tỷ đồng thì chỉ gấp 2,8 lần, nó còn dưới mức giới hạn cho phép. Và, ông có thể kiểm soát được công nợ rồi!

Sau hơn hai năm chấp chính, kế hoạch của ông nhích từng… centimet. Nhiều doanh nghiệp kêu bán nhưng không mấy người để tâm. Thứ có thể bán được thì đến chính ông cũng không dám duyệt… Thứ muốn giải thể, xin phá sản thì không đủ vốn điều lệ… Bao nhiêu thủ tục rắc rối, phiền hà khiến VNS gần như chịu bó tay.

Các doanh nghiệp ăn theo còn tồn tại thì Tập đoàn vẫn còn phải gánh vác trách nhiệm mặc dù từ khi tiến hành kế hoạch tái cơ cấu VNS, đám cháu con không còn nơi bấu víu nhưng cũng không thể rũ bỏ ngay vì nhiều nguyên nhân phức tạp.

Hơn nửa năm nay, Ban Chỉ đạo tái cơ cấu VNS cùng lãnh đạo Tập đoàn VNS lập kế hoạch tái cơ cấu mới hay còn gọi là tái cơ cấu lần hai. Nhiều phương án được lập ra, lúc thì giữ lại 8-9 nhà máy, lúc giữ lại hơn chục nhà máy, lúc cho mất chữ “tập đoàn” để đưa về Bộ Giao thông Vận tải quản lý như một tổng công ty… Riêng nhân lực của ngành đóng tàu, họ chỉ muốn giữ lại trên dưới mười ngàn người, có nghĩa là, trên dưới hai mươi ngàn cán bộ, công nhân khác sẽ phải rời khỏi VNS. Giải quyết chế độ lương bổng, bảo hiểm xã hội… cho hai chục ngàn người giữa lúc VNS đang thảm bại toàn diện là điều không tưởng. Những đồng tác giả kế hoạch tái cơ cầu lần hai đang trông chờ vào Bộ Chính trị nghiên cứu và có quyết định cuối cùng vào quý I- 2013.

Nội dung của kế hoạch tái cơ cấu lần hai kéo giãn thời gian phục hồi VNS tới năm, ba năm nữa và tiếp tục nuôi hy vọng phát triển ngành đóng tàu với mục tiêu “phù hợp” với thực tế hơn, bớt sự hoang tưởng so với kế hoạch tái cơ cấu lần thứ nhất.

Tại sao phải có kế hoạch lần hai? Đó là vì, cả ba mục tiêu của kế hoạch lần thứ nhất đã bị phá sản. Mà nguyên nhân như một chuyên gia cũ của VNS đã viết; “họ áp dụng một hệ thống pháp luật còn nhiều khiếm khuyết để giải quyết cái vô pháp luật là điều không khả thi, không thực tế”.

Đã vậy, những người đi trục vớt tàu đắm mà đuổi hết thuyền viên cũ, rủ rê một đám bạn “có vấn đề” ở nơi khác, cả đời chưa trèo lên tàu bao giờ, chỉ thu phục đám cơ hội trong các thuyền viên cũ thì thất bại là chắc chắn!

Một điều nữa, cần nhắc lại là: “VNS không đủ năng lực đóng tàu thương mại, không có khả năng đóng tàu đúng tiến độ và có lãi. Như vậy, VNS không có năng lực cạnh tranh!”. 

“Nhìn về tương lai đầy nước mắt…”, VNS tồn tại như thế nào nếu vẫn còn những người lãnh đạo ôm ấp tư duy thủ cựu để tự huyễn hoặc mình và ru ngủ dư luận xã hội! 

L.T.T. 
Nguồn: Bauxite Việt Nam


Đồng Phụng Việt - Đừng bảo Đảng hèn!




Facebook Đồng Phụng Việt

Vài năm nay, mỗi khi bàn về Đảng trong tương quan giữa “ta” và “địch”, giữa “trong” và “ngoài”, người ta thường khái quát rằng, Đảng “hèn với giặc, ác với dân”. 


Mình không đồng tình với lối khái quát này. Đã khái quát thì cần chuẩn xác về bản chất. Theo mình, khái quát, Đảng “hèn với giặc, ác với dân”, chỉ đúng ở vế sau (ác với dân). Có nhiều lý do để mình tin vế đầu (hèn với giặc) là sai.

Nếu hiểu hèn là biết nhưng không dám nói những điều nên nói, hoặc không dám làm những điều cần làm thì Đảng không hèn! Cho rằng Đảng hèn có thể là một ngộ nhận hết sức tai hại.

1.

Sự kiện gần nhất khiến nhiều người khẳng định Đảng “hèn với giặc” là chuyện cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh, đưa hài cốt của anh từ Nghĩa trang liệt sĩ huyện Cao Lộc, Lạng Sơn, về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Hàm Rồng, Thanh Hóa.

Liệt sĩ Lê Đình Chinh vẫn được xem là người lính Việt Nam đầu tiên hy sinh trong cuộc xung đột giữa Việt Nam với Trung Quốc, chấm dứt giai đoạn “mối tình hữu nghị sáng như rạng đông”. 

Xem lại vài tài liệu, đối chiếu chúng với thực tế, mình tin rằng, sở dĩ, hồi đó, Đảng đề cao liệt sĩ Lê Đình Chinh, vì Đảng vừa cần một lời “đính chính”, để người Việt không xem quan hệ giữa Đảng với Trung Quốc theo kiểu “Bên ni biên giới là mình. Bên kia biên giới cũng tình quê hương” như trước nữa, vừa cần một biểu tượng, động viên người Việt chống lại “bọn bành trướng”. 

Chỉ hai tháng sau ngày bị kẻ thù sát hại (26/8/1978), liệt sĩ Lê Đình Chinh đã được Đảng phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” (31/10/1978), một kỷ lục hiếm có về thời gian xét – tặng danh hiệu này. 

Khoảng ba tháng sau ngày liệt sĩ Lê Đình Chinh được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”, hôm 17/2/1979, Trung Quốc xua quân tràn qua biên giới, đòi “dạy cho Việt Nam một bài học”.

Một thập niên sau, khi quan hệ giữa Đảng với Trung Quốc đã được “bình thường hóa”, Đảng quyết định dẹp bỏ biểu tượng Lê Đình Chinh. Bài hát “Chúng tôi là đồng đội của Lê Đình Chinh” thôi không được phát, không được diễn nữa. Sách giáo khoa với những bài viết về Lê Đình Chinh, hoặc phê phán “bọn bành trướng” mang “tham vọng bá quyền” cũng bị thu hồi. Song song với việc dẹp bỏ biểu tượng Lê Đình Chinh, Đảng bắt đầu tiến trình phi tang tất cả những gì có liên quan đến giai đoạn xung đột với Trung Quốc. Hàng chục ngàn người lính Việt Nam hy sinh ở biên giới phía Bắc từ 1979-1988, ở biên giới Tây Nam và chiến trường Campuchia từ 1977-1989, không những không được nhắc đến, mà bia tưởng niệm, bia ghi công cũng bị đục bỏ, các nghĩa trang liệt sĩ hoang tàn, vắng lạnh... 

Ngặt là Đảng muốn “lặng” nhưng Trung Quốc không “ngừng”, thực tế quan hệ Việt -Trung rõ ràng là càng ngày càng khác “tinh thần bốn tốt” và “16 chữ vàng”. Càng ngày càng có nhiều người tỏ ra phẫn nộ trước thái độ, cách hành xử của Đảng đối với Trung Quốc, cũng như sự bạc bẽo đối với những người đã hy sinh cả trong cuộc chiến chống Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, lẫn cuộc chiến liên quan đến Trung Quốc ở biên giới phía Tây Nam... 

Khi những giọt nước mấp mé miệng ly thì xuất hiện chuyện tổ chức cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh. 

Mình không tin việc tổ chức cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh là chuyện ngẫu nhiên, phát xuất từ thiện ý. Nếu mình không lầm, từ lúc quan hệ giữa Đảng với Trung Quốc được “bình thường hóa” cho tới bây giờ, đây là lần đầu tiên, hệ thống truyền thông mới đồng loạt loan tin cải táng một liệt sĩ, hy sinh trong cuộc chiến chống Trung Quốc, bảo vệ tổ quốc. 

“Kịch bản” cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh không đạt hiệu quả “xoa dịu dư luận” là điều nằm ngoài dự trù. Vì liệt sĩ Lê Đình Chinh vốn là biểu tượng của giai đoạn chống sự xâm lược của Trung Quốc nên việc cải táng, đưa hài cốt của anh về an táng tại quê nhà thu hút sự chú ý của nhiều người và mọi người dễ dàng phát hiện, hệ thống truyền thông đã không dám gọi tên, chỉ mặt kẻ thù.

Trong vụ này, mình tin Đảng chủ động tổ chức sự kiện để xoa dịu dư luận và thất bại là do… đạo diễn dở chứ Đảng không hèn! Đảng nói gì, làm gì cũng có chủ định.

2.

Trước sự kiện cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh một chút, có một sự kiện khác, xảy ra hồi cuối tháng 11 năm ngoái, cũng được nhiều người xem như bằng chứng về chuyện Đảng “hèn với giặc”. Đó là vụ cáp của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam bị đứt, khi đang chuẩn bị khảo sát đáy biển khu vực Vịnh Bắc bộ.

Lúc đầu, hệ thống truyền thông loan tin cáp của tàu Bình Minh 02 bị đứt là do tàu của Trung Quốc “cắt”, sau đó, hệ thống truyền thông đột ngột sửa tình tiết “cắt” trong sự kiện này thành… “làm đứt”. “Cắt” tất nhiên là cố ý – khó có thể chấp nhận, còn “làm đứt” thì có thể do vô tình và có thể… thông cảm, bỏ qua. 

Mục kích hệ thống truyền thông đồng loạt loan báo tàu Trung Quốc “cắt” cáp tàu Bình Minh, rồi đồng loạt sửa “cắt” thành “làm đứt”, nhiều người tiếp tục nhận định Đảng hèn, mình vẫn tin Đảng không hèn. Bằng chứng? Phát biểu của ông Nguyễn Thế Kỷ - Phó Ban Tuyên giáo Trung ương, trong cuộc họp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin Truyền thông, với lãnh đạo các cơ quan truyền thông, được tổ chức chừng mươi ngày sau sự kiện cáp của tàu Bình Minh 02 đứt, do trang web Ba Sàm công bố (1), cho thấy, Đảng tìm mọi cách để kiềm chế sự phẫn nộ của người Việt trước những hành động càng lúc càng càn rỡ của Trung Quốc, để người Việt đừng phản đối, đừng biểu tình, chứ Đảng đâu có hèn! 

Trong cuộc họp vừa đề cập, ông Kỷ bảo rằng, việc hệ thống truyền thông “bất tuân thượng lệnh”, loan báo sự kiện tàu Bình Minh 02 bị tàu Trung Quốc “cắt” cáp đã khiến những ngày cuối của tuần đó, cả công an lẫn quân đội phải “căng lực lượng ra, để ngăn chặn, ngăn cản tụ tập đông người” vì “nếu mà số người tụ tập quá đông thì sẽ bất lợi, thậm chí là có thể đảo chiều, cho an ninh chính trị và trật tự xã hội”.

Mình tin ông Kỷ đã nói rất thật về một sự thật, đó là, Đảng không ngại Trung Quốc! Đảng chỉ sợ sự phẫn nộ, thất vọng của người Việt về Đảng lên tới cực đại. Nếu điều đó xảy ra, Đảng sẽ không còn cơ hội duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” như trước nay nữa. 

3.

Sau các cuộc biểu tình phản đối những hành động ngang ngược của Trung Quốc, vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông, thực tế cho thấy, Đảng đã làm nhiều chuyện để hóa giải dư luận Đảng “hèn với giặc”. 

Các cuộc thi (thi viết, thi ảnh, thi hùng biện), triển lãm (hình ảnh, tài liệu, hiện vật) về biển, đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam, các cuộc vận động (đóng góp tài chính, hỗ trợ vật chất – tinh thần cho những người lính đang trấn giữ biển, đảo), được tổ chức vừa rộng rãi từ trung ương tới địa phương, vừa rầm rộ hướng đến tất cả các giới. Các bài viết có tính chất phê phán Trung Quốc, thông tin mua sắm vũ khí và phương tiện chiến tranh để phòng vệ trên biển – những chủ đề vốn thuộc loại cấm kỵ - xuất hiện ngày một nhiều trên hệ thống truyền thông chính thống. Tất cả những nỗ lực khác thường ấy đều xuất hiện sau tháng 12 năm 2007 – thời điểm xảy ra cuộc biểu tình đầu tiên chống Trung Quốc đụng tới biển Đông của người Việt - và chúng tỷ lệ thuận với các cuộc biểu tình chống Trung Quốc sau đó.

Quan sát thực tế và trò chuyện với nhiều người, mình có cảm giác rằng, những nỗ lực khác thường của Đảng trong thời gian vừa qua để hóa giải dư luận Đàng “hèn với giặc”, rõ ràng là có tác dụng nhất định, đặc biệt là với cán bộ, đảng viên và công an, quân đội. Trong chừng mực nào đó, vì cảm thấy hình như Đảng chưa hèn tới mức đáng ngại cho tiền đồ của tổ quốc, lợi ích của dân tộc, nhiều người tiếp tục “tọa thủ bàng quan”, đứng ngoài cuộc, tiếp tục để mọi thứ cho “Đảng lo”, giống như các thế hệ cha, anh đã từng chấp nhận để “Đảng lo” theo kiểu: “Bắt phanh trần phải phanh trần. Cho may ô mới được phần may ô”! 

Đảng, tất nhiên, luôn muốn như vậy và làm mọi cách để được như vậy nên không ngại xuống tay ngăn chặn, trấn áp, thậm chí bắt giam, kết án bất kỳ ai tự phát cổ vũ cho sự thật vốn dĩ hiển nhiên: “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”. Nhìn lại lịch sử Đảng, mình tin ai cũng có thể dễ dàng nhận ra rằng, Đảng không bao giờ chấp nhận bất kỳ hình thức tự phát “tụ tập quá đông” nào có thể gây “bất lợi, thậm chí là có thể đảo chiều, cho an ninh chính trị và trật tự xã hội”, đe dọa vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” của Đảng. Cũng vì vậy, mình tin, ngay cả khi biểu tình tự phát chỉ nhằm cổ vũ: “Việt Nam là của Việt Nam”, Đảng cũng sẽ không nương tay! 

Dẫu cho chính đáng, các hành vi tự phát nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng sẽ không bao giờ được Đảng chấp nhận. Việt Nam, từ lâu đã là của riêng Đảng! Nói gì, làm gì, ở đâu, với ai là quyền của Đảng. Tự phát gạt bỏ yếu tố này, đồng nghĩa với tự sát.

Vậy thì có nên để cho “Đảng lo” mọi thứ? Mình nghĩ là không! 

4.

Theo hệ thống truyền thông chính thống, vị trí mà cáp của tàu Bình Minh 02 bị tàu Trung Quốc “làm đứt”, hôm 30 tháng 11 năm 2012 là 17.26 độ vĩ Bắc và 108.02 độ kinh Đông, cách đảo Cồn Cỏ 43 hải lý về phía Đông Nam. Nói cách khác, tàu Bình Minh 02 bị tàu Trung Quốc “làm đứt” cáp khi đang trong khu vực vịnh Bắc bộ.

Tám năm trước, cũng có một sự kiện đặc biệt, từng khiến nhiều người Việt uất nghẹn, xảy ra trong khu vực vịnh Bắc bộ: Sáng 8 tháng 1 năm 2005, con tàu của ông Nguyễn Phi Phường - Chủ nhiệm HTX Đánh cá Hùng Cường (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa), đang đánh cá trong khu vực vịnh Bắc bộ thì bị một số tàu Trung Quốc bao vây rồi xả súng bắn. Ông Lê Văn Xuyên - thuyền trưởng vừa phát tín hiệu kêu cứu, vừa lái tàu chạy vào đất liền nhưng giữa đường tàu hỏng máy, 8 ngư dân trên con tàu này bị bắn chết tại chỗ, 8 ngư dân khác (trong đó có hai người bị thương) bị bắt cùng với con tàu của họ. Cũng trong ngày hôm đó, tại vịnh Bắc bộ, phía Trung Quốc còn truy sát thêm ba con tàu đánh cá khác của ngư dân Việt Nam. Chỉ có hai trong số ba con tàu này “bình an, vô sự”. Tuy cũng chạy thoát nhưng con tàu thứ ba, của ông Nguyễn Văn Hoàn, cũng ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, có một thủy thủ bị bắn chết, năm thủy thủ khác bị thương. 

Nếu dùng Google Earth, đem so 21 điểm được xác định trong Hiệp định Phân định vịnh Bắc bộ mà Đảng ký với Trung Quốc hồi năm 2000 (2), để dựa vào đó vạch đường phân định vịnh Bắc bộ, với vị trí tàu của ông Nguyễn Văn Hoàn khi bị tấn công (19.16 độ vĩ Bắc, 107.06 độ kinh Đông) thì tàu của ông Nguyễn Văn Hoàn nằm gần điểm 15 (19°16'04" Bắc, 107°11'23" Đông) và điểm 16 (19°12'55" Bắc, 107°09'34" Đông). Tương tự, vị trí của tàu Bình Minh 02 lúc bị tàu Trung Quốc làm đứt cáp ở gần điểm 21 (17°47'00" Bắc, 107°58'00" Đông). Không có con tàu nào của phía Việt Nam lấn sang phía bên kia đường phân định. Trong cả hai vụ, chỉ có tàu Trung Quốc lấn sang phần biển thuộc phía Việt Nam. Tuy nhiên, xem thêm… Hiệp định Hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc bộ mà Đảng ký với Trung Quốc năm 2000 (3) thì… tàu Trung Quốc có thể làm điều đó! 

Năm 2011, sau khi nghiên cứu Hiệp định Phân định vịnh Bắc bộ, Tiến sĩ Dương Danh Huy – thành viên Qũy Nghiên cứu biển Đông, công bố bài “Nhìn lại Hiệp định Vịnh Bắc Bộ sau 10 năm”. Ông nhận định, quan điểm cho rằng hiệp định này công bằng hơn Công ước Pháp Thanh 1887 là chưa thuyết phục. Các điểm để vạch đường phân định, từ 9 đến 18 đều có xu hướng lấn sang phía Việt Nam từ 3 đến 27 hải lý!

Ít ai hiểu tại sao vì Đảng không giải thích. Đây là hệ quả của chuyện để “Đảng lo” mọi thứ. Dẫu thế, theo mình, vẫn không nên dựa vào đó để nhận định Đảng sợ Trung Quốc và trở thành hèn. 

Cho dù thực tế quan hệ Việt – Trung là một sự thóa mạ “tinh thần 4 tốt” và “16 chữ vàng” nhưng mới đây, thay mặt Đảng, tướng Nguyễn Chí Vịnh vừa khẳng định thêm một lần nữa rằng, sự “tương đồng ý thức hệ” là “di sản quý báu hàng đầu mà Việt Nam và Trung Quốc cùng có”. Sự tương đồng ấy giúp Đảng kiên trì đeo đuổi “chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình” để giữ cho bằng được sự “ổn định chính trị”. Trung Quốc có thể là kẻ thù đối với tiền đồ tổ quốc, vận mệnh dân tộc nhưng với Đảng, Trung Quốc là “một người bạn XHCN rất lớn ở sát bên cạnh” (6). 

Viết tới đây, mình chợt nhớ đến trường hợp Phạm Thanh Nghiên, một cô gái sống ở Hải Phòng. Tháng 9 năm 2008, Phạm Thanh Nghiên bị bắt vì “Tuyên truyền chống nhà nước XHCN”. Lúc đầu, cơ quan điều tra xác định Nghiên “Tuyên truyền chống nhà nước XHCN” vì cô… tọa kháng tại tư gia với băng rôn “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam. Phản đối công hàm bán nước 14/9/1958”. Đến khi ra tòa, tuy Viện Kiểm sát rút lại cáo buộc về hành vi này nhưng Phạm Thanh Nghiên vẫn bị kết án 4 năm tù vì đã viết – phổ biến bài “Uất ức biển ta ơi!” (5). 

Trong “Uất ức biển ta ơi!”, Phạm Thanh Nghiên kể về cuộc gặp những nhân chứng là ngư dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa bị Trung Quốc truy sát, bắt giữ hôm 8 tháng 1 năm 2005 ở vịnh Bắc bộ. Theo đó, hai ngư dân trên con tàu của ông Nguyễn Phi Phường, bị thương, được phía Trung Quốc “làm sống” (khoét thịt lấy đạn, khâu vết thương không có thuốc tê, thuốc mê) sau khi bị bắt. Theo đó, khi đến gặp cả 8 ngư dân, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam, khuyên họ thế này: “Cố gắng cải tạo cho tốt, đừng cãi lời người ta. Chúng tôi sẽ cố gắng đưa các anh về trước Tết”. “Uất ức biển ta ơi!” còn kể thêm về thảm cảnh của những người mẹ, người vợ, con cái các nạn dân đã thiệt mạng rồi kết luận: “Chính quyền cộng sản Trung Quốc đã gây nợ xương máu với người Việt Nam! Cùng với việc để mất Hoàng Sa, mất nhiều đảo ở Trường Sa, mất hàng vạn cây số vuông ở biên giới phía Bắc, ở vịnh Bắc bộ, mất sinh mạng của con dân trên biển, chính quyền cộng sản Việt Nam nợ nhân dân Việt Nam lòng ái quốc!”.

Khi Đảng vẫn muốn “có sự ủng hộ của Trung Quốc”, muốn “hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc” vì điều đó “vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam” thì Phạm Thanh Nghiên không thể vô tội. Chưa ai biết diện mạo của CNXH tròn méo thế nào nhưng Việt Nam còn xây dựng CNXH thì Đảng còn cơ hội duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”! Nghiên phải vào tù vì cô chỉ ra sự bất cập nếu để “Đảng lo” mọi thứ.

5.

Vài ngày qua, nhiều người bày tỏ cả sự cảm động lẫn hoan hỉ trước hình ảnh ông Đặng Công Ngữ – Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa cúi đầu trước những người đã dũng cảm đối mặt với các chiến hạm Trung Quốc đến cướp Hoàng Sa năm 1974. Giống như nhiều người, mình cũng thấy hành động của ông Ngữ là cần và đáng trân trọng nhưng chừng đó đã đủ? Chắc chắn là không. Nó chỉ như một giọt hy vọng, giảm bớt vị đắng trong chén oan nghiệt. 

Nếu vẫn nghĩ Đảng hèn, thỉnh thoảng, chúng ta sẽ nhận được một giọt hy vọng như thế. Sau đó, dù không muốn, chúng ta vẫn phải tiếp tục húp cho hết chén oan nghiệt ấy, vừa húp, vừa hy vọng sẽ có lúc được ngưng.

Chú thích:

(1) Ban Tuyên giáo TW và Bộ Thông tin Truyền thông họp với báo chí
http://anhbasam.wordpress.com/2012/12/16/1476-giao-ban-bao-chi-thu-ba-11-12-2012/
(2) Hiệp định Phân định vịnh Bắc bộ
http://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_gi%E1%BB%AFa_n%C6%B0%E1%BB%9Bc_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_x%C3%A3_h%E1%BB%99i_ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_Vi%E1%BB%87t_Nam_v%C3%A0_n%C6%B0%E1%BB%9Bc_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_Nh%C3%A2n_d%C3%A2n_Trung_Hoa_v%E1%BB%81_ph%C3%A2n_%C4%91%E1%BB%8Bnh_l%C3%A3nh_h%E1%BA%A3i,_v%C3%B9ng_%C4%91%E1%BA%B7c_quy%E1%BB%81n_kinh_t%E1%BA%BF_v%C3%A0_th%E1%BB%81m_l%E1%BB%A5c_%C4%91%E1%BB%8Ba_c%E1%BB%A7a_hai_n%C6%B0%E1%BB%9Bc_trong_v%E1%BB%8Bnh_B%E1%BA%AFc_B%E1%BB%99 
(3) Hiệp định Hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc bộ
http://biengioilanhtho.gov.vn/vie/hiepdinhhoptacngheca-nd-e6a9f6ac.aspx
(4) Nhìn lại Hiệp định Vịnh Bắc Bộ sau 10 năm
http://www.seasfoundation.org/articles/from-members/747-nhin-li-hip-nh-vnh-bc-b-sau-10-nm
(5) “Uất ức biển ta ơi!”
http://www.danchimviet.info/archives/30765/u%E1%BA%A5t-%E1%BB%A9c-bi%E1%BB%83n-ta-%C6%A1i/2008/03
(6) Phỏng vấn Nguyễn Chí Vịnh
http://tuoitre.vn/chinh-tri-xa-hoi/527794/khong-ai-quen-loi-ich-quoc-gia-dan-toc.html