Thứ Năm, 2 tháng 2, 2012

Lê Diễn Đức - Clerc-ism, trí thức trùm chăn và lưu manh giả danh trí thức

Lê Diễn Đức




Tháng 8/2010, trong bài “Tâm sự cùng giáo sư Ngô Bảo Châu: Đừng dây với hủi”, tôi có nhắc tới nhà toán học F. Sierpiński (1882-1969), một trong những đại diện hàng đầu của toán học Ba Lan, đã được Liên minh Thiên văn Quốc tế lấy tên đặt cho miệng núi lửa trên Mặt Trăng vào năm 1976.

Năm 1964, cùng với 34 trí thức Ba Lan khác, F. Sierpiński đã ký tên vào bản kiến nghị gửi nhà nước cộng sản Ba Lan phản đối sự kiểm duyệt. Thế nhưng sau đó, trước áp lực và đe dọa của an ninh, ông lại ký vào lá thư gửi nhật báo Anh quốc The Times khẳng định ở Ba Lan không có đàn áp chính trị và nhà chức trách Ba Lan không bôi nhọ Đài Âu châu Tự do (Radio Free Europe). Vào cuối đời Sierpiński rất hối hận về việc làm này.  

 Lúc ấy tôi viết, hy vọng Ngô Bảo Châu sẽ không bị cám dỗ bằng những lời ru có cánh của chính quyền Việt Nam, hay sự cám dỗ của vật chất...  để không thể sống đúng với chính mình, rồi có lúc phải chịu bi kịch tinh thần như F. Sierpiński. [1]

Rồi không khí phấn hứng phát cuồng mừng đón Ngô Bảo Châu nhận Huy chương Fields; những nhận định gây tranh cãi về phiên toà Cù Huy Hà Vũ; Châu đóng cửa blog cá nhân; sự im lặng; và cuối cùng… cánh cửa căn hộ của Châu trị giá 700 ngàn USD, món quà nhận của Hà Nội, đã khép lại trong tôi hình ảnh Châu mà tôi từng khâm phục từ lá thư Châu gửi quốc hội phản đối khai thác bauxite Tây Nguyên.

Nói cho cùng, Huân chương Fiels là giải thưởng uy tín dành cho các nhà toán học dưới 40 tuổi, giá trị 15 ngàn đôla Canada, chẳng có gì khủng khiếp, sủng ái quá mức như ở Việt Nam. Gần với Giải Nobel hơn là giải thưởng toán học Abel, có giá trị khoảng 1 triệu USD.

 Sau bài "Sự lạc quan vô tận" của Phạm Thị Hoài với thuật ngữ "đối lập trung thành" để chỉ những người "không hài lòng với hệ thống chính trị trong nhiều vấn đề lớn, công khai phản biện và tìm giải pháp thay đổi trong phạm vi các vấn đề đó, nhưng không đụng chạm, hay tránh đụng chạm đến nền tảng tồn tại của hệ thống" - đã có những tranh luận xung khắc. [2]

Chủ đề trí thức đã được cọ xát trong nhiều thập niên qua trên các diễn đàn Việt ngữ với sự xuất hiện của một số thuật ngữ như "trí thức quan văn", "ngu trung", “trí thức trùm chăn”, v.v... Do vậy, tôi không mấy hứng thú sa vào những cuộc thảo luận không hồi kết, thậm chí có thể bị thách đố khiêu khích.

Sau mấy ngày Tết, thấy dư luận sôi động với bài phỏng vấn Ngô Bảo Châu về vai trò trí thức Việt Nam trên tờ Tuổi Trẻ ngày 20/1/2012, khiến tôi tò mò. Không biết nhà toán học này lại nói gì.

Trong bài, Châu phản đối việc "coi phản biện xã hội như chỉ tiêu để được phong hàm trí thức",  "trí thức là người lao động trí óc... Giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội". [3]

Mặc dù có nói "việc đưa ra các phản biện có lập luận chặt chẽ là những đóng góp lớn cho xã hội”, “không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng”, định nghĩa về trí thức mà Châu đưa ra không đầy đủ và sự phản đối của Châu cũng không đúng.

Trí thức, nếu được "phong hàm", thì phải gắn với vai trò phản biện xã hội, một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất.

Giá trị của sản phẩm có thể "không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội" thật. Nhưng nếu nó được làm ra từ “lao động trí óc” thuần tuý, thì chẳng to tát gì hơn bộ bàn ghế đẹp được làm ra bằng bàn tay khéo léo của người thợ mộc. Tìm ra đáp số bài toán hay chứng minh bổ đề, trong ý nghĩa này, là sản phẩm của anh thợ toán.

Vai trò phản biện là chỉ tiêu xác định người trí thức mà con người đã có từ rất lâu, thiết nghĩ không nên sáng tạo gì thêm.

Khái niệm trí thức/intellectuel xuất hiện vào cuối thế kỷ 18 tại Pháp và Ý (liên hệ với illuminism, phong trào Khai Sáng).

Sau Công xã Paris (1871), trí thức được xác định không chỉ là những người có học vấn hay trình độ chuyên môn cao, mà trước hết phải quan tâm và có chính kiến trước các vấn đề chính trị-xã hội.

 Cùng với vụ án Dreyfus (1895-1906), khái niệm trí thức được phổ biến rộng rãi, đặc biệt thường xuất hiện trong các tác phẩm của nhà văn Emile Zola, nguời đã dũng cảm phanh phui sự thật, cương quyết bảo vệ đại úy Alfred Dreyfus. Chính từ đây, người ta gắn trí thức với tinh thần bảo vệ “các giá trị dreyfus”, tức là chống lại sự bất công của ngành tư pháp dưới danh nghĩa lợi ích quốc gia.  

 Trong một bài luận về trí thức, giáo sư Chu Hảo viết:
 "… Karl Marx đã coi trí thức là những người “phê bình không nhân nhượng những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính quyền hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính quyền nào”. Cần phải hiểu rằng ở đây Marx chỉ muốn nhấn mạnh trách nhiệm xã hội của người trí thức. “Những gì đang hiện hữu” là những bất cập của các chính sách xã hội hiện hành, chứ không thể là những chính sách hợp lý, tiến bộ. Người trí thức có năng lực phê phán và có tầm nhìn xa nên thường hay tỏ sự bất bình trước sự trì trệ và bất hợp lý một cách công khai và thẳng thắn". [4]

 Sau bài phỏng vấn Ngô Bảo Châu, nhà văn Nguyễn Quang Lập lên tiếng rằng, "không thể nghĩ đơn giản: trí thức là người lao động trí óc",  "các nhà khoa học được coi là trí thức hay không phải xem xét họ đã dấn thân trong cộng đồng xã hội như thế nào, xưa nay đều thế cả". [5]

 Thế nhưng, một số nhà trí thức khi được xã hội ngưỡng mộ và chiều chuộng, thường ngộ nhận về mình, lâm vào trạng thái ảo tưởng, có lúc phát ngôn linh tinh.

 Noam Chomsky, một khuôn mặt trí thức còn sống được nói đến nhiều nhất trên thế giới, nhiều người xem ông như một biểu tượng của sự thông thái, với công trình lý thuyết ngôn ngữ đồ sộ, tác động vào mọi lĩnh vực khoa học, được so sánh với nhà bác học Einstein. Trong các cuộc thăm dò những học giả qua mọi thời gian, Chomsky chỉ đứng sau Platon và Freud.

 Vậy mà, nhà khoa học, chính trị gia Ba Lan M. Nowicki đã gọi Chomsky là “nhà trí thức ngu xuẩn nhất thế giới”.

 Bởi vì, Chomsky đã ủng hộ R. Faurisson, một giáo sư của đại học Lyon, phủ nhận sự diệt chủng của Hitler đối với dân tộc Do Thái tại Holocaust và của Khmer Đỏ ở Campuchia. Chomsky đã khen ngợi nhà độc tài Nam Tư Milosevich, cho rằng, sự diệt chủng sắc tộc ở Srebrenica do báo chí dựng chuyện, còn Đông Âu dưới thời thống trị của Liên Xô là thiên đường thực…

M. Nowicki dẫn lời Richard Posner trong cuốn "Public Intellectuals": “Có nhà khoa học khi đã đạt được danh vọng trong lĩnh vực của mình, có thể dùng uy tín để dạy đời người khác những vấn đề mà trong đó hắn ta chỉ là một thằng đểu, không hơn không kém”.[6]

 Tôi nhớ lại nhận định về Chomsky của Nowicki xuất phát từ quan ngại của nhà văn Nguyễn Quang Lập: "Phát biểu của Châu, dù vô tình đi chăng nữa, sẽ làm cho đám trí thức trùm chăn được thể vênh vang, tiếp tục trùm chăn kỹ hơn nữa, trong khi vẫn có cớ để dè bỉu và chỉ điểm những trí thức chân chính". [6]

 Trên Facebook có bạn nói “nhận mình là trí thức mà câm, điếc, mù trước nỗi đau của đất nước, sung sướng hưởng thụ trước nghèo đói và họa mất nước vào tay ngoại bang".

 Thực ra các thuật ngữ “trí ngủ”, "trí thức trùm chăn"… là biến thể của khái niệm "clerc-ism" trong cuốn “Des La Trahison Clercs", xuất bản năm 1927, của triết gia Pháp Julien Benda (1867- 1956).

 "Clerc-ism" là thế giới quan, theo đó trí thức nên giữ khoảng cách với những vấn đề chính trị và không tham gia vào những tranh chấp chính trị. Những người theo "clerc-ism" có nhiệm vụ cống hiến cho công việc nghệ thuật hoặc khoa học, và tránh tham gia vào tiến trình sửa đổi thế giới hiện có. Vì vậy, những trí thức có thái độ này có thể liên đới với "escapism", tức là chạy trốn các vấn đề của đời sống xã hội trong thế giới ảo tưởng và trí tưởng tượng.

 Triết gia Julien Benda lên án sự phản bội của loại “trí thức-clercs”, vì họ đã gắn bản thân với thái độ nhún nhường, thỏa hiệp, xấu hổ và đi ra khỏi vai trò của mình như là người giám hộ các giá trị phổ quát (sự thật, công lý, lý trí).

 R. Aron trong cuốn "Opium of the intellectuals" nêu ngắn gọn: "Trí thức là tác giả của ý tưởng trí tuệ và là một người quan sát thời cuộc".

Có lẽ từ vai trò “quan sát thời cuộc” mà có chuyện hài hước của Ba Lan: Thằng bé hỏi “Trí thức là ai hả bố?, bố trả lời: “Là những kẻ chỉ biết chúi mũi đọc sách trong khi có TV và video”.

 Jean-Paul Sartre, một triết gia thích nghịch lý, cho rằng trí thức là người hay xía vào các công việc không phải của mình. Nhưng trong thực tế ông bênh vực các nạn nhân của sự tra tấn tại Algeria, là thành viên của Tòa án Russell (cũng là một trí thức) xét xử tội phạm chiến tranh tại Việt Nam.

 Albert Camus (1913-1960), được xem là một trong những trí thức nổi bật nhất châu Âu trong nửa sau của thế kỷ 20, Giải Nobel Văn học 1957, đặt dấu chấm trên chữ i: "Nhà văn là trí thức không thể là để phụng sự những người sáng tạo lịch sử, mà là phụng sự các nạn nhân của nó. Lẽ phải của sự sinh tồn nếu có, là nói thay cho những người mà họ không thể nói được". Trong bối cảnh Việt Nam chúng ta có thể thêm ý: "hoặc là họ sợ hãi"!


Leopold Unger, bình luận gia và là một trí thức đối lập cộng sản Ba Lan cho rằng, “trí thức là người có ý thức trách nhiệm và trong một tình hình cụ thể từ chối tham gia vào việc lạm dụng pháp luật, lên án bất công và bác bỏ độc quyền tư tưởng với mục đích biện minh cho bạo lực và dối trá”.

 “Với lính đánh thuê cũng như với các nô lệ người ta đã xây nên kim tự tháp, chứ không phải với máy vi tính. Dân chủ cũng vậy!”- Unger viết. [7]

 Trong bài “Trí thức và quá trình dân chủ hoá – Kinh nghiệm Ba Lan”, Adam Michnik, người được tờ Financial Times xếp vào danh sách 50 nhà báo có ảnh hưởng nhất thế giới, một nhà tranh đấu dân chủ Ba Lan nổi tiếng, hiện là Tổng biên tập nhật báo tri thức lớn nhất Ba Lan Gazeta Wyborcza, viết:
 "Cần phải nói rằng, giai tầng này (trí thức) giữ một vị trí đặc biệt trong hệ thống. Stalin gọi họ là ’những kĩ sư tâm hồn’. Vâng, họ là đối tượng chính của những vụ đàn áp, mà lại rất tàn khốc nữa. Nhưng mặt khác, chính quyền lại luôn sử dụng họ nhằm củng cố hệ thống. Không có nhóm xã hội nào được ve vãn và nịnh bợ như thế, ngoài tầng lớp "con ông cháu cha" (nomenclature) cộng sản ra thì không có giai tầng nào được nhiều đặc quyền đặc lợi như trí thức".

 Vì thế ông cho rằng, "trí thức phải là tiếng nói của xã hội đã bị bịt miệng". "Đối với người trí thức thì chính trị là lựa chọn mang tính đạo đức. Người trí thức bước vào chính trị là để lấy sự thật chống lại dối trá của bộ máy, lấy sức mạnh của niềm tin chống lại thói vô nguyên tắc của bộ máy". [8]

 Định nghĩa về trí thức, từ điển Wikipedia tiếng Việt có nói đến "lưu manh giả danh trí thức" trong bộ máy cai trị và xem "đây là mối họa không gì có thể so sánh, nó sẽ tàn phá mọi giá trị mà nhân loại đã xây đắp lên bằng cả trí tuệ, mồ hôi, thậm chí bằng cả máu xương của biết bao triệu triệu con người".

 Adam Michnik cho rằng, "nhà nước không thể tồn tại lâu nếu nó không được những người có học ủng hộ".

 Chỉ giới có học giả danh trí thức, thì mới ủng hộ một nhà nước phi dân chủ, bóp nghẹt tự do, chà đạp nhân quyền và chí

 Do đó, chừng nào những tên lưu manh giả danh trí thức chưa bị vạch mặt triệt để trước công luận, chừng nào trí thức chưa lột xác khỏi vỏ “đối lập trung thành”, chưa dấn thân sử dụng hết vai trò phản biện phục vụ cộng đồng và lý tưởng tự do dân chủ, chừng đó chưa thể có một phong trào quần chúng rộng lớn cho sự thay đổi xã hội Việt Nam.

Và bởi vì, trí thức là người lý luận, tổ chức, định hướng cách mạng và đảm bảo xây dựng cấu trúc xã hội dân sự hiện đại hậu cách mạng – câu nói “mọi cuộc cách mạng đều từ trên xuống” của Michnik nằm trong nội hàm này – thì, cách mạng, tất nhiên, sẽ không nổ ra từ đầm Cống Rộc, cho dù Đoàn Văn Vươn được xem như một biểu tượng của người nông dân nổi dậy!

 Lời kết
 Hy vọng bài viết sẽ đóng góp chút ít cho những ai được "phong hàm" trí thức, hoặc tự "phong hàm" trí thức, nhìn nhận mình có phải là trí thức hay không.

 Mỗi người trong từng hoàn cảnh sẽ tự vấn lương tâm. Tiếng nói lương tâm của trí thức phải cao hơn cả luật pháp bị áp đặt bởi nhà cầm quyền, giống như Voltaire bảo vệ Calas (tín đồ Tin Lành bị chặt đầu tại Toulouse), Zola bảo vệ Dreyfus, hoặc gần đây Bourdieu bảo vệ nguời thất nghiệp, Pinter và Sontag bảo vệ tù nhân Guantanamo; cũng như Albert Camus lấy uy tín trí thức của mình bảo vệ "sự tôn trọng các giá trị lâu dài trước bất kỳ cấu trúc chính trị nào, và thậm chí cả hệ thống chính trị".

Ngày 01/02/2012
© 2012 Lê Diễn Đức – RFA Blog
-------------------------------------------------------------------
Tư liệu và trích dẫn trong bài được sử dụng từ các tài liệu sau:


Thứ Tư, 1 tháng 2, 2012

Ngô Nhân Dụng - Người Miến Điện còn tin nhau

Ngô Nhân Dụng


Tại sao người Miến Điện họ tin nhau như vậy? Đây là một thắc mắc chung khi chúng ta thấy bà Aung San Suu Kyi chấp nhận ghi tên tranh cử, và nhiều ứng cử viên thuộc đảng Liên minh Dân tộc Dân Chủ của bà cũng ra tranh cử; trong những cuộc bầu cử bổ túc vào một quốc hội đã được bầu lên năm ngoái.

Năm ngoái, Liên minh này (viết tắt là NLD theo tên trong tiếng Anh) đã hoàn toàn tẩy chay cuộc bỏ phiếu vì nhiều người trong đảng vẫn còn ở trong tù, mà cũng vì họ không tin tưởng vào chính quyền của Tổng thống Thein Sein vẫn do nhóm quân phiệt đứng sau điều động. Năm nay, những tù nhân mới được tự do cũng sẵn sàng “đánh cá” vào thiện chí của ông Thein Sein. Nhiều người còn trong lớp tuổi dưới 40, đã bị cầm tù hàng chục năm từ 1988, đã nói với nhà báo: “Bà Suu Kyi tin ông Thein Sein nói thật. Chúng tôi tin ở óc phán đoán của bà.” Người ta tin Bà Suu Kyi đủ khôn ngoan, mà bà thì tin ông Thein Sein nói thật. Người Miến Điện còn tin nhau như vậy, thật là một điều đáng quý, một hiện tượng hiếm thấy trong đời sống chính trị ở các nước còn chưa phát triển!

Vấn đề này không đặt ra ở các nước đã có kinh nghiệm sống dân chủ tự do. Những người ra ứng cử tổng thống hay vào quốc hội ở Mỹ hay ở Pháp năm nay không ai đặt vấn đề tin hay không tin chính quyền. Bởi vì người ta quen sống trong những xã hội có luật pháp, họ đã sẵn có lòng tin ở hệ thống dân chủ trọng pháp. Trong những xã hội đó guồng máy hành chính tổ chức việc bầu cử không theo đảng nào cả; công an cảnh sát không phục vụ một nhóm nào cả. Các đảng phái chính trị tha hồ tranh giành nhau, guồng máy nhà nước đóng vai trọng tài, hoàn toàn trung lập, độc lập đối với các đảng phái. Quyền trung lập và độc lập đó được hiến pháp bảo đảm; nhưng quan trọng hơn nữa là được dư luận dân chúng, báo chí, truyền thông tự do bảo đảm. Sống trong không khí trong sạch như vậy, các nhà chính trị bắt buộc phải tôn trọng kết quả những cuộc bỏ phiếu; tôn trọng luật chơi dân chủ.

Ở những nước chậm tiến, không có các điều kiện trên. Những người cầm quyền thường dùng dùng công an cảnh sát như đám tay sai để áp lực dân bỏ phải phiếu cho họ. Họ dùng guồng máy cai trị để ban ân phát huệ mua chuộc nhân viên trong bộ máy tổ chức bầu cử, mua chuộc các nhóm cử tri. Báo chí không được tự do thông tin và phê phán, các ông nắm quyền tự tung tự tác. Và có khi họ bác bỏ ngay kết quả cuộc bỏ phiếu nếu thấy không được dân tín nhiệm. Năm 1988, chính quyền quân phiệt Miến Điện đã làm việc đó. Khi cho dân bỏ phiếu tự do mà thấy đảng NLD thắng đa số trong quốc hội, các ông tướng xóa bỏ luôn kết quả rồi bắt bớ giam cầm những người đối lập hàng chục năm trời.
Vậy tại sao bây giờ phe đối lập ở Miến Điện lại tin vào lời hứa hẹn cải tổ của Tổng thống Thein Sein? Vì họ đã thấy những hành động cụ thể chứng tỏ nhóm quân phiệt đã nhượng bộ, trả lại nhiều quyền tự do cho người dân. Nhưng nguyên nhân quan trọng hơn, là trong 40 năm nắm quyền, các tướng lãnh quân phiệt chưa giết chết niềm tin trong xã hội Miến Điện.

Mặc dù nhóm tướng lãnh Miến Điện trước đây cũng độc tài và tàn bạo không thua gì những nhà độc tài khắp thế giới, nhưng họ chưa làm tan rã hết nền tảng đạo đức của dân tộc Miến, trong đó có niềm tin của mỗi con người đặt vào người khác. Quân phiệt Miến Điện là những nhà “độc tài non;” tuy cũng tham quyền và tàn bạo nhưng không biết dối trá một cách có hệ thống tinh vi như các đảng cộng sản.

Các chế độ cộng sản hủy hoại đạo đức của xã hội vì họ nối dối một cách có hệ thống với những phương pháp tinh vi được sử dụng tận tình. Các đảng cộng sản đều có một bộ máy tuyên truyền khổng lồ để làm công việc nói dối. Họ dùng các thủ đoạn gian trá đánh lừa dân, đánh lừa các đối thủ, và thường hãnh diện khi các thủ đoạn đó đạt kết quả. 

Tại sao các chế độ cộng sản phải dựa trên dối trá? Bởi vì các đảng Cộng sản dựa trên chủ nghĩa Marx – Lenin. Họ đã học tập các thủ đoạn lường gạt và tuyên truyền theo kinh nghiệm quốc tế, chỉ việc đem về mỗi nước thi hành. Chế độ phải nói dối trước hết vì lý do thực tế. Khi sự thật trái ngược hẳn với các lý tưởng được đề ra, thì phải nói dối để ngụy biện, bào chữa. Sau đó, phải nói dối lần thứ hai để chữa cho lần nói dối trước. Rồi cứ thế tiếp tục không bao giờ ngưng! Nhưng lý do quan trọng không phải là do thực tế mà nằm trong bản chất của các đảng cộng sản, khiến họ tự cho phép sống gian dối mà không cần hổ thẹn.

Cộng sản quốc tế đã biến chủ nghĩa Marx – Lenin thành một thứ tín ngưỡng vô thần. Bản chất của tín ngưỡng này dựa trên lòng tin tuyệt đối, Đảng tự cho mình đã nắm được Chân Lý, Lẽ Phải. Cho nên, những đảng viên cuồng tín không từ nan một hành động tàn ác nào, không ngần ngại giết người, chôn sống người, và không ngần ngại dùng các thủ đoạn gian trá, khi làm nhiệm vụ đối với Đảng. Tất cả được biện minh bằng niềm tin rằng họ đang đi đúng chiều hướng của lịch sử nhân loại. Đảng Cộng sản muốn thay đổi cả thế giới, trong đó phải triệt để thay đổi những nền nếp đạo lý cũ, thay thế bằng một nếp sống tinh thần mới. Hồ Chí Minh đã viết mấy bài huấn luyện cán bộ và đảng viên về “Đạo Đức Cũ và Mới,” hay “Đạo Đức Cách Mạng.” Sau khi phê phán nền đạo đức cũ, bị coi là hủ lậu, Hồ Chí Minh chỉ kết luận một điều: Nền Đạo Đức Mới, hay Đạo Đức Cách Mạng, là tuyệt đối tuân hành mệnh lệnh của Đảng. Đọc hết các tài liệu trên (vẫn còn in trong Hồ Chí Minh Toàn Tập) thì chúng ta hiểu tại sao nền tảng đạo đức ở nước ta đã bị sụp đổ.

Các đảng viên cộng sản vì thế chỉ cần tuyệt đối trung thành với Đảng là đủ; nếu vì quyền lợi Đảng thì không một thủ đoạn gian ác, dối trá nào không dám làm. Giống như những tín đồ quá khích ôm bom tự sát gần đây, sẵn sàng hy sinh vì tín ngưỡng. Nhiều đảng viên bị đầy đọa đến chết vẫn còn nghĩ: Đảng không thể nhầm được! Đảng sẽ minh oan cho mình! Chính thứ tín ngưỡng vô thần này đã giết chết niềm tin trong xã hội. Vì khi còn có địa vị và nắm quyền hành thì chính các đảng viên bị oan ức này vẫn nhân danh Đảng thản nhiên dùng mọi thủ đoạn gian dối và độc ác, nghĩ rằng mình vẫn theo duổi một lý tưởng tốt đẹp! Người nắm quyền dùng các thủ đoạn gian trá thì người dân cũng bắt buộc phải sống dối trá, dối mình, dối người, ngay cả trong gia đình cũng phải gian dối với nhau. Thứ chất độc này đã thấm nhiễm vào tất cả mọi tế bào trong cơ thể xã hội. 

Nước Miến Điện không gặp tai họa đó. Những nhà tranh đấu dân chủ ở Miến Điện nhìn chế độ độc tài quân phiệt thấy bản chất của nó là do dốt nát, vô minh, chứ không do một chủ nghĩa vô thần đem từ bên ngoài tới áp đặt trên nhân dân. Chế độ quân phiệt Miến sai lầm từ khi ông Newin theo chủ trương kinh tế tự cung tự cấp, bài xích các nước dân chủ Tây phương, thân thiện với các nước cộng sản, khiến mức sống dân Miến Điện bị tụt hậu không khác gì Việt Nam trước khi thay đổi. Nhưng các nhà quân phiệt không tạo ra một bộ máy tuyên truyền dối trá một cách có hệ thống. Họ không làm nước Miến Điện nhiễm độc bằng một lý tưởng hão huyền nào để biện minh cho chế độ độc tài. Cho nên họ vẫn còn tôn trọng những đạo lý Phật giáo đã thấm nhiễm trong dân tộc Miến Điện từ hàng ngàn năm giờ vẫn chưa thay đổi. 

Vì vậy người Miến Điện còn có niềm tin; những nhà tranh đấu dân chủ thấy có thể tin vào lời hứa của ông Thein Sein khi có thể kiểm chứng bằng việc làm. Niềm tin đó không phải là vô điều kiện mà dựa trên những hành động cụ thể, được thi hành từng bước một. Trước khi gặp bà Aung Sang Suu Kyi để trình bầy ý định dân chủ hóa chế độ, ông Thein Sein đã nới lỏng cho báo chí và các mạng lưới internet được tự do hơn. Các quan sát viên nước ngoài đã ngạc nhiên, đánh giá tình trạng thông tin ở Miến Điện trở thành tự do nhất trong vùng Đông Nam Á, không kém Thái Lan hoặc Singapore. Sau khi đã thỏa hiệp với Bà Suu Kyi, chính quyền Thein Sein tiếp tục chứng tỏ thiện chí qua những hành động cụ thể khác: Trả tự do cho các tù nhân chính trị, và tổ chức bầu cử để những người đối lập này có cơ hội xuất hiện chính thức trên diễn đàn chính trị.

Việc làm mạnh dạn nhất của ông Thein Sein là đã ngưng ngay việc xây dựng đập nước ở Myitsone đã được giao khoán cho Trung Quốc sau khi dư luận dân chúng bầy tỏ nỗi lo ngại kinh tế ngày càng lệ thuộc vào nước láng giềng phía Bắc. Hành động này cho thấy các tướng lãnh cầm quyền biết lắng nghe ý dân. Họ quyết định trở về với quyền lợi chung của dân tộc chứ không mù quáng tự ái chỉ biết quyền lợi riêng để bị ngoại bang mua chuộc. Thái độ cương quyết với Trung Quốc cũng là một thứ đảm bảo, vì người ta biết hậu quả kinh tế của chính sách chấm dứt lệ thuộc Trung Quốc là phải mở cửa giao thiệp với các nước dân chủ tự do.

Hành động Miến Điện mời mọc rồi tiếp đón ngoại trưởng Mỹ cũng giúp người dân Miến Điện tin tưởng hơn. Vì từ bao năm nay, một điều kiện mà các chính quyền Mỹ vẫn đòi hỏi trước khi bãi bỏ cấm vận là nhóm quân phiệt phải trả các quyền tự do cho dân Miến Điện. Xin bang giao lại với nước Mỹ tức là cũng chấp nhận sẽ thi hành những điều kiện đó. Phản ứng của cộng đồng quốc tế trở lại giao thiệp với Miến Điện là một thứ bảo đảm cho người dân thấy có thể tin rằng chủ trương dân chủ hóa của Thein Sein là một sự thật. Chính vì thế, họ có thể mạnh dạn nói: Hãy bỏ qua quá khứ. 

Nhìn vào tấm gương nước Miến Điện chúng ta học được một điều: Muốn tái tạo niềm tin trong xã hội Việt Nam, chúng ta cần những hành động cụ thể, chứng tỏ lời nói đi đôi với việc làm. Muốn tạo dựng niềm tin phải bắt đầu bằng những hành động công khai, minh bạch. Phải tôn trọng sự thật. Người dân chỉ tin có sự thật khi họ có các quyền tự do phát biểu. Bao giờ các báo, đài, các mạng lưới ở nước ta mới được tự do? Nếu chưa đạt được điều kiện tối thiểu đó thì còn chưa muốn bắt đầu tái tạo niềm tin.

Quốc Phương (BBC) - Ai hưởng lợi trên đất nông thôn Việt Nam?

Quốc Phương - BBC 

Chiến lược gia nông nghiệp Đặng Kim Sơn đề xuất các giải pháp ngăn chặn bàn tay
của các nhóm lợi ích đang thủ lợi từ đất đai của nông dân Việt Nam.
Chiến lược gia nông nghiệp Đặng Kim Sơn đề xuất các giải pháp ngăn chặn bàn tay của các nhóm lợi ích đang thủ lợi từ đất đai của nông dân Việt Nam.

Một chuyên gia về chiến lược phát triển của Việt Nam vừa xác nhận với BBC rằng các "nhóm lợi ích" về đất đai đang gây các tác động nghiêm trọng về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường đối với nông nghiệp và nông thôn trong nước và nêu ra các biện pháp xử lý nhắm vào vấn nạn này.

Tiến sỹ Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn (IPSARD) thuộc Bộ Nông nghiệp khẳng định các nhóm đặc quyền đặc lợi này đang lợi dụng các dự án, chương trình và ưu tiên đầu tư để làm giàu mà không đem lại hiệu quả công cộng.

Ngoài ra, theo ông Sơn, các nhóm này còn hiện hữu công khai dưới tư cách là các tập thể, cơ quan, đơn vị nhà nước tới cả cấp địa phương, nhằm lợi dụng việc được giao đất công thu lợi ích cho cá nhân và nhóm riêng của mình.

Nói với BBC hôm 31/01/2012 ông nhận dạng hai nhóm đặc quyền đang là thủ phạm làm cho việc sử dụng đất đai ở Việt Nam trở nên kém hiệu quả:

"Thứ nhất, đó là các nhóm xây dựng các dự án, chương trình, khu vực ưu tiên đầu tư, mà họ lợi dụng ưu tiên đó vào các mục đích không đem lại hiệu quả công cộng. Chẳng hạn như là mang tiếng làm dự án sản xuất, thật ra lại làm dự án chi lô bán nền. Mang tiếng làm dự án vui chơi công cộng, thực ra lại là những khu đầu tư để đầu cơ đất.

"Loại thứ hai là các cơ quan, đơn vị, địa phương được giao đất, tiếng là đất công, đất của nhà nước, nhưng một đơn vị, một cá nhân, một tập thể khi được giao, sử dụng nó để cho thuê, đầu tư, thậm chí sử dụng vào mục đích đem lại lợi ích cho nhóm, đơn vị, bộ phận hay địa phương đó."

Viện trưởng thuộc Bộ Nông nghiệp nói các đối tượng đặc lợi, đặc quyền hay nhóm lợi ích này "không đóng góp vào cái chi tiêu chung cho đất nước, không nộp thuế lại cho toàn dân" và cho hay các nhóm này có "nhiều dạng" khác nhau.

Xử lý thế nào?

Vụ tranh chấp đất đầu năm 2012 giữa chính quyền huyện Tiên Lãng, Hải Phòng đặt ra nhiều câu hỏi về luật pháp, 'nhóm lợi ích' và hành xử giữa chính quyền với dân.

Trước câu hỏi cần có giải pháp như thế nào để xử lý các nhóm đặc quyền, đặc lợi này, đặc biệt trước các bức xúc của người dân qua hàng loạt các cuộc khiếu nại, biểu tình, xung đột đã đang diễn với mật độ cao và mức độ ngày một căng thẳng gần đây, cũng như để đáp ứng một tầm nhìn chiến lược cho phát triển đất nước, ông Sơn đáp:

"Chúng ta cần phải có thay đổi lại một cách toàn bộ, tổng thể trong việc quản lý đất đai. Hiện nay đang bàn về vấn đề sở hữu, là căn bản nhất: xác nhận nó là sở hữu toàn dân hay nhà nước như hiện nay, hay gọi đấy là hình thức đa sở hữu, tức là có cả sở hữu toàn dân, cộng đồng và tư nhân.

"Đi đến thấp hơn là nội dung về chính sách, chẳng hạn như hệ thống quản lý đất đai, phải làm bản đồ, phải tiến hành cấp phép, cấp chứng chỉ sử dụng, quản lý đất cho từng người dân, từng đối tượng một,

"Để họ có thể nắm rõ, biết được đất đai của họ được sử dụng; có được những chứng chỉ ấy, để họ có thể giao dịch, cầm cố, trao đổi lại cho các đối tượng cầm bán hoặc cho thuê, hoặc cho lại các thế hệ sau một cách thuận lợi."

Ngoài ra, theo chuyên gia, các chính sách và luật lệ phải làm rõ về vấn đề không gian cho người dân yên tâm, mà theo ông cần lưu ý sao cho:

"Những người có thể sử dụng được một cách hiệu quả thì có thể tích tụ, tập trung, thuê thêm. Những người nào sử dụng kém hiệu quả, hoặc đầu cơ, thì phải bị lấy trở lại, phải bị đánh thuế nặng.

"Về mặt thời gian, phải (làm) yên tâm cho những người muốn đầu tư và có khả năng đầu tư, (để) người ta yên tâm đào kênh, đào mương, người ta bồi bổ phân, người ta xây dựng cơ sở hạ tầng để người ta sử dụng một cách lâu dài."

Chuyên gia cũng cho rằng, ngược lại, những người nào sử dụng đất với mục đích đầu cơ, không đưa vào sản xuất hiệu quả, thì phải bị "lấy trở lại."

'Vấn đề hàng đầu'

Báo cáo của Viện Chiến lược phát triển Nông thôn IPSARD đề nghị phải quy định rõ ràng và thống nhất cơ quan nào có quyền trưng thu, chuyển giao đất nông nghiệp của nông dân, tránh tình trạng lạm quyền.

Tiến sỹ Sơn tin rằng việc điều chỉnh, sửa đổi chính sách quản lý đất đai phải đi từ “pháp chế chung của đất nước", cho đến chính sách của từng bộ ngành và cho tới cả "cách hành xử, cư xử" của mỗi công dân để hình thành "quan hệ thị trường" trong lĩnh vực về tài nguyên đất đai.

Người đứng đầu cơ quan nghiên cứu chiến lược thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn lưu ý thế mạnh mà Việt Nam cần phải biết bảo vệ và phát huy hiện chính là 'đất đai nông nghiệp' và 'con người'.

Ông cảnh báo: "Nếu không khai thác được đất đai cũng như con người, trước hết về mặt kinh tế chúng ta không chỉ lãng phí một nguồn tài nguyên chính mà thật sự chúng ta đã từ bỏ lợi thế để chúng ta có thể đưa nền kinh tế tăng trưởng một cách vững bền và hiệu quả.

"Ai cũng biết Việt Nam là nước lợi thế rõ ràng nhất là phát triển nông nghiệp. Phải bắt đầu từ đấy. Đó là nền tảng và điểm xuất phát."

Về mặt xã hội, chuyên gia cảnh báo nếu không xử lý tốt vấn đề đất đai, thì Việt Nam sẽ khó đảm bảo được công bằng xã hội, một mục tiêu được các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam đưa vào văn kiện trong suốt mấy thập niên qua.

"Đây không những là nguồn gốc của tham nhũng, nó làm hỏng đội ngũ quản lý ở các cấp, mà đây còn là nguồn gốc của sự bất bình của dân chúng làm cho ổn định xã hội không đảm bảo," chuyên gia nói.

"Không còn nghi ngờ gì, vấn đề đất đai là một trong những vấn đề hàng đầu chúng ta phải xử lý trong thời gian tới để đảm bảo tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng phát triển vững bền và hiệu quả cả về kinh tế, xã hội và môi trường."

Mới đây, Viện chiến lược IPSARD đã phối hợp với Tổ chức Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Đại học Harvard tiến hành một nghiên cứu về Chính sách và Luật lệ đất đai, trong đó có nội dung về trao đổi, thu hồi và bồi hoàn cho người dân chuyển đổi đất nông nghiệp sang mục đích sử dụng khác.

Nghiên cứu đưa ra một khuyến nghị giải pháp yêu cầu nhà nước phải cấp tất cả các giấy tờ, chứng nhận đất đai cho người dân, dù đó là đất nông nghiệp, đất rừng, mặt nước, hay đất ở để dân có sổ, giấy chứng nhận, bằng khoán để người dân có thể thực hiện được các hoạt động giao dịch thị trường và giao dịch pháp lý.

Báo cáo của IPSARD cũng đưa ra khuyến nghị để đảm bảo người dân có đất đai chuyển nhượng, giao dịch được đảm bảo các quyền về thông tin, dịch vụ thuận tiện và rẻ hơn.

Đồng thời nhóm nghiên cứu cũng yêu cầu sự minh bạch, nhất quán trong nguyên tắc tính toán giá cả giao dịch, bồi hoàn đất đai một cách thỏa đáng, thân thiện với thị trường, nhằm tránh thiệt hại cho dân, đặc biệt quy định rõ chỉ có đối tượng nào mới được phép đứng ra thu hồi, chuyển đổi đất của dân để có thể sử dụng hiệu quả nhằm tránh việc đất đai "rơi vào tay" các nhóm lợi ích nêu trên.

Trần Huỳnh Duy Thức - Con đường Việt Nam: Bàn về nhân quyền, pháp quyền, pháp chế

Trần Huỳnh Duy Thức
Kính gửi: Bauxite Việt Nam

Tôi là Trần Văn Huỳnh. Hôm nay tôi xin được gửi đến quý báo một trích đoạn từ quyển sách còn dang dở: Con đường Việt Nam do con tôi - Trần Huỳnh Duy Thức - viết, cùng với Lê Công Định và Lê Thăng Long. Chính quyển sách này đã bị qui kết là “một kế hoạch tổng thể hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” dẫn đến việc kết án 24,5 năm tù và 11 năm quản chế cho những người tham gia vào quyển sách này.

Tựa đoạn này do tôi đặt, được trích từ chương 3 (Cải cách pháp luật) của phần IV (Các sách lược tập trung). Nội dung của nó đề cập đến những vấn đề rất thiết thực đối với người dân và cũng rất sống còn đối với đất nước hiện nay.

Do vậy tôi rất mong quý báo giúp phổ biến nội dung này.

Xin cảm ơn và kính chào.
Trần Văn Huỳnh
TB: Tôi cũng đã gửi email này đến một số báo, đài, media khác để nhờ phổ biến giúp.


Vì sao việc cải cách tư pháp (CCTP) và cải cách hành chính (CCHC) được chú trọng bằng rất nhiều nghị quyết và chỉ thị trong hàng chục năm qua nhưng lại không đạt được những tiến bộ đáng kể, mà có chỗ còn đi thụt lùi? Do thiếu quyết tâm chính trị thực lòng hay thiếu động lực cho cải cách thực chất? 

Không có động lực của con người thì sẽ không có sự thay đổi xã hội. Các cuộc cách mạng bạo lực có thể tạo ra động lực cưỡng bức nhưng không bền vững. Còn cải cách thì luôn cần phải có động lực tự nhiên - những cuộc cải cách thành công đều phải dựa trên những giải pháp hướng được những động lực này đến những mục tiêu lành mạnh. Tạo ra động lực lành mạnh là đòi hỏi thiết yếu của cải cách tốt đẹp. Không chú trọng đến việc này thì mọi cuộc cải cách sẽ rất vất vả và hầu hết là thất bại. Do vậy muốn CCTP và CCHC thành công thì việc đầu tiên phải phân tích hiện trạng của các động lực tự nhiên của con người Việt Nam đang hướng đến các đối tượng và mục tiêu nào trong các hoạt động tư pháp và hành pháp quốc gia. 

Sẽ không quá khó, chỉ cần thẳng thắn và dũng cảm thừa nhận, để thấy rằng động lực của người dân hiện nay hầu hết không được tạo ra bởi niềm tin vào công lý để hướng đến một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Môi trường pháp lý và chính trị hiện nay đang làm cho các động lực này hướng tập trung đến các kết cục trái ngược hẳn với các chuẩn mực của một xã hội như vậy: tham nhũng, cường quyền và lạc hậu. Điều này đang diễn ra ngày càng trầm trọng, bất chấp các mong muốn khác đi theo chủ trương của nhà nước và lý tưởng của đảng Cộng sản Việt Nam đang cầm quyền. Nguyên nhân cốt lõi của vấn đề là:
(i) Tính cách luôn mưu cầu lợi ích là một động lực phổ quát và tự nhiên của con người. Dù không phải tất cả mọi người đều như thế nhưng xu thế chung áp đảo sẽ luôn là như vậy - như một thực tế khách quan và không phải là điều xấu. Thiếu loại động lực này thì xã hội loài người đã không thể hình thành và phát triển.
(ii) Những động lực này không cần biết đến các giá trị tốt đẹp trên danh nghĩa được quy định trong các văn bản luật, chỉ thị, nghị quyết hay lý tưởng mà nó chỉ chịu tác động và vận hành theo các giá trị đang tồn tại trong thực tế (theo đúng thực chất của hiện trạng) của các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Đây chính là sự vận động theo các quy luật tự nhiên khách quan: Kết quả được tạo ra dựa trên vấn đề thực chất và giá trị thực tế mà thôi.
(iii) Cuộc sống ở Việt Nam đang tạo ra một thứ niềm tin của người dân vào việc đưa hối lộ như là cách tốt nhất, thực tế nhất để mưu cầu lợi ích cho mình - từ những việc nhỏ nhặt như chứng giấy tờ đến những chuyện to tát như các loại giấy phép béo bở, từ những mục đích chính đáng như kiếm tiền sinh sống hoặc tự khẳng định mình đến những mong muốn làm giàu bất chính hoặc vươn lên bằng cách chà đạp người khác. Hầu hết đều phải  dựa vào tham nhũng, tin nó và thậm chí còn bao che cho nó. Niềm tin đi ngược lại nó không chỉ bị xem là ngớ ngẩn, không thức thời mà còn đầy rủi ro. Tin vào công lý ngày càng trở nên phi thực tế và tốn kém mà lại không hiệu quả.
Thứ niềm tin như vậy đang tồn tại áp đảo trong thực tế làm cho động lực tự nhiên của người dân hướng đến phục vụ nhu cầu hoặc thỏa mãn yêu cầu của những kẻ xấu nắm quyền tại các bộ máy tư pháp và hành pháp ở mọi cấp, cả bộ máy của đảng cầm quyền. Môi trường pháp lý đã không thể ngăn chặn được những cái xấu mà đạo đức xã hội cũng không còn đủ sức để lên án chúng. Thậm chí có nhiều lúc, nhiều nơi đã hình thành nên các chuẩn mực đạo đức làm cho người tốt dám đấu tranh với cái xấu trở nên "lập dị" và trở thành "kẻ phá bĩnh". Không thể không xót xa khi phải chứng kiến các hiện tượng như vậy đang ngày càng phổ biến.
Nếu không có một cuộc cải cách xã hội, bao gồm cả CCTP và CCHC để thay đổi hiện trạng này, hướng các động lực tự nhiên của người dân đến các mục tiêu lành mạnh thì tình trạng suy thoái xã hội hiện nay sẽ mau chóng biến thành suy đồi chỉ trong vòng một vài năm nữa. Đến lúc đó mọi nỗ lực chỉnh đốn đều sẽ bất khả thi, và một sự sụp đổ xã hội dẫn đến suy thoái chính trị là không thể tránh khỏi. Điều này sẽ diễn ra trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn diện từ 2010 đến 2011 như đã phân tích ở chương IV.1 nếu không có một cuộc cải cách toàn diện và hiệu quả ngay từ bây giờ. Hậu quả sẽ là những sự khốn khổ đến cùng cực của người dân. Nhưng chính quyền cũng sẽ không thể tránh khỏi những hậu quả tồi tệ. Đây là những nguy cơ mà Con đường Việt Nam, như đã nhiều lần từ đầu quyển sách, muốn cảnh báo cho cả người dân lẫn chính quyền, đồng thời đề ra những sách lược khắc phục. Chương này bàn về sách lược cải cách pháp luật, mà trọng tâm là CCTP và CCHC. Các vấn đề về hiến pháp cũng sẽ được đề cập ở khía cạnh cốt lõi.
NGUYÊN LÝ VÀ HIỆN TRẠNG
Nguyên lý vận hành của một hệ thống pháp luật trong một xã hội dân chủ dựa trên 3 yếu tố cốt lõi: Nhân quyền, Pháp quyền và Pháp chế như đã trình bày ở phần II. Chương này sẽ xem xét các yếu tố này trong thực tế của Việt Nam để nhìn thấy những vấn đề và giải pháp chiến lược.
Nhân Quyền tại Việt Nam
Tuyên ngôn độc lập 1945 đã thừa nhận rằng mọi người sinh ra đều có sẵn các quyền con người căn bản, đều bình đẳng và tự do. Năm 1977, Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc cũng có nghĩa là sự công nhận của nhà nước Việt Nam đối với các quyền bất di bất dịch này của con người được qui định và trịnh trọng tuyên bố tại Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền của LHQ vào năm 1948. Đến 1982 thì Việt Nam đã chính thức gia nhập hai Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị; và về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Tại đây, nhà nước Việt Nam đã long trọng cam kết tôn trọng, bảo vệ các quyền này cho công dân Việt Nam, và đồng thời cũng thúc đẩy các quyền này trên toàn thế giới. Trên tinh thần đó, Hiến pháp hiện hành (1992) của Việt Nam cũng đã hiến định tất cả các quyền thiêng liêng này của con người Việt Nam. Với những văn bản pháp lý như vậy thì mọi công dân Việt Nam từ lúc sinh ra đời đều được hưởng bình đẳng tất cả các quyền con người như bất kỳ công dân nào khác trên thế giới mà không phân biệt quốc gia, màu da, chủng tộc, xuất thân, địa vị, quan điểm chính trị, trình độ phát triển, lịch sử hình thành, v.v., và cũng không phải chờ sự cho phép của bất kỳ luật hoặc văn bản nào dưới hiến pháp.
Tuy nhiên, các giá trị tốt đẹp trên danh nghĩa này còn rất xa so với thực tế trong việc thực thi quyền con người trên đất nước ta. Đại đa số người dân lẫn quan chức hiện nay đều nghĩ rằng chỉ có những quyền nào có luật qui định thì công dân Việt Nam mới được sử dụng. Quan điểm vi hiến như vậy lại tồn tại phổ biến ngay tại Quốc hội trong việc lập pháp. Sự xâm phạm tự do và các quyền cơ bản của người dân lại xảy ra phổ biến tại các cơ quan hành pháp. Còn các cơ quan tư pháp thì lại trừng phạt không thương tiếc những công dân nào dám tự do sử dụng các quyền làm người căn bản của mình đã được hiến định. Cần hiểu rằng các hành động như vậy không chỉ vi hiến mà còn vi phạm luật pháp quốc tế và đi ngược lại với các chuẩn mực văn minh của thế giới.
Dân ta cần hiểu rằng theo luật pháp quốc tế mà Việt Nam cam kết tôn trọng thì các quyền con người là không thể phân chia, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan với nhau. Năm 1993, Đại Hội đồng LHQ đã ra Tuyên bố Viên và Chương trình hành động tái khẳng định lại các tính chất này của các quyền con người bao gồm từ quyền được bú, được ngủ lúc mới sinh ra; được ăn, được học khi lớn lên; rồi quyền được có việc làm để sinh sống; quyền hôn nhân và nuôi dạy con cái; quyền đảm bảo sự riêng tư như chỗ ở, bí mật thư tín, điện thoại; quyền tự do ngôn luận, sáng tác, sáng chế, lập hội, biểu tình; quyền bình đẳng trước pháp luật, v.v. Nếu không hề cần có những luật để cho phép được bú được ăn được ngủ được học được làm thì cũng không cần phải có luật để cho phép được nói được bày tỏ quan điểm được sáng tác phê bình được biểu tình, v.v. Đó chính là tính nguyên vẹn không thể phân chia của các quyền con người mà nếu bị xâm phạm thì người sống sẽ không trở thành con người đầy đủ. Sự xâm phạm này nếu rất nghiêm trọng sẽ biến con người trở thành không khác gì con vật như trong các chế độ nô lệ. Chỉ khi nào người dân có thể tự do sử dụng đầy đủ các quyền con người thì mới thực sự làm người.
Những sự xâm phạm như vậy cũng là nguyên nhân của sự chậm tiến của Việt Nam trong một thời gian dài và của sự tăng trưởng bất ổn như hiện nay vì đã vi phạm hoặc không tôn trọng đầy đủ các quy luật tự nhiên khách quan như đã phân tích ở phần II.
Pháp quyền tại Việt Nam
Như đã trình bày ở phần II, bản chất hay tính chất bất biến của pháp quyền là sự bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật. Đây cũng là nguyên tắc qui định bởi Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền: "Nếu không muốn con người buộc phải sử dụng sự nổi dậy như một biện pháp cuối cùng để chống cường quyền và áp bức thì việc bảo vệ các Quyền con người bằng nhà nước pháp quyền là thiết yếu". Do vậy, bản chất của một nhà nước pháp quyền là sự ủy trị hợp pháp để đại diện cho mỗi công dân, không phân biệt bất kỳ yếu tố nào để bảo vệ mọi quyền con người của họ bằng pháp luật. Lưu ý rằng, sự ủy trị chỉ hợp pháp khi nó đại diện cho mọi công dân, từng người một mà không phân biệt thành phần, giai cấp cho dù người đó không bỏ phiếu cho những người được bầu chọn thực hiện sự ủy trị đó, cho dù quan điểm chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa... của người đó có khác biệt với những người được bầu chọn đến thế nào đi nữa. Một nhà nước không đảm bảo được những tính chất này thì không thể là một nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Việt Nam hiến định vào năm 2001 khi sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992 tại điều 2: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Còn điều 50 thì ghi rõ: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và luật". Như vậy, theo đúng bản chất của nhà nước pháp quyền ở điều 2 và ý nghĩa rõ ràng của điều 50 này thì công dân Việt Nam không chỉ có đầy đủ các quyền con người đã được Hiến pháp hiện hành qui định theo đúng nguyên tắc của Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền và hai Công ước Quốc tế kèm theo mà còn có thể được hưởng thêm những quyền khác nếu có luật qui định. Giá trị trên danh nghĩa rõ ràng là như vậy.
Tuy nhiên, thực tế của việc thực thi các điều khoản này của Hiến pháp thì lại khác xa. Thuộc tính phụ "xã hội chủ nghĩa" trong "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" được tùy tiện vận dụng và áp đặt để diễn giải sai lệch bản chất bất biến của thuộc tính chính "pháp quyền". Điều này không những tạo ra rất nhiều các phạm trù mơ hồ được gắn với cụm từ "xã hội chủ nghĩa" mà còn dẫn đến sự tước đoạt các quyền con người bất khả xâm phạm của công dân bằng cách cho rằng chữ "luật" trong điều 50 của Hiến pháp có nghĩa là khi nào có luật qui định về những quyền nào (đã được ghi ở Hiến pháp) thì công dân mới được thực hiện những quyền đó. Cách hiểu này trao cho Quốc hội cái quyền ban phát các quyền con người cho người dân chứ không phải là nhận sự ủy nhiệm của nhân dân để bảo vệ cho họ thực hiện đầy đủ các quyền vốn có của họ mà Tạo hóa ban cho, theo đúng thuộc tính "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" của Nhà nước pháp quyền được ghi tại điều 2 của Hiến pháp.
Khi nào mà Quốc hội của nước ta chưa làm được bổn phận bảo vệ quyền con người như vậy cho công dân ta thì nó chưa có tính hợp pháp vì đã vi hiến, cho dù nó có được hình thành bằng các hình thức phổ thông đầu phiếu đi nữa. Đây là vấn đề thực chất mà bất kỳ một quốc hội nào trong một nhà nước pháp quyền cũng phải đảm bảo, cho dù đó là pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp quyền cộng hòa đại nghị, pháp quyền quân chủ lập hiến, v.v. đi nữa. Đó là chưa kể người dân có quyền đòi hỏi thuộc tính bổ sung "xã hội chủ nghĩa" phải làm hay hơn, tốt hơn, ưu việt hơn cho tính chất "pháp quyền xã hội chủ nghĩa" như lý tưởng cao đẹp mà đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyên truyền và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn khẳng định, chứ không phải là làm cho thực tế bảo vệ quyền con người tại Việt Nam ngày càng xấu đi như hiện nay. Thực tế này thuộc về trách nhiệm lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam mà Con đường Việt Nam đã đưa ra những đề nghị cần thay đổi trong Phần III về cách thức lãnh đạo của đảng cầm quyền hiện nay nếu không muốn một sự sụp đổ toàn diện, kéo theo những hậu quả nặng nề cho dân chúng.
Pháp chế tại Việt Nam
Do trách nhiệm tối thượng của một nhà nước pháp quyền là phải bảo đảm cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền con người của từng người nên nó phải ngăn cản sự xâm phạm các quyền này từ bất kỳ ai, bất kỳ tổ chức nào. Cũng do tính chất pháp quyền của nó, nên nó phải thực hiện việc ngăn cản này bằng luật pháp. Đây chính là nguyên tắc pháp chế - tức là chế tài bằng pháp luật - của một nhà nước pháp quyền. Đây cũng là nguyên tắc được qui định tại Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân Quyền: "Khi thực hiện các quyền và tự do của mình mỗi người chỉ phải chịu những hạn chế nào được luật qui định nhằm một mục đích duy nhất là để đảm bảo sự thừa nhận và bảo vệ đúng đắn các quyền và tự do của người khác và đáp ứng các yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ".
Mọi phạm vi chế tài (bao gồm hạn chế và xử phạt) phải do luật qui định. Không có luật hạn chế điều gì thì làm điều đó là không phạm luật và không phải xin phép nơi nào hết. Hoàn toàn không cần phải có luật cho phép làm điều đó. Chỉ có quan chức mới chỉ được làm những gì mà luật cho phép để hạn chế sự lạm dụng quyền hành của họ mà thôi. Không ai hay tổ chức nào được quyền nhân danh vì bất kỳ lợi ích chung nào để áp đặt các hạn chế đối với các quyền con người của công dân mà không được thông qua bằng luật bởi một quy trình lập pháp hợp hiến. Lý do và mục đích của những sự hạn chế như vậy cũng phải được ghi rõ.
Điều 12 Hiến pháp 1992 ghi "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa". Điều này rõ ràng là tuân theo nguyên tắc pháp chế đúng đắn của một nhà nước pháp quyền như trên, phù hợp với chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, thực tế thì khác hẳn. Không hiểu dựa trên cơ sở nào mà rất nhiều vị đại biểu Quốc hội - những người được gọi là những nhà lập pháp đại diện của dân - lại hồn nhiên phát biểu trước công chúng đại ý là phải cố gắng nhanh chóng xây dựng luật để người dân có thể thực hiện các quyền của mình. Còn các cơ quan hành pháp thì ban hành đầy rẫy các nghị định, quyết định hạn chế, cấm đoán các quyền con người của công dân một cách vi hiến. Còn các cơ quan tư pháp thì chưa bao giờ ra bất kỳ phán quyết nào liên quan đến sự vi hiến, đơn giản vì chúng không có được quyền hạn đó trên danh nghĩa và cũng không có đủ quyền lực tư pháp độc lập trên thực tế.
Thuộc tính xã hội chủ nghĩa đúng ra phải thể hiện được sự ưu việt hơn cho nguyên tắc pháp chế của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thì thực tế lại trở thành cái để lợi dụng nhằm tước đoạt rất nhiều quyền con người của công dân bằng cách đặt sự bảo vệ chế độ lên trên hết - vi phạm nguyên tắc "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" của Hiến pháp (Điều 2). Thực tế này lại tiếp tục bị lợi dụng để bảo vệ đặc quyền cho các nhóm lợi ích nhỏ, tạo ra một thực tế càng tệ hại hơn nữa.
Trách nhiệm của công dân
Cách biệt giữa danh nghĩa và thực tế của môi trường pháp lý Việt Nam đang rất nghiêm trọng và ngày càng xấu đi nên gây ra bất ổn nặng nề. Trách nhiệm này đương nhiên là thuộc về chính quyền, nhưng nếu người dân không ý thức được các quyền con người và vai trò làm chủ đất nước của mình thì cách biệt này không bao giờ được thu hẹp theo hướng tốt đẹp. Dân ta cần hiểu cốt lõi bản chất của các khái niệm Nhân quyền, Pháp quyền, Pháp chế. Thực ra chúng rất đơn giản: Nhân quyền là các Quyền con người của mỗi người chúng ta vốn có từ lúc sinh ra mà không ai có quyền ban phát cả và chúng ta cần tự tin sử dụng ngay các quyền này mà không phải đợi ai cho phép. Pháp quyền là trách nhiệm trên hết của nhà nước phải bảo vệ cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền bất khả xâm phạm này của mình, và Nhà nước Việt Nam hiện nay là một nhà nước pháp quyền được khẳng định tại Hiến pháp. Pháp chế nghĩa là chúng ta chỉ bị hạn chế làm những gì có luật qui định rõ, không có luật hạn chế tức là không có hạn chế, chứ không phải là chưa được phép. Mối liên hệ của bản chất và nguyên tắc của 3 khái niệm này tạo nên một nguyên lý cốt lõi của dân chủ: công dân có quyền làm bất cứ điều gì mà luật không hạn chế và không cần phải xin phép để làm điều đó.
Ở các nước dân chủ và thịnh vượng, thay vì làm ra nhiều luật để hạn chế thì nhà nước ở đó xây dựng rất nhiều luật khuyến khích và tạo động lực cho công dân của mình làm nhiều việc tốt để hướng xã hội phát triển theo những lý tưởng tốt đẹp. Chúng ta hoàn toàn đủ quyền và đủ lý do chính đáng để đòi hỏi có được một nhà nước pháp quyền với các nguyên tắc pháp chế như trên. Đó cũng là những tiêu chuẩn mà công việc CCTP và CCHC phải đạt đến. Không có những áp lực từ dưới lên thì sẽ khó có thể có được những thay đổi từ trên xuống. Đó là trách nhiệm của công dân đối với việc cải cách.
Trách nhiệm của chính quyền
Tuy nhiên, trách nhiệm trên hết vẫn thuộc về chính quyền. Nếu nhà nước và đảng Cộng sản Việt Nam không nhận rõ được hiện trạng như trên và nhanh chóng thực hiện các giải pháp cải cách thành công thì sự thất bại của chúng sẽ dẫn đến các cuộc cách mạng. Liên Xô sụp đổ sau khi đã tiến hành cải cách muộn màng và thất bại.
Với tinh thần như vậy, Con đường Việt Nam đã nghiên cứu để đề nghị với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các sách lược CCTP và CCHC được trình bày cụ thể dưới đây.
(Đang viết vào tháng 4/2009)
T.H.D.T. 

Mặc Lâm (RFA) - Trách nhiệm của Quốc Hội trong vụ Tiên Lãng

Mặc Lâm (RFA)
Vụ cưỡng chế đất đai trái pháp luật tại Tiên Lãng vẫn là câu chuyện thời sự nóng bỏng nhất của báo chí Việt Nam hiện nay.
AFP phot
Từ trái sang: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tham dự khai mạc kỳ họp thường niên thứ hai của Quốc hội tại Hà Nội vào ngày 20 tháng 10 năm 2011.
Rất nhiều ý kiến của các tầng lớp từ trí thức đến các cán bộ cao cấp trong hệ thống, về hưu hay còn tại chức, đã tham gia đóng góp vào vấn đề này một cách nghiêm túc. Tuy nhiên người dân, đặc biệt là cử tri Hải Phòng vẫn thắc mắc tại sao gần một tháng trôi qua mà đoàn đại biểu quốc hội thành phố Hải Phòng vẫn không một ai lên tiếng. Mặc Lâm phỏng vấn nguyên đại biểu quốc hội Lê Văn Cuông để ghi nhận ý kiến của ông.
Luật không đầy đủ
Mặc Lâm : Thưa ông, với tư cách là một nguyên đại biểu quốc hội ông có đánh gía gì về hành động chống lại người thi hành công vụ bằng các loại hung khí mà gia đình ông Đoàn Văn Vươn đã sử dụng để chống lại đơn vị thi hành cưỡng chế trên miếng đất của gia đình anh?
Ông Lê Văn Cuông : Vi phạm của anh Vươn thì cũng đã rõ theo pháp luật, nhưng con người khi mà đã bị chính quyền, tổ chức, cá nhân mà dồn ép người ta đến một bước đường cùng, dùng mọi cách để tước đoạt mọi thành quả lao động mà người ta đã bỏ ra bao nhiêu năm mới có được, thì khi đã bị ức chế, đã bị các cơ quan giải quyết không công bằng, không đáp ứng được các quyền lợi của người lao động, thì người ta có những căng thẳng, không làm chủ được bản thân mình do bị mất mát quá lớn, hay bị ức chế quá lớn, hay là bị oan sai quá lớn cho nên con người có lúc không biết dựa vào ai hoặc tìm cách nào để giải quyết được oan sai của mình, cho nên họ đã dùng đến những hành động rất là cực đoan và bước đường cùng, liều chết để thể hiện cho mọi người biết được vấn đề này là vấn đề mà bản thân hay gia đình bị oan sai.
Mặc Lâm : Thưa, qua vụ cưỡng chế đất đai này của chính quyền Hải Phòng thì ông có nhận định như thế nào về hành vi cưỡng chế, đặc biệt là đưa một lực lượng rất lớn để cưỡng chế một gia đình thôi ạ?
Ông Lê Văn Cuông : Đáng tiếc là không biết đàng sau cái cưỡng chế này có những động cơ gì không trong sáng, thì vấn đề này các cơ quan sẽ làm rõ, nhưng mà cách thức tổ chức cưỡng chế đã để lại một dư âm, hay là một hậu quả rất là nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến uy tín của các cấp chính quyền ở Hải Phòng.
Những tổ chức, cá nhân thực hiện hợp đồng thuê đất và giải quyết cái hậu quả sau khi thu hồi đất mà nó không đáp ứng được quyền lợi của người sử dụng đất. Vấn đề là dư luận cũng bất bình về cách thức tổ chức cưỡng chế ở huyện Tiên Lãng, và cũng cảm thông với gia đình anh Vươn. Bởi vì người ta đã đổ bao nhiêu công sức từ những ngày ban đầu để mà lấn biển và đã được kết quả góp phần phát triển kinh tế, cảnh quan, môi trường, rồi các công ăn việc làm và thu nhập, thì đây là vấn đề mà xã hội phải hoan nghênh, biểu dương và ghi nhận, và chính quyền các cấp thấy được đây là việc thực hiện được các chủ trương, đường lối, chính sách của đảng và nhà nước, thì cũng phải biết được cái công sức người ta bỏ ra.
Mặc Lâm : Thưa ông, có nhiều người đồng ý rằng chắc chắn nguyên nhân đầu tiên dẫn đến vụ này là luật đất đai, nó rất bất cập, và Quốc Hội đã nhiều lần đem luật này ra nhưng không bàn cãi thấu đáo để đi đến quyết định sau cùng. Có nhiều người, kể cả đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc, nói vấn đề trách nhiệm đầu tiên của việc này là của Quốc Hội. Ông có chia sẻ nhận xét này như thế nào ạ?
Ông Lê Văn Cuông : Vấn đề ông Dương Trung Quốc nói về trách nhiệm của Quốc Hội thì đúng là Quốc Hội là cơ quan lập pháp, theo quy định của pháp luật Quốc Hội không ban hành đầy đủ, chất lượng luật không tốt, để cho tình trạng xã hội thứ nhất là không có luật để mà thực hiện, hoặc là chất lượng luật không tốt thì không đưa luật vào cuộc sống được.
Nhưng đây cũng có phần của bộ máy thực thi bên chính quyền. Luật đã ban hành, mặc dù nó chưa đầy đủ, hoặc là chưa đáp ứng được, hoặc là chưa kịp thời, thế nhưng mà trên hết vụ việc thấy cái sai sót cũng thuộc về người thực thi pháp luật, tức là chính quyền các cấp từ thành phố Hải Phòng cho đến huyện Tiên Lãng, tức chính quyền cơ sở, là chưa nghiêm.
Chúng tôi thấy vấn đề là kể cả hai phía, thứ nhất là Quốc Hội thấy luật còn vướng, trong quá trình thực thi còn nhiều vi phạm, nhưng cũng không kịp thời sửa chữa dù nhiều đại biểu quốc hội đã ra kiến nghị. Thế nhưng bên thực thi pháp luật, từ chính phủ cho đến chính quyền địa phương các cấp thi hành pháp luật chưa được nghiêm minh cho nên nó càng làm cho tình hình trầm trọng thêm. Và pháp luật Việt Nam thông thường do chính phủ chuẩn bị và trình ra quốc hội. Mặc dù quốc hội có đề nghị nhiều lần mà chính phủ không trình ra thì quốc hội cũng không có cơ sở để mà xem xét.
Cử tri bức xúc
Mặc Lâm : Thưa ông, cử tri cả nước nói chung, và nhất là tại Hải Phòng họ rất bức xúc tại sao đã gần một tháng trôi qua nhưng các đại biểu quốc hội thuộc đơn vị này vẫn im lặng, không có một lời nào để chia sẻ với vụ việc này? Chúng tôi cũng có thắc mắc rằng cơ cấu để cho một quan chức nhà nước kiêm nhiệm luôn chức đại biểu quốc hội như trường hợp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông cũng đang là đại biểu của đơn vị Hải Phòng, hai vị trí cùng một lúc như vậy, việc bênh vực quyền lợi cho cử tri làm sao cho chu toàn được ạ?
Ông Lê Văn Cuông : Vấn đề vai trò của đại biểu quốc hội để thể hiện cái chính kiến của mình bảo vệ lợi ích công dân nói chung và cái vụ Tiên Lãng nói riêng, thì cái này không phải là vấn đề mới.
Tất cả các đại biểu quốc hội từ trước đến nay thông thường chỉ dựa vào các cơ quan nhà nước, và bản thân cũng không tiếp cận với từng vụ việc cụ thể, xem đúng sai như thế nào, cho nên có thể nói là thông thường là chỉ biết thông qua các cơ quan thông tin đại chúng thôi. Chứ còn nếu như với một chức năng của đại biểu quốc hội mà tổ chức đi nắm tình hình sâu sát hay là có trách nhiệm với dân thì tình hình nó lại khác.
Truyền thống lâu nay của Quốc Hội Việt Nam thì chủ yếu là dựa vào các cơ quan chức năng để giải quyết vụ việc. Thứ hai là thường có quan điểm vụ việc xảy ra ở nơi đâu, địa phương nào thì do đoàn đại biểu quốc hội ở đó chịu trách nhiệm, ví dụ ở Hải Phòng thì do đoàn đại biểu quốc hội từ Hải Phòng, các đại biểu quốc hội thành phố Hải Phòng chịu trách nhiệm là chính. Cái đó thì ta đã định hình lâu nay, cho nên trách nhiệm của vụ Tiên Lãng thì do đoàn đại biểu quốc hội với các đại biểu quốc hội ở thành phố Hải Phòng. Chứ còn các đại biểu ở các địa phương khác, trừ các cơ quan của quốc hội đi giám sát hoặc là nắm  bắt tình hình để có kiến nghị, chứ còn các đại biểu của các địa phương khác  chắc cũng khó.
Tuy nhiên, đây là mô hình Quốc Hội Việt Nam, chắc ông cũng nắm được, nó có những cái còn nhiều bất cập cho nên tiếng nói hoặc là đại biểu đứng ra bảo vệ hay là kiến nghị quyết liệt để làm rõ các oan sai của công dân thì nó cũng còn rất hạn chế, nó chưa đáp ứng được các nguyện vọng của cử tri.
Mặc Lâm : Vâng. Xin cảm ơn ông rất nhiều về những ý kiến của ông trước vấn đề Tiên Lãng này. Một lần nữa, đầu năm chúng tôi xin kính chúc ông và gia quyến được mọi sự bình an và may mắn.
Ông Lê Văn Cuông : Vâng. Xin cảm ơn ông.


Steve Herman - Trung Quốc gửi khối lượng viện trợ lớn cho Bắc Triều Tiên

Trung Quốc dường như đã giao một khối lượng gạo rất lớn và có thể các món viện trợ khác cho Bắc Triều Tiên nghèo khó. Từ Seoul, thông tín viên VOA Steve Herman gửi về bài tường thuật sau đây.

Steve Herman | Seoul (VOA)

Xe tải của Trung Quốc chở gạo tới Bắc Triều Tiên, ngày 31/1/2012 - Hình: VOA - S. L. Herman

Một tổ chức nhân quyền nói các thành viên của tổ chức đã chứng kiến những đoàn xe tải của Trung Quốc chở viện trợ lương thực vào Bắc Triều Tiên trong tháng này.

Liên minh Công dân ủng hộ Nhân quyền của những người bị bắt có và người tỵ nạn Bắc Triều Tiên hôm nay đã công bố các hình ảnh mà họ nói là toán khảo cứu của họ đã chụp được ở các trạm hải quan ở Đồ Môn thuộc vùng biên giới phía Trung Quốc.

Các hình ảnh được cho là chụp vào ngày 12 tháng 1 cho thấy các xe tải 30 tấn chở đầy các bao gạo, chờ để vào Bắc Triều Tiên.

Một đại diện của tổ chức vừa kể, ông Do Hee-yoon giải thích rằng một khối lượng gạo lớn đã được mau chóng chuyển giao từ Đồn Môn, cũng như hai thành phố biên giới khác là Đơn Đông và Kiết An.

Trong một cuộc phỏng vấn với đài VOA, giới chức của tổ chức phi chính phủ Nam Triều Tiên này nói những vụ giao hàng như thế vào thời điểm này trong năm từ Trung Quốc qua Bắc Triều Tiên là rất hiếm khi xảy ra. Giới chức này nói các vụ giao hàng diễn ra khoảng 10 ngày trước ngày Tết Nguyên đán.

Tại Nhật Bản, báo Tokyo Shimbun loan tin Trung Quốc cam kết dành cho Bắc Triều Tiên nửa tấn viện trợ lương thực và 1 phần tư triệu tấn dầu thô hồi tháng trước.

Bài báo nói quyết định được thực hiện nhân một cuộc họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, ngay sau ngày Bình Nhưỡng loan báo ông Kim Jong Il qua đời.

Đại diện của tổ chức phi chính phủ Do nói việc giao hàng viện trợ rõ ràng là một cách để Trung Quốc bầy tỏ sự ủng hộ đối với người kế vị lãnh tụ quá cố, người con trai út của ông ta là Kim Jong Un.

Ông Do nói viện trợ lương thực của Trung Quốc trước đây là một cử chỉ nhân đạo, nhưng vụ gửi hàng trong tháng này mang tính cách chính trị, để tăng cường quan hệ giữa Bắc Kinh và Bình Nhưỡng, và bảo đảm sự ổn định của Bắc Triều Tiên trong những ngày đầu của triều đại Kim Jong Un.

Các cơ quan cứu trợ quốc tế, kể cả các cơ quan của Liên Hiệp Quốc, nói rằng Bắc Triều Tiên cần viện trợ đáng kể từ bên ngoài để nuôi sống hàng triệu người. Các tổ chức này cho rằng tình trạng suy dinh dưỡng nơi những người trẻ đã tăng thêm mặc dù mấy năm qua được mùa.

Bắc Triều Tiên là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Nạn đói hoành hành vào giữa thập niên 1990 được cho là đã khiến hàng ngàn người thiệt mạng.