Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012
Phạm Cao Dương - Góp Phần Nhận Định về Sự Du Nhập Của Nho Giáo Vào Việt Nam Dưới Thời Bắc Thuộc
Phạm Cao Dương
Do thời gian quá dài của thời Bắc Thuộc, nhiều người thường cho rằng Nho Giáo đã được người Tàu truyền bá mạnh mẽ vào nước ta qua chính sách đồng hóa của họ. Điều này không hoàn toàn đúng. Sự truyền bá này chỉ diễn ra một cách giới hạn trong ít thế kỷ đầu của kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo và rất yếu ớt trong những thế kỷ kế tiếp. Các nhà nghiên cứu về lịch sử, tư tưởng và văn học Việt Nam thời cổ gần đây hầu như đều đồng ý về nhận định này. Câu hỏi tiếp theo được đặt ra là tại sao trong một thời gian dài tới mười thế kỷ như vậy mà nguồn tư tưởng nòng cốt của sinh hoạt chánh trị, văn hóa, xã hội và luôn cả kinh tế của người Tàu đó đã không được phổ biến sâu rộng ở nước ta? Có phải là vì nó đã được “du nhập bằng con dường nô dịch” hay vì “nó tượng trưng cho sự kỳ thị và áp bức dân tộc” nên không được nguời Việt Nam hưởng ứng hay còn có nhũng nguyên nhân nào khác? Trong bài này người viết chỉ cố gắng góp một phần nhỏ vào việc đi tìm những giải đáp cho câu hỏi nêu trên bằng cách duyệt lại những nhận định của các nhà nghiên cứu thời trước và hiện tại dựa vào những tài liệu đã được rộng rãi lưu hành nhưng chưa được tận dụng khai thác. Công việc tìm kiếm, đào xới chắc chắn còn phải được thực hiện nhiều hơn nữa vì đây là một vấn đề then chốt liên hệ đến những diễn tiến sau này của lịch sử và văn hóa dân tộc. Bài viết bao gồm ba phần chính, bắt đầu bằng những dữ kiện đã được ghi nhận, tiếp theo là thực trạng của việc truyền bá và sau đó là những lý do khiến cho Nho Giáo đã không được truyền bá sâu rộng ở Việt nam dưới thời Bắc thuộc.
Những dữ kiện đã được ghi nhận
Các nhà nghiên cứu lịch sử, tư tưởng và văn học Việt Nam từ Ngô Sĩ Liên, Ngô Thời Sĩ, các tác giả của bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thời Nhà Nguyễn đến các học giả cận đại và đương thời như Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm, Lê Thành Khôi các tác giả của Lịch Sử Việt Nam, tập I xuất bản ở Hà Nội năm 1971 và 1991 … đều ghi nhận những sự kiện liên hệ tới Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, Lý Cầm, Lý Tiến, Trương Trọng, Khương Công Phụ, các trí thức người Tàu chạy sang Cổ Việt dưới thời Vương Mãng hay sau khi Hán Linh Đế mất… như là những sự kiện liên hệ tới việc Nho Giáo được truyền bá vào nước ta. Sự kiện này khởi đầu bằng việc Tích Quang dạy dân lễ nghĩa, Nhâm Diên bắt dân lấy vợ, lấy chồng, xuyên qua việc Sĩ Nhiếp “ham đọc Xuân Thu, Tả Thị Truyện, trọng đãi nhân sĩ… và phát triển đến tột đỉnh bằng việc Khương Công Phụ đậu tiến sĩ thời Nhà Đường.
Thực trạng của việc truyền bá
Các nhà Nho khi nghiên cứu về các dữ kiện kể trên không đi sâu hơn vào chi tiết mà chỉ khẳng định về thời điểm mở đầu. Về Tích Quang và Nhâm Diên chẳng hạn, Ngô Sĩ Liên đã ghi nhận là “Văn phong của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấy.” Về Sĩ Nhiếp, ông viết “Nước ta được thông thi thư, tập lễ nhạc làm một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà có thể truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?” Ngô Thời Sĩ cũng theo nhận định này. Sĩ Nhiếp đã được coi là Nam Bang Học Tổ cho mãi đến khi Trần Trọng Kim xuất bản Việt Nam Sử Lược vào năm 1928, vai trò này của họ Sĩ mới được đặt lại. Tác giả họ Trần đã viết như sau:
“Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sĩ Nhiếp. Cái ý kiến ấy có lẽ không phải. Vì rằng từ khi Nhà Hán sang cai trị đất Giao Chỉ đến đời Sĩ Nhiếp đã được hơn 300 năm, người Giao Chỉ đã có người học hành, thi đỗ hiếu liêm, mậu tài. Vậy nói rằng đến ông Sĩ Nhiếp mới có Nho học thì chẳng sai lầm lắm ru? Hoặc giả ông ấy là người có văn học rồi trong khi làm quan, lo mở mang sự học hành, hay giúp đỡ những kẻ có chữ nghĩa, cho nên về sau mới được cái tiếng là làm học tổ ở nước ta, tưởng như thế thì có thể hợp lẽ hơn.” Dương Quảng Hàm trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu và Ngô Tất Tố trong Văn Học Đời Lý đã đi xa hơn.
Ngô Tất Tố đã thẩm định thực trạng của việc truyền bá văn hóa Trung Quốc nói chung và Nho học vào nước ta nói riêng như sau:
“Nước ta theo học chữ Hán kể đã lâu lắm, một là từ Sĩ Nhiếp, hai là từ đời Tích Quang, ba là từ đời Triệu Dà. Không cần biết là từ đời nào, chúng ta có thể nói quả quyết rằng: Cái học từ đời Bắc Thuộc trở đi đến đời Nhà Ngô, chỉ là học để giao thiệp với người Tàu, không phải học để thâu thái văn hóa của họ. Sự học ấy hãy còn lỗ mỗ, sơ lược, cho nên trong hơn nghìn năm, nó không để lại cho ta một dấu vết gì.”
Dấu vết Ngô Tất Tố viết ở đây là dấu vết văn học. Đứng trên bình diện sử học, dấu vết là những sự kiện liên hệ tới những nhân vật lịch sử, những Lý Cầm, Lý Tiến, Khương Công Phụ, Khương Công Phục… Những dấu vết tuy còn nhưng cũng không có gì đáng kể vì con số những người theo đòi Nho học được ghi lại không là bao nhiêu so với con số hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Không những thế, những nhân vật được sách vở ghi lại này chưa chắc đã hoàn toàn là người bản xứ mà rất có thể là những di dân hay con cháu các di dân và các quan lại người Tàu. Trường hợp của anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục là trường hợp điển hình, vì ông nội của hai người này, Khương Thần Dực, là thứ sử của châu Thư, được gửi sang kinh đô Trường An của Nhà Đường du học, do đó mới có dịp thi và đậu tiến sĩ.
Về bản chất của việc truyền bá Nho học, những gì được ghi lại cũng rất mơ hồ. Tích Quang thì “đem lễ nghĩa dạy dân”, Nhâm Diên thì “gửi thư đi các huyện trực thuộc, bắt đàn ông con trai từ hai mươi đến bốn mươi tuổi bằng đôi phải lứa phải lấy nhau”. Những quyết định nặng về truyền bá phong tục nhằm đồng hóa người Việt theo văn hóa Tàu hơn là truyền bá Nho học. Về Sĩ Nhiếp, người sau này được tôn là Sĩ Vương và Nam Bang Học Tổ, thì từ phong cách đến hành động chẳng có gì cho phép người ta ghi nhận là đã có công truyền bá Nho học vào Cổ Việt, ngoại trừ căn bản học vấn của ông và việc ông trọng đãi trí thức Trung Hoa sang nương tựa nơi ông. Việc giảng giải kinh truyện, chăm xem sách vở của Sĩ Nhiếp chỉ là những việc làm của ông khi rảnh việc quan và giới hạn trong hàng ngũ trí thức từ Tàu sang và sống chung quanh ông hơn là được hướng vào dân bản xứ. Còn khi ra ngoài thì ông dùng tất cả những nghi vệ phiền toái với chuông khánh uy nghi, kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi sát bánh xe để đốt hương thường lên tới mấy mươi người; vợ cả, vợ lẽ đi xe che kín, các con em cưỡi ngựa đi theo… Với cung cách như vậy khó mà ông có thể gần gũi với giới trí thức bản xứ, chưa nói tới quần chúng được. Chính vì vậy Tự Đức đã có lý khi nhà vua viết về họ Sĩ như sau:
“Sĩ Nhiếp chẳng qua là một thái thú nhà Hán, tùy thời nịnh hót, cầu sao cho mình được an toàn, chứ không có mưu lược, tài cán gì giỏi cả, đến nỗi truyền được hai đời đã mất, có gì đáng khen! Thế mà sử gia cũ cho rằng Úy Đà cũng không hơn được, chẳng cũng là lời khen quá đáng ư!”
Ngay cả người Tàu đồng thời với Sĩ Nhiếp như Lưu Ba cũng không chấp nhận nổi viên thái thú này. Lưu Ba người quận Linh Lăng, được Lưu Biểu mấy lần mời ra làm quan, chẳng chịu đến. Khi gặp loạn, ông chạy qua Giao Châu “cùng Sĩ Nhiếp bàn luận chẳng hợp ý, lại vào đất Thục, được Gia Cát khen ngợi dùng làm chức thượng thư. Lưu Ba tánh người thanh liêm kính cẩn, bao nhiêu xưng hiệu, sách mệnh của Tiên Chúa, đều do tay ông làm ra.”
Những sự kiện như Lưu Hi, Hứa Tĩnh mở trường dạy học ở Luy Lâu và Long Biên có thể chỉ nhằm vào con cháu các quan lại, di dân người Tàu chứ không phải nhằm truyền bá Nho học vào người dân bản địa. Cũng vậy với Ngu Phiên. Tất cả đều xảy ra trong thời Hán mạt, thời các sĩ phu chạy sang lánh nạn ở nước ta rất nhiều. Thêm vào đó, ta cũng nên để ý tới sự kiện là người Trung Hoa rất nặng tinh thần gia tộc. Họ không ra đi một mình mà đã mang theo gia đình đông đảo, kèm theo với một hy vọng trở về. Việc giáo dục nhắm vào giới trẻ trong hàng ngũ họ do đó đã trở thành một nhu cầu cần phải được đáp ứng chứ không phải nhắm vào dân bản xứ.
Các nhà nghiên cứu sử học hiện tại cũng chia sẻ chung nhận định là Nho giáo chưa thể được coi là thịnh trong thời Bắc Thuộc được. Các bằng chứng được nêu lên là số người tham gia thi cử và đỗ đạt đều thuộc tầng lớp trên của xã hội và không được là bao. Kèm theo là sự hạn chế số sĩ tử An Nam được thi tiến sĩ và minh kinh vào năm 845 dưới thời Nhà Đường: 8 người cho khoa tiến sĩ và 10 người cho khoa minh kinh.
Điều ta cần phải phân biệt ở đây là việc học chữ Hán và các phong tục của người Tàu dẫn xuất từ Nho giáo một bên và việc phổ biến Nho giáo như một học thuyết với các kinh điển riêng của nó nhằm đào tạo nhân tài cho chính quyền đô hộ một bên. Phân biệt như vậy, người ta sẽ thấy rõ hơn là dưới thời Bắc Thuộc chữ Hán như một văn tự dùng trong chính quyền đương thời và những điều lễ nghĩa, đúng hơn, phong tục, tập quán của người Tàu, đã được truyền bá khá sâu rộng trong quần chúng bản xứ để sau này, trong buổi đầu của thời độc lập, người Việt đã có thể tự điều hành được chính quyền riêng của mình. Còn Nho Giáo thì đã bị hạn chế. Việc học ở trình độ này chỉ được phổ biến ở tầng lớp trên, đúng hơn trong hàng ngũ các di dân người Tàu ngay từ thời Sĩ Nhiếp và sau này dưới thời Nhà Đường với anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục. Chính vì vậy mà trong suốt các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê và đầu Triều Lý, vương quyền ở Việt Nam đã không mang những tính cách của Nho Giáo như trong các giai đoạn sau này và đã bị các Nho gia như Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên chỉ trích. Cũng chính vì thế mà Lê Long Đĩnh đã sai em là Minh Sưởng và chưởng lý là Hoàng Thành Nhã sang sứ Nhà Tống vào năm 1007 để xin Cửu Kinh của Nhà Nho và Kinh Đại Tạng của Nhà Phật. Sự kiện xin kinh này có thể hiểu bằng hai cách. Cách thứ nhất là trước đó các kinh của Nhà Nho chỉ được phổ biến trong giới thống trị và di dân người Tàu nên đã bị tiêu hủy mau chóng trong những ngày đầu của thời độc lập cùng với chính quyền thuộc địa. Cách thứ hai là việc học ở cấp cao để các học sinh có thể thông hiểu được các kinh sách đã không diễn ra ở Cổ Việt mà ở kinh đô của chính quốc. Chính vì vậy mà anh em họ Khương mới được gửi sang du học ở kinh đô Trường An của Nhà Đường.
Một sự kiện khác cũng cần phải được ghi nhận ở đây là việc Lê Đại hành đã dùng một nguời Tàu thông hiểu kinh và sử của Đạo Nho làm thái sư. Tại sao lại phải dùng một người Tàu thay vì một người Việt? Phải chăng là vì không có người bản xứ thông hiểu các kinh sách này?
Về việc phổ biến chữ Hán, chúng ta cũng cần phải hiểu thêm là ngoài chính quyền đô hộ, các chùa của Phật Giáo và các đền của Đạo Giáo cũng đóng những vai trò vô cùng quan trọng do nhu cầu của chính những tôn giáo này. Qua các chùa và đền thờ chữ Hán mới ăn sâu vào quần chúng bản xứ. Cũng vậy với quan niệm vô vi trong chính trị của Lão Tử mà người viết sẽ trình bày trong một bài khác.
Tại sao Nho Giáo không được phổ biến sâu rộng ở Việt Nam dưới thời Bắc Thuộc?
Ngô Tất Tố gián tiếp trả lòi câu hỏi này. Ông cho rằng đó là vì trong thời này dân ta chỉ học để giao thiệp với người Tàu như đã dẫn ở trên. Các tác giả của Lịch Sử Việt Nam, tập I, xuất bản trong các năm 1971 và 1991 ở Hà Nội thì cho rằng đó là vì “kẻ thống trị nước ngoài chỉ nhằm đào tạo cho bộ máy cai trị của chúng một số thuộc viên làm tay sai mà thôi” hoặc nếu kinh điển của Nho gia có được đem giảng dạy tại các trường thì “theo học các trường này là con em bọn quan lại, địa chủ Hán tộc và một số con em tầng lớp trên của xã hội mà kẻ ngoại xâm dựa vào để cai trị”. Đi xa hơn nữa các vị này lại nhận định rằng “việc truyền bá Nho Giáo vào đất Việt trong những điều kiện đô hộ nhất định vấp phải sự chống đối (chống hỗn dung văn hóa) của người Việt và không thể phát triển một cách thuận lợi được.” “Sự hưởng ứng của người Việt không có là bao vì nó tượng trưng cho sự kỳ thị và áp bức dân tộc.” Nó tượng trưng cho “chính sách nô dịch nặng nề về tư tưởng, văn hóa đối với nhân dân ta. Đó là chính sách đồng hóa.” Những nhận định này không phải là không có phần đúng nhưng quá đơn giản cần phải được xét lại.
Trước hết trong danh sách các quan lại Trung Quốc được cử sang cai trị Cổ Việt và được ghi lại trong An Nam Chí Lược của Lê Tắc gồm 153 người từ Đặng Huân đến Cao Biền, Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, Đỗ Tuệ Độ mà các nhà khảo cứu thường nhắc tới, người ta thấy chỉ có Mã Tổng làm An Nam đô hộ đời Đường Hiếu Tông (806-820) và Mã Thực làm đô hộ đời Đường Văn Tông, đầu niên hiệu Khai Thành (836) là có những biện pháp phổ biến văn hoá Trung Quốc vào nước ta. Mã Tổng được ghi là đã “dùng Nho thuật giáo hóa, dân mọi được yên”, còn Mã Thực thì “lấy văn nhã trau dồi.” Con số các quan lại Tàu để ý đến việc truyền bá văn hóa Tàu cho dân chúng bản dịa phương nam như vậy có thể đếm trên đầu ngón tay sau suốt hơn mười thế kỷ Bắc thuộc cho phép người ta nghi ngờ chính sách đồng hóa của họ. Phải chăng trong suốt thời gian này ngưòi Tàu mới chỉ có đủ khả năng để đồng hóa miền đất mới gần hơn với bản địa của họ. Đó là miền đất căn bản của Triệu Đà. Đối với Cổ Việt, chính sách cốt yếu của họ chỉ là làm sao duy trì được chính quyền đô hộ và giữ cho dân chúng khỏi nổi loạn mà thôi. Chánh sách này thành công hay không tùy thuộc vào khả năng và tư cách của các thứ sử, thái thú và sau này là các đô hộ cũng như sự hiện diện và thái độ của của các di dân từ phương bắc tới mà Bùi Quang Tung đã nêu lên trong bài nhận định về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng của ông. Tựu trung nó đã bị thất bại. Từ sự lạc quan, phấn khởi buổi đầu, coi Cổ Việt là những quận huyện của Trung Quốc, sự thiết lập An Nam Đô Hộ Phủ thời Nhà Đường đã nói lên sự thất bại này. Cổ Việt dưới thời Nhà Đường đã trở thành một xứ miền Nam đối với Trung Quốc, tương tự như các miền Liêu Đông hay các xứ của người Mông Cổ và các dân du mục khác ở phía tây của đế quốc Tàu. Từ các châu, quận, huyện, Cổ Việt đã trở thành phần đất ngoại vi của Trung Quốc. Cổ Việt đối với Nhà Đường không phải là Trung Quốc. Nỗ lực đồng hóa của người Tàu ở Cổ Việt do đó chỉ là nỗ lực hiếm hoi của một thiểu số vô cùng nhỏ bé của các quan lại của họ được cử sang cai trị nước ta. Nó được hỗ trợ bởi các di dân của họ ở vào một vài thời điểm đặc biệt thay vì là một nỗ lực liên tục và trường kỳ. Chính vì vậy nó chỉ giới hạn ở việc phổ biến chữ Hán và một số phong tục, tập quán thay vì Hán học hay Nho học hiểu theo đúng nghĩa của những từ ngữ này, và phổ biến ở những lỵ sở hành chánh.
Nhận định kể trên có thể được củng cố hơn nếu ta để ý tới ý kiến của các quan lại Trung Quốc về Cổ Việt trong các sớ tấu về triều đình của họ. Có thể nói là tất cả các nhân vật này đều có chung một nhận định là Giao Chỉ, sau này là Giao Châu, là một miền đất quá xa với triều đình Trung Quốc, khí hậu lại độc địa, dân chúng hay nổi loạn, bên ngoài thì người Chàm và các dân tộc khác lại thường xuyên cướp phá. Điển hình trong số các quan lại này là Tiết Tống, Đào Hoàng, Lưu Thiện, Châu Xưởng, và Chu Thặng với các bài sớ của họ được Lê Tắc ghi lại trong tác phẩm An Nam Chí Lược của ông.
Tiết Tống là thái thú Giao Chỉ và Hợp Phố đời Ngô, người đã cùng với Lữ Đại đánh dẹp Sĩ Huy. Khi Lữ Đại biệt triệu về Tàu, Tiết Tông dâng sớ về triều đình nhà Ngô trần tình về tình trạng Giao Chỉ và đề nghị nếu Lữ Đại không được trở lại nữa thì viên thứ sử mới phải là người tài giỏi, có mưu trí, có kế hoạch mới cai trị nổi xứ này. Trong sớ ông đã miêu tả Cổ Việt là “sông núi dài mà xa, tập tục không giống nhau, người không có tôn ty, dân không biết lễ nghĩa, dù có đặt quan cai trị cũng xem như không có.”
Đào Hoàng là thứ sử Giao Châu dưới thời nhà Ngô. Khi nhà Ngô mất, nhà Tấn lên thay, ông đã dâng thư lên vua Tấn yêu cầu ngưng triệt hết quân lính ở xứ này. Nhận định của ông về Giao Châu là châu này “là giải đất chưa mở mang, ở một phương trời xa cách, phải hai ba lớp thông ngôn mới hiểu, liên tiếp với mấy hòn đảo giữa biển, ngoài cách nước Lâm Ấp chỉ vài ngàn dậm, tướng Mọi là Phạm Hùng trốn chỗ hiểm trở, làm giặc đã mấy đời, tự xưng làm vua, hay xâm phạm nhân dân; địa giới gần với Phù Nam, chủng loại rất đông, phân chia nhiều phe đảng, nương nhau chỗ hiểm yếu, không chịu qui thuộc; hồi trước thuộc họ Ngô, họ hay cướp bóc lương dân, giết hại quan trưởng lại.” Không những thế, khí hậu ở đây lại độc địa. Quân đội đưa sang sau hơn chục năm ba phần chết mất quá hai. “Ban đầu số quân lính do tôi thống suất là 8.000 người. Nhưng Nam thổ ẩm thấp và nhiều khí độc, vả lại thường năm phải đánh giặc, khiến cho nhiều quân lính bị chết, hao mòn rất đông, hiện chỉ còn 2.400 người thôi.”
Đời nhà Tề, thái thú hai quận Hoài Nam và Tuyên Thành là Lưu Thiện cũng dâng biểu trần tình về vấn đề Giao Châu, mở đầu bằng câu: “Đất Giao Châu ở ngoài cõi hoang nhàn mà hiểm trở…”
Trước đó Châu Xưởng là thái thú Giao Chỉ trong năm Vĩnh Hoà thứ 6 (141) nhà Hán cũng nhấn mạnh đến tính cách xa xôi của Giao Chỉ.
Chu Thặng cũng vậy. Ông này còn diễn tả một cách bi thảm hơn. Theo ông: “Giao Châu là nơi tuyệt thực, tập tục tham ô, các họ hào cường thì gian dối, các trưởng sử thì bạo ngược, hà hiếp, bóc lột nhân dân.”
Dưới thời nhà Tống, khi Tống Thái Tông dấy binh đánh Giao Chỉ, không được thắng lợi, Chinh Nam Mã Bộ Quân Chuyển Vận Sứ Hứa Trọng Tuyên, xuất thân tiến sĩ, đã dâng sớ điều trần, phản kháng. Theo Hứa Trọng Tuyên “Giao Chỉ oi bức độc địa, quân lính chưa giao chiến mười phần đã chết mất hai ba”.
Trong hoàn cảnh như vậy, các quan lại Trung Quốc được cử sang trấn nhậm Cổ Việt khó mà có được tinh thần đem văn hóa Trung Quốc sang truyền bá cho dân bản địa đến nơi đến chốn. Trường hợp của Tích Quang, Nhâm Diên, Đỗ Tuệ Độ… chỉ là những trường hợp hiếm hoi. Nhiều người như Lư Tổ Thượng, tài kiêm văn võ, tính tình liêm bình, công trực, đầu niên hiệu Trinh Quán (627) được Đường Thái Tôngcho làm đô đốc Giao Châu, đã nhận lời, sau lại từ chối. Vua sai người khuyên dỗ. Tổ Thượng vẫn từ chối. Vua lại nhờ anh vợ của ông là Châu Phạm dụ rằng: “Kẻ thất phu hứa với nhau vẫn còn giữ tín. Khanh đã hứa trước mặt trẫm, há được ăn năn, nên hãy sớm đi qua, ba năm ắt có chiếu triệu về. Khanh chớ thối thác, trẫm quyết chẳng nuốt lời.” Thượng tâu rằng: “Lĩnh Nam nhiều chướng khí, đã đi không trở về.” Đường Thái Tông nổi giận phán rằng: “Ta khiến ngươi không chịu đi, làm sao làm việc nước cho đặng?” Bèn khiến chém ngay ở trước triều đường. Một trường hợp khác là trường hợp của Lý Đạo Hưng. Hưng là tôn thất nhà Đường, được phong làm Quảng Ninh Vương, sau vì có lỗi bị giáng xuống làm Huyện Công và năm Trinh Quán thứ 9 (635) làm đô đốc Giao Châu. Vì ở đây khí hậu độc, Hưng lo lắng và chết trong lúc làm quan.
Trường hợp của Lý Đạo Hưng là trường hợp của rất nhiều quan lại Trung Quốc được cử sang cai trị Cổ Việt. Miền đất xa xôi, độc địa, đầy bệnh tật đối với người Tàu và dân chúng thường xuyên nổi loạn này đã trở thành đất của những kẻ bị lưu đầy hay bị biếm hoặc bị lỗi lầm phải đổi. Trước thời nhà Đường số người bị đầy qua nước ta tương đối ít và được Lê Tắc kể chung với những người sang cư ngụ ở đây. Ba người được kể tên là Cố Đàm, nguyên làm thượng thư bị vu tội phải đầy qua Giao Chỉ cùng với em là Cố Thừa và Trương Hưu, cùng thời với Cố Đàm. Cố Thừa bị kết tội là công thự gian dối, bị đầy qua Giao Châu và sau đó bị vua giáng chiếu bắt tự tử. Dưới thời nhà Đường số người bị biếm, bị đầy hoặc bị lỗi lầm và bị đổi sang Giao Châu nhiều hơn gấp bội. Các nhân vật được Lê Tắc ghi lại trong tác phẩm của ông gồm có Cao Kiện, Bùi Kiền Thông, Vương Phúc Trĩ, Lý Sào, Lý Hữu, Thẩm Thuyên Kỳ, Hàn Tư Ngạn, Lư Tàng Dụng, Tống Tấn Khanh, Lý Càn Hựu, Nghiêm Thiện Tư, Đậu Sâm, Lý Nhân Quân, Bùi Di Trực, Dương Thu, Trần Bàn tẩu, Lưu Chiêm, Đỗ Chính Luân, Chử Toại Lương, Sài Triết Uy, Lang Dư Khánh, Tống Chi Đễ.
Đối với các trí thức Tàu sang tị nạn ở nước ta mà nhiều người cho là đã góp phần không nhỏ vào việc truyền bá Nho Học cho người bản xứ, vấn đề cũng còn cần phải được xét lại kỹ càng hơn vì một số không nhỏ những người này sau đó đã trở về Trung Quốc. Nhiều người trong thời gian ở Giao Chỉ đã có thái độ tiêu cực, ẩn mình không làm gì như Hồ Cương, cháu bốn đời của thái phó Nhà Hán là Hồ Quảng, là người khí tiết thanh cao. Gặp lúc Vương Mãng soán ngôi, ông đã treo mũ ở cửa phủ mà đi. Lưu lạc ở Giao Chỉ, ông ẩn mình làm hàng thịt, đến khi Vương Mãng bị thất bại mới trở về Tàu. Hứa Tĩnh thời Tam Quốc cũng chạy qua Giao Chỉ nương náu nơi Sĩ Nhiếp, sau lại về Tàu, phục vụ Tiên Chúa của nước Thục, được cử làm thái thú, rồi tư đồ. Lưu Ba, như đã dẫn trên, cũng vậy. Còn Trương Dung thời Tống Văn Đế thì nói rằng “ăn cá khô mà về được quê nhà lọ cầu ăn nem thịt mà làm gì?” Thái độ này chắc chắn không thể nào đưa họ tới những nỗ lực truyền bá Nho học ở nơi họ tạm trú được. Công việc dạy dỗ của họ nếu có chỉ là nhắm vào con cháu trong nhà hay bạn bè hay con cháu những người chứa chấp và nâng đỡ họ trong thời gian họ luân lạc mà thôi. Quân chúng bản xứ khó mà có dịp tiếp xúc với họ, chưa kể tới chuyện họ có học tiếng bản xứ hay không.
Cuối cùng, nhìn vào trường hợp của người đi học. Vì việc mở mang việc học của các thứ sử, thái thú, sau này là đô hộ, chỉ nhằm huấn luyện những lại thuộc chứ không phải là để đào tạo nhân tài nên người bản xứ và luôn các con cháu các quan lại và di dân đã trở thành bản xứ muốn học đến nơi đến chốn và nhất là sau này dự thi, phải sang Tàu và đến tận kinh đô mới đạt được nguyện vọng. Sự hy sinh và chịu đựng gian khổ cũng như sự tốn kém chắc chắn đã vượt xa khả năng của dân bản xứ nghèo nàn, chưa kể tới nạn kỳ thị của vua tôi ngưòi Tàu ở chính quốc. Ta không có thật đầy đủ chi tiết nhưng cứ nhìn vào những sự kiện xảy ra chung quanh các trí thức được sử sách ghi lại cũng được rõ một phần nào. Chắc chắn không phải người nào cũng có cái may mắn của anh em nhà họ Khương. Còn về đường xá xa xôi, ta có trường hợp của Liêu Hữu Phương là trường hợp điển hình. Từ Giao Châu đến Trường An, họ Liêu phải đi đường sông rồi dọc theo bờ biển 250 dặm, sau đó 1.200 dặm đượng bộ. Họ Khương đã vượt được con đường thiên lý xa xôi, hiểm trở đó. Họ Liêu cũng đã thành công. Nhưng còn có biết bao nhiêu người khác đã không bao giờ dám mơ ước tới hay đã ráng sức mình nhưng nửa đường phải bỏ dở hay bỏ xác dọc đường hoặc đem thân làm mồi cho cá mà sử sách không bao giờ biết tới? Cái học trong thời Bắc thuộc như thế chắc chắn không hấp dẫn đối với người dân bản xứ. Giới trẻ Cổ Việt trong thời gian này đã đi tìm tương lai trong những phạm vi hoạt động khác hơn là cắp sách đến trường. Do đó người ta phải đợi đến đến phần tư thứ ba của thế kỷ XI, dưới thời Nhà Lý, Nho học ở nước ta mới thực sự có dịp phát triển.
Phạm Cao Dương
[1] Ủy Ban Khoa Học Xã Hội. Lịch Sử Việt nam, tập I. Hà Nội: Nhà Xuất
Bản Khoa Học Xã Hội, 1971, tr. 104 và 107.
[1] Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà
Văn Tấn, Lương Minh. Lịch Sử Việt Nam, tập I. Hà Nội: Nhà Xuất
Bản Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp, 1991, tr. 316.
[1]
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư,
bản dịch của Cao Huy Giu, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng, tập I.
Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1967; bản dịch của Ngô Đức Thọ. Hà Nội:
Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1993.
[1] Việt
Sử Tiêu Án, bản
dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên lạc văn Hóa Á Châu. Sai Gon: Văn Hóa Á Châu,
1960.
[1] Bản dịch của Viện Khảo Cổ
Saigon, các quyển đầu, nhất, nhì và ba. Saigon: Viện Khảo Cổ, 1060-1970; bản dịch
của Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp (Tổ Biên Dịch) Viện Sử Học, tập I.
Hà Nội: Viện Sử Học, 1998.
[1] Việt
nam Sử Lược. Saigon:
Tân Việt, in lần thứ bảy, 1964. Saigon: Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, 1971, Đại
Nam tái bản ở Hoa Kỳ, không đề năm ấn hành.
[1] Việt
Nam Văn Học Sử yếu. Saigon:
Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu tái bản lần thứ mười, 1968.
[1] Le Vietnam, Histoire et Civilisation. Paris: Ed. de Minuit, 1955; Histoire du Vietnam des Origines à 1858. Paris:
Sudeatasie, 1981.
[1] đã dẫn.
[1]
đã dẫn.
[1] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản dịch của Cao huy Giu, đã dẫn, tr. 89;
[1] Viện Đại Học Huế, 1961, tr. 178.
[1] Việt Sử Tiêu Án, đã dẫn, tr. 38.
[1] Việt Nam Sử Lược, đã dẫn, tr. 43.
[1]
đã dẫn, tr. 54.
[1] Việt Nam Văn Học, Văn Học Đời Lý. Houston, Texas: Xuân Thu tái bản,
không đề năm.
[1]
- nt-.
[1] Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
Lịch Sử Việt Nam, tập I, đã dẫn, tr.
127; Keith Taylor. The Birth of Vietnam.
Berkeley: University of California Press, 1983, tr. 217-218. Trên mạng, Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia lại ghi
Khương Thần Dực là thứ sử Châu Ái, tương xứng với vùng Thanh Hoá hiện tại.
[1] Ông này hồi trẻ đi du học ở kinh
đô, đậu hiếu liêm, sau lại đỗ mậu tài, ham đọc Xuân Thu Tả Truyện.
[1] Việt
Sử Thông Giám Cương Mục, đã
dẫn, tr. 99, Lời phê của Vua Tự Đức.
[1] Lê Tắc, An Nam Chí Lược,bản dịch của Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, Viện
Đại Học Huế. Huế, 1961, tr. 178.
[1] Ủy Ban Khoa Học Xã Hội, Lịch Sử Việt Nam, tập I. đã dẫn, tr.
127.- Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Minh, Lịch Sử Việt Nam, tập I, đã dẫn, tr.
316.
[1] Ủy Ban Khoa Học Xã hội, Lịch Sử Việt Nam, Tập I, đã dẫn, tr.
127.- Lê Tắc, An Nam Chí Lược, đã dẫn,
tr. 251.
[1] Việt
Sử Cương Mục. đã dẫn, tr. 251.
[1] Ngô Sĩ Liên, đã dẫn, tr. 173. –
Ngô Thời Sỹ, đã dẫn, tr. 97. – Ngô Thời Sỹ chép tên người này là Hồng Du.
[1] bản 1971, đã dẫn, tr. 94.
[1] -nt-.
[1] bản 1991, đã đẫn, tr. 252.
[1] -nt-, tr. 316.
[1] bản 1971, tr. 94.
[1] Lê Tắc, An Nam Chí Lược, đã dẫn, tr. 166-167. Về danh sách các quan lại
Trung Quốc đã từng sang cai trị Cổ Việt, xin đọc cùng tác phẩm, tr. 139-169. Cũng
vậy, trong Việt Sử Lược, Trần Quốc Vượng
dịch và chú giải. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Sử Địa, 1960, tr. 19-39.
[1] Bùi Quang Tung, “Cuộc Khởi Nghĩa
của Hai Bà Trưng Dưới Mắt Sử Gia”, trong Đại
Học, Tạp Chí Nghiên Cứu của Viện Đại Học Huế, số 10, tháng 7 năm 1959, tr.
1-16.
[1] Phạm Cao Dương, Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam, Quyển I: Thời Kỳ Lập
Quốc. Fountain Valley, California: Truyền Thống Việt, 1987, tr. 13.
[1] đã dẫn, tr. 112.
[1] -nt-, tr. 114.
[1] -nt-.
[1] -nt-, tr. 115.
[1] -nt-, tr. 141.
[1] -nt-
[1] -nt-, tr. 255.
[1] -nt-, tr. 161.
[1] -nt-, tr. 162.
[1] -nt-, tr. 178.
[1] -nt-, tr. 180-183.
[1] -nt-, tr. 162-163.
[1] -nt-, tr. 176.
[1] -nt-.
[1] -nt-, tr. 179.
[1] Trường hợp của Tinh Thiều, một cộng sự viên của
Lý Bôn là một trường hợp điển hình.
[1] Taylor, sách đã dẫn, tr. 219.Băng Tâm - Thư ngỏ của lưu học sinh Trung Quốc gửi Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình trước Đại hội 18
Người dịch: Băng Tâm
Chúng tôi là một nhóm lưu học sinh ở Mỹ tới từ TQ, chúng tôi có may mắn được tiếp nhận hai nền giáo dục khác nhau, và cũng được sống trong hai xã hội khác nhau. Đảng cộng sản Trung Quốc là Đảng cầm quyền lâu dài duy nhất ở Trung Quốc đại lục, hiện đại hóa và dân chủ hóa của Trung Quốc mà tách rời Đảng cộng sản là điều hoàn toàn khó lòng hình dung nổi. Vì thế, trước ngày Đại hội 18 của Đảng cộng sản Trung Quốc khai mạc, chúng tôi quyết định gửi bức thư ngỏ này tới hai vị lãnh đạo tối cao đương nhiệm và tương lai của Đảng cộng sản.
I. Sự kiện “4.6” bị bưng bít hoàn toàn
Khi chúng tôi đến Mỹ, không có sự phong tỏa tin tức, cũng không có sự chặn trang mạng baike.baidu.com, chúng tôi được hoàn toàn tự do lướt xem các tin tức. Điều khiến chúng tôi kinh hoàng nhất là Sự kiện “4.6” xảy ra năm 1989. Nói thực, khi lần đầu tiên nhìn thấy những bức ảnh trên mạng, thoạt đầu chúng tôi ngỡ là luyện tập quân sự, nhìn thấy những bức ảnh học sinh và người dân bị chết, mới đầu chúng tôi cũng cho là PS. Nhưng khi lướt xem nhiều video có liên quan hơn, nhiều bài viết giới thiệu hơn, cùng hồi ức của các đương sự nhiều hơn, kể cả những thư tịch có liên quan đến các nhà lãnh đạo tối cao là Tổng bí thư Triệu Tử Dương và Thủ tướng Lý Bằng, thì chúng tôi không thể không tin rằng ở thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc ngày nay lại từng xảy ra một trận tàn sát của quân đội quốc gia nhằm vào những người dân và học sinh bình thường! Đó chính là Sự kiện “4.6” mà nền giáo dục của chúng ta, các thầy giáo của chúng ta cùng tất cả mọi phương tiện truyền thông của chúng ta đã không hề nhắc tới, đồng thời đã bị bưng bít một cách cố ý trong suốt 23 năm trời.
Khi còn ở Trung Quốc, nền giáo dục của chúng ta đã bảo chúng tôi rằng, sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền đất nước vào năm 1949, cũng từng mắc phải những sai lầm lớn như “phản hữu”, Đại cách mạng văn hóa, đấu tranh giai cấp… Song sau đó cũng đã tiến hành suy xét và sửa chữa những sai lầm ấy. Chúng tôi thấy rất khó hiểu, vì sao sai lầm rõ đến như vậy với Sự kiện “4.6”, thậm chí có thể gọi là tội ác, mà không những không được suy xét sửa chữa, lại còn luôn bị che đậy sự thật, lớp trẻ hơn 20 tuổi như chúng tôi đã hoàn toàn không biết gì về tấn thảm kịch như vậy đã từng xảy ra! Đây là thứ giáo dục gì vậy? Chẳng lẽ lớp trẻ chúng tôi sẽ đối diện với tương lai trong điều kiện hoàn toàn không biết gì về lịch sử sao? Đây là một thứ giáo dục hoàn toàn vô trách nhiệm với đất nước và lớp trẻ!
Thủ tướng Ôn Gia Bảo gần đây đã hai lần nói đến phải tiến hành cải cách thể chế chính trị, chúng tôi hi vọng Đảng cộng sản Trung Quốc có thể chính thức sửa sai Sự kiện “4.6” trong Đại hội 18, đồng thời tiến hành sự xét xử mang tính lịch sử đối với những người ra quyết sách sai lầm, bồi thường cấp nhà nước cho những nạn nhân của Sự kiện “4.6” , lấy đó làm bước đầu tiên trong cải cách thể chế chính trị, để Trung Quốc từ đây thoát khỏi nhân trị mà chính thức bước vào nền dân chủ pháp trị lập hiến.
II. Sự kiện Vương Lập Quân, Bạc Hy Lai
Đầu năm nay, chúng tôi đọc được trên truyền thông hải ngoại về việc xảy ra sự kiện Vương Lập Quân, Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh. Điều này khiến chúng tôi liên tưởng đến việc xảy ra sự kiện “Lâm Bưu” trong thời kỳ Đại cách mạng văn hóa. Trước khi sự kiện ấy xảy ra, Lâm Bưu là nhân vật số 2 của nhà nước chúng ta, là người kế cận Mao Trạch Đông; Bạc Hy Lai cũng tiến hành “xướng hồng đả hắc” và làm “mô hình Trùng Khánh” phân chia chiếc bánh ở Trùng Khánh, đồng thời được cho là tốt và định “nhập thường” ở Đại hội 18, trở thành người lãnh đạo Đảng và nhà nước. Hơn 40 năm qua, trong lịch sử đã xuất hiện một cảnh tương tự. Cuộc cải cách mở cửa của đất nước chúng ta đã đạt được thành tựu nổi bật về kinh tế, nhưng về chính trị vẫn giậm chân tại chỗ, vẫn lặp lại thủ thuật cũ đấu tranh quyền lực ở cấp cao. Đây là bi kịch của người dân Trung Quốc chúng ta.
Hiện giờ Vương Lập Quân, Bạc Hy Lai đã rớt đài, rất có thể sẽ nhanh chóng bị tiến hành trừng phạt và xét xử tư pháp với lí do “thối nát”. Song, nếu không xuất hiện sự kiện Vương Lập Quân đào thoát, thì Bạc Hy Lai chẳng phải vẫn tiếp tục tiến hành “xướng hồng đả hắc” và “mô hình Trùng Khánh” được đó sao? Hiện giờ Bạc Hy Lai đã rớt đài, “mô hình Trùng Khánh” cũng đã bị phê phán. Mô hình trị lí tùy theo từng người như vậy, chẳng trách có người cho không phải vì Bạc Hy Lai thối nát, mà là vật hi sinh của cuộc đấu tranh đường lối chính trị.
Ở một đất nước dân chủ sẽ không bao giờ xảy ra cái gọi là sự kiện “đào thoát” như vậy. Ngay cả khi Bạc Hy Lai và người thân của ông ta có thực sự vì giết người và thối nát mà vi phạm tư pháp, thì cũng cần phải tiến hành xử lý đúng theo trình tự hợp pháp, chứ không phải là đột nhiên mất tích, bị mất quyền tự biện hộ như hiện giờ. Hiện nay trên mạng có người kiến nghị để cho Bạc Hy Lai và Ôn Gia Bảo tiến hành tranh luận công khai về chủ trương cầm quyền của từng người, điều nay hiển nhiên nhất là không chắc xảy ra, nhưng ít ra cũng nên để cho Bạc Hy Lai có cơ hội được biện hộ cho mình. Ở Đài Loan, Trần Thủy Biển khi thất sủng cũng bị tố là tham ô, nhưng trước khi định tội tư pháp, ông ta vô tội; ngay cả có bị định tội rồi thì ông ta vẫn có thể tiếp tục nói lên tiếng nói của mình để tự biện hộ. Đó mới là độc lập tư pháp thực sự. Chúng tôi hi vọng Trung Quốc cũng có thể bắt đầu từ việc xử lý Vương Lập Quân, Bạc Hy Lai mà không bao giờ còn đấu tranh đường lối chính trị nữa, mà thực sự để tư pháp đứng độc lập ngoài quyền lực chính trị.
III. Sự kiện Trần Quang Thành
Một sự kiện khác khiến cả thế giới quan tâm xảy ra vào tháng này chính là sự kiện Trần Quang Thành. Trần Quang Thành chỉ là một người mù tự học thành tài bảo vệ quyền lợi về tư pháp cho nhóm người yếu thế ở địa phương, nhưng chính quyền địa phương lại mượn cớ khác để xử tội anh ta. Sau khi mãn hạn tù được thả ra lại tiếp tục giảm lỏng quản chế anh ta. Cuối cùng buộc anh ta phải chạy trốn vào Đại sứ quán Mỹ, sự kiện “Trần Quang Thành” hoàn toàn là sự kiện quốc tế do chính quyền địa phương vi phạm tư pháp hành chính bức hại mà tạo ra.
Cùng với sự phát triển kinh tế, do sự trì trệ của cải cách chính trị mà mâu thuẫn xã hội ngày càng nhiều lên, mức độ xung đột cũng ngày càng gay gắt. Sự xuất hiện một nhân vật như Trần Quang Thành, muốn đem vũ khí pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình, bao giờ cũng tốt hơn nhiều so với sự xuất hiện của kẻ cầm dao mổ súc vật như Dương Quế để đòi cho mình một lối giải thích riêng. Trung Quốc đã định ra và ban bố những bộ luật tương đối toàn diện, nếu như mỗi công dân, mỗi chính quyền địa phương đều muốn dùng luật pháp làm chuẩn để giải quyết các mâu thuẫn xã hội và xung đột lợi ích, thì những sự kiện đám đông ở Trung Quốc sẽ giảm đi nhiều, cũng sẽ không xuất hiện những sự cố nghiêm trọng nổ ra ở các cơ quan chính phủ, tư pháp như vậy nữa. Xét từ điểm này, Trần Quang Thành mà càng nhiều thì càng có lợi cho việc ổn định xã hội của Trung Quốc, chứ không phải là ngược lại. Trần Quang Thành trở thành “kẻ thù” của xã hội chúng ta là bi kịch của người Trung Quốc.
Chúng tôi hi vọng Đảng cộng sản Trung Quốc sau Đại hội 18 nếu muốn thay đổi mô hình duy trì ổn định bằng biện pháp vũ lực, đàn áp trước mắt, phải để cho luật pháp thực sự có quyền uy, để cho Trần Quang Thành trở thành niềm tự hào của người Trung Quốc. Sau khi sự kiện “Trần Quang Thành” xảy ra, anh ta cuối cùng đã có thể giành được tấm hộ chiếu một cách thuận lợi để đến học tập tu nghiệp ở Mỹ, đây là một bước tiến của Trung Quốc; song chúng tôi còn hi vọng sau khi học xong ở Mỹ về, anh ta cũng có thể về được đất nước mình một cách thuận lợi, có thể tiếp tục tận dụng sở trường pháp luật của mình để bảo vệ lợi ích quyền lợi cho người dân bình thường quanh mình. Đó mới là sự tượng trưng quan trọng cho việc Trung Quốc thực sự đi vào nền chính trị dân chủ. Chúng tôi không hi vọng Trần Quang Thành sau khi rời khỏi Trung Quốc lại không có cách gì để trở về đất nước mình, giống như những học sinh trốn ra hải ngoại sau khi xảy ra Sự kiện “4.6”, trở thành những người lưu vong bị mất quốc tịch. Chúng tôi lại càng không hi vọng, với tư cách là những người kí tên trong bức thư ngỏ này, cũng là vì muốn nói lên tiếng nói khác với suy nghĩ độc lập, mà bị biến thành những người lưu vong trong tương lai không có nhà để về.
IV. Tổng tuyển cử ở Đài Loan, Mỹ và gợi ý từ Quốc dân đảng
Mấy năm sống ở hải ngoại, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến các cuộc tổng tuyển cử ở Mỹ và Đài Loan. Nửa thế kỷ trước, người Mỹ da đen còn phải đấu tranh vì quyền bình đẳng cho mình, hiện giờ lại đã bầu lên được vị tổng thống da đen. Quốc dân đảng ở Đài Loan sau nửa thế kỷ là một đảng độc tài, cuối cùng cũng đã thông qua tổng tuyển cử mà giành được tín nhiệm của người dân Đài Loan để một lần nữa lên nắm quyền, Đài Loan mà người Trung Quốc sinh sống cuối cùng đã tiến hành được cuộc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình.
Ngài Tưởng Kinh Quốc của Quốc dân đảng khi quyết định cởi bỏ việc cấm các đảng phái chính trị đã nói, không có đảng cầm quyền vĩnh viễn. Còn thứ giáo dục chúng tôi được tiếp nhận ở Trung Quốc lại là “lịch sử đã lựa chọn Đảng cộng sản”. Các thầy giáo đã lập luận như thế này: Khởi nghĩa nông dân thời Thái Bình thiên quốc đã thất bại, phong trào Dương Vụ đã thất bại; Quốc dân đảng của giai cấp tư sản đã thất bại, chỉ còn có Đảng cộng sản là đã thắng lợi. Vì thế sự cầm quyền của Đảng cộng sản là do lịch sử lựa chọn.
Ngay cả khi lịch sử như vậy có là sự thật đi nữa, thì chẳng lẽ người dân Trung Quốc chỉ có thể tiến hành lựa chọn được một lần thôi sao? Chẳng lẽ chính đảng được lựa chọn nếu đã bị mất sự tín nhiệm của người dân, người dân lại cứ vĩnh viễn bị mất đi quyền lựa chọn lần nữa hay sao?
Sự cải cách chính trị và thực tiễn cầm quyền của Quốc dân đảng Trung Quốc ở Đài Loan lại đã bảo cho chúng tôi một chân lí khác: Một chính đảng nếu đã bị mất sự tín nhiệm của người dân, thì sẽ bị thất sủng sau thất bại của tổng tuyển cử; nếu chính đảng thất bại tiến hành phản tỉnh và cải cách, thì có thể giành được sự tín nhiệm của người dân ở đó và lại lên cầm quyền thông qua tổng tuyển cử. Nhà nước như vậy mới là sự thể hiện thực sự của “người dân làm chủ” đã được nói trong Hiến pháp nước ta.
Đảng cộng sản Trung Quốc từng được lịch sử lựa chọn trở thành đảng cầm quyền của Trung Quốc ngày nay, cũng giống như Mãn tộc hơn 300 năm trước được lịch sử lựa chọn giành quyền thống trị Trung Quốc vậy. Song sự lựa chọn của lịch sử không đời nào chỉ có một lần, người dân cũng có quyền thay đổi chính đảng cầm quyền đại diện cho mình vào bất cứ lúc nào. Đó mới là logic lịch sử thực sự. Sự cải cách và đường lối của Quốc dân đảng đã nêu một tấm gương cho Đảng cộng sản Trung Quốc. Cải cách chính trị của Đảng cộng sản Trung Quốc, đồng thời cuối cùng đưa Trung Quốc đi vào nền dân chủ lập hiến, không những có thể làm cho Đảng cộng sản thực hiện được cải cách, mà còn có thể tiếp tục chấp chính Trung Quốc thông qua tổng tuyển cử, đồng thời cũng là loại bỏ được trở ngại chính trị hai bờ mà cuối cùng thực hiện được sự thống nhất dân chủ hòa bình, chỉ có như vậy mới có thể thực hiện được sự phục hưng vĩ đại của Trung Quốc.
Chúng tôi tuy chỉ là những người trẻ mới hơn 20 tuổi, nhưng cũng giống như những nhà sáng lập Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình của Đảng cộng sản vào thời trẻ, chúng tôi đã ra nước ngoài, không chỉ học về khoa học kĩ thuật và quản lí tiên tiến của Phương Tây, mà còn đang quan sát, học tập cả chế độ chính trị tiên tiến của Phương Tây, càng suy nghĩ nhiều hơn về hiện trạng và tương lai của Trung Quốc. Là những người đang học ở nước ngoài, chúng tôi kêu gọi các lãnh đạo tối cao đương nhiệm và kế vị của Đảng cộng sản Trung Quốc hãy mạnh dạn lựa chọn một mô hình chính trị có giá trị phổ quát đang thịnh hành trên thế giới, vứt bỏ sự thống trị độc tài riêng của một đảng, thực hành chế độ tổng tuyển cử toàn dân, cân bằng giữa chính phủ với đảng và độc lập tư pháp, đem lại viễn cảnh tốt đẹp cho thanh niên Trung Quốc ở trong và ngoài nước, đem lại một tương lai tiến bộ cho dân tộc Trung Hoa hai bờ. Đây là con đường duy nhất để cho Đảng cộng sản Trung Quốc có thể lột xác, đồng thời có thể tiếp tục phục vụ người dân Trung Quốc.
Những người khởi xướng:
Phạm Hộ Sưởng: Lưu học sinh Arizona Sigasi Lauderdale Film Academy
Bành Vỹ: Lưu học sinh Nevada Las Vegas
Đổng Thế Hàng: Lưu học sinh University of Detroit, Michigan
Chu Thần Bác: Lưu học sinh Iowa State University
Tất Thiên Kỳ (nữ): Lưu học sinh University of Pennsylvania
Dương Mộng Bút: Lưu học sinh Auckland Lenny College in Northern California
Vương Mẫn (nữ): Lưu học sinh California State University
Hồ Kim Đệ (nữ): Lưu học sinh Northern California
Mời lưu học sinh hải ngoại liên hệ chữ ký với các bạn dưới đây, xin ghi tên họ, trường lưu học và hộp thư liên lạc thật:
Phạm Hộ Sưởng: 623-606-6219 fanhuchang6@yahoo.com
Đổng Thế Hàng: 562-506-3046 dshang413@gmail.com
Bành Vỹ: 626-927-8770 610042720@qq.com
Chu Thần Bác: 515-708-1201 jamesmadison945@gmail.com
http://anhbasam.wordpress.com/2012/05/31/1046-thu-ngo-cua-luu-hoc-sinh-tq-gui-ho-cam-dao-va-tap-can-binh-truoc-dai-hoi-18/
Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2012
Sổ Tay Thường Dân Tưởng Năng Tiến – Bạo Lực
Sổ Tay Thường Dân Tưởng Năng Tiến
Năm 2010, báo Dân Trí đi tin:
“Rạng sáng nay 7/6, người dân xã Hưng Đông, TP Vinh (Nghệ An) phát hiện một vụ cháy kinh hoàng: một người đàn ông cùng một chiếc xe máy bị thiêu cháy bên vệ đường...
Quan sát kỹ tại hiện trường, PV Dân trí nhận thấy nạn nhân bị đốt cháy gần thành than, không thể nhận dạng, bốc mùi khét lẹt... Chiếc xe máy bị đốt cũng chỉ còn trơ khung đen.Nhiều người cho rằng nạn nhân xấu số này ăn trộm chó bị phát hiện, bị đánh chết ở đâu đó rồi đưa ra cánh đồng này đốt xác.”
Ảnh: Nguyễn Duy
Hai tháng sau, cũng báo Dân Trí, lại có thêm tin nữa:
“Khoảng 17 giờ 30 phút chiều ngày 29/8, hai kẻ ăn trộm chó đã bị người dân xã Nghi Thịnh, huyện Nghi Lộc (Nghệ An) đánh chết....
Hai nạn nhân được xác định là Nguyễn Đình Dũng và Nguyễn Đình Hồng, cùng SN 1988, đều trú tại xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc. Vào giời nói trên, khi trời nhá nhem tối, người dân nơi đây nghe tiếng xe máy rú ga và tiếng chó sủa ầm ĩ. Lập tức dân ùa ra đường, chứng kiến cảnh hai thanh niên đi trên một chiếc xe máy đang kéo theo con chó chạy bạt mạng phía sau.
Bị người dân đuổi theo, hai thanh niên đã bỏ con chó lại nhưng vẫn bị chặn đánh. Rất đông người cùng tham gia đánh hai kẻ trộm chó khiến một người chết tại chỗ, một người chết trên đường đi cấp cứu. Chưa hả giận, người dân nơi đây tiếp tục đốt nốt chiếc xe máy cái xe máy tang vật...”
Riêng năm rồi – may thay – ở Nghệ An chưa ai bị đánh chết vì trộm chó, chỉ có một người bị đánh gần chết vì lý do tương tự – theo như tường thuật của báo Pháp Luật, số ra ngày 6 tháng 9 năm 2011:
“Nạn nhân là anh Phạm Văn Tấn giáo viên trường tiểu học Mã Thành (Yên Thành - Nghệ An). Hiện anh Tấn đang nằm điều trị tại bệnh viện 115 Nghệ An. Theo lời tường trình của anh Tấn trên báo VTC, khoảng 20h30 ngày 2/9, anh với một đồng nghiệp khác tên Thanh đi chơi ở nhà người bạn. Do chưa quen đường, trời tối nên bị lạc, sau đó hai anh định rẽ vào một nhà dân để hỏi thì bị người này nghi ngờ, hô hoán có kẻ câu trộm chó.
Chỉ một phút sau, hàng chục người dân chạy ra bao vây, dùng gạch đá, gậy gộc... tấn công. Lợi dụng trời tối, anh Thanh may mắn chạy thoát được còn anh Tấn lĩnh toàn bộ trận đòn. Chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius cũng bị người dân đốt cháy rụi.”
Ba người bị đánh chết, và một người suýt chết (ở Nghệ An) trong thời gian qua, đã khiến tôi liên tưởng đến những cái chết khác – thảm khốc và thương tâm không kém – cũng ở địa phương này, hồi giữa thế kỷ trước, chính xác là vào năm 1952, theo lời kể của nhà văn Võ Văn Trực:
“Một lũ ngồi lúc nhúc ở giữa vòng vây người nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa. Người xem đông quá là đông. Sóng người xô dồn lên, rồi dạt ra phía sau, rồi lại cuộn xoáy, ôm nhau, níu áo nhau. Không thể nào nghe được dân quân đang tra khảo tội nhân điều gì? Chỉ nghe nhứng tiếng quát lớn;’Mi có khai không? Mi có khai không?’ trộn lẫn với tiếng đấm đá huỳnh huỵch...”
“Tổ cha cái đồ phản động cái đồ Việt gian” – có tiếng người hét to như muốn vỡ ngực vỡ họng. Chính cái người hét to ấy đang ôm một gốc cây phi lao sần sùi mấu lao từ trên bức tường xuống như con mạnh thú vồ mồi, giơ cao gốc cây phang một cú vào ngực người bị treo ngược. Người bị treo rú lên một tiếng thất thanh và hai tay run rẩy như con nhái trước lúc chết. Thịch! Sợi dây đứt. Người bị treo ngược rơi xuống, sọ đập trên đất lổn nhổn cứt sắt... Người bị treo ngược bây giờ thành cái xác nằm sõng xoài trên đất ....”
(Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. California: Tạp Chí Văn Học, 2006)
Chuyện làng ngày ấy, và chuyện làng bây giờ – xem ra – không khác nhau nhiều lắm. Lòng “nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa” được thổi bùng lên từ thời “cách mạng phóng tay phát động quần chúng” đến nay (có lẽ) chưa bao giờ tắt, ở Việt Nam.
Và cái ác, tất nhiên, không chỉ giới hạn ở ... làng. Cuối năm ngoái, blogger Cánh Cò đã ghi nhận hàng chục vụ án sát nhân xẩy ra chỉ trong một ngày – ngày 14 tháng 11 năm 2011 – qua thông tin báo chí trong nước:
Dân Việt 14-11: Thắt cổ chồng đến chết rồi ung dung đi ăn cưới. Bà Đỗ Thị Thơ, sinh năm 1976, dân tộc Kinh, trú tại xã Linh Hồ, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang chính là vợ của nạn nhân.
Bee.Net 14-11: Một người chăn bò bị chém chết tên Võ Văn Giới ngụ ấp 3, xã Xuân Tây, huyện Cẩm Mỹ.
Lao Động 14-11: tại số nhà 228, thị trấn Trùng Khánh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng đã xảy ra một vụ cướp hết sức táo tợn làm chị Nông Thị Thu thiệt mạng và anh Đinh Trọng Thành bị thương nặng.
Lao Động 14-11: Vụ án giết bảo vệ, cướp ngân hàng xảy ra ở chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) Bình Đà, Thanh Oai, Hà Nội, bước đầu đã có những manh mối.
Bee.Net 14-11: Vì muốn báo thù anh Nguyễn Việt Cường, ở phường Nguyễn Văn Cừ, TP Quy Nhơn, Bình Định, giảng viên khoa Lịch sử Trường ĐH Quy Nhơn, mà Đặng Văn Cửu, 22 tuổi, ở xã IaYok, IaGrai, Gia Lai, sinh viên năm cuối trong trường, đã bắt cóc cháu Nguyễn Việt Dũng 8 tuổi, học sinh lớp 3 Trường tiểu học Ngô Mây rồi ra tay sát hại dã man.
Dân trí 14-11: Xảy ra mâu thuẫn, Bình vồ cán chổi bằng cây lao vào đánh tới tấp vào đầu chị Hà. Khi phát hiện nạn nhân gục hẳn, đối tượng này lạnh lùng đưa cô vợ “hờ” lên giường đắp chăn rồi tẩu thoát.
Thanh Niên 14-1: Hầu như đêm nào khoa Cấp cứu của các BV Chợ Rẫy, Nhân dân 115, Nhân dân Gia Định, Chấn thương chỉnh hình… cũng tiếp nhận những ca nhập viện do đánh nhau, đâm chém. Những đối tượng này thuộc nhiều lứa tuổi (khoảng 16 đến 40 tuổi). Theo các BS, tình trạng đả thương về đêm nhiều hơn ban ngày.
Tiền Phong 14-11: Lãnh đạo Trại giam A2, Bộ Công an, Diên Xuân, Diên Khánh, Khánh Hoà xác nhận, tối 8-11 một hạ sĩ quan của trại A2 là N.N.H đâm bị thương hai người tại khu nhà trọ.
Việt Báo: Ngày 15/11: Công an quận Thủ Đức, TP HCM đã đưa Kim Văn Bình về nhà trên đường 12 phường Tam Bình để thực nghiệm hiện trường hành vi sát hại dã man người chung chăn gối suốt nhiều năm.
TTXVN 14-11: Vụ giết người chỉ vì… điếu thuốc.
VietnamNet 14-11: Chân dung kẻ nghịch tử hiếp dâm em gái ruột.
VnExpress 14-11: Bà chủ thu đổi ngoại tệ bị sát hại tại nhà. Người đàn bà kinh doanh thu đổi ngoại tệ nằm chết trong bếp với 3 vết chém. Cạnh đó, người chồng bất tỉnh, cơ thể đầy thương tích.
Dân Việt 14-11: Nam sinh viên đâm chết người yêu cũ của bạn gái. Công an phường An Xuân, Tam Kỳ, Quảng Nam cho biết Nguyễn Đức Chiến, 21 tuổi, sinh viên năm nhất Trường Cao đẳng Công kỹ nghệ Đông Á, TP Tam Kỳ, đã ra đầu thú về tội giết người.
Bạo lực không chỉ giới hạn ở tầm mức cá nhân mà còn được nhận rõ ở bình diện tập thể qua chính sách của nhà đương cuộc Hà Nội. Trong việc trấn áp nông dân ở Văn Giang, blogger Hiệu Minh có nhận xét rằng đây chính là “bằng chứng sống về cách chính quyền địa phương đối với dân, coi dân như kẻ thù.”
Còn trong vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng, Võ Thị Hảo nhận định như sau:
“Trong hành xử, những người này coi dân như nô lệ. Nô lệ phải gọi dạ bảo vâng, phải thờ chữ ‘nhẫn, phải dâng hiến cho họ (quan lại mới) quyền lợi chung riêng và ngay cả tính mạng. Cho sống thì được sống, bắt chết phải chết, không được quyền trái ý họ.”
Với chủ trương bao che và xử dụng bạo lực của giới cầm quyền, với khuynh hướng “sính” dùng bạo lực (được cổ súy và ấp ủ từ hơn nửa thế kỷ qua) của nhiều người dân Việt, viễn tượng về một cuộc giải phóng khỏi thân phận nô lệ hiện nay mà không phải đổ máu ra– xem ra – có vẻ rất mỏng manh.
Tối ngày 20/5/2012, tin từ Facebook Linh Phan cho biết:
“Trong lúc mình và 2 học viên Pháp Luân Công đang nhắm mắt tập công tại khu đất trống Lam Sơn, phường Linh Tây, Q. Thủ Đức thì bị 7, 8 người mặc thường phục xông vào đánh tới tấp. Họ dùng cây gỗ có cạnh vuông đập liên tục vào mình và 2 học viên khác, lúc đó mình không biết chuyện gì đang xảy ra.
Họ đánh quá mạnh nên mình bỏ chạy. Tài sản của mình và các bạn bỏ lại đó họ không lấy thứ gì nhưng điên cuồng đập phá, chiếc xe máy có chìa khóa ở đó họ cũng không lấy…
Tôi không biết những người Mặc thường phục vô cớ hành hung tôi là ai, tôi tha thứ cho tất cả họ.Tôi mong rằng họ đừng để ĐCSTQ lợi dụng, hãy để cho chúng tôi yên ổn tu luyện!
Thiện có thiện báo, Ác hữu ác báo ! Thần Phật đang nhìn tất cả chúng sinh. Đánh tôi ko hề gì, tôi tha thứ cho tất cả mọi người. Nhưng xin đừng để kẻ ác lợi dụng mà bản thân mình rơi vào Địa ngục!
Tôi tha thứ cho tất cả các bạn, tôi chân thành thương các bạn.
Xin đừng đánh đập các học viên Pháp Luân Công đang tu luyện theo nguyên lý Chân - Thiện - Nhẫn nữa!”
Một học viên PLC bị đánh đập khi đang tu tập vào ngày 20 tháng 5 năm 2012. Ảnh: Dân Làm Báo.
Câu hỏi được đặt ra là liệu dân Việt còn “nhẫn” được thêm bao lâu nữa? Và mức độ bạo loạn sẽ đi xa đến đâu khi dân tộc này đã bị đẩy đến mức giới hạn chịu đựng cuối cùng? Có ai quan tâm hay chuẩn bị gì không để người Việt có thể tránh khỏi, ngăn chận, hay giới hạn (ở mức độ khả kham) cho tình huống tồi tệ này – trong trong tương lai gần?
Những câu hỏi này – có lẽ – đã đặt ra hơi muộn, và không chỉ đặt ra cho những bậc thức giả, hoặc đám dân đen mà còn xin được trân trọng (và chân thành) gửi đến những người đang nắm toàn quyền sinh sát ở đất nước này. Qúi vị mới là những nhân vật quyết định số phận của toàn dân, và mạng sống cũng như tài sản của chính mình cùng thân nhân, trong những ngày tháng sắp tới.
Tưởng Năng Tiến
Nguyễn Hưng Quốc - Đạo đức học của sự nổi giận
Nguyễn Hưng Quốc
Công an mặc thường phục bắt giữ một người biểu tình gần Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, ngày 10/7/2011
Theo dõi báo chí trong nước về các vụ công an đánh người - đánh một cách vô cùng tàn bạo, thậm chí, có khi đánh đến chết, trong đó hầu hết nạn nhân là những người vô tội, tôi có hai sự ngạc nhiên lớn:
Thứ nhất, đối với công an, tôi không hiểu tại sao người ta lại tàn nhẫn đến như vậy? Đánh những người yếu đuối đã nhẫn tâm. Đánh những người yếu đuối không có bất cứ một phản ứng nào kháng cự lại mình, thì lại càng nhẫn tâm hơn nữa.
Thứ hai, đối với dân chúng - không chỉ các nạn nhân mà là dân chúng Việt Nam nói chung, tôi cũng ngạc nhiên là tại sao người ta lại ít phẫn nộ khi chứng kiến những cảnh đánh đập người khác một cách dã man như vậy. Dĩ nhiên là có người phẫn nộ. Trên các blog của một số người, chúng ta có thể thấy rõ sự phẫn nộ ấy. Trong cách tường thuật. Trong sự lên án. Trong các kiến nghị, thậm chí, trong một số hành động kiện tụng cụ thể. Nhưng con số ấy rõ ràng là không nhiều. Nếu không muốn nói là cực ít. Còn lại hầu hết đều im lặng. Im lặng vì dửng dưng hay vì muốn né tránh một vấn đề “nhạy cảm”? Tôi không biết. Nhưng dù vì bất cứ lý do nào thì sự im lặng ấy cũng đều rất đáng ngạc nhiên. Nó giống như một sự nhẫn tâm.
Cả hai hình thức nhẫn tâm ấy – sự nhẫn tâm của các công an và sự nhẫn tâm của những kẻ chứng kiến, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, qua các phương tiện truyền thông – đều có một điểm chung: thiếu sự giận dữ.
Thường, người ta bạo động vì giận dữ. Giận dữ nảy sinh từ quan hệ và sự tương tác. Cãi qua cãi lại: giận. Đẩy qua đẩy lại: giận. Công an đánh người, thậm chí, giết người không phải vì giận. Ngay cả khi dân chúng phản đối thì sự phản đối của họ cũng khá hiền lành và nhẫn nhục. Vậy mà công an cứ nhào đến đánh. Đánh như một phản xạ có điều kiện. Nhìn cảnh họ đánh dân trên Youtube, không thể không nhớ đến những tên mật vụ phát xít. Chúng cũng đánh người và giết người một cách cực kỳ dã man nhưng không hề có chút thù hận nào cả.
Dân chúng, kể cả giới trí thức, khi nhìn cảnh dân bị đàn áp như vậy, cũng không nổi giận. Việc không nổi giận ấy không chừng cũng là kết quả của quá trình điều kiện hóa lâu dài. Hình như người ta xem đó là chuyện bình thường. Trong phần Ý kiến trên blog này, một số người, để bênh vực cho chính quyền Việt Nam, cũng xem đó là chuyện bình thường. Ừ, thì công an ở đâu mà chả đánh dân? Ở Trung Quốc cũng có. Ở các nước Phi châu cũng có. Ngay cả ở Mỹ và các quốc gia Tây phương cũng có. Có gì đáng ngạc nhiên đâu?
Bỏ qua chuyện điều kiện hóa hay không điều kiện hóa trong lý thuyết của Ivan Pavlov. Ở đây, tôi chỉ nhìn sự giận dữ từ góc độ đạo đức học.
Trong quan hệ cá nhân, nổi giận là điều không nên. Đó là lúc lý trí bị mất quyền kiểm soát và cũng là lúc các bản năng đen tối và hủy diệt ở con người lên ngôi. Trong trường hợp này, không phải sự nổi giận mà việc chiến thắng sự nổi giận mới là dấu hiệu của văn minh và văn hóa. Nhưng ở bình diện xã hội, đặc biệt trong lãnh vực chính trị, nổi giận trước những bất công và phi lý lại là điều cần thiết. Ở đây, nổi giận không phải là kẻ thù của lý trí. Ngược lại, nó gắn liền với lý trí: nó xuất phát từ cảm giác bất bình khi thấy bảng giá trị chung, vốn được hình thành từ lý trí, bị xâm phạm. Đó là những sự nổi giận trí thức. Từ cấp độ này, sự nổi giận của con người mới thoát khỏi tính bản năng và xa cách hẳn với các loài động vật khác. Đó là sự nổi giận nảy sinh khi con người đóng vai trò chứng nhân hơn là nạn nhân, khi ở ngoài hơn là trong cuộc, khi bản thân mình không trực tiếp bị đe dọa.
Vì có tính trí thức như vậy, sự nổi giận trước bất công và phi lý cũng gắn liền với đạo đức. Người ta thường gọi đó là những sự giận dữ hay phẫn nộ đạo đức (moral anger/outrage). Gọi là đạo đức vì ba lý do chính: một, nó xuất phát từ ý thức về sự công bằng và công chính; hai là, nó vì người khác, nó muốn nhìn thấy người khác, dù đó chỉ là những người hoàn toàn xa lạ với mình, cũng được đối xử một cách công bằng và công chính; cuối cùng, nó là một trong những nguyên nhân làm cho người ta trở thành can đảm.
Can đảm không phải là không biết sợ. Can đảm là biết vượt qua cảm giác sợ hãi. Thời gian vượt qua được cảm giác sợ hãi kéo dài dài hay ngắn tùy từng người. Một trong những yếu tố giúp duy trì tình trạng không sợ hãi ấy chính là sự nổi giận.
Ngày nào dân chúng không nổi giận ngày ấy những kẻ cầm quyền độc tài và hung ác còn ăn ngon ngủ yên.
Nhân Khánh - Đất nhiễm mặn
Nhân Khánh, thông tín viên RFA
Diện tích đất nhiễm mặn ở Việt Nam không quá lớn, song cứ tăng dần trong nhiều năm. Tình hình đất nhiễm mặn và các giải pháp ứng phó hiện nay đang diễn ra như thế nào ?
![]() |
Ông Dang Roi bên thửa ruộng bị nước mặn tràn vào hôm 05.07.2010 tại tỉnh Bến Tre. - AFP |
Nguyên nhân tình trạng nhiễm mặn
Tình trạng hạn hán gay gắt khắp các tỉnh miền Bắc và miền Trung hồi đầu tháng này, khiến vùng hạ lưu nhiều con sông lớn bị nhiễm mặn nặng. Hoặc mực nước sông Mê Kông cũng có liên hệ đến hiện tượng nội đồng bị nhiễm mặn. Chúng tôi được Kỹ sư Võ Quốc Trung, Trưởng Phòng Kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông tỉnh Sóc Trăng cho biết như sau:
Lưu lượng đổ về ít, mà rơi vào cao điểm của mùa khô tháng 3 tháng 4 thì mực nước biển sẽ dâng và sẽ ăn sâu vào trong đất liền.
Còn lưu lượng hàng năm đổ về lớn thì nó sẽ đẩy lùi khả năng nhiễm mặn ra xa hơn.
Năm nay, tình trạng nhiễm mặn đồng bằng sông Cửu Long có những diễn biến mới, phức tạp hơn trước. Như trường hợp tỉnh Sóc Trăng, ông Lê Thành Trí, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết, nước mặn đã xâm nhập từ biển Tây len theo các tuyến kênh phía Hậu Giang vào Sóc Trăng chứ không phải từ hướng biển Đông, đi qua địa bàn Bạc Liêu như trước đây.
Bên cạnh tình trạng xâm mặn theo tác động tự nhiên của môi trường, thực tế cho thấy vai trò của con người cũng quan trọng. Chẳng hạn, nơi nhiễm mặn nặng nhất của tỉnh Cà Mau là khu vực giáp ranh giữa vùng trồng lúa và nuôi tôm. Vì thiếu tuyên truyền hướng dẫn, nhiều nơi người dân phá đê, đưa nước mặn vào vùng ngọt hóa để nuôi trồng thủy sản. Hoặc như ở Ninh Thuận, việc canh tác các đồng muối quy mô lớn nhưng thiếu quy hoạch đã làm cho đất và nước trong khu vực bị nhiễm mặn nghiêm trọng. Nhìn chung, về tác động của nhiễm mặn trong nông nghiệp, chúng tôi được Giáo sư Lê Huy Bá, Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và Quản lý môi trường, cho biết:
Hiện tượng nhiễm mặn đối với vùng đất nông nghiệp, nếu là đất trồng lúa thì khả năng ảnh hưởng rất lớn. Là đất trồng hoa màu, khả năng ảnh hưởng cao hơn nữa. Nếu là đất dùng để nuôi trồng thủy sản, nước lợ thì lại tốt. Có những chỗ người ta phải bơm nước lợ vào, độ
Những vùng nhiễm mặn nặng nhất thường là khu vực giáp ranh giữa vùng trồng lúa và nuôi tôm...RFA
mặn khoảng 7-8‰ để nuôi tôm sú mới được.
Trong dung dịch đất thì độ mặn phải nhỏ hơn 1‰ mới an toàn cho lúa. Còn trên 10‰ thì cây lúa chết. Bây giờ người ta cũng tạo ra vài loại giống lúa chịu mặn, nhưng khả năng chịu mặn cũng chỉ đến 7-8‰ thôi.
Phương án chống mặn không dễ
Chân đất bị xâm mặn là mối đe dọa trực tiếp đối với các giống cây trồng. Có những vụ mùa, lúa trong giai đoạn trổ đòng phát triển tốt nhưng bị nước biển xâm thực thì đành ngã rạp. Nhìn chung, công tác làm giảm độ mặn của đất là vô cùng khó khăn. Ngành sinh học đã mở ra một hướng đi mới để đối phó với tình trạng này, qua việc nghiên cứu gien của một số loài thực vật có khả năng thích ứng với muối. Trong công tác ứng phó với vùng đất nhiễm mặn hiện nay, chúng tôi được Kỹ sư Võ Quốc Trung cho biết:
Cũng áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết là căn cứ vào dự báo của Khí tượng thủy văn Nam bộ, Sóc Trăng chúng tôi sẽ có thông tin về mức độ, khả năng xâm nhập mặn để bố trí thời vụ để né mặn. Thứ hai là bố trí những giống lúa có khả năng chịu mặn tốt và có thời gian sinh trưởng ngắn, để giảm thiểu mức ảnh hưởng vào cuối vụ.
Một số cây trồng khác như cây ăn trái, hay mía; chúng tôi cũng khuyến cáo người dân bố trí lại thời vụ, để đảm bảo lượng nước tưới phù hợp với điều kiện xâm nhập mặn hàng năm.
Một nông dân nhìn cánh đồng lúa bị ảnh hưởng nước lợ. RFA
Năm nay, Sóc Trăng cũng có nhiều giống lúa có khả năng thích ứng được với điều kiện chân đất bị nhiễm mặn. Trung bình ở các vùng đất lúa-tôm, đất chân mặn thì một số bộ giống lúa cũng cho năng suất đạt trên 5 tấn.
Do chi phí để đưa nước ngọt vào các đồng ruộng ngày càng tăng, nên công tác rửa mặn trở nên một thách thức lớn trong tương lai. Hướng nghiên cứu chọn ra các loại cây, ngũ cốc có đặc tính chịu mặn là cần thiết.
Trong thực tế, việc nuôi trồng ở những vùng đất bị xâm mặn thường kém hiệu quả. Nhưng nếu không được xử lý thích đáng, tốc độ đất bị khô cằn hoang hóa sẽ càng nhanh hơn. Dự báo trong thời gian tới, do biến đổi khí hậu và nước biển dâng, tình trạng xâm mặn ở Việt Nam sẽ còn tiếp tục diễn biến xấu hơn. Với câu hỏi lý giải như thế nào về tình trạng hiện nay, công tác bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức, theo Giáo sư Lê Huy Bá là:
Lý giải mãi, e cũng thế sao mà lý giải hết được. Đại để là có cả trách nhiệm của các nhà khoa học, trách nhiệm của quản lý nhà nước, trách nhiệm của người dân. Trước tới giờ mình cứ nói sửa lời, nhưng bây giờ mình phải nói thẳng là ý thức về môi trường của mình thấp. Cho nên mới xảy ra những chuyện rác rưởi. Cha chung nên không ai khóc cả, không có môi trường thì chưa chết ai. Môi trường là của ai chớ không phải của ai mà có, cho nên họ không quan tâm.
Về mặt quản lý, chưa đến nơi đến chốn. Những người quản lý thực ra họ cũng chưa có tầm. Và họ cứ lý lại nhau. Ai cũng thành tích thì muốn nhiều nhưng trách nhiệm thì không ai dám chịu cả. Rồi suy nghĩ theo kiểu nhiệm kỳ. Ông này lên cũng tưởng có một cái gì đó, nhưng mà chả làm được cái gì. Vơ vét được một mớ rồi về thôi…
Chi phí cho công tác cải tạo đất khá là tốn kém. Số tiền bỏ ra cho một công trình ngọt hóa 1.000 ha đất thường không dưới cả chục tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu không giải quyết rốt ráo, nguy cơ nhiều vùng nông nghiệp bị bỏ hoang là tất yếu.
Kết hợp với thời tiết biến đổi ngày càng gay gắt, tại các vùng duyên hải Việt Nam, tần số các đợt xâm mặn xuất hiện phổ biến hơn và độ mặn gia tăng cao hơn. Nếu không được quan tâm đúng mức, tình trạng này dứt khoát sẽ có những tác động lớn đến cả nền kinh tế quốc gia.
Bùi Tín - Thủ Tiêu: cuốn sách gây kinh hoàng
Bùi Tín (VOA)
Nạn diệt chủng ở Campuchia do Khmer Đỏ gây nên từ tháng 4-1975 đến đầu năm 1979 là một sự kiện kinh hoàng trong lịch sử nhân loại. Đã có bộ phim thời sự “Cánh đồng chết” - The Killing Field - ghi lại theo ngôn ngữ điện ảnh, dựng lại những thảm cảnh tận cùng man rợ của con người đối với đồng loại của mình, nhân danh một chủ nghĩa cộng sản đầy tràn thú tính. Thật là quá ít khi trí nhớ nhân loại cần ghi sâu những tội ác kinh hoàng để không cho tái phạm thêm một lần nữa. Cần nhất là tác phẩm văn học.
Mới đây, tại Pháp xuất hiện một cuốn sách sớm gây chấn động dư luận. Đó là cuốn “Thủ Tiêu” - “l’Élimination” của một nhà văn, nhà điện ảnh Campuchia, do nhà xuất bản lớn “Grasset” xuất bản, 332 trang, phát hành từ tháng 3-2012.
Tác giả có lý lịch thật độc đáo, bảo chứng cho giá trị cũng độc đáo của cuốn sách. Đó là ông Krithy Panh, sanh ngày 18 tháng 4 năm 1964 ở thủ đô Pnom Penh, mới 48 tuổi, trong một gia đình trí thức lớn có truyền thống theo văn hóa Pháp từ thời Campuchia còn là thuộc địa Pháp. Bố, mẹ, chú, bác, anh, chị em ruột và anh chị em họ của ông đều bị Khmer Đỏ giết hoặc đày đọa đến chết, ngay trước mắt của ông, từ ngày 17 tháng 4 năm 1975, khi quân của họ tràn vào Pnom Penh, cho đến tháng 12 năm 1978, - khi quân đội Việt Nam tiến công vào, quân lính Khmer Đỏ cùng cố vấn quân sự Trung Quốc bỏ chạy sang Thái Lan.
Ngày hôm sau, khi “dân loại 2» ở Pnom Penh và các thành phố, thị trấn bị đuổi hết về nông thôn cho “dân loại 1» cai quản, lại chính là ngày kỷ niệm sinh nhật của cậu bé Krithy Panh tròn 11 tuổi. Dần dần người thân xa gần của cậu bé Krit Panh bị ốm bệnh, ốm đói, bị đâp vỡ sọ qua thẩm vấn, trên các công trường thủy lợi, cậu bé côi cút ghi vào trong bộ não non nớt của mình không biết bao nhiêu cảnh kinh hoàng, cho đến ngày cậu bị trôi dạt sang Thái Lan vào đầu năm 1979, để rồi sau đó được may mắn đưa sang Pháp, khi 15 tuổi.
Krithy Panh được cộng đồng Khmer và chính quyền Pháp nuôi dưỡng, cho ăn học chu đáo và thành tài. Năm 1985, khi 21 tuổi, anh tốt nghiệp Học viện cấp cao điện ảnh Pháp - Institut des Hautes Études Cinématographiques, vừa chuyên viết kịch bản phim phóng sự, vừa quay và dựng phim, anh còn làm diễn viên điện ảnh khi cần. Anh nói và viết tiếng Pháp trôi chảy như một trí thức Pháp.
“Những con người của đồng ruộng”, “Một buổi chiều sau chiến tranh”, “S21, bộ máy của Khmer Đỏ” là những bộ phim phóng sự đầu tay của Krithy Panh, đều được khen thưởng.
Tất cả sáng tác của Krith Panh đều nói về cuộc diệt chủng ở quê hương anh, trong 4 năm cai trị của Khmer Đỏ, dưới cái tên hiền lành là “Campuchia Dân chủ”.
Krithy Panh kể rằng tâm trạng anh trải qua nhiều dằn vặt âm thầm mà dữ dội. Vừa muốn quên đi những năm tháng kinh hoàng để không bị quá khứ đau thương đầy chết chóc ám ảnh ngày đêm, có khi nửa đêm tỉnh dậy hốt hoảng tưởng như còn ở thời diệt chủng; lại có lúc muốn nhớ lại hết, ghi lại hết, kể lại hết những tội ác đã chứng kiến, coi đó là nghĩa vụ đối với đồng bào mình, anh chị em, bố mẹ mình đã bị giết một cách thảm thương.
Thế rồi anh đã trở về Pnom Penh, trở về nước đang hồi sinh, gặp lại đồng bào mình và tự nhủ không thể quên lãng. Anh hiểu rõ mình là một chứng nhân quý hiếm của lịch sử hiện đại Khmer. Anh trở lại chùa Tháp Angkor, trở lại những cánh đồng chết chóc năm xưa, trở lại nơi có ngôi nhà ấm cúng xưa kia của gia đình ở giữa thủ đô Pnom Pênh, anh nhớ lại những năm tháng kinh hoàng của anh giữa tuổi thiếu thời, chết đi sống lại nhiều lần, từ khi 11 đến 15 tuổi. Anh nghiền ngẫm về cái sống và cái chết, về bản chất thiện, ác của loài người, của từng con người.
Tại quê hương đang hồi sinh, anh có dịp dự phiên tòa án quốc tế xử bọn tội phạm diệt chủng như Nuôn Chea, Yeng Sari, Khieu Samphan…và đặc biệt Dutch, tên trùm công an Khmer Đỏ Tổng giám đốc cơ quan S21 kiêm chỉ huy nhà tù lớn Tuol Sleng, giữa thủ đô Pnom Penh.
Anh đặc biệt chú ý đến Dutch, tên đồ tể kinh khủng nhất của mọi thời đại, kẻ đã trực tiếp và ra lệnh giết 12.380 đồng bào của hắn khi đứng đầu cơ quan Công an S21 của Khmer Đỏ cầm đầu nhà tù Tuol Sleng trong 3 năm, từ đầu năm 1976 đến tháng 1 năm 1979.
Rithy Panh đã dự các phiên tòa, ghi lại các lời khai của Dutch trước tòa, đọc và chụp lại hàng mấy trăm trang khai cung của đương sự trước cơ quan điều tra và kiểm sát. Ngoài ra Rithy Panh còn gặp riêng và hỏi chuyện, ghi âm Dutch trong hơn một trăm giờ đồng hồ, về cuộc đời, những hành động, suy nghĩ của tên sát nhân khủng khiếp này.
Cuốn sách “l’ Élimination” - “Thủ Tiêu” ra đời là từ những tư liệu hiếm quý, trực tiếp, sống động đó. Cuốn sách nhận ngay được giải thưởng của France Télévision.
Bộ mặt rất kỳ lạ, khó tưởng tượng nổi của tên sát nhân vào loại kinh khủng nhất trong lịch sử loài người xuất hiện dần trên hơn 300 trang sách, ngồn ngộn tư liệu sống của nhà báo, nhà điện ảnh chuyên nghiệp Rithy Panh, với sự cộng tác của nhà văn Pháp Christophe Bataille, 41 tuổi, trong việc chải chuốt văn phong, nâng cao thêm sự hấp dẫn vốn có của tác phẩm.
Thanh Hà - Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam nợ nần chồng chất và làm ăn thua lỗ
Thanh Hà (RFI)
Ngày 30/05/2012, bộ Tài chính công bố thống kê về hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam. Theo đó, với mức nợ là 450 000 tỷ đồng và thua lỗ trên 216 000 tỷ, nhiều tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp làm ăn thiếu hiệu quả. Bộ Tài chính đề nghị giám sát tài chính và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
REUTERS |
Đứng đầu trong số các tập đoàn vay nợ nhiều nhất gồm có tập đoàn tập đoàn Dầu khí Petro Vietnam (với 72.300 tỷ đồng), tập đoàn Điện lực (với 62.800 tỷ đồng) và tập đoàn Công nghiệp Than và khoáng sản TKV (với 20.500 tỷ đồng).
Một điều đáng lo ngại khác là tại Việt Nam hiện có tới gần 1/3 các tập đoàn và tổng công ty có tỷ lệ nợ phải trả cao gấp 3 lần so với vốn sở hữu. Vẫn theo báo cáo của bộ Tài chính, tình hình tài chính tại nhiều tập đoàn, tổng công ty chưa đảm bảo và các doanh nghiệp nhà nước phải đối phó với nguy cơ rủi ro cao, mức lỗ bình quân của các tập đoàn, tổng công ty cao hơn gấp 12 lần so với các doanh nghiệp không trực thuộc nhà nước.
Ngày 29/05/2012, phó cục truởng cục Tài chính – Doanh nghiệp, ông Đặng Quyết Tiến trong một cuộc trả lời phỏng vấn cho biết là các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải cáo bạch tài chính. Vì thế bộ Tài chính vừa trình Chính phủ dự thảo quy chế giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động đối với doanh nghiệp nhà nước.
Hãng tin Bloomberg nhắc lại, tính thiếu minh bạch về tài chính của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam đã khiến hai cơ quan thẩm định về mức độ rủi ro là Standard & Poor's và Moody’s hạ điểm tín nhiệm đối với đầu tư vào Việt Nam. Vào tháng 8/2011, Standard & Poor's hạ 3 bậc điểm tín nhiệm so với thời điểm là tháng 12/2012 và hiện chỉ còn là điểm BB-. Trong lúc Moody’s mạnh tay hơn khi cho rằng mức độ an toàn của đầu tư vào Việt Nam hiện chỉ còn là điểm B1.
BBC - Hoa Kỳ chuyển hướng sang châu Á
BBC
Hoa Kỳ sẽ triển khai tàu chiến thân cạn tới Singapore
Trước chuyến thăm đầu tháng 6/2012 tới Singapore, Việt Nam và Ấn Độ, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Leon Panetta đã nói đến mục tiêu tăng cường quan hệ truyền thống với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Philippines, và xây dựng "đối tác mạnh mẽ" với các nước Đông Nam Á.
Tình hình Biển Đông và Đối tác xuyên Thái Bình Dương là hai chủ đề Hoa Kỳ nêu ra những năm gần đây nhằm thúc đẩy quan hệ với các nước trong vùng, gồm Việt Nam.
BBC Tiếng Việt phỏng vấn Tiến sĩ Ian Story, chuyên gia về Biển Đông tại Singapore và Tiến sĩ Jonathan Chow từ Viện Nghiên cứu Chính sách Asan tại Seoul, Hàn Quốc về hai chủ đề này.
Ian Storey: Chính quyền Obama đã có một chính sách mới mà họ gọi là ‘xoay chiều’, hay cân bằng lại các lực lượng quân sự, chuyển trọng tâm từ Trung Đông, có thể là cả từ châu Âu sang châu Á, và điểm đến chính của Mỹ có thể là Đông Nam Á chứ không phải Đông Bắc Á.
Thực chất, điều này có nghĩa là sự hiện diện của Hoa Kỳ về quân sự tại Đông Nam Á sẽ tăng lên, sẽ có nhiều tàu chiến của Hải quân Mỹ tới đây, và họ cũng tăng cường sự hỗ trợ về năng lực quân sự cho các nước Đông Nam Á như Philippines.
Cả Singapore và Úc đều là những đối tác trọng yếu của Hoa Kỳ. Úc là đồng minh có hiệp ước quân sự với Mỹ. Singapore không phải đồng minh ở mức có hiệp ước nhưng là một đối tác chiến lược gần gũi. Ngoài ra, Singapore luôn có quyền lợi đặt vào nguyên tắc tự do hàng hải và sự ổn định tại Biển Đông vì họ là quốc gia thương mại. Singapore phụ thuộc nhiều vào nhu cầu đảm bảo tuyến hải hành qua Biển Đông được an toàn.
Hoa Kỳ sẽ triển khai tới bốn tàu chiến thân cạn (littoral combat ship) tới Singapore. Chiếc đầu sẽ đóng ở đó trong 10 tháng của năm 2013. Đây là một phần của chiến lược trấn an các đồng minh của Mỹ tại châu Á rằng Hoa Kỳ sẽ luôn có mặt để duy trì ổn định trong vùng. Tại Úc, đây không phải là một đơn vị đông đảo. Ban đầu chỉ có 250 quân, sau đó đến 2016 sẽ có chừng 2500 thủy quân lục chiến. Mục đích là để thủy quân lục chiến Mỹ luân chuyển qua vùng Đông Nam Á thường xuyên và tham gia vào các đợt tập luyện chung.
Jonathan Chow: Hoa Kỳ bên cạnh thỏa thuận gần đây với Úc để luân chuyển tới 2500 Thủy quân lục chiến tới Darwin là dấu hiệu của quan hệ sâu nặng thêm của hai bên, còn có tập luyện hải quân chung với Việt Nam vào tháng 8/2010 và tháng 7/2011, có tập trận chung với Campuchia hàng năm mà lần đầu xảy ra năm 2010.
Thỏa thuận gần đây giữa Hoa Kỳ và Singapore để cử bốn tàu chiến thân cạn tới Singapore và tăng cường tập trận hai bên, nâng cấp hợp tác quân sự với Malaysia, Indonesia và Brunei đều là những bước tiến triển nhằm thực hiện mục tiêu bổ sung thêm cho các liên minh quân sự đã có rất chặt chẽ của Hoa Kỳ với Philippines và Thailand.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)