Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2012


Ngô Nhân Dụng

Trong số những người đi biểu tình chống Trung Cộng vào Chủ Nhật vừa qua, các bản tin và hình ảnh cho thấy rất nhiều người là viên Cộng Sản, một số vị là những nhân vật nổi tiếng.


Chúng ta rất kính trọng thái độ và hành động đó, vì họ can đảm công khai bày tỏ ý kiến ngược lại với những người cầm đầu đảng. Nhưng chúng ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi, tại sao cho đến giờ phút này quý vị đó vẫn còn là đảng viên?

Trong đảng Cộng Sản Việt Nam hiện có không biết bao nhiêu người đang chán ghét đảng, có người còn căm hờn đảng đã đánh lừa mình suốt một cuộc đời. Nhưng họ không thể dứt khoát từ bỏ đảng. Không ai nghiên cứu để biết được chính xác, nhưng tỷ số đảng viên cộng sản vừa chán vừa thù đảng; nhưng có thể rất nhiều, trên một nửa, hoặc cao hơn. Nhiều người đã phản đối thụ động bằng cách ngưng sinh hoạt. Và chờ đợi. Ở bên Nga, bên Ðông Âu hồi xưa cũng vậy. Người ta chán nhưng chưa quyết định từ bỏ vì không biết tương lai đảng còn ngồi trên đầu mình bao lâu.

Vì tâm lý chán ghét và thờ ơ chờ đợi tràn lan cho nên các đảng Cộng Sản Nga và Ðông Âu tan rã rất nhanh. Chỉ cần nghe một tin “bức tường Berlin sập đổ rồi” ở Ðông Ðức, hoặc “cuộc đảo chính chiếm tòa nhà trắng thất bại” ở Nga; hoặc nghe tin “Ceaucesscu bị xử bắn,” ở Rumanie, nghe tin “đảng đã hết thời” ở Hungary, ở Ba Lan, là hàng triệu đảng viên thở phào nhẹ nhõm, trút được một gánh nặng trong đầu, trong tim họ. Họ không còn phải đóng vai đồng lõa với bọn cường quyền vừa nhơ bẩn vừa bất lực, qua vai trò đảng viên vô vị, vô quyền của mình nữa.

Nhưng ở Việt Nam chúng ta chưa thấy triển vọng một biến cố nào giống như vụ tường Berlin hay cuộc đảo chánh ở Maskva. Chế độ Cộng Sản ở Bắc Kinh và Hà Nội đã rút được kinh nghiệm của các đàn anh bên Âu Châu. Họ sẽ không để cho những biến cố như vậy diễn ra. Cho nên không hy vọng có một cuộc thay đổi lớn lao bất ngờ như ở Ðông Âu và Nga. Trung Cộng cũng không khác gì Việt Nam.

Ông Ngụy Kinh Sinh, trong một lần đến trò chuyện với nhật báo Người Việt, đã nói rằng ông nghĩ đảng Cộng Sản Trung Quốc không thể nào tự thay đổi được. Bởi vì dù một hai lãnh tụ ở trên cùng muốn thay đổi, họ cũng không thể phá vỡ được cả guồng máy cán bộ quan chức chằng chịt từ trung ương đến các tỉnh, các huyện, các xã; tất cả đang sống với các đặc quyền, cao sang hơn người, nhờ được guồng máy đó nuôi dưỡng, bảo vệ. Do đó, Trung Quốc chỉ có thể thay đổi thể chế chính trị khi người dân phẫn uất nổi dậy, mà Ngụy Kinh Sinh tin rằng việc đó sớm muộn phải xảy ra. Ông tin ở dân tộc ông, ông tin người Trung Hoa không ngu mà cũng không hèn!

Tôi đồng ý với cách phân tích guồng máy quyền lực của đảng Cộng Sản của Ngụy Kinh Sinh. Nhưng là một người Việt Nam, tôi không quá bi quan như ông. Ðảng Cộng Sản Việt Nam có nhiều lỗ hổng, chứa nhiều nhược điểm, không cứng mạnh như Cộng Sản Trung Quốc. Tôi tin rằng trong số các đảng viên cộng sản có nhiều người không nằm trong guồng máy chia chác; và họ biết suy nghĩ, dám chống lại cả guồng máy. Họ cũng có khả năng mở đường cho một cuộc thay đổi lớn, bằng hành động của chính họ. Hành động đầu tiên có thể gây chấn động tâm lý là việc công khai, dứt khoát từ bỏ đảng, và hô hào các đảng viên khác từ bỏ đảng như mình!

Chỉ cần bình tâm suy nghĩ một chút thì đảng viên nào cũng thấy cần phải từ bỏ đảng.

Quý vị vào đảng Cộng Sản vì tin ở chủ nghĩa Mác, Lê Nin? Bây giờ còn ai tin tưởng ở các lý thuyết duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của ông Karl Marx nữa hay không? Khoa học ngày nay cống hiến biết bao phương pháp, kỹ thuật, mở ra bao nhiêu con đường cho chúng ta hiểu vũ trụ, hiểu lịch sử và xã hội loài người sống theo những quy luật nào. Tại sao mình phải tự bịt mắt, tự dối lòng mình mà đóng vai trò một anh ngu dốt mãi như vậy?

Còn ai thấy các lý thuyết của Lê Nin có ích lợi cho dân tộc mình, hay chỉ là cái gông xiềng buộc chặt lên đầu, lên cổ cả dân tộc? Chủ thuyết quan trọng nhất của Lê Nin là “Nhà nước và Cách mạng,” là dùng guồng máy nhà nước thực hiện cuộc “cách mạng vô sản”. Bây giờ ai cũng biết cuộc cách mạng đó không có thật. Giai cấp vô sản hiện nay đang bị bóc lột một cách triệt để dưới mối liên kết kiên cố giữa tư bản và nhà nước. Lý thuyết nhà nước làm cách mạng chỉ đưa tới một hậu quả là thiết lập một chế độ chuyên chế khắc nghiệt nhất trong lịch sử! Nhà nước càng ngày càng lớn, càng kiểm soát, kìm kẹp dân kỹ hơn, còn cách mạng chẳng thấy đâu cả! Tai họa của những nước Nga, Ðông Âu là chế độ chuyên chế đã làm cho kinh tế trì trệ rồi sụp đổ và đạo đức suy đồi. Họ đã cố thoát ra được, tại sao mình vẫn còn tin ở chủ nghĩa Lê Nin?

Tai họa của nước ta là do những người đã đem chủ nghĩa Mác Lê Nin vào đặt lên đầu lên cổ cả dân tộc. Từ đó, họ đã đi tới những lựa chọn sai lầm tàn phá đất nước, khi biết thì đã quá trễ. Tai họa thứ nhất là tổ chức kinh tế theo lối Liên Xô, mà hiệu quả ai cũng biết. Tai họa thứ hai là tổ chức chính quyền chuyên chế, lấy bạo lực, công an để bảo vệ quyền hành; nhưng sau khi đã dựng lên rồi thì chính guồng máy chuyên chế đó tự phát triển, tự bảo vệ nó; không thể nào nó tự thay đổi được nữa. Tai họa thứ ba là chủ trương gây thù hận, phương pháp dùng dối trá để củng cố quyền hành. Từ thói quen dối trá đó, cả xã hội suy đồi vì người lương thiện không thể sống được. Lựa chọn theo chủ nghĩa Mác Lê Nin đã tạo ra tất cả các tai họa trên.

Cũng vì theo chủ nghĩa Mác Lê Nin cho nên đảng Cộng Sản đã phạm sai lầm ngoại giao lớn trong việc chọn đồng minh; mà không nghĩ tới mối nguy hiểm trong tương lai. Trong cuộc gặp gỡ tay ba ở Maskva, khi Stalin nói ông ta trao hết cho Mao Trạch Ðông sứ mạng dìu dắt đảng Cộng Sản Việt Nam, thì lời phán đó quyết định số phận nước ta được đặt trong bàn tay Trung Cộng. Từ đó mới sinh ra những chủ trương học tập Mao Chủ Tịch, từ trên xuống dưới nhất nhất theo ý kiến các đồng chí “vĩ đại”. Vì vậy mới giết hàng trăm ngàn người vì cải cách ruộng đất; vì vậy mới sinh ra cái công hàm Phạm Văn Ðồng năm 1958. Từ đó mới ngậm miệng làm ngơ không dám phản đối Trung Cộng chiếm Hoàng Sa năm 1974.

Những sai lầm lịch sử đó, cứ coi như là tội lỗi của những thế hệ lãnh tụ đời trước. Nhưng có lý do nào các đảng viên cộng sản ngày nay cứ phải nhắm mắt chịu đựng các hậu quả tai hại trên đây mà không dám đòi thay đổi?

Người đảng viên cộng sản biết suy nghĩ phải bắt đầu bằng việc từ bỏ tất cả hệ thống tư tưởng Mác Lê Nin; cũng như nhiều người đang biểu tình phản đối cách lựa chọn đồng minh sai lầm trong quá khứ. Nhưng họ phải chính thức, công khai rút ra khỏi đảng Cộng Sản Việt Nam! Tại sao còn tiếp tục đứng làm bình phong, chịu đóng vai quân cờ; cho các lãnh tụ tham nhũng và bất lực ngồi trên đầu mình đua nhau cướp đất, cướp cơm của dân nghèo và chia nhau các chức quyền trong hệ thống doanh nghiệp nhà nuớc để bỏ túi hàng triệu đô la rồi chuyển ra nước ngoài?

Nhiều đảng viên cộng sản có lòng nhưng không từ bỏ đảng vì họ hy vọng sẽ giúp đảng thay đổi từ bên trong. Nhưng thử hỏi trong ba chục năm nay họ đã thay đổi được những gì? Từ thời ông Nguyễn Hộ, ông Trần Ðộ, đã bao nhiêu người thiết tha vận động việc thay đổi trong đảng. Nhưng tất cả đều vô ích. Bây giờ có ai có thanh thế, có uy tín hơn các ông đó để làm được giỏi hơn, có hiệu quả hơn họ hay không? Liệu những ông Nguyễn Hộ, ông Trần Ðộ thế hệ mới có cam chịu đóng vai “phản biện” một cách vô ích như vậy thêm 20 năm, 30 năm nữa hay không?

Cho nên các đảng viên cộng sản đã nhìn ra những sai lầm của đảng mình, nếu bình tâm suy nghĩ sẽ thấy chỉ còn một con đường là phải công khai, chính thức tuyên bố không chấp nhận đóng vai đồng lõa với băng đảng cầm quyền nữa. Một số người đông đảo và có danh tiếng tuyên bố từ bỏ đảng, họ có thể kêu gọi các đảng viên có lương tâm cùng dứt khoát rút ra khỏi đảng. Khi số người bỏ đảng đông hơn, gây thành một phong trào, các biện pháp trả thù và đàn áp của guồng máy sẽ mất hiệu lực. Các đảng viên khác sẽ không sợ hãi nữa.

Khi số đảng viên bỏ đảng tăng lên, họ có thể châm ngòi tạo ra biến cố trong đám đông dân chúng ngoài đảng. Người ta sẽ được giải phóng về tâm lý, những dân oan không còn cảm thấy sợ hãi nữa, giới thanh niên, trí thức, các người lãnh đạo tôn giáo, giới lao động sẽ cùng mạnh dạn đứng lên đòi các quyền tự do căn bản của mình. Người dân không chấp nhận nghe nói dối, nghe phỉnh phờ nữa. Một phong trào phản kháng bất bạo động như thế chắc chắn sẽ làm cho guồng máy cường quyền phải chịu thua. Lúc đó những ai còn thiết tha đến việc phục hưng đất nước trong thời “hậu cộng sản” sẽ có cơ hội phục vụ.

Chúng ta đang có cơ hội để thực hiện cuộc đổi đời này. Trên các mạng lưới đã xuất hiện bao nhiêu đảng viên viết lời chống lại đảng. Trong các cuộc biểu tình có các đảng viên cộng sản nổi tiếng tham dự. Một đảng viên ở bước đường cùng như Ðoàn Văn Vươn cũng phải buộc lòng chống cự bằng chất nổ. Lòng dân chán ghét và oán hận đang lên cao. Những phụ nữ như Trịnh Kim Tiến, Huỳnh Thục Vy đã phải đứng dậy lên tiếng. 
Không thể chờ đợi đến ngày “Mỹ sẽ giúp một tay” hay “Trung Quốc sẽ thay đổi”. Chính người Việt Nam có thể quyết định lấy số mạng của mình.




Thụy Khuê - Nguyễn Mộng Giác và người Bình Định


Thụy Khuê

Nguyễn Mộng Giác dưới tháp Eiffel

Võ Phiến có hai bài tùy bút viết về người Bình Định.

Bài thứ nhất tựa đề Anh Bình Định và bài thứ hai, Người Bình Định.

Bài thứ nhất (không ghi ngày) viết về sự "hấp dẫn" của "người anh" Bình Định với "người em" Phú Yên, qua câu ca dao:
"Anh về Bình Định chi lâu,
Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng".

Và ông tuyên bố chắc nịch: "Gái Phú Yên không tỏ ra đa tình với một ai khác, chỉ đa tình với trai Bình Định mà thôi".

Ông Võ Phiến là người Bình Định trăm phần trăm và ông đã quả quyết như vậy, thì phải tin thôi, cãi sao được?

Ông giải thích bằng lịch sử, theo lối nói nhũn của ông thì "đó là những suy đoán vu vơ". Theo "những suy đoán vu vơ" ấy, thì dân tộc ta có hai đợt Nam tiến: Đợt thứ nhất, gồm toàn bọn Bắc vô như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tấn (gốc Thanh Hoá), Lê Đại Cương, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ (gốc Nghệ An), v.v..., đợt này kéo dài đến thế kỷ XVI.

Đợt hai, từ khi Nguyễn Hoàng lấy được Phú Yên, biên giới Nam Bắc đã phân chia rõ rệt, bọn Bắc không thể tự tiện kéo vào được nữa, mà chính dân Bình Định kéo xuống phía Nam. Vì vậy mới có sự "khăng khít" giữa người "anh Bình Định" với người "em Phú Yên", kết quả những "anh em" này sinh con đẻ cái, thành "thế hệ thứ nhì", thoát thai câu ca dao:
"Anh về Bình Định thăm cha,
Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hoà thăm em."

Vậy là thêm một từng lớp "anh em" đợt nhì, có duyên nợ tiền kiếp! Lập luận của ông Võ Phiến giúp ta hiểu đôi chút về những "succès" của các "người anh" văn nghệ Bình Định đối với các người em văn nghệ phái nữ nói chung và các "người em" Phú Yên nói riêng.

Bài thứ hai tựa đề "Người Bình Định" (viết tháng 10/1973), mở đầu ông giới thiệu ngay Nguyễn Mộng Giác, một người cùng quê với ông. Ông Võ Phiến giới thiệu như vậy là đã có chủ đích: Ông coi Nguyễn Mộng Giác như một người Bình Định "tiêu biểu". Sự tiêu biểu này ông không nói ra, nhưng đọc hết bài sẽ thấy. Nên nhớ năm 1973, Nguyễn Mộng Giác mới viết, chưa nổi tiếng. Đến 1974, Nguyễn Mộng Giác mới nổi tiếng vì được giải thưởng của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam với truyện dài Đường một chiều.

Như thường lệ, ông Võ thường nói vòng vo tam quốc trước khi đưa ra những nhận xét tinh tế, lạ và đúng, chưa ai nghĩ ra bao giờ, như:
- "Kể từ Bình Định vào Nam, một giọng nói khác, một loạt tiếng nói khác". Ý ông muốn nói: bọn răng, rứa, mô, tê, chừ... rủ nhau vào Nam, đến chân đèo Bình Đê thì bị chặn đứng cả, chẳng tên nào đi lọt.
- Vẫn theo lập luận "vu vơ" của ông: Dân Quảng Nam, Quảng Ngãi (đúng ra là Quảng Nam thôi) lúc nào cũng hăm hăm chỉ chực "nổi lên", "vùng dậy", còn dân Bình Định êm rơ, chẳng tha thiết gì đến chuyện phản kháng phảng khiếc. Và ông gọi đức tính ấy là "thàn hậu"1. Lần đầu tiên tôi học được chữ thàn hậu, tiếng này ngoài Bắc không có, trong Nam cũng không.

Nguyễn Mộng Giác và Nguyễn Bá  Trạc
Tiếp đó, để giải nghiã hai chữ thàn hậu bằng thơ, ông trích hai câu thơ Quách Tấn:
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gửi vào thơ, nghĩ tội thơ

Rồi ông phê rằng: "Nghĩ tội thơ!", cái nhân ái đến rụt rè ấy, ở địa phương gọi nó là đức tính "thàn hậu". Con người thàn hậu vốn dè dặt, kín đáo, âm thầm trong sự sầu đau thương nhớ; chính con người ấy mới càng "tội" đa!"2

Cuối cùng ông trở về với Nguyễn Mộng Giác: "Ở Nguyễn Mộng Giác cũng vậy. Ngay từ những thiên truyện ngắn đầu tiên, anh đã có cái phong độ chín chắn, mực thước, có cái kín đáo, âm thầm, anh đã lim lỉm vào những suy nghĩ lo lắng."3

Nhận xét về Nguyễn Mộng Giác, ngay từ 1973, trên những bước đầu, quả chỉ Võ Phiến mới tinh tường như vậy.

Bài thư ba, có liên quan đến Bình Định và Nguyễn Mộng Giác là bài Tựa cho tập truyện ngắn Ngựa nản chân bon, ông viết tháng 11, 1983, tại Hoa Kỳ. Bài này không thấy ông in lại.

Tuy là tựa sách, nhưng Võ Phiến lại nói rất kỹ về người Bình Định. Ông triển khai những ý đã có trong bài Người Bình Định, lần này ông viết kỹ hơn, về tính tình, về giọng nói Bình Định... Đặc biệt ông trở lại và dừng khá lâu ở hai tiếng thàng hậu4:
"Cái cười của Quách tiên sinh5 có vẻ trẻ thơ chỉ vì trông nó lành quá sức lành. Trông cái cười ấy, người ta thấy rõ trước mặt mình một kẻ hoàn toàn vô hại, không có chút mưu chút mẹo nào hết trơn. Một kẻ thàng.

Thàng là chữ Nguyễn Mộng Giác đã dùng trong một bài viết về tôi trên một số Văn đặc biệt6 (....) Thàng là chữ riêng của người Bình Định, và cũng là chữ riêng để mô tả người Bình Định. Thàng cũng nói là thàng hậu; thàng hậu nghiã gần như hiền hậu, nhưng còn đi xa hơn hiền hậu nữa kia, vì nó có khả năng mô tả, hiền hậu thì không. Hiền hậu, thực thà là một đức tính, một nết hay; thàng hậu còn là một vẻ người hiển hiện ra bên ngoài, trông rõ mồn một. Người thàng, thàng từ tiếng cười giọng nói, nét mặt, thàng đi. Mà người thàng thì trời ơi, trong trí nhớ của tôi, tôi mường tượng mọi người Bình Định đều thàng hết: anh Ba, chị Bốn, ông Bảy, bà Năm, cô Tư, cậu Tám vv... Hết thảy, không ai là không thàng. Muôn người như cùng một vẻ, một giọng."7

Bất cứ kẻ nào không phải dân Bình Định, chưa bao giờ nghe nói đến chữ thàng, mà đọc được đoạn này của Võ Phiến, thì hết chối là tôi không biết thàng là gì. Cái sức mạnh trong lối nói "vu vơ" của Võ Phiến là như thế. Cái thàng trong ông là như thế. Cũng thì là thàngthàng của Võ Phiến, chỉ mới "vu vơ" nhưng nó bám, nó buộc, nó riết người ta vào chữ nghiã Bình Định của ông.

Vẫn trong bài Tựa này, còn một câu ngắn, độc giả dễ bỏ qua, nhưng nếu ai chú ý, sẽ thấy nó lạ lắm, phải là Võ Phiến mới đủ cao cường để biến các thứ trịnh trọng thành "vu vơ" như thế, ông viết:
"Cũng trong một bài báo Văn nọ, Nguyễn Mộng Giác nói đến những con người trông thì "thàng" nhưng kỳ thực lại "dữ"8.

Tôi không được đọc bài báo Văn "nọ" của Nguyễn Mộng Giác, nhưng câu mà ông Võ trích thật đáng kể ở nhiều mặt.

Nếu chữ dữ của họ Nguyễn được hiểu là không lành, thì nó phản ảnh tính chất phản kháng ngầm trong con người Bình Định, kể cả... Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác nữa. Ông Nguyễn viết và ông Võ thấy, cả hai đều tinh tường, ông Võ bâng quơ nhắc lại lời ông Nguyễn, nhưng làm lơ như ông Nguyễn nói... người khác.
Còn nếu chữ dữ được hiểu là ác, thì nó cũng lại phản ảnh tính chất của một số người... Bình Định, lịch sử biết nhưng ông Võ không nhắc đến thôi.

Ví dụ, ông Võ Phiến nhìn thấy ở Quách tiên sinh cái cười "lành quá sức lành", ông vô tư nhận xét tiên sinh là một kẻ "hoàn toàn vô hại, không có chút mưu mẹo gì hết trơn".

Nhớ lại hồi tiên sinh kiện Trần Thanh Mại ở Huế năm 1942, vì chuyện dám viết cuốn Hàn Mặc Tử trước tiên sinh, dám quảng bá thơ Hàn Mặc Tử trước khi tiên sinh kịp in thơ Hàn, thì quả tiên sinh chẳng có thàng chút nào.

Mà đi trước tiên sinh còn một vị tiền bối nữa, bề thế hơn nhiều, đó là Quang Trung Nguyễn Huệ. Ông này không ai biết mặt ngang mũi dọc ra sao, cũng chẳng biết ông cười, ông đi, ông đứng có thàng không, người ta chỉ biết, mỗi lần ông ra Bắc là có một kẻ bị xé xác; lần đầu Nguyễn Hữu Chỉnh, lần sau Vũ Văn Nhậm, cách nhau có mấy năm, mà hai tay ấy đâu có phải vừa. Vậy nếu ông Huệ có thàng thì cũng là thàng theo kiểu "trông thì thàng nhưng kỳ thực là dữ". Cái dữ này là dữ thật, chứ không phải chỉ là không lành thôi đâu.

Ai muốn tìm đọc Sông Côn mùa lũ để xem vốc vác ông Huệ thế nào, thì lại thấy ông Huệ có bề giống ông Giác, nghiã là ôn tồn, hiền lành, nhân hậu, đứng trước phụ nữ còn rụt rè nữa, hoá ra ông Giác chỉ tả cái thàng của ông Huệ.

Tóm lại, ông Võ Phiến khi nói người Bình Định đều thàng cả, là ý ông muốn nói đến những người thân thương của ông, đó là những nhân vật trong tiểu thuyết của ông, những anh Bốn thôi, ông Năm tản... Và khi ông tả nụ cười của Quách tiên sinh, người ta lại thấy hiện ra nụ cười của... chính ông: ông Võ Phiến có nụ cười rất thàng. Ông Võ Phiến mới đích thực là Người thàng, thàng từ tiếng cười giọng nói, nét mặt, thàng đi", để nói theo giọng Vũ Bằng ca tụng món ăn Hà Nội, mà ông Vũ lại dật tạm cái giọng này của Thạch Lam.

Tháng 7/1989, Nguyễn Mộng Giác đến Paris để ra mắt tập trường thiên Mùa Biển Động. Lần đầu tiên độc giả Paris thấy Nguyễn Mộng Giác bằng xương bằng thịt. Lúc đó tập Mùa Biển Động đã gây sóng gió bên Cali, người yêu cũng nhiều mà người ghét cũng lắm.

Dáng dong dỏng cao trên trung bình đối với người Việt, da mặt có những vết rỗ nhỏ, chắc hồi còn bé bị lên sởi, biến chứng. Cười tươi, rất thàng. Nhưng ở con người Bình Định này, điểm gây chú ý là đôi mắt.

Đôi mắt Nguyễn Mộng Giác, thường trú dưới cặp kính cận và bị cái cười chụp lên hai mí, lấp đi, làm nhỏ lại. Phải đợi đến lúc ông không cười, không nói, chăm chú nhìn đối tượng, thì mới thấy ở đó như có gì xuất thần, nó đen nhánh, lòng đen chiếm hơn 80%, nó "nói" tất cả, mặc dù ông không hề mở miệng. Có vài diễn viên thượng thặng -ví dụ như ở Pháp chỉ Simome Signoret- là có khả năng diễn xuất bằng mắt. Nhưng Nguyễn Mộng Giác không hề diễn xuất gì cả, ông cũng không đóng một vai trò nào. Ông sống bằng mắt và ông viết bằng mắt, đơn thuần là thế.

Tôi nhận thấy điều này ngay từ phút đầu giáp mặt đến phút cuối, vĩnh biệt, chiều ngày 4/6/2012, trước khi về Pháp. Ba lần thăm, lần nào cũng thế: nằm trên giường bệnh, Giác đã trút bỏ hết cả ngoại hình, từ thịt da đến xương cốt, tất cả đều đã rã, đã rời, tất cả đã bỏ Giác, đã theo nhau về chín suối trước khi Giác đi. Các tế bào còn đó, nhưng chúng đã chết từ lâu, chúng hiện hữu mà cũng như không. Riêng đôi mắt còn sống, nó nhất quyết ở lại với Giác như con kỳ mã trung thành với chủ, như Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp bảo vệ vua Hàm Nghi. Cặp kính cận cũng đã biến mất, nó không còn che lấp cái nhìn của Giác nữa. Đôi mắt tự do tung hoành trong không gian chật hẹp của căn phòng bệnh viện. Tất cả đều bị tẩy uế, trùng bị giết sạch, người vào thăm phải đeo mặt nạ, đi găng, khoác áo choàng, trừ hai con mắt. Họ và Giác cân bằng, hai bên đồng đẳng, chỉ có mắt đối mắt. Lúc đó mới thấy rõ ánh sáng kỳ dị trong đôi mắt đen như đêm hạ tuần của Giác và tôi bỗng hiểu.

Chính đôi mắt ấy đã "viết" các truyện ngắn và các bộ trường thiên. Giác "sinh hoạt" bằng đôi mắt, đôi mắt sai khiến và đôi mắt dò hỏi. Đôi mắt lưỡng lự, đôi mắt tiến thoái theo đúng thế trận bầy trước mắt. Người ta hay nhắc đến việc Giác tranh luận sôi nổi, tôi cho rằng những tranh luận chỉ để lấp đầy chỗ trống, chúng không có bề thế gì, so với phán quyết im lặng của đôi mắt. Giác "biết hết" nhân tình thế thái qua đôi mắt "thàng" mà "dữ" của anh. Đừng có giấu Giác, vô ích. Giác biết hết. Nhưng chẳng nói ra thôi.

Đôi mắt ấy đã thấu suốt tâm linh những người phụ nữ mà anh gặp và mô tả trong tiểu thuyết, từ tuổi dậy thì đến hồi đứng bóng. Không mấy nhà văn sành tâm lý phụ nữ như anh, ngoài Mai Thảo. Cái màu đen trong lòng mắt anh, lạ lắm, nó đen như mun và trong vắt như pha lê đến độ không nhìn thấy con ngươi, vì thế không ai "tìm" thấy mình trong đó, khiến Giác có đủ phù phép để "áp đảo" đối tượng, đi vào gan ruột kẻ đối diện khiến y không phản ứng kịp thời, nghiã là y không kịp giấu những gì y muốn giấu trước đôi mắt của Giác.

Cái tên cũng tiền định: Đã mộng còn giác. Giác có lẽ là tình cờ, cha mẹ đặt cho con, bởi lúc lọt lòng đã biết mắt nó thế nào. Mà đặt tên con bao giờ cũng là một ước nguyện. Mong con thông minh thì đặt tên minh, tên mẫn. Mong con trong trắng, thì đặt tên trinh, tên tuyết.

Có những trường hợp nguyện ước bị dội lại, như người tên Lành mà ác.

những trường hợp nguyện ước được thực hiện, trong đó có Giác. Cả mộng cũng vậy.

Bởi nếu không biết mộng thì làm sao có thể trở thành nhà văn? Cho nên cái tên tiền định do cha mẹ đặt đã báo trước phận số phận một nhà văn: một người biết mộng từ lúc sinh ra sẽ trở thành nhà văn Mộng Giác.

Con mắt là yếu tố quan trọng nhất trong sáng tác, khiến những người hoàn toàn khác nhau như Cao Bá Quát, Apollinaire, Merleau-Ponty, Bích Khê... đều đặt trọng tâm trên con mắt. Không biết mắt Cao Bá Quát như thế nào, nhưng ta biết mắt Bích Khê. Dù chỉ còn lại một tấm hình duy nhất của Bích Khê, tấm hình chỗ nào cũng in, rõ nhất là hai con mắt, như thủy tinh thể xuất ra từ cuộc đời ngắn ngủi của Khê, gọi ta về với vô cùng. Mắt Nguyễn Mộng Giác không "ăn ảnh" như mắt Bích Khê, có nghĩa là vào ảnh, nó bị sai đi, nó dị đi, nó bị đôi kính cận che đi một nửa, không được như bên ngoài. Chỉ khi sắp ra đi, anh không còn đeo kính, anh đem theo cả đôi mắt mun pha lê. Nhưng sản phẩm của đôi mắt để lại, là sự nghiệp văn chương anh, sẽ mãi mãi còn. Giác đi mà rất ở.

Một sự nghiệp dựng trên truyện ngắn và 2 bộ trường thiên: Sông Côn mùa lũMùa biển động. Anh rất tâm đắc với bộ Sông Côn mùa lũ, mà anh thầm cho là bộ sách của đời anh. Có lần tôi nói với anh: Mùa biển động mới là tác phẩm của đời anh, Sông Côn mùa lũ, cũng hay, nhưng chưa phải. Anh có ý giận. Từ đó chúng tôi không bao giờ trở lại đề tài này nữa.

Hôm nay anh đi rồi, nói lại chuyện cũ, không phải vì anh đã mất, không thể trả lời được nữa, tôi lợi dụng nói bừa.
Câu chuyện văn học này, tôi không nói với anh, vì anh nghĩ thế nào về tác phẩm của anh là quyền của anh, đại để như cụ Nguyễn Du có cho Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh là tác phẩm chính, hay hơn Kiều, thì chúng tôi cũng mặc kệ cụ. Bởi cụ chẳng có quyền gì trên tác phẩm của mình, điều cụ nghĩ về tác phẩm của mình chỉ đúng với cụ mà thôi, Paul Valéry đã có lần nhận ra như vậy.

Tại sao thế? Jean Paul Sartre giải thích rõ hơn: Bởi vì nhà văn không thể đọc được tác phẩm của mình như một độc giả. Lý do: hắn đã biết rõ từng câu từng chữ của hắn trước khi viết, nên khi đọc lại, hắn mất hẳn tính khách quan, là yếu tố hàng đầu, cần thiết cho một độc giả đích thực. Sở dĩ những người sống trong chế độ toàn trị, không thể "đọc" được sách theo nghiã thông thường, vì họ bị bủa vây bởi những thành kiến do tuyên truyền nhồi sọ, áp đảo lên họ từ gia đình đến học đường. Tóm lại, muốn "đọc", cũng phải có tự do. Sartre đặt tự do của người viết và người đọc lên cùng một cán cân.

Tác giả, ở một xã hội tự do, có thể viết được, nhưng hắn vẫn không "đọc" được tác phẩm của hắn, vì những gì hắn viết, hắn đã biết trước rồi, cái "gu" của hắn, đã định rồi, tương tự như người sống trong chế độ toàn trị bị nhồi sọ. Vì vậy, biết bao nhiêu người cứ tưởng mình là nhà thơ nhà văn, nhưng sự thực, họ chẳng là nhà gì cả, mà có ai dám nói với họ sự thực đâu.
Cái thành kiến của nhà văn đối với tác phẩm của mình, giống như lời một nhân vật trong Đôi bạn của Nhất Linh: "Vì tôi đã quyết định thế rồi".

Bộ Sông Côn mùa lũ, viết dưới chế độ cộng sản, với chủ đích dùng thời Tây Sơn để nói chuyện ngày nay, theo lời Nguyễn Mộng Giác kể lại với Phạm Phú Minh9.

Bộ sách này, đối với người đọc không chuyên, là một bộ sách hay.

Nhưng về mặt nghệ thuật tiểu thuyết, nó phạm một số quy luật:
Nói chuyện với anh Minh, anh cho biết, khi dự định viết Sông Côn mùa lũ, anh chưa biết dùng ngôn ngữ thời nào, và khi thấy Nguyễn Du viết Kiều bằng ngôn ngữ "thời nay", anh bèn viết theo Nguyễn Du10.

Thực ra thì Nguyễn Du (1766-1820) không thể dùng ngôn ngữ "thời nay" hiểu theo nghĩa thời của chúng ta, việc ấy đã đành. Nguyễn Du "dịch" (tức là theo sát) tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, mà Thanh Tâm Tài Nhân là người sống gất gần triều đại Minh Thế Tông (hiệu Gia Tĩnh) (1507-1567), thời truyện Kiều xẩy ra.
Đọc Kiều, chúng ta thấy ngôn ngữ Nguyễn Du, nhưng đồng thời chúng ta thấy cả một thời đại xưa. Vì tất cả những câu thơ như: "Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi", "Hài văn lần bước dặm xanh". "Vẫn nghe thơm nức hương lân". "Sinh rằng: giải cấu là duyên". "Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về"... tự chúng đã tạo cái không khí "thời trước", nhưng ta chưa biết chắc là thời nào, nhờ có Thanh Tâm Tài Nhân, ta biết rằng, đó là thời không xa với Minh Gia Tĩnh.

Nhưng thỉnh thoảng lại có vài câu rất "hiện đại" như "Vân rằng: Chị cũng nực cười, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa". Chắc Nguyễn Mộng Giác dựa vào lối xưng hô này mà anh đoán là Nguyễn Du dùng ngôn ngữ "thời nay" chăng? Không phải.

Vẫn trong hướng theo sát tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, mà tiếng Tầu chỉ có "ngộ, nị" (tôi, cô), nên Nguyễn Du "dịch" là "chị, em" trong tiếng Việt.

Điều đó chứng tỏ: Ở thời Nguyễn Du, anh chị em trong nhà xưng hô với nhau là chị, em.

Nhưng ta lại còn biết Nguyễn Du là người cực kỳ thận trọng, khi dùng những tiếng chị, em trong Kiều, ông không thể lấy cách xưng hô của thời ông, để chỉ một thời cách ông hai trăm năm. Vậy chắc chắn là Nguyễn Du đã tham khảo và biết rằng ở thế kỷ XVI, tại nước ta, anh em ruột trong nhà đã xưng hô với nhau là chị, em rồi!

Về ngôn ngữ thời đại Tây Sơn, Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Thì Chí, phản ảnh rất rõ. Về phong tục, y phục, lối sống, văn hoá, của dân tộc ta trong suốt thời đại nhà Lê, trải mấy trăm năm, Phan Huy Chú ghi rất rõ trong Lịch Triều Hiến Chương. Vậy mà khi làm phim về Quang Trung, một đạo diễn bảo không biết thời ấy họ ăn mặc thế nào!

Những vấn đề để xây dựng một không khí cổ, ngoài y phục, cử chỉ, lời nói (trong chỗ thân tình, người xưa có thể nói giống chúng ta) nhưng ngôn ngữ xã hội luôn luôn được trang phục bằng những lớp lang khác của đạo đức, của tôn giáo, của thói quen, của những công thức, chỉ xuất hiện trong thời kỳ lịch sử ấy...

Mở rộng hơn nữa, chúng ta đi tới phần kiến trúc tiểu thuyết. Cái gì xác định một tác phẩm là tiểu thuyết?

Kiến trúc không gianthời gian là điều quan trọng nhất trong tiểu thuyết. Bahktine gọi đó là Thời-không-gian (Chronotope): Nhà văn phải cấu tạo được Thời gian và Không gian trong tiểu thuyết của mình.

Sông Côn mùa lũ chưa tạo được thời không gian cuối thế kỷ XVIII, ở Việt Nam, dưới thời Tây Sơn. Vì các nhân vật trong truyện sinh hoạt nói cười, cử chỉ, bông đùa, tâm sự, hệt như trong xã hội ngày nay. Nguyễn Huệ nói chuyện với An không khác Ngữ nói chuyện với Diễm trong Mùa Biển Động. Do đó tác dụng xã hội học trong Sông Côn mùa lũ, gần như không có. Mà xã hội là nền tảng đầu tiên và cuối cùng của tiểu thuyết.

Vậy, rút cục tiểu thuyết là gì? Một trong những định nghiã sâu xa và bao trùm nhất, đến từ Bakhtine:
"Tiểu thuyết là sự đa dạng xã hội của ngôn ngữ, đôi khi của những thứ tiếng và những giọng cá nhân. Sự đa dạng này được thực hiện một cách văn chương. Những định đề thiết yếu của tiểu thuyết đòi hỏi ngôn ngữ dân tộc (langue nationale) phải được kết tầng thành những thổ ngữ (dialecte) xã hội khác nhau, thành những kiểu nói riêng của một nhóm người, thành những tiếng lóng, tiếng nhà nghề (jargon), thành ngôn ngữ của những kiểu cách, những lối nói, ngôn ngữ của một thế hệ, của một lớp tuổi tác, của các trường phái, của những kẻ cầm quyền, của những câu lạc bộ hay những mốt thời thượng, thành ngôn ngữ xã hội của "ngày này" (thậm chí của "giờ này"), thành ngôn ngữ của chính trị (mỗi ngày chính trị có một định thức riêng để chỉ định một vấn đề chính xác bằng từ vựng và bằng cách nhấn mạnh)11; mỗi loại ngôn ngữ trên đây phải được kết tầng bên trong tiểu thuyết, bất cứ lúc nào, khi câu truyện hiện hữu."12

Đoạn viết trên đây của Bakhtine, có thể coi là một trong những định nghiã đầy đủ nhất về tiểu thuyết. Nó giải thích một số hiện tượng: có những tác giả, dù tài ba đến đâu, cũng không thể viết tiểu thuyết mà chỉ viết được truyện ngắn. Bởi vì họ không có cái nhìn quán xuyến toàn thể xã hội, họ không đi vào được nhiều nhóm xã hội khác nhau, họ không tìm được các mối liên lạc giữa các nhóm xã hội khác nhau, như trường hợp Nguyễn Tuân hay Nguyễn Huy Thiệp.

Trở về trường hợp Nguyễn Mộng Giác, trong Mùa Biển Động, ông đã nhìn rõ lớp người trung lưu, có học, trong xã hội miền Nam mà người ta thường gọi là "tiểu tư sản thành thị", đặc biệt ở Huế. Nhưng ông hoàn toàn xa lạ với lớp người Bình Định, quê hương ông, nhất là người dân quê. Trong khi Võ Phiến sở hữu từ thể xác đến linh hồn người dân quê Bình Định. Tiểu thuyết và truyện ngắn của Võ Phiến nằm trong thời không gian Bình Định của những người dân quê, thô mạc. Tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Mộng Giác, nằm trong thời không gian Huế và Sài Gòn, thập niên 60-75.

Tập Sông Côn mùa lũ, đối với những độc giả không sành, vẫn là một cuốn tiểu thuyết hay, lôi cuốn, bởi Nguyễn Mộng Giác là một nhà tâm lý tiểu thuyết, ông đã dựng nên những thăng trầm của hai gia đình: giáo Hiến và họ Nguyễn với ba người con tên Nhạc, Lữ và Huệ.

Nhưng ông chưa dựng được xã hội Việt Nam dưới thời Tây Sơn, chưa dựng được chân dung lịch sử của Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, trong xã hội Việt Nam thời Tây Sơn, với những con người thời ấy, với những cử chỉ, hành động, ngôn từ, của những lớp người xã hội thời ấy... Vì vậy khó có thể nói đến một thời không gian trong tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ.

Về Mùa biển động, tôi đã viết khá kỹ, ở đây chỉ xin thêm đôi dòng.

Với đôi mắt tinh tường, cái nhìn thàng hậu (nhân bản) Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng lại cuộc đời của nhiều gia đình, nhiều nhân vật trong thế hệ những người đã sống hoặc lớn lên ở trong Nam, thời kỳ chia đôi đất nước. Ông là một tiểu thuyết gia truyền thống, không đi tìm cái mới lạ, ông thể hiện tiểu thuyết như những người đi trước đã làm, như thời Hồ Biểu Chánh, như thời Tự Lực văn đoàn, bằng ngôn ngữ của thời ông... Là nhân chứng có con mắt bao quát và sâu xa, ông nhìn và viết lại xã hội miền Nam trước 1975, thuật lại biến cố Phật Giáo những năm 60, biến cố Mậu Thân thập niên 70, biến cố 30 tháng tư 1975, thuật lại cuộc di tản, thuật lại cuộc đời tha hương trên đất Mỹ... Chúng tôi đọc ông và thấy thấm thía, đau xót, đôi khi thấy những mảng đời mình. Ông đã thành công. Một thành công lớn, không phải tiểu thuyết gia nào cũng đạt được.

Viết những dòng này, không để tiễn Nguyễn Mộng Giác, bởi đối với nhà văn, ra đi là bước vào văn học sử, không có gì phải tiếc, không có gì phải tiễn. Ông đi, nhưng tác phẩm của ông ở lại. Khi nào chúng tôi còn đọc ông, khi nào đời sau còn đọc ông, ông còn hiện hữu.

Cũng không để "phê bình" ông, mà để chứng minh một điều: Nguyễn Mộng Giác là nhà văn của thực tại, của nhận xét tinh vi những gì xẩy ra trước mắt. Ông không phải là nhà văn của quá khứ, những gì trong quá khứ, qua tay ông, cũng trở thành thực tại. Ông là nhà tâm lý tiểu thuyết của hôm nay. Khi thực tại không còn gì thúc đẩy ông nữa, ông ngừng viết.
Thụy Khuê
Les Issambres ngày 12/7/2012

Chú thích:
1. Tuỳ bút 1, bản năm 1986, Văn Nghệ, trang 138, in là thàn hậu.
2 Sđd, trang 141.
3 Sđd, trang 142-143.
4 Trong bài Tựa này, ông viết là thàng hậu.
5 Tức Quách Tấn.
6 Văn số ra ngày 1/8/74, Sài Gòn (Chú thích của Võ Phiến).
7 Ngựa nản chân bon của Nguyễn Mộng Giác, Người Việt, Cali, tái bản, 1985, trang XIV.
8 Võ Phiến, bđd, trang XVI.
9 Phạm Phú Minh, Nói chuyện với Nguyễn Mộng Giác, Diendantheky.net
10 Phạm Phú Minh, Nói chuyện với Nguyễn Mộng Giác, Diendantheky.net
11 Ví dụ, ở Việt Nam có cụm từ "diễn biến hoà bình", rất thời danh.
12 Mikhail Bakhtine, Esthétique et théorie du roman (Mỹ học và lý thuyết tiểu thuyết, bản dịch từ tiếng Nga sang tiếng Pháp của Daria Olivier, Tel Gallimard, 2003, trang 88-89).


Đức Thánh Tử Vì Đạo Thứ Hai Mà Tôi Được Gặp


Kiều Duy Vĩnh 

Đức thánh thứ nhất là tu sĩ Đỗ Bá Lung từ Ngọc Đông, Hưng Yên đã chết ở Cổng Trời còn đức thánh thứ hai này thì bị bức hại tàn ác dã man ở trại Phong Quang, Lao Kay. 

Ngài tên là Lâm Đình Túy người Nam Hà, giáo dân địa phận Bùi Chu. Đức thánh này quyết liệt hơn, dứt khoát hơn, những điều mà Ngài Lâm Đình Túy làm thì chỉ có một không có hai, trước không có và sau này cũng không thể có.

Thủ bút và chữ ký của tác giả Kiều Duy Vĩnh
Trước Ngài, chúng ta ai cũng ngả mũ cúi đầu kính cẩn nghiêng mình.


Tháng Năm 1972.

Mỹ bỏ bom tại miền Bắc Việt Nam. Ngày 10 tháng Năm, cầu Long Biên lại bị đánh sập. Đến chiều ngày 11 tháng Năm 1972, tôi lại bị bắt lần thứ hai với tội phản cách mạng. Điều này không có gì là bất ngờ đối với tôi cả. Tôi đã chờ đợi nó từ năm 1971. Khi Tổng thống Mỹ Nixon cho trực thăng đổ bộ xuống trại tù binh Mỹ ở Sơn Tây để hòng cướp lại các phi công bị bắt tôi đã thấy tôi bị theo dõi từng bước. Luôn có một cái đuôi theo tôi.

Và đến năm 1976, khi cầm lệnh tha, tôi đọc thấy quyết định bắt tôi kể từ tháng Sáu năm 1971 thế mà mãi đến một năm sau tôi mới bị bắt kể cũng hơi muộn. Thiếu tá Công an Cường, thường gọi là Cường cao trực tiếp tới bắt tôi ở quê ngoại tôi: thôn Đông xã Hội Xá, Gia Lâm nơi gia đình tôi chạy bom sơ tán về đó.

Lúc công an xộc vào nhà, tôi đang sửa soạn đi tắm. Tôi cười, bảo với Cường cao là để tôi tắm xong rồi hãy bắt đi.

Cường cao rất tử tế bảo:

"Thôi, anh Vĩnh vào Hỏa Lò rồi hãy tắm."

Tôi bảo:

"Vào đó phải đến ngày đầu tháng mới được tắm chứ."

Cường cao bảo:

"Tôi hứa là sẽ để anh tắm trước khi vào xà lim."

Mẹ tôi và vợ tôi gào lên:

"Tội tình gì mà lại bắt người ta. Sao mà tàn ác thế. Đã giết người cướp hết của cải rồi mà vẫn không buông tha."

Cường cao ôn tồn bảo với vợ tôi:

"Chị bình tĩnh lại, yên tâm. Khi nào Mỹ chấm dứt bỏ bom chúng tôi sẽ cho anh ấy về."

(Thế mà mãi đến năm 1976 sau khi chiếm được Sài Gòn một năm, họ mới tha cho tôi về).

Tôi mặc quần áo đi theo Cường cao, ra đầu làng lên xe vào Hỏa Lò, vào ngục Cửu U vì phải đi qua chín lần cửa mới tới xà lim giam tôi. Với tôi Hỏa Lò quen thuộc quá. Tôi đã trải qua tất cả các xà lim ở đó lần bị bắt trước. Giữ đúng lời hứa, trước khi tống tôi vào xà lim, Cường cao bảo Quản giáo cho tôi đi tắm cẩn thận không giục giã gì. Tôi vốn con nhà binh, nên rất bình tĩnh trước mọi hiểm nguy, lần trước cũng như lần này. Tắm xong tôi ung dung tự tại ngồi thở Yoga chờ cơm.

Vì đã được nghe kể và đã rút kinh nghiệm từ lần trước, ngay ngày hôm sau, vợ tôi thăm nuôi tiếp tế cho tôi, muối vừng rất mặn, kẹo bột và chè lam. Mấy ngày đầu tôi không đến nỗi đói, và đã có chiều dài 10 năm tù trước, đã từng ở Cổng Trời, sức chịu đựng của tôi đã được tôi luyện nên tôi cứ ngồi thở Yoga. Ba bốn ngày trôi qua, chả có ma nào hỏi cung mình cả. Cường cao nghe nói hắc xì dầu lắm, mà sao lại lịch sự tử tế với mình thế.

Trước lúc vào xà lim, Cường cao bảo tôi:

"Anh chắc phải hiểu chứ, Mỹ lại bỏ bom. Vậy nên bắt lại anh là điều tất nhiên thôi. Chúng tôi buộc phải tháo cái ngòi nổ. Thôi, cứ đi trại ít lâu dừng ném bom là về."

Anh ta lại còn nói tiếng Pháp với tôi nữa:

"Chắc anh lại mỉa chúng tôi: La raison du plus fort est toujours le meilleur chứ gì."

Tôi im lặng vào xà lim không trả lời.

Một tuần trôi qua, rồi hai tuần. Cũng không ai hỏi han gì. Mà thực tình ra, còn gì nữa mà hỏi. Lần tù 10 năm trước khai báo ở ty Niết hết rồi. Lần này mới về được ít lâu thì lại bị bắt lại. Có gì để khai mà hỏi. Cũng mong đi trại cho nó yên một bề thế mà bỗng một hôm, được gọi lên hỏi cung. Mừng quá. Có dịp đi lại ra ngoài thở không khí.

Một cán bộ còn trẻ, ăn mặc chỉnh tề lịch sự. Hỏi toàn những chuyện đâu đâu: Bên Tây, bên Mỹ, bên Thái Lan và miền Nam. Tôi trả lời ấm ớ lửng lơ con cá vàng. và rồi đột ngột, tôi bảo là quên hết tất cả rồi. Anh ta vẫn rất từ tốn, bảo tôi cố nhớ lại, giúp cho anh ta có thể đánh giá chính xác đúng những con người ở xa xôi đó.

Tôi bảo:

"Tôi đang đói đây, đang ho lao đây, đang mệt rũ ra đây. Bây giờ là gần 11 giờ trưa rồi, tôi chưa được một hớp nước, chưa được một miếng gì cho vào bụng nên tôi đói lắm, mà dạ dầy đói thì không có tai để nghe. Xin để cho đến chiều hoặc mai. Đưa tôi về xà lim nghỉ thôi."

Tôi tưởng anh ta sẽ nổi cáu. Nhưng không:

"Thôi được, anh về, mai tôi sẽ gặp lại."

Sáng mai, tôi được gọi lên. Sau khi ngồi vào ghế, anh ta rút trong cặp ra hai cái bánh mì Badega kẹp thịt, một gói thuốc ho Rimifon, một bánh xà phòng thơm đưa cho tôi:

"Anh ăn đi. Còn các thứ này để dùng khi đi trại."

Giọng nói, ánh mắt đầy sự tử tế. Tôi ung dung ngồi ăn hết hai cái bánh mì và chờ đợi những câu hỏi hắc búa. Nhưng không, thấy tôi ăn xong, anh hỏi:

"Tôi đã đọc kỹ hồ sơ lý lịch của anh rồi. Đọc kỹ, nhưng chưa đầy đủ bằng gặp chính con người của anh. Hôm qua gặp, thấy anh nói bị đói và bị ho nên hôm nay tôi đem đến cho anh ít thuốc. Thế thôi nhé. Anh có thể về được rồi."

Và anh ta gọi Quản giáo dẫn tôi về xà lim. Tôi hơi ngạc nhiên trước sự việc đó. Lúc ấy là tháng Năm 1972. Năm 1976 tôi được tha, đến năm 1979 tôi đang đạp xe đạp ở phố Lò Đúc thì thấy có người gọi:

"Anh Vĩnh, anh Vĩnh."

Tôi quay lại không nhận ra ai. Anh ta cười bỏ mắt kính ra, tôi liền nhận ra anh: người cán bộ hỏi cung đã cho mình bánh mì và thuốc.

Tôi mời anh đi uống bia, anh từ chối và bảo:

"Tôi rất mừng là thấy anh trở về mạnh khỏe thôi, tôi xin lỗi vì có việc bận không đi uống bia với anh được. Chúc anh khỏe và gặp nhiều điều tốt lành."

Tôi cố nài mời anh, anh nhất quyết chối từ, bắt tay xin lỗi và đi. Tôi có hỏi tên anh, anh vờ như không nghe thấy và không trả lời. Cảm ơn anh.

Sau câu chuyện hỏi cung trên, tôi đi trại Vinh Quang (thuộc tỉnh Vĩnh Phú). Gặp lại một số người quen cũ, tay bắt mặt mừng, cứ như là đi phép trở lại đồn vậy. Kể cũng nực cười. Và chính ở trại này, tôi gặp một vị thánh tử vì đạo nữa: Lâm Đình Túy, người Nam Hà, giáo dân địa phận Bùi Chu.

Khi tôi lên trại Vinh Quang được ít lâu thì có một tu sĩ tên là Hiếu ở địa phận Thái Bình được thả về tự do. Nhưng chỉ độ ba tháng sau, lại thấy tu sĩ Hiếu bị bắt đem lên trại. Mọi người đều mừng mừng tủi tủi, và cũng coi như tu sĩ được đi phép về. Riêng giáo dân thì hồ hởi lắm. Hỏi ra thì mới biết là khi được tự do, Giáo Hội đã phong tu sĩ Hiếu làm Linh Mục và khi bị bắt lại Linh Mục Hiếu đã đem theo được "mình thánh" vào trại tù. Các tín đồ Thiên Chúa giáo một mực rất kính trọng Linh Mục Hiếu, săn sóc, chăm nom cực kỳ chu đáo, có quà gì cũng đem biếu: một ấm chè ngon, một củ sắn luộc, vài cái bánh ngọt mới được tiếp tế.

Linh mục Hiếu có dáng vẻ một trí thức nho nhã, trắng trẻo, đẹp trai, thông minh, trạc 35 tuổi. Một con người không có gì để chê trách, phàn nàn về mọi phương diện. Ăn ở, ứng xử với mọi người lúc nào cũng khiêm tốn, nhã nhặn tươi cười, hòa đồng với mọi lớp người trong tù không phân biệt chính trị hay hình sự.

Linh mục Hiếu lên trại Vinh Quang lần thứ hai thì được Phó Giám Thị Cự công bố với toàn trại tù là ông cha đạo Hiếu này chính là một tên lưu manh chuyên nghiệp. Mọi người cứ há mồm, ngớ ra không hiểu.

Cự giải thích như sau:

"Hiếu là một tên vốn lười biếng, thích ăn ngon mà không thích lao động, một tên ăn bám xã hội, trông mẽ người anh ta thì thấy ngay là loại ăn trắng mặc trơn, ăn ngon mặc đẹp nên đi tu, làm nghề tôn giáo, lừa bịp các giáo dân để kiếm ăn. Thử hỏi, dưới chế độ XHCN của chúng ta, những người yêu lao động có thể nào chấp nhận phần tử ăn bám đó. Trí thức như Hiếu, thì giá trị không bằng cục cứt (trích Mao Trạch Đông), mà trí thức gì cái anh ta: Học được mấy chữ "la tanh tưởi" đến nhà thờ rao giảng, lẽ thường ra khấn khứa thì cứ theo lối Việt Nam ta: gần bay là xa bay bổng mời các cụ về hưởng lộc cho con cháu. Nhưng y lại không khấn khứa như thế, y nói: 'Ca tê riom, ca thế dran,' ra cái điều cao siêu bí hiểm, nó có cái quái gì là bí hiểm đâu, nó là: cá trê rán, cá trê om nói trệch đi, thế thôi. Đấy y lừa bịp các giáo dân như vậy đấy. Chỉ để kiếm miếng ăn như mấy lão thầy cúng chập chững ấy mà.

Lần thứ nhất đã bị bắt tưởng vào tù đã cải tạo được, nên tha cho về làm người lương thiện. Nhưng vẫn chứng nào tật ấy, ngựa theo đường cũ, lại tiếp tục hành nghề nên phải bắt lại lần thứ hai. Như thế là y đã tái phạm nhiều lần. Vậy thì y đích là tên lưu manh chuyên nghiệp rồi còn phải thắc mắc gì nữa."

Phó Giám Thị Cự nói trơn tru láo liên như vậy với bộ mặt xám và lạnh, tù nghe không một ai dám cười cả. Còn tôi, tôi cứ ngớ cả người ra. Đến ngay cả ở trại Cổng Trời cũng chưa thấy giám thị, quản giáo nào dám giải thích như vậy cả.

Hắn nói gì thì mặc hắn, chúng tôi để ngoài tai. Nhưng với ông Lâm Đình Túy, thì những điều mà Phó Giám Thị Cự nói làm cho ông khó chịu. Và ông lại tỏ vẻ khó chịu hơn khi thấy các giáo dân cứ quây quần quanh Linh mục Hiếu để ăn uống, chè chén, quá chu đáo.

Thế rồi một ngày Chủ Nhật nghỉ, nhân lúc các tín đồ và Linh mục Hiếu đang ngồi ăn uống chuyện trò vui vẻ thì bác Lâm Đình Túy xuất hiện. Bác đứng trước mặt Linh mục Hiếu, chỉ tay nói với giọng giận dữ, Bác đọc một loạt những câu tiếng La Tinh ở trong Évangile cốt để cho Linh mục Hiếu nghe. Tôi không hiểu những lời đó có ý nghĩa mạnh mẽ ra sao, nhưng tôi thấy Linh mục Hiếu tái mặt đứng dậy bảo các con chiên giải tán, và từ đấy không thấy tập hợp nhau nấu nướng ăn uống gì nữa.

Sau chuyện này, cuộc sống ở trại Vinh Quang cứ lặng lẽ trôi. Có điều đối với riêng tôi, một đối tượng cần phải chuyên chính đàn áp thì mũi dùi của Phó Giám thị Cự luôn chĩa vào tôi. Vợ tôi lên thăm nuôi tiếp tế bị đuổi về không cho gặp và nhận.

Thỉnh thoảng tôi lại bị gọi lên lục vấn, chấn chỉnh đe dọa, và những buổi nói chuyện ở Hội trường đều bóng gió nói đến tôi: liệu hồn mà chịu phép cải tạo. Tôi được phân công vào toán già đan lát cùng với bác Lâm Đình Túy.

Bác Túy gầy yếu xanh xao. Rất ít nói. Nhìn bác, tôi lại nhớ đến tu sĩ Đinh Hiền Lương, dòng tu ép xác Châu Sơn, tù ở Cổng Trời với tôi và đã chết. Đầu cũng cắt ngắn gần như trọc, cả ngày chả nói một câu chuyện, cứ ngồi yên lặng lẽ nhìn, nhìn đấy mà chả nhìn thấy gì cả. Nhưng có một điều rất khác. Rất khác là khi làm việc thiêng liêng, bất cứ vào thời điểm nào, ngay cả trong lúc đang làm việc ở ngoài đồng, ngoài trại, bao giờ bác cũng quỳ xuống, kính cẩn cúi đầu như ở trong nhà thờ làm lễ. Bác để hết tâm trí vào việc cầu nguyện, lúc đó coi như không còn ai ở chung quanh, kể cả Giám thị trại, Quản giáo, lính coi tù, bác vẫn quỳ xuống mà nguyện cầu, ngang nhiên làm như thường. Mà có cái lạ nữa là những Giám thị và Quản giáo không làm gì để ngăn cấm bác cả.

Khi tôi lên trại tù Vinh Quang thì mọi việc đã diễn ra như vậy rồi, và vẫn tiếp tục diễn ra như vậy, mọi người đều cho đó là một chuyện bình thường làm tôi rất ngạc nhiên khi tôi đem so sánh với những chuyện đã xẩy ra ở trại Cổng Trời lần tù trước (1960-1970). Tôi có tò mò hỏi một giáo dân cùng quê cùng xứ đạo với bác Túy thì giáo dân đã cho tôi biết là từ khi bị bắt lên đến trại giam Nam Định bác đã làm như thế rồi. Giam mãi ở xà lim, cùm mãi rồi lại phải thả ra, bác vẫn cứ thế. Cuối cùng, các ban Giám thị ở trại dưới đành chịu thua bác, đành để Bác như vậy, cho đi cùm ở xà lim thì chính ban Giám thị lại mắc mưu của ông ta, ông ấy chỉ thích nằm xà lim thôi. Không bị ai quấy rầy, lại cơm bưng nước rót, cùm thì chân ông ấy chỉ bằng cái que tăm ấy, có cùm thì cũng như không. Thế là ban Giám thị lại lôi ra bắt đi làm. Ông đi ra, nhưng không làm gì cả. Đến chỗ làm là ông ngồi vào một góc rồi quỳ xuống cầu kinh. Xong thì lại ngồi im lặng nhìn. Rồi đi về trại. Thế thôi. Chắc là họ đã họp lên, họp xuống nhiều lần lắm rồi, để tìm một đối sách trị ông. Kết quả: là cứ đành để mặc ông ta như vậy. Nếu không chỉ còn một cách là giết ông ta đi mà thôi. Thời điểm giết ông thì chưa đến, nên mặc nhiên ông là người độc nhất trong trại được hưởng quyền ưu tiên như vậy.

Năm 1972 tôi lên trại Vinh Quang gặp ông, đã thấy ông như vậy. Cũng như tu sĩ Đinh Hiền Lương, ông rất ít nói, ông hay ngồi tĩnh lặng để nghe và nhìn, và chắc ông nhìn và nghe được nhiều điều lắm, nên ánh mắt ông nhìn tôi có rất nhiều thiện cảm. Chắc hẳn ông biết tôi đã đi tù nhiều năm, đã từng ở Cổng Trời, nên đôi lúc có trao đổi với tôi một vài điều, chứ không phải là một vài câu chuyện, tỷ như:

"Trước ông Vĩnh có ở Bùi Chu à?"

"Vâng, năm 1951-1952 tôi có đóng quân ở Hành Thiện ở cùng với Tiểu đoàn Công Giáo số 16. Tôi đã có hân hạnh được gặp Đức Giám Mục coi sóc địa phận Bùi Chu, Đức Cha Phạm Ngọc Chi."

Lần sau ông hỏi tôi:

"Ông có ở tù cùng với cha Hân không?"

"Có, tôi có được gặp cha Hân và được chứng kiến cái chết của cha Hân ở trong tù."

Lần sau nữa:

"Ông cũng có biết tu sĩ Đinh Hiền Lương dòng ép xác Châu Sơn à?"

"Vâng, tôi có ở trong tù cùng với tu sĩ Đinh Hiền Lương và tu sĩ Lương đã chết ở Cổng Trời rồi."

Ông hỏi ngắn gọn có thế, và chỉ cần tôi trả lời có thế, và thế là đủ.

Đã là tù thì phần lớn đều phải thấy rằng:

Thứ nhất được tha, Thứ nhì tiếp tế, Thứ ba "ăn mềm" (thịt). Được gọi ra tiếp tế, mừng ra mặt. Bồn chồn mong cho chóng đến lượt mình để được gặp người thân và được ăn no. Thế mà có lần tù ở phòng tiếp tế thăm nuôi vào gọi đích danh Lâm Đình Túy ra gặp người nhà. Ông ngước mắt nhìn lên không đáp lại. Người gọi là một tù hình sự nên anh ta văng ngay ra:

"Đ.m, còn chần chờ gì nữa. Nhiều lắm, thấy một gánh nặng cật lực. Nhanh lên đi."

Ông lại ngước mắt nhìn, không nói năng gì. Và rồi ông không ra gặp người thân để nhận đồ tiếp tế. Ở đôi mắt hiền từ của ông, tôi thấy ánh lên một điều quyết định gì đấy, nó giống như ánh mắt tu sĩ Đỗ Bá Lung ở Cổng Trời nhìn anh em trước khi đi xà lim và chết!

Thế rồi tháng Mười Hai năm 1972, Mỹ bỏ bom B52. Tôi và một số phần tử nguy hiểm, trong đó có ông được lọc ra dẫn vào trại C sâu ở trong núi. Chúng tôi bị lùa tuốt vào một hầm ngầm đào sâu dưới lòng núi. Nếu bom Mỹ mà bỏ gần đấy, hầm sập là chết hết khỏi phải chôn. (Cái hầm này gần chỗ xà lim, giam phi công Mỹ, anh Phan Hữu Văn biết rõ vị trí này).

Được vài ngày, thấy tình hình quá căng thẳng, họ vội vã chuyển chúng tôi lên Lao Kay ở trại Phong Quang. Hết Vinh Quang rồi lại Phong Quang. Sao mà họ khéo đặt tên hay đến thế cho các nhà tù ở miền Bắc này. Nào là Thanh Cầm Thanh Hóa: Đàn xanh, nào Ba Sao Nam Hà: Ba vì sao sáng, nào Hồng Ca Yên Bái: Bài ca mầu hồng. Trại Ngọc: Ngọc ngà châu báu. Yên Hòa Phú Thọ: Yên vui hòa thuận. An Thịnh Tuyên Quang: An ổn và thịnh vượng.

Đi tù mà Vinh Quang, và ở chỗ Phong Quang thoáng mát, thì nhất rồi còn phải kêu ca phàn nàn gì nữa.

Nhưng thật ra cái nhà tù Phong Quang này ở tít trong cùng tận của rừng xanh, núi đỏ, sát biên giới Việt - Trung nơi tận cùng của đất nước mà lại là Phong Quang thì cái tài dùng chữ "mỹ từ pháp," tài lừa bịp đã đạt tới mức siêu đẳng rồi.

Chúng tôi được chuyển từ trại Vinh Quang, lên Phong Quang, Lao Kay. Lên đến trại vào quãng nửa đêm. Trại ở sâu trong rừng và cũng phân ra A, B, C. Vì trại Cổng Trời được phong "Anh Hùng" nên các trại dưới đều phải học tập rút kinh nghiệm để noi theo.

Và nếu ta cho điểm Cổng Trời là 10 thì Phong Quang cũng được 7 hoặc là 8. Ở đây cũng ghê lắm. Có một Quản giáo ác ôn tên là Tằng, người Thái Bình, mặt da tai tái, mắt ti hí mắt lươn lại hơi toét, to béo, khỏe mạnh, vũ phu, tướng của một tên côn đồ đứng bến xe, cười cười nói nói, chuyên gọi tù bằng thằng. Khi cần, môi mím lại, mặt tái dại hẳn đi, lúc ấy là có chuyện giết người đấy.

Chúng tôi đến trại được Quản giáo Tằng tiếp đón chu đáo: đèn pin dọi vào mặt từng người, tay thọc ngay vào hạ bộ chộp lấy sờ nắn, khám xét.

"Thôi được, vào ngủ đi. Sáng mai sẽ hay."

Hắn bảo thế.

Và sáng hôm sau, tôi được chứng kiến một điều mà hai lần tù gần 15 năm tôi chưa thấy bao giờ, trước không có và sau này cũng khó có. Một chuyện động trời.



Quản giáo ác ôn Tằng, cầm bản danh sách tù đi đầu, theo sau lưng là một tiểu đội súng ống và một lũ tù hình sự tay sai làm trật tự viên trong đó có một tên hung ác nhất tên là Nhạn, người Hải Phòng.

Theo thường lệ, tù được gọi đến tên, ôm đồ đạc ra trước mặt Quản giáo, rồi để những tù hình sự trật tự viên lục lọi khám xét. Lần lượt như vậy. Cho đến lúc gọi tên Lâm Đình Túy. Không thấy trả lời. Ác ôn Tằng cao giọng đến lần thứ ba rồi cáu quát:

"Nó đâu? Thằng Túy đâu. Câm hả."

Trong lúc khám xét ai cũng lo lấy thân mình trông lấy đồ đạc của mình. Cũng chẳng biết ông Túy ở đâu để mà giúp đỡ cả. Lúc đó ông Túy đang quỳ ở một góc để làm việc thiêng liêng. Cũng như ở các trại dưới, như ở trong nhà thờ, ông quỳ xuống cúi đầu nghiêm chỉnh, đàng hoàng, đĩnh đạc cầu nguyện thành kính. Với ông lúc ấy không có ai ở chung quanh, không có chuyện gì xảy ra cả. Vì mới đến hồi đêm, nên chưa kịp bàn giao những gì chi tiết, và cũng chưa có thì giờ để đọc hồ sơ lý lịch từng người, nên hắn, Quản giáo ác ôn Tằng, cực kỳ giận dữ trước sự việc dám coi thường hắn đến như thế.

Hắn đã gọi, gọi đến ba lần mà thằng tù không thèm đáp lại. Lâu nay có thế này bao giờ đâu: hắn nói mọi người phải răm rắp tuân theo, bây giờ lại có một thằng tù chính trị dám coi thường hắn. Ác ôn Tằng lừ lừ đi đến. Sau này tôi mới được biết là tù ở đây sợ hắn như cọp, hắn đánh tù không tiếc tay, tự tay hắn đánh, mệt, hắn sai tù tay sai đánh tiếp cho hắn xem cho hả lòng ác độc và đánh cho đến chết. Có một tù hình sự còn trẻ, không biết lúc hắn đi qua, đùa với bạn, giơ tay giả làm súng bắn, miệng kêu: tằng, tằng, tằng. Thế là phạm húy, bỏ mẹ rồi. Hắn gọi ra cho ăn đòn và ít lâu sau ngấm đòn chết. Thành ra ai cũng sợ. Nhìn thấy hắn là sợ rồi. Con người hắn toát ra tử khí. Thế mà Lâm Đình Túy lại không biết điều đó.

Hắn lừ lừ đi đến. Hắn nắm gáy ông lôi đứng dậy, ông vốn nhẹ cân và gầy yếu.

"Mày là thằng Túy. Sao tao gọi mày không trả lời hả?"

Ông nhìn hắn, từ từ quay người đứng thẳng dậy trước mặt hắn. Và thật bất ngờ đối với tất cả, ông giơ tay tát thật mạnh vào tên ác ôn Tằng, rồi ông lại từ từ quay người quỳ xuống tiếp tục làm công việc thiêng liêng của mình.

Chắc chắn là đối với tất cả những người đi tù ở miền Bắc này, từ xưa cho tới lúc ấy chưa có ai, chưa có bao giờ một người tù dám tát vào mặt Quản giáo hay một người lính coi tù cả. Điều này xảy ra ngoài sức tưởng tượng của ác ôn Tằng nên hắn phản ứng rất là chậm chạp. Hắn đứng yên, hai tay thõng xuống mặt nghệt ra. Chúng tôi ngơ ngác bàng hoàng và chờ đợi. Đây là chuyện động trời ở trong trại tù. Tù đánh Quản giáo. Không phải là chuyện khi bị đánh thì chống lại, đánh lại mà lại ngang nhiên đánh tát vào mặt. 15 năm tù tôi chưa bao giờ thấy có chuyện ấy xẩy ra: Tù tát vào mặt Quản giáo ác ôn và Quản giáo đứng yên chịu trận. Đối với tù: Quản giáo là chủ nô. Đôi lúc tôi đã lẩn thẩn nghĩ rằng: Những kẻ nào bất tài, vô tướng, học thì dốt, đầu óc bã đậu, lại lười biếng thích ăn không thích làm nhưng lại muốn làm cha người ta, làm ông chủ người ta thì nên xin gia nhập làm ngành Công an làm Quản giáo coi tù. Làm Quản giáo sướng lắm chứ, có dưới quyền khoảng trên dưới 40 tên nô lệ. Gọi dạ, bảo vâng, sai gì làm nấy. Nếu láo xược, không nghe sẽ có ngay đòn trừng trị của chính Quản giáo, hay nếu không muốn ra tay thì đã có tay sai là mấy tên tù hình sự làm Trật tự viên. Ngoài ra còn có súng của mấy lính coi tù hỗ trợ nữa. Ngày ngày, cắp quyển sách, ngồi ghi ghi, chép chép, đi theo đến chỗ tù làm, chán thì đi tới đi lui bảo ban, sai phái. Hết giờ về, ăn cơm, ngủ. Mai lại thế. Vậy, hỡi ơi, hãy cho con cháu mình, người nhà mình, thằng nào mà ngu dốt đi làm Quản giáo.

Trở lại với ác ôn Tằng. Hắn đứng yên, mất đến gần một phút sau không có phản ứng gì. Lúc ông Túy tát xong, tôi sợ hãi chờ đợi một cuộc đánh đập trả thù tàn bạo. Nhưng không. Quản giáo ác ôn Tằng quay người đi ra cổng trại, theo sau là mấy tên tay sai trật tự viên.

Chúng tôi im lặng ngồi chờ. Độ nửa tiếng sau, Tằng quay vào, mắt tái đi vì giận dữ, cặp mắt ti hí mắt lươn hơi toét không nhìn vào ai. Đến trước mặt mấy cán bộ dưới quyền, hắn ra lệnh:

"Cho tất cả tù vào trại. Khóa cửa lại. Còn thằng Túy để lại cho tôi."

Chúng tôi lại lếch thếch ôm đồ của mình vào trong nhà. Còn lại một mình bác Túy, bác vẫn bình thản quỳ ở một góc cúi đầu cầu nguyện. Tằng chỉ tay, mấy tên trật tự xông vào khênh bác ra cổng trại.

Mãi đến chiều tối, những thằng ấy lại khênh bác về vứt một xó trong trại giam. Người bác rách nát. Nhưng mặt mũi không thâm tím, không chảy máu. Chỉ thấy bác nằm im, thoi thóp thở. Khi chúng quay ra, có mấy giáo dân người đồng hương đến chăm sóc cho bác. Bác nằm im không nói, không ăn. Họ chạy chữa cho bác, và chúng tôi được biết bác bị đánh què chân và gẫy hai cái xương sườn.

Sáng hôm sau chúng tôi lại được lệnh ra sân tập họp sớm hơn mọi ngày. Đến đây tôi xin ngắt quãng để kể một chút về một nhân vật thật đặc sắc mà tôi gặp ở trại Phong Quang này: Anh Hoàng Tiên Như người Nghệ An. Trong đoạn này tôi chỉ kể một chút ít về anh thôi, còn chúng ta phải đi nốt với Đức thánh tử đạo Lâm Đình Túy, người đã vác cây thánh giá của Chúa cực kỳ nặng nhọc và gian khổ này.

Tập họp ngồi đầy đủ ở sân trại. ban Giám thị và Quản giáo, lính coi lục tục kéo xuống. Mọi lần bình thường thì không có ban Giám thị, chỉ có Quản giáo và lính coi tù xuống nhận tù đi làm thôi. Vừa mới xuống đến nơi, chúng tôi đã thấy tiếng quát tháo ầm ầm ở phía hàng trên chỗ gần cổng trại. Rồi mấy tay tù trật tự tay sai xông vào đánh đấm lôi một người ra khỏi hàng. Khi người ấy đứng dậy, thì tôi thấy anh cởi truồng... thỗn thện. Cả trại cười ầm lên như vỡ chợ. Hỗn loạn. Đầu thì trọc, mặc một cái áo ngắn cộc rách tơi tả, cởi truồng, vừa đánh trả, vừa chạy vừa chửi. Anh cứ chạy quanh sân trại làm bọn tay sai mãi mới bắt được anh, lôi anh đi vào xà lim. Anh dẫy dụa, lăn ra đất, chửi bới om xòm với giọng Nghệ An:

"Đù cha chúng bây, choa có sợ cái củ c. choa đây này."

Anh tên là Hoàng Tiên Như người Nghệ Tĩnh, vốn là Đại úy Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Anh Hùng. Anh ở binh chủng Pháo Binh, đã từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Hoạt động cách mạng từ năm 1945 đã từng chỉ huy cướp chính quyền ở tỉnh Nghệ An. Thế thì tại sao anh lại đi tù? Anh bảo: "Tại vì tớ lấy vợ. Vợ tớ là con nhà địa chủ, lại là người theo đạo Thiên Chúa nữa cho nên chi bộ Đảng, cấp trên chính quyền không cho lấy. Nhưng tớ yêu vợ tớ quá đi mất thôi. Không lấy thì không thể chịu được. Thà chết, thế là tớ cứ lấy. Bị kỷ luật ra khỏi quân đội, tớ theo vợ về xứ đạo, tớ theo vợ tớ thôi chứ tớ không theo Chúa, không theo đạo. Ấy thế mà bị bắt vào đây đấy." Anh kể với tôi về anh như vậy và vỗ vai tôi bảo: "Cậu cũng Đại úy, tớ cũng Đại úy, hai thằng 'huề' nhé."

Vào tù anh gặp một người bạn chiến đấu cũ làm Phó Giám thị trại giam. Nghĩ lại tình cảm xưa cũ, Phó Giám thị cho anh làm vệ sinh quét dọn trên nhà ban Giám thị trại, và được hưởng quyền ưu tiên của tù tự giác, được đi lại tự do, được đun nấu, ăn uống đầy đủ. Nhưng có một hôm, một cán bộ Quản giáo sai anh làm một công việc gì đó, anh thấy bị xúc phạm, anh cầm chổi ném vào mặt Quản giáo và quát:

"Choa đấm c. vào cái mặt mày. Choa về trại tù đây."

Anh bỏ về trại, không lên ban quét dọn nữa. Về trại, anh không làm gì cả. Cứ ngồi nhà, đun nước pha chè uống, đến bữa, xuống nhà bếp lấy cơm lên ăn no rồi chửi đổng. Không ai làm gì anh cả. Kể cả ác ôn Tằng cũng tránh mặt làm ngơ.

Đôi lúc anh nổi cơn lên như hôm nay, anh ra xếp hàng thật sớm, cởi truồng ngồi ngay hàng đầu, cầm cái nón rách che hạ bộ, chờ đến lúc ban Giám thị xuống thì anh bỏ cái nón ra để cho các vị ấy xem. Và câu chuyện đã xẩy ra ầm ĩ như trên. Xong rồi cũng yên, nhưng không khí trang nghiêm thì không còn nữa. Ác ôn Tằng xuất hiện. Hắn giận lắm, giận lắm đấy. Không rào trước đón sau gì. Hắn đọc:

"Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc. Lệnh kỷ luật: Lâm Đình Túy.


"Cùm một chân. Ăn chín cân."
Lý do: Dựa vào ho ra máu vài lần.
Dù trói trăn giáo dục nhiều lần.
Lao động vẫn ù lì không chịu
(Thơ Nguyễn Chí Thiện)

Chắc hắn còn định làm một cái gì đấy để hòng trấn áp mọi người, nhưng bị Hoàng Tiên Như phá đám hắn không làm được, nên hắn đọc nhanh lệnh kỷ luật cho xong việc.

Thế là Lâm Đình Túy đi xà lim. Nhưng cho ông đi xà lim là lại mắc mưu ông như ở các trại dưới: ông chỉ mong có thế. Ác ôn Tằng nhận ra ngay. Chỉ mấy ngày sau, hắn lôi ngay ông ra khỏi xà lim, tay chân hết hạn cùm xiềng. Hắn bắt ông đi làm. Tất nhiên là ông không đi. Ông cứ nằm. Các giáo dân chăm sóc thuốc thang cho ông, ông dần dần tỉnh lại, có thể ngồi dậy làm việc thiêng liêng.

Thấy ông ngồi dậy được, ác ôn Tằng ra lệnh cho Quản giáo Cát phụ trách toán già đan lát, người khu 5 Bình Định tập kết ra Bắc, phải bằng mọi cách bắt Lâm Đình Túy lao động. Nhưng gọi ông, ông không ra tập họp. Sau khi nhận tù xong, Quản giáo Cát vào nhà giam, túm cổ lôi ông dậy. Kéo đi làm. Được một quãng, hắn mỏi, nghỉ tay, ông liền ngồi xuống không đi. Chúng tôi toán già lại ngồi xuống chờ. Hết mệt, Quản giáo Cát lại đến lôi ông dậy đi ông không đi. Cứ thế lằng nhằng mãi đến hai tiếng đồng hồ sau mới đến chỗ làm.

Quản giáo Cát mệt nhoài vào buồng nghỉ. Ông ngồi yên ở sân. Quản giáo Cát hết mệt; cầm một con dao, một thanh tre đến trước mặt bảo ông cầm dao chẻ nan. Ông không nhìn và cũng không trả lời. Hắn đặt dao xuống và đi vào nhà.

Sang đến sáng ngày hôm sau, rút kinh nghiệm hôm trước, hắn đưa toán ra chỗ làm rồi mới quay về trại lôi ông Túy đi. Cũng phải mất độ hai tiếng sau, hắn mới lôi được ông tới. Trời nắng nóng sớm, hắn mệt mồ hôi lã chã. Nhưng lệnh trên bắt hắn phải làm bằng được là: bắt Lâm Đình Túy lao động. Hắn lại cầm ra cho ông một con dao và một thanh tre. Ông vẫn cứ ngồi im. Hắn đặt trước mặt ông và đi vào nhà. Chắc hắn chán cái trò này lắm rồi. Vừa tức vừa mệt.

Đến hôm thứ ba. Dẫn toán ra chỗ làm xong, hắn quay về cùng với Toán trưởng, và cũng phải đến hai tiếng đồng hồ sau hắn mới lôi được ông đến chỗ làm. Giúp hắn làm được việc đó, ngoài Toán trưởng, lại có thêm một trật tự viên. Nhưng mà mệt quá. Hắn vào bàn giấy ngồi thở. Hắn cứ để ông ngồi ngoài sân cho mặt trời thiêu đốt, không đem dao và tre ra nữa. Chờ cho đến lúc gần trưa nắng thật gắt. Hắn đi ra chỗ ông, tay cầm một bó nan to, hắn để nắm nan xuống đất trước mặt ông. Hắn bảo:

"Thế này nhé. Anh Túy. Tôi được lệnh là bắt anh phải lao động. Lệnh như thế. Bây giờ đây tôi đưa anh nắm nan này, anh dùng tay đãi mỏng nó ra phơi nắng. Có thế thôi, xong việc anh vào trong nhà có bóng mát mà nghỉ. Ai lại cứ ngồi phơi nắng mãi thế."

Rồi hắn đứng chờ xem phản ứng của ông ra sao. Túy vẫn không nhìn hắn và không trả lời. Nắm nan vẫn y nguyên nằm trước mặt ông.

Đứng một lúc, hắn chán, chán lắm, và cái nắng thì nắng quá. Hắn chịu thua đi vào bàn giấy ngồi. Chiều đến, chả là ở chỗ lán làm việc có trồng chuối, có một buồng chuối chín hắn sai cắt ra phát cho tù mỗi người một quả, chính tay hắn, cầm một quả to, chín ngon nhất đến để trước mặt ông bảo:

"Thôi ăn đi vậy, rồi mà về."

Ông cũng không nhìn hắn và cũng không đáp lại. Đến lúc ra về quả chuối vẫn nguyên để đấy.

Sang đến hôm thứ tư. Sáng sớm đã thấy hắn xuống, vào tận nhà giam vẻ mặt hồ hởi bảo:

"Thôi từ hôm nay cho anh Túy nằm nhà."

Có lẽ hắn đã báo cáo lên Ban Giám thị về tình cảnh như vậy, không tài nào khuất phục nổi ông Lâm Đình Túy, ngoài chuyện giết ông. Và thế là Quản giáo Cát chịu thua. Nhưng chỉ riêng Quản giáo Cát chịu thua thôi, chứ tên ác ôn Tằng, cán bộ CA sai lại có thể chịu thua Lâm Đình Túy được. Cứ chờ đấy. Cứ đợi đấy. Rồi sẽ biết.

Ít lâu sau, tôi thấy ngày nào ác ôn Tằng cũng đảo qua, nhìn vào chỗ bác Túy nằm. Bác thì bác không nhìn thấy hắn. Chắc là hắn muốn Bác nhìn hắn lắm. Hắn tái mặt, đi tiếp.

Tôi cảm thấy có một điều gì đấy sẽ xẩy ra. Tôi chờ. Tôi lại thấy không khí im lắng, vắng lạnh của Cổng Trời những năm của thập kỷ 60 lởn vởn xuất hiện ở đâu gần đây. Cái mùi báo hiệu Thần Chết sắp đi qua.

Thế rồi Noel năm 1973.

Thường thì mọi năm lễ Noel là tù được nghỉ nhưng năm ấy, chính quyền đã ký sắc lệnh không cho nghỉ hay sao ấy. Tù làm sao mà biết được chuyện đó. thế là sáng ngày 25 tháng Mười Hai năm 1973, kẻng gọi tập hợp đi làm khua rộn rã. Mọi người nhìn nhau. Các giáo dân thì từ chiều hôm trước đã họp mặt tổ chức lễ Giáng Sinh và đêm Réveillon rồi, mà đến sáng hôm 25 cuộc vui mừng sẽ còn tiếp diễn nữa. Nhưng tiếng kẻng lại giục dã gay gắt hơn. Mọi người rất ngạc nhiên. Nhưng không ai ra tập họp cả. Ban Giám thị lại xuất hiện, trật tự viên tay sai lố ngố kéo vào. Họ vào từng nhà giam lùa ra tập họp. Nhưng không ai chịu ra cả. Lệnh:

"Đánh và lôi chúng nó ra."

Thế là cuộc đàn áp bắt đầu. Lũ đầu trâu mặt ngựa xông vào đánh tù. Tôi nhìn thấy ác ôn Tằng, theo sau là tên tay sai đắc lực nhất: Nhạn Hải Phòng xông vào chỗ bác Túy. Chúng hùng hổ lắm. Nhưng một điều bất ngờ xẩy ra. Cản đường chúng là tu sĩ Bạch Duy Vĩnh người Nghệ An, ông vốn bị què một chân, vì bị cùm ở xà lim nhiều ngày quá. Đi đứng ông đều phải chống gậy; thấy hai tên Tằng, Nhạn xông vào đánh bác Túy, ông cầm cây tre con để chống nạng ấy đứng chắn đường. Tên Nhạn xông lên trước, ông cầm cây tre quất vào mặt nó, tay kia đẩy tên Tằng lùi lại. Tôi cực kỳ ngạc nhiên và thán phục cử chỉ anh dũng cao cả tuyệt vời của tu sĩ Bạch Duy Vĩnh. Ông cân nặng độ 38 cân, cao độ 1 mét 50, xanh và gầy. Lúc nào ông cũng nhã nhặn tươi cười, giúp đỡ mọi người. Sống rất tư cách, đức độ và tử tế. Ông có cái tính là không cởi trần bao giờ, lúc còn áo may ô thì ông mặc may ô. Rách thì ông vá vào mặc, rách đến không vá được nữa thì ông cắt vải sô màu ra may áo may ô mặc. Thấy vậy, có lần tôi được nhà tiếp tế cho một đôi áo may ô, tôi đem biếu ông, nói thế nào tôi cũng không làm cho tu sĩ Bạch Duy Vĩnh nhận. Tôi vốn không hay mặc may ô chỉ cởi trần nên cuối cùng đem đổi sắn cho bọn tự giác hình sự. Tôi nhìn ông lúc đó, tôi liên tưởng tới một nhân vật của Đông Chu Liệt Quốc: Yêu Ly. Một mình ông ngang nhiên dũng cảm đứng chặn hai tên ác ôn to lớn. Nhưng ông không chống cự được lâu. Chỉ một cái đạp chân, một quả đấm là ông ngã quay lơ ra, và chúng xông đến ông Túy. Chúng đánh ông Túy không tiếc tay và lôi ông ra ngoài trại. Trại tù náo loạn. Cuộc săn đuổi trói đánh diễn ra ác liệt.

Mũi nhọn đầu tiên chĩa vào là bác Lâm Đình Túy, rồi đến các đấng bậc tu sĩ, chánh trương, trùm trưởng, đến giáo dân rồi nữa là đến chúng tôi những kẻ ngoại đạo nhưng chống bướng, cứng đầu cứng cổ, cũng bị đánh lôi ra sân trại.

Tôi vào loại khỏe, to con, nên tôi vẫn nhớ cho đến tận bây giờ, được phân công đánh tôi là tên Nhạn. Giá mà ở ngoài mà được ăn no thì không dễ gì nó đánh được tôi, nhưng ở tù ăn đói lâu ngày, sức khỏe giảm chúng lại đông nên tôi không chống cự được lâu chỉ được ít phút chúng đánh tôi ngã và lôi ra trói ở sân trại. Trong số bị đánh dã man, tôi thấy còn có nhà thơ Nguyễn Chí Thiện (tác giả Hoa Địa Ngục, tập thơ đã được giải thưởng của Pen Club quốc tế). Anh vốn gầy yếu và tù lâu quá lại có bệnh nên nó chỉ đánh anh vài đòn là anh đã gục xuống không dậy nổi. Chúng nó kéo lê anh sềnh sệch lôi ra sân.

Trời thì mưa và rét. Rét đến cắt ruột. Hôm ấy rét đến 0 độ và ở Sapa cách đấy độ 20km, có tuyết rơi.

Chúng nó lôi tất cả chúng tôi ra sân trại. Những ai bị liệt vào loại cầm đầu, chống bướng thì chúng trói cánh tiên treo tay lên hàng rào dây thép gai.

Trong số bị trói cánh tiên đầu hàng là bác Lâm Đình Túy, đến tu sĩ Bạch Duy Vĩnh (địa phận Xã Đoài), rồi đến tu sĩ Khải (nhà thờ Hàm Long, Hà Nội), cạnh đó là bác Hải, cha đẻ của tu sĩ Khải, nhà ở phố Ngô Thời Nhiệm. Cả hai cha con đều bị bắt đi tù, và ở cùng một trại, nay lại bị đàn áp trói cùng một dây. Đây là một gia đình Công giáo đáng kính trọng, đáng khâm phục. Bao giờ gặp bác Hải và tu sĩ Khải tôi đều kính cẩn cúi chào. Bác Hải giờ đã chết, còn tu sĩ Khải nay đã trở thành Linh mục nhà thờ Lớn. Thật là xứng đáng. Trong số bị trói ấy còn có thêm tôi và nhà thơ Nguyễn Chí Thiện.

Trói cánh tiên có nghĩa là trói quặt hai cánh tay ra sau lưng. Đầu tiên lấy một đoạn dây gai nhỏ trói hai ngón tay cái lại với nhau, rồi đến lấy dây thừng to trói hai cổ tay ngoặt lại với nhau, ngực nhô ra, đầu bị ấn xuống, hai tên ác ôn lôi hai tay treo ngược lên hàng rào dây thép gai.

Tôi nhìn thấy bác Lâm Đình Túy nhắm mắt rũ xuống.

Trói chừng độ một tiếng đồng hồ thôi thì đã khó thở, hai tay tê dại đi, ngực đau buốt, không còn điều khiển nổi cơ quan bài tiết nữa. Đau đớn lắm. Quằn quại dưới trời mưa, khát, đói, mệt. Lúc đó cuộc đàn áp đã lắng xuống. Chúng không bắt được mọi người đi làm, chúng bèn đổi giọng cho dọn vệ sinh trong trại tù chứ không được nghỉ. Mấy người tù hình sự đi qua chỗ chúng tôi bị trói, thấy đau đớn quá bèn xui:

"Sao các bác các anh không xin các ông ấy, để các ông ấy nhẹ tay cho có đỡ hơn không?"

Chúng tôi bị đánh bị trói đau đớn lắm nhưng không một ai van xin cả. Chúng tôi chỉ kêu lên thôi. Kêu trời vì đau đớn quá.

"Trời ơi, đau quá."

Thế thôi.

Độ hai tiếng đồng hồ sau, chúng tôi được cởi trói cho vào cùm ở xà lim. Tôi nghĩ là chỉ kéo dài thêm độ một tiếng nữa thì sẽ có người chết tại đó. Phần tôi, tôi đã ngoắc ngoải rồi. Mắt hoa, đầu váng, rồi vào trạng thái hôn mê không còn biết gì nữa. Lúc nó cởi trói lôi tôi vào xà lim tôi loạng quạng quay cuồng không biết nó lôi mình đi đâu.

Vào đến xà lim độ một tiếng sau thì tỉnh dần lại, và phải đến sáu tháng sau hai tay mới hết tê dại. Vào xà lim hai tay được tự do, thì các chân lại đút vào cùm. Cái cùm cố ý làm bé để co quặp vào cổ chân nghiến nát thịt ra. Cơ thể phản ứng lại và lên cơn sốt. Người nóng hừng hực. Gian xà lim bên cạnh, tôi thấy tiếng tu sĩ Bạch Duy Vĩnh gọi thất thanh, hốt hoảng:

"Ông Túy, ông Túy tỉnh lại đi. Tỉnh lại đi."

Không có tiếng trả lời, và một lúc sau, tu sĩ báo cho mọi người biết là bác Lâm Đình Túy đã chết.

"Các anh, các bác ơi, ông Túy chết rồi." Tu sĩ Bạch Duy Vĩnh kêu to lên như thế.

Chúng tôi im lặng kính cẩn cúi đầu trước cái chết của Đức thánh tử vì đạo Lâm Đình Túy. Chúng tôi nhìn nhau đau đớn. Không ai có thể làm gì hơn trong lúc này. Chân bị cùm, cùm nó cắn chân. Thể xác bị hành hạ đánh đập đến tả tơi, mặt mũi xưng vù. Mọi người thoi thóp sống, và tôi, tôi thấy cái chết đã đến gần.

Tôi quay sang anh Nguyễn Chí Thiện, anh cũng đã lả đi rồi. Chỉ còn mỗi một tu sĩ Bạch Duy Vĩnh là còn tỉnh táo thôi. Cái chân què của ông bị teo lại bé lắm cái cùm không cắn, không làm gì nổi cái chân ấy. Sức chịu đựng của ông lại lớn nên chỉ còn có riêng ông là còn sức mà thôi. Ông nhắc nhở, khuyến khích nâng tinh thần mọi người lên bằng cách gọi tên từng người, đánh thức họ dậy làm cho họ tỉnh lại. Ông hỏi han ân cần bằng giọng nói chân tình ấm áp:

"Bác Hải ơi, anh Khải ơi, tỉnh lại đi, ngồi dậy đi đừng nằm liệt nữa."

"Anh Thiện ơi, dậy rồi thì lấy tay mà xoa bóp cho máu nó lưu thông đi."

Tôi rũ xuống sau cái chết của bác Lâm Đình Túy, nay được tu sĩ Bạch Duy Vĩnh gọi đánh thức dậy. Tôi ngồi lên, và cố sức thở yoga mong mình sống lại được. Chân tôi sưng tấy, đỏ bầm. Tôi nghĩ có lẽ mình không chịu nổi đêm nay.

Trời tối đen, xà lim lại còn tối đen hơn.

Đột nhiên có tiếng mở cửa xà lim, đèn thắp sáng ở xà lim bên. Có tiếng mở cùm. Hai người tù hình sự cùng Quản giáo trưởng vào, bó chiếu bác Lâm Đình Túy đem đi chôn ngay đêm đó. Một lúc sau cửa lại mở. Tôi được mở cùm, Nguyễn Chí Thiện được mở cùm, bác Hải bố tu sĩ Khải được mở cùm, bác Thiều già người Hà Tĩnh cũng được mở cùm.

Sau này chúng tôi được biết là sau khi họp Ban Giám thị lệnh không cùm những người không theo đạo Thiên Chúa, và những người già yếu. Tôi và anh Thiện là người ngoại đạo, bác Hải bác Thiều thì già. Còn lại hai tu sĩ Bạch Duy Vĩnh, tu sĩ Khải thì tiếp tục bị cùm.

Tôi về đến trại. Người lạnh cóng, chân sưng to. Hai bàn tay vẫn còn tê dại, hai ngón tay cái không còn cảm giác nữa.

Anh Hoàng Tiên Như đón tôi và Nguyễn Chí Thiện ngay tại cửa. Anh dìu hai chúng tôi vào chỗ anh nằm. Anh bao giờ cũng được quyền ưu tiên: Có một lò than củi để sưởi, để nấu nướng. Anh cho thêm than, thổi lửa to chúng tôi hơ tay hơ chân, anh nấu cháo cho tôi và anh Thiện ăn, anh xoa bóp cho chúng tôi. Người tôi dần dần ấm lại và tỉnh táo lên. Cám ơn anh lắm, anh Hoàng Tiên Như. Giờ anh ở đâu? Làm sao mà tôi gặp được anh để trả ơn anh, để đền đáp lại tấm lòng hào hiệp của anh, đã cứu chúng tôi trong giây phút khốn cùng nguy hiểm đó.

Tôi xin phép được viết thêm một đoạn nữa về lễ Noel trong trại tù. Từ năm đó, 1973, tù không được nghỉ lễ Giáng Sinh. Năm 1973 ở trại Phong Quang, Lao Kay đã xẩy ra câu chuyện trên. Và Đức thánh tử đạo Lâm Đình Túy đã chết vào dịp đó.

Sang đến năm 1974, đến lễ Noel vẫn ở trại Phong Quang, sáng ngày 25 tháng Mười Hai kẻng vẫn đánh, vẫn xua người tù ra tập họp đi làm. Tôi là người ngoại cuộc đi làm hay không đi làm không có gì quan trọng đối với tôi cả. Nhưng tôi thấy đầu tiên là tu sĩ Bạch Duy Vĩnh, tu sĩ Khải, bác Hải, cố Thiều cùng một số người nữa như Đậu Xuân Dung người Hà Tĩnh... ôm chăn chiếu của mình, đi đến ngồi ở cửa xà lim kỷ luật. Còn các giáo dân khác và chúng tôi những người ngoại đạo thì ngồi im chờ.

Kẻng lại khua một lần nữa. Ban Giám thị, Quản giáo, lính coi tù, lại xuống. Có điều lính coi tù xuống nhưng không đeo súng theo. Họ vào trại và tuyên bố: Khám trại. Mọi người đem chăn chiếu quần áo ra sân để lục soát. Những người đã đem ra rồi, đang ngồi chờ ở cửa xà lim thì được khám trước xong đuổi về trại giam và cho nghỉ luôn cả buổi chiều. Cuộc khám xét trại diễn ra nhanh chóng, qua loa cho phải phép, rồi thì ai về nhà nấy. Mọi chuyện diễn ra êm ả, gọn gàng. Ban Giám thị lên ban, lính coi tù về doanh trại.

Chúng tôi những người tù năm ấy, 25 tháng Mười Hai năm 1974, lại ngồi cùng nhau hưởng một ngày nghỉ yên lành thoải mái.

Trên đây là câu chuyện Giáng Sinh của trại tù Phong Quang, Lao Kay năm 1973, 1974, tôi xin chép lại để các quý vị rõ.

* Ghi chú của tác giả: Những tên người, tên đất, tên trại tù đều là thật, không có hư cấu gì. Vẫn còn đất ấy, song một số trại tù đã giải tán, tù thì có người đã chết, có người vẫn còn sống để kể lại câu chuyện này.


Kiều Duy Vĩnh 
     Thế Kỷ 21 #100 Tháng 8, 1997


Thứ Sáu, 13 tháng 7, 2012

BBC - Asean tiếp tục chia rẽ về Biển Đông


BBC

Tin từ nơi họp hội nghị khu vực ở Phnom Penh cho hay tới cuối ngày thứ Năm 12/7, Asean vẫn chưa đưa ra được thông cáo chung của khối vì vướng mắc trong ngôn từ về Biển Đông.


Điều này cho thấy nội bộ khối vẫn còn chia rẽ sâu sắc trong chủ đề quan trọng đối với an ninh khu vực.
Trong khi đó, có tin Campuchia cáo buộc Việt Nam và Philippines 'bắt nạt' các nước khác trong quá trình bàn thảo nội dung thông cáo.

Thông tấn xã Nhật Bản Kyodo dẫn nguồn ngoại giao Campuchia nói Việt Nam và Philippines yêu cầu Asean phải có lời lẽ cứng rắn phản ánh được quan điểm của hai nước này trong tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông.

Một quan chức ngoại giao Campuchia mô tả lập trường của quan chức Việt Nam và Philippines là 'bắt nạt' (bullying) nước khác.

Campuchia, chủ tịch Asean năm 2012, không hài lòng với đòi hỏi của hai nước này.

Theo Kyodo, Việt Nam yêu cầu thông cáo chung nhắc tới "ranh giới trên biển của khu vực kinh tế đặc quyền và tranh chấp thềm lục địa giữa Philippines, Việt Nam và Trung Quốc", trong khi Philippines muốn đề cập tới "Bãi cạn Scarborough " trong văn bản.

Yêu cầu trên không được chấp nhận, khiến mười nước Asean không thống nhất được thông cáo chung, thường được đưa ra vào cuối các hội nghị cấp cao Asean như thông lệ.

Campuchia cảnh báo rằng nếu tình trạng bất đồng này tiếp diễn thì có thể sẽ chẳng có thông cáo chung nào hết.

'Nổi nóng'

Ngay tại cuộc gặp ngoại trưởng Asean và Trung Quốc một hôm trước đó, tranh cãi về ngôn từ thông cáo chung trong đoạn liên quan đến Biển Đông đã khá gay gắt.

Các nguồn tin cho hay Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì nói tại cuộc họp này rằng "một số thành viên Asean đã có hành động khiêu khích đơn phương trong chủ đề Biển Đông".

Không khó để đoán ra đây là Việt Nam và Philippines, hai nước mới đây có đối đầu trực tiếp và căng thẳng với Trung Quốc quanh vấn đề chủ quyền.

"Dường như Campuchia đã được hiệu lệnh nghiêm khắc từ nước lớn này [Trung Quốc] (trong việc bác yêu cầu của Việt Nam và Philippines) " - Một quan chức ngoại giao tại hội nghị Asean

Thông tấn xã Pháp AFP có mặt tại chỗ thì trích lời quan chức Mỹ quan sát hội nghị nói rằng đã có sự nổi nóng trong giới chức tham gia.

Ông này nói: "Đa số các đại diện Asean thừa nhận rằng tổ chức này đang chịu áp lực và căng thẳng to lớn để giữ đoàn kết khi đối mặt các thách thức nghiêm trọng, chủ yếu liên quan tới chủ đề Biển Đông".

Quan chức Hoa Kỳ này cũng nhận xét rằng Indonesia, nước cũng có tuyên bố chủ quyền chồng lấn tại Biển Đông, lại bất ngờ tỏ ra thiết tha muốn thỏa hiệp để đạt đồng thuận.

Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa nói với các phóng viên rằng ông vô cùng thất vọng khi hội nghị Asean lần này không đưa ra được tiếng nói chung về Biển Đông.

"Tôi nghĩ thật là thiếu trách nhiệm nếu như chúng ta không thể đưa ra được một thông cáo chung về Biển Đông".

Ông nói đã xem tới 17 hay 18 văn bản nháp của thông cáo này, tất cả rồi lại bị hủy bỏ vì không được các thành viên ký duyệt.

Một nhà ngoại giao khác được AFP dẫn lời cho hay sở dĩ Campuchia bác chấp bút của Việt Nam và Philippines là vì "áp lực vô cùng căng thẳng từ một nước lớn", ám chỉ Trung Quốc.

"Dường như Campuchia đã được hiệu lệnh nghiêm khắc từ nước lớn này".

Không có tiến triển về COC

Diễn đàn an ninh khu vực ARF 19 cùng các cuộc hội nghị Asean, Asean+3 trước đó đều không mang lại được điều gì mới trong thúc đẩy đàm phán một bộ Quy tắc Ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (COC).
Thông cáo của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh cuối ngày thứ Năm chỉ nói ngắn gọn những lời đã cũ.


Việt Nam bị cáo buộc 'bắt nạt' nước khác

Thông cáo nói ông Minh đã "phát biểu bày tỏ quan ngại về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông, vi phạm tới quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển; nhấn mạnh các nước phải tôn trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và Công ước Luật biển của LHQ 1982, trong đó có các quy định về tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển; không sử dụng vũ lực và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)".

Trong khi đó, báo chí Trung Quốc thậm chí còn không hề nhắc tới chủ đề Biển Đông khi phản ánh các cuộc họp của Ngoại trưởng Dương Khiết Trì tại Campuchia.

Việc đàm phán giữa Asean và Trung Quốc về COC, vốn đã được Asean thống nhất nguyên tắc, xem ra chưa thể bắt đầu sớm để hoàn tất vào tháng 11 này như Asean trông đợi.

Ngày 12/7, Hoa Kỳ và châu Âu cũng ra tuyên cáo chung, trong đó lặp lại quan điểm về Biển Đông rằng hai bên "sẽ hợp tác với các đối tác châu Á nhằm tăng cường an ninh hàng hải dựa trên luật pháp quốc tế như quy định trong Công ước LHQ về Luật Biển; cũng như hỗ trợ các biện pháp tăng cường lòng tin nhằm giảm nguy cơ khủng hoảng và xung đột".

"Về Biển Đông, châu Âu và Mỹ tiếp tục khuyến khích Asean và Trung Quốc thúc đẩy COC và giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và trên biển thông qua giải pháp hòa bình, ngoại giao và hợp tác".


Nguyễn Văn Khanh - Cô này là ai vậy?


Nguyễn Văn Khanh

Trong cuộc họp báo mới kết thúc ở Phnom Penh hồi xế chiều Thứ Tư, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton nhắc lại điều các viên chức cao cấp hành pháp và lập pháp Mỹ từng nhiều lần nói trước đây: “Bắc Hàn phải đình chỉ ngay mục tiêu chế tạo võ khí nguyên tử, phải lo cho đời sống và nguyện vọng của người dân.”



Người phụ nữ bí ẩn (trái) đứng cạnh lãnh tụ Kim Jong-un của Bắc Hàn. (Hình: AP Photo/Korean Central News Agency via Korea News Service)  

Ngay sau khi cuộc họp báo kết thúc, các hãng thông tấn quốc tế nhận được bản thông cáo gửi từ Bình Nhưỡng của Bộ Ngoại Giao Bắc Hàn, trong đó cũng nhắc lại điều mà các nhà lãnh đạo quốc gia nổi tiếng khép kín này từng nói trước đây: “Hoa Kỳ vẫn theo đuổi mục tiêu xâm chiếm chúng tôi bằng giải pháp quân sự, vì thế để đảm bảo an ninh lãnh thổ, chúng tôi chỉ còn một cách duy nhất là phải có bom nguyên tử.”
Tranh cãi giữa Washington và Bình Nhưỡng kéo dài đã nhiều năm qua, ít nhất cũng từ ngày ông Bill Clinton còn ngồi ở Tòa Bạch Ốc, sau đó đến phiên ông chủ mới George W. Bush đặt Bắc Hàn trong danh sách những nước nằm trong “trục ma quỷ,” và kéo dài cho tới khi ông Barack Obama lên nắm quyền. Lúc đầu, vị tổng thống đương nhiệm của nước Mỹ nói sẽ dùng “chính sách ngoại giao khôn khéo,” “sẵn sàng nói chuyện với các nước thù nghịch để giải quyết vấn đề,” nhưng cuối cùng cũng chính ông Obama bảo với mọi người rằng Hoa Kỳ luôn luôn sẵn sàng đàm phán với Bắc Hàn “nhưng với điều kiện Bình Nhưỡng phải ngưng mọi hoạt động liên quan đến nguyên tử và cho đoàn thanh tra quốc tế vào giám sát tại chỗ.”

Giữa lúc cuộc tranh cãi giữa Washington và Binh Nhưỡng không có dấu hiệu sẽ kết thúc, các chuyên gia về Bắc Hàn của Hoa Kỳ lại “bận rộn” về một chuyện khác: Cô gái xinh đẹp xuất hiện bên cạnh lãnh tụ Kim Jong-un là ai? Sự xuất hiện này có phải là dấu hiệu nhà lãnh đạo trẻ tuổi của Bắc Hàn cởi mở hơn cha ông của ông hay không? Và nếu đúng thì điều đó có nên xem là dấu hiệu ông sẽ đổi mới chính trị hay ít nhất, có đường lối thân thiện hơn với Hoa Kỳ và Tây Phương hay không?

Chuyện nghe có vẻ như tin “lá cải” nhưng hoàn toàn đúng sự thật, sau khi thắc mắc được chính các chuyên gia thường xuyên lên tiếng bình luận về tình hình Ðông Á hỏi lẫn nhau: Cô đó là ai vậy? Câu hỏi được đặt ra vì chỉ trong một tháng trời, cô thiếu nữ xinh đẹp mặc váy mầu đen đứng bên cạnh Kim Jong-un tới hai lần, và đến bây giờ chính các viên chức của Cơ Quan An Ninh Tình Báo Quốc Gia lẫn cơ quan CIA của Mỹ cũng phải lắc đầu chịu thua, người bảo đó là vợ, người bảo đó là tình nhân và cũng có dư luận cho rằng đó là một cô em gái của lãnh tụ Kim Jong-un mà thế giới không hề hay biết.

Tháng trước, dân chúng Bắc Hàn lần đầu tiên thấy hình ảnh cô gái này được chiếu trên truyền hình khi cùng lãnh tụ của họ dự một chương trình nhạc dành cho thiếu nhi, tuần rồi họ lại thấy cô ta xuất hiện chung với lãnh tụ trong chương trình hòa nhạc với chủ đề biểu dương tinh thần của phụ nữ dưới chế độ cộng sản. Lần nào cô này cũng mặc bộ quần áo khá giống nhau, đi kèm với mái tóc ngắn búi ở sau gáy, miệng thường xuyên nở nụ cười thật duyên dáng.

Nhưng cô này là ai vậy?

“Chắc chắn phải là người có liên hệ rất mật thiết với Kim Jong-un,” nhà phân tích Lee Huyn-min, từng làm việc với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, trả lời. “Lãnh tụ cộng sản ít khi xuất hiện với phụ nữ, mà cô này một tháng đứng bên cạnh Kim Jong-il tới hai lần thì phải là người thân thiết lắm.”

Nhưng thân thiết tới mức nào? Tùy theo người được hỏi và tùy theo các bài báo đã được loan tải, thế giới biết được cô ta dưới những tên khác nhau và vị trí cũng khác nhau. Tờ Chonsun Ilbo đưa tin nói cô ta tên Kim Yo-jong, cô em gái út của lãnh tụ Bắc Hàn. Ngay sau khi bài báo này được phổ biến, một độc giả viết thư yêu cầu đính chánh với lý do em gái của Kim Jong-un là một thiếu nữ khác, đứng ngay sau lưng lãnh tụ trong tang lễ của cha là Kim Jong-il. Lá thư này còn viết rằng: “Nếu tang lễ của cha mà không được đứng bên cạnh anh mình thì không có lý do gì để cô em được đứng sát bên anh trong những chương trình hòa nhạc.”

Nếu giải thích đó là đúng, thì cô này phải là vợ hay người tình của Kim Jong-il. Trích dẫn tin nói là phát xuất từ các viên chức tình báo Nam Hàn, tờ báo mạng rất uy tín JoonAng cho biết cô ta tên là Hyon Song-wol, một ca sĩ nổi tiếng của miền Bắc, từng có thời là người yêu của Kim Jong-un. Ði kèm theo bản tin này là hình ảnh cô ca sĩ - theo tờ báo - chụp hình chung với tân lãnh tụ trong một chương trình hòa nhạc hồi Tháng Ba vừa rồi, nhưng lúc đó cô đang mang thai.

Như vậy, lãnh tụ trẻ tuổi của Bình Nhưỡng mới có con? Câu trả lời: Không hẳn như thế. Trước hết là vẫn theo tờ báo mạng JoonAng, tin tình báo Nam Hàn thu lượm được nói cô Hyon Song-wol là người yêu đầu đời của Kim Jong-un lúc anh này vừa mới lớn, nhưng sau đó bị chính cha của lãnh tụ là ông Kim Jong-il cấm cửa vì không chấp nhận con mình yêu thương ca sĩ, đồng thời bắt cậu quý tử phải chăm lo học hành để sau này nối nghiệp.

Bản tin này không sôi nổi cho bằng tin phổ biến trên báo chí Nhật mà tờ JoonAng cho đăng tải lại, đại để cho hay sau ngày bị ông bố chồng tương lai chia duyên rẽ thúy, cô Hyon Song-wol lập gia đình với một sĩ quan của quân đội Bắc Hàn và hai người có con với nhau. Sinh con chẳng bao lâu thì “tình cũ không rủ cũng tới,” hai anh chị quyết định nối lại tình xưa, cho dù cô ca sĩ xinh đẹp “chưa làm giấy ly dị chồng.” Tất cả các bài bào đều không nói gì đến đứa con cô này mới sinh, không cho biết đứa bé là con trai hay con gái, đang ở với bố hay với mẹ.

Bất kể câu chuyện tình sử giữa nhà lãnh tụ trẻ tuổi với cô thiếu nữ xinh đẹp tuổi chừng đôi mươi ngồi bên cạnh đúng hay sai, sự xuất hiện của cô ta trước ống kính truyền hình và được chiếu cho mọi người xem “vẫn là một sự kiện đáng được chú ý tới,” theo chuyên gia Bruce Bennett của Viện Nghiên Cứu Quốc Phòng Rand Corp. Ông Bennett nhắc lại từ ngày lên kế vị cha cho đến giờ, nhà lãnh tụ trẻ của Bắc Hàn đã làm nhiều điều mà các lãnh tụ cộng sản không hề làm, từ chuyện “cho chiếu đoạn phim thất bại trong vụ phóng thử hỏa tiễn tầm xa, cho đến chuyện liên tiếp xuất hiện với một phụ nữ trước công chúng.” Ðiều đó “có nghĩa là anh ta muốn chứng tỏ mình thật sự là người lãnh đạo.”

Nhưng liệu có thể xem đó là dấu hiệu Kim Jong-un sẽ “đổi mới” hay không? Câu trả lời nghe được từ các viên chức hành pháp Hoa Kỳ: “Chờ xem mới biết được.” Một viên chức chuyên về tình báo nhắc lại vài chục năm trước đây, “phải chờ 15 năm mới biết ông nội của Kim Jong-un có gia đình,” lúc đó cũng có người xem đó là một dấu hiệu của thay đổi, của cởi mở, “nhưng cuối cùng có thấy gì đâu.”