Hiển thị các bài đăng có nhãn Xuân 2015. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Xuân 2015. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 24 tháng 2, 2015
Ngọc Lan - Little Saigon: Cuối năm, thăm mộ phần của những người nổi tiếng
Chốn ‘Nhân Gian Không Thể Hiểu’
Người sống quanh Bolsa ai lại không biết Peek Family, nơi dừng chân cuối cùng của nhiều người, và có thể của chính chúng ta.
Ngày mới đến định cư nơi Little Saigon này, mỗi tuần không biết bao bận tôi ngược xuôi ngang đây, đưa con đến trường và tôi đi học.
Peek Family vì thế trở nên... quen, như thể tôi quen với con đường Bolsa, quen với con đường Bushard, quen với Westminster với Beach, Brookhurst và Moran.
Thế nên, quả thực, chưa bao giờ tôi nhìn ra màu buồn thiu nơi nghĩa trang này. Cố tìm, từ ngoài nhìn vào, cũng chỉ thấy cỏ xanh, mây trắng, và những đóa hoa nhiều màu, những chiếc bong bóng sặc sỡ chen bên bia mộ. Hơn nữa, không lúc nào lại không thấy bóng người ra vào, viếng thăm. Tự hỏi, không biết nghĩa trang có... buồn không?
Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015
Phạm Xuân Đài - Sài Gòn và duyên nợ văn học của thế kỷ 20
![]() |
Hình minh họa: internet |
Đất Sài Gòn có một duyên nợ lạ
lùng với nền văn học hiện đại của Việt Nam.
Văn học Việt Nam của thế kỷ 20 là
nền văn học mới, viết bằng chữ quốc ngữ. Mà chữ quốc ngữ thì bắt đầu dùng tại
Sài Gòn từ hậu bán thế kỷ 19, những tờ báo đầu tiên, những quyển tiểu thuyết đầu
tiên, cuốn tự điển tiếng Việt đầu tiên, tức là những viên đá lót đường khởi sự
cho cuộc hành trình của một nền học vấn, rồi nền văn học tiếng Việt đều được đặt
xuống sớm nhất từ mảnh đất Sài Gòn. Vài ba chục năm sau phút khởi đầu ấy trung
tâm văn hóa ngàn đời của Việt Nam là Hà Nội mới bắt đầu học và dùng chữ quốc ngữ,
mới làm quen với tờ báo, và mới khởi sự viết lách bằng thứ chữ mới này với lời
kêu gọi bằng Tam Tự Kinh mới của Tản Đà: Chữ
quốc ngữ/Chữ nước ta/ Con cái nhà/ Đều
phải học. Với tiềm lực văn hóa sâu dày, Hà Nội đã đưa nền văn học mới đến
chỗ trưởng thành rực rỡ, tính tới năm 1945. Và theo một sự xếp đặt có vẻ éo le
nhưng ngẫm ra thì cũng đúng lô-gic của lịch sử, vào hậu bán thế kỷ 20 nền văn học
đã được trưởng thành ấy của Việt Nam được tiếp tục tại Sài Gòn, đơm hoa kết
trái trong vòng 20 năm, được xem là sự thừa kế xứng đáng của văn học Việt Nam
cho đến hết thế kỷ 20 trên toàn cõi đất nước.
Đào Như - Phía sau "The Last Day Days In Viet Nam" - Rory Kenedy
Có lẽ nhằm mục đích nhớ lại 40 năm sau cuộc chiến -VietNam War- và đánh dấu 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao
Việt-Mỹ, Rory Kennedy nhà đạo diễn cũng là nhà sản xuất, đã bắt đầu cho trình chiếu
cuộn phim của bà “The Last Days in
Vietnam”, (1) phim dài 98 phút dựa trên sử liệu cuôc chiến của Mỹ tại Việt
Nam.
Trầng Công Sung - Chờ Tết
![]() |
Hình minh họa: Nhật Giang |
Trước khi lụm cụm chui vào mùng, bà cụ Hàn
hỏi con dâu: Thế thằng Cừ nó nói gì với cô?
Đó là lần thứ mười bà già lập lại câu hỏi.
Yến trả lời, lần thứ mười:
- Thì anh ấy bảo Tết này, thế nào nhà con
cũng được thả về.
- Nó có chắc không, hay lại...
- Chắc. Thì anh ấy với nhà con ngày xưa
cùng ở một đơn vị, cùng bị đưa đi một ngày. Nay anh ấy được thả về...
Cổ Ngư - Thơ Cho Xuân
Con xòe những ngón tay,
Mùa Xuân hồng nở vụt,
Bố làm thơ khai bút,
Mẹ thắp một nén hương.
Mùa
Xuân gửi yêu thương
Lên má con phúng phính,
Đời tròn quay, bầu bĩnh,
Không gai sắc, mưa sầu.
Thứ Bảy, 21 tháng 2, 2015
Ngô Nhân Dụng - Mùa Xuân năm thứ 40
![]() |
Minh họa: internet |
Tết năm nay
tình cờ tôi lại nhớ đến các bạn tôi ở Phần Lan. Nói tình cờ, vì tôi chỉ bấm con
chuột vào máy vi tính, lấy một bản nhạc để nghe, không cố ý chọn trước. Theo lối
“Bói Kiều” của các cụ đời xưa, mở bất cứ trang nào trong Truyện Kiều ra đọc, từ
đó đoán được cụ Nguyễn Du, cô Thúy Kiều, Vãi Giác Duyên báo trước tương lai thế
nào. Sáng mùng một Tết, trong số mấy trăm bản nhạc chứa sẵn trong máy, tình cờ con
chuột bấm trúng tên Sibelius, và bản nhạc mở ra là bài Finlandia!
Âm thanh khoảng
khoát, mênh mang, vươn lên như những rừng tùng bách khổng lồ bát ngát của xứ Phần
Lan cho thấy năm nay sẽ là một năm tốt đẹp. Finlandia
không phải là tâm sự cá nhân mà kể chuyện một dân tộc, một dân tộc nhỏ từng bị
các đế quốc Thụy Điển và Nga thống trị; nhưng cuối cùng vẫn giành được độc lập.
Động cơ mạnh mẽ nhất của giống dân này là bảo vệ ngôn ngữ của tổ tiên!
trần mộng tú - chiều ba mươi quét lá
![]() |
Minh hoạ: internet |
Chiều ba mươi quét lá
những chiếc lá khô cong
nằm ôm năm tháng cạn
hoang mang với gió đông
Nhát chổi cao rồi thấp
cây bút lòng bàn tay
gom làm sao cho hết
lao xao của tháng ngày
Trần Doãn Nho - chào xuân
tôi chào tôi vừa chớm bảy
mươi
chào hết nhân gian chào đất
trời
chào nỗi buồn quen qua rất vội
chào niềm vui lạ đến còn tươi
tôi cất tháng ngày trong ngăn
kéo
ra đường phơi phới trẻ… lên
năm
châm phong pháo nổ hồn vang vọng
bốn bề thơm lựng khói thanh
xuân
Thơ Hạ Long Bụt sĩ - Tôi Chỉ Có thể, Là Tôi
Tôi
nói
Tôi nghĩ
Tôi
cười
Tôi
chỉ là tôi.
Tôi
không thể vươn tay tới Trời
Tôi
không xỏ vừa đôi hia bảy dặm
Tôi
không thể mặc áo bào cưỡi ngựa xích thố
Tôi
cầm đũa
Không
thể cầm gươm
Tôi
không muốn bị đè
Chồng
sách nặng như trái núi
Tôi
ngộp thở triết Kant
Tôi
không muốn đeo kính lần mò tư duy gã Sartre
Trò
điên đảo tưởng đắc tội
Kinh
điển hang tối
chỉ
là trò chơi
dăm
cái đầu kiêu ngạo suy tư đặt bẫy
Lừa
và lùa vào tròng bao chú nai con !
Phan Thanh Tâm - Cô Gái Huế Thời Tiền Chiến
![]() |
Hình minh họa: Nguyễn Tuán Khanh |
Huế đâu
chỉ có sông Hương, núi Ngự, cầu Trường Tiền mà còn có Thôn Vỹ. Thôn này có bóng dáng một cô gái Huế thời
tiền chiến: Cô Hoàng Thị Kim Cúc (1913-1989), người tình trong mộng của thi sĩ
Hàn Mạc Tử. Cô còn là “Chị Cả” của tất cả anh chị em gia đình Phật tử ba miền đất nước và Cô còn để lại một di sản
văn hóa cho thế hệ mai sau: hai bộ sách nổi tiếng Những Món Ăn Nấu Lối
Huế & Cách Nấu Chay.
Bài thơ Ở Đây Thôn Vỹ Dạ, được Hàn Mạc Tử viết từ năm 1939, đã đưa địa danh Vỹ Dạ và mối tình đầu của một thi sĩ tài hoa nhưng mệnh yểu vào văn học sử. Đó là một kỷ niệm của một mối tình trong trắng, thanh cao và bất diệt giữa hai tâm hồn khác tôn giáo. Cô Hoàng Thị Kim Cúc, người đẹp trong cuộc, đã xác nhận như vậy. Tuy thế, vẫn có nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi trong hơn nửa thế kỷ qua đã viết về chuyện tình Hàn Mạc Tử + Kim Cúc không trung thực, “có khuynh hướng liêu trai hóa”. Vì vậy, gần đây mới có cuốn Lá Trúc Che Ngang Chuyện Tình Của Cô Tôi ra đời ở Huế.
Bài thơ Ở Đây Thôn Vỹ Dạ, được Hàn Mạc Tử viết từ năm 1939, đã đưa địa danh Vỹ Dạ và mối tình đầu của một thi sĩ tài hoa nhưng mệnh yểu vào văn học sử. Đó là một kỷ niệm của một mối tình trong trắng, thanh cao và bất diệt giữa hai tâm hồn khác tôn giáo. Cô Hoàng Thị Kim Cúc, người đẹp trong cuộc, đã xác nhận như vậy. Tuy thế, vẫn có nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi trong hơn nửa thế kỷ qua đã viết về chuyện tình Hàn Mạc Tử + Kim Cúc không trung thực, “có khuynh hướng liêu trai hóa”. Vì vậy, gần đây mới có cuốn Lá Trúc Che Ngang Chuyện Tình Của Cô Tôi ra đời ở Huế.
Dương Cưu - Viết ngắn về chuyện Dê
![]() |
Digital Art: Nguyễn Man Nhiên |
Nhân dịp tết năm nay người khác thì
có thể viết một bài phiếm luận “Năm Mùi nói chuyện Dê,” nhưng sức tôi thì chỉ
đủ viết một bức thư trình bày một số ý nghĩ đơn sơ của mình về chữ dê mà
thôi. Gọi là chung vui chút đỉnh với bà con nhân dịp xuân về.
Không biết từ bao giờ, trong ngôn ngữ Việt Nam chữ dê vốn là tên
một giống vật, đã biến thành một tính từ để chỉ tính ưa lăng nhăng lộn xộn về
tình dục của nam giới. Nó mang một ý nghĩa xấu, đồng nghĩa với đa dâm, mà là
loại tà dâm, nghĩa là háo sắc, ưa “đụng đâu xâu đó.” Người tán tỉnh huê dạng
thì không phải là dê, chỉ gọi là dê những người đàn ông ưa “đi thẳng vào vấn
đề,” tay chân hoạt động cụ thể, và nếu thuận tiện thì... tới luôn. Người có máu
dê là người không kiểm soát được nhu cầu tình dục luôn luôn bức bách mình,
gặp phụ nữ vừa mắt là thế nào cũng tìm cách “thả dê,” nghĩa là bắt đầu tấn công
tình dục cách này cách khác. Tính dê như trên còn biến dạng ra một số chữ khác
như be he hay ba mươi lăm. Be he thì rõ ràng là nhại tiếng kêu
của loài dê, còn con số 35 liên hệ tới con dê ở chỗ nào? Tôi không rõ lắm, nghe
loáng thoáng hình như trong trò đánh đề con dê được xếp số 35. Nhưng ý nghĩa
của số 35 trong ngôn ngữ thì thật là mạnh mẽ. Một phụ nữ có thể mắng một người
đàn ông sàm sở với mình: “Cái đồ ba lăm!” thay vì dùng tiếng dê cụ, dê xồm
hay già dê có thể làm nàng ngượng miệng, vì âm dê đã trở nên quá
gần với nghĩa dâm đãng.
Thứ Sáu, 20 tháng 2, 2015
Trần Mộng Tú: Bức Tranh Tĩnh Vật
![]() |
Hình minh họa: Diêu Linh |
Ngày
13, tháng 6 của năm 1975, Chị và bố mẹ rời trại Pendleton theo người bảo trợ cũng là người bạn trong giới truyền thông Mỹ từ hồi còn ở Việt Nam, đến thành phố Encino, California.
Khi chị rời trại ngày thứ sáu 13, mấy người bạn cùng lều
bảo chẳng nên ra trại vào
ngày này, không tốt đâu. Nhưng người bảo trợ nói, chị có cha mẹ già, không nên ở lâu
trong trại, ban đêm lạnh, không tốt cho sức khỏe hai cụ. Cá nhân chị thì chẳng còn tin vào may rủi gì nữa. Cả một cái tháng tư năm nay, ngày nào không là ngày xấu đối với cả triệu người dân miền Nam.
Tạm trú nhà bạn được hai tuần, chị tìm được việc làm ngay, nhờ vợ bạn là người Nhật, giới thiệu chị đến
phỏng vấn trong một ngân hàng Nhật. Có lẽ thứ sáu,13 lại là ngày may của chị (đành phải tin vào vận may vậy) nên chị được chọn vào làm Bank Teller, là một, trong ba người cùng tới xin việc hôm đó.
Phạm Hảo: Tết xưa
Mùa Xuân đang về trên miền Tây Bắc, dịu dàng và lặng lẽ với những nụ trà mi lớn bằng đầu ngón tay, nổi lên giữa những chiếc lá xanh mướt óng ả như được bôi mỡ, với những nụ đào, nụ mộc qua nẩy ra từ những thân cây trụi lá, bất ngờ và đột ngột với những bụi crocus, daffodil, iris, tulip chồi lên từ mặt đất và nhất là với những ngày nắng hanh vàng ấm áp rộn ràng.
Và tôi đón Tết nguyên Đán trong sự chuyển mình kỳ diệu, tươi vui
và tràn trề sức sống của đất trời chung quanh. Nói đón Tết cho ra vẻ chứ tôi
chỉ có mấy cái bánh chưng, bánh tét đặt làm từ Dallas, ngoài ra chẳng còn gì nữa
ngoài hai cây giò thủ, nồi thịt kho nước dừa, thẩu dưa giá. Mấy thứ này tôi chỉ
làm trong vòng nửa ngày là xong, chẳng sửa soạn lu bù lỉnh kỉnh kéo dài cả
tháng trường như những cái tết xa xưa của U tôi.
Bắt đầu từ đầu tháng Chạp, U tôi đã gọi người đến quét vôi nhà. Đồng
thời nhắc Ba tôi chịu khó mang mấy giò lan Ngọc Điểm, Ý Thảo, Bầu Rượu, Hạc
Đỉnh đã bắt đầu đơm nụ ra chỗ có nhiều ánh sáng để mấy cây này được nắng cho
kịp nở hoa vào ngày Tết. Việc này cần lắm vì nếu không o bế săn sóc như vậy , có
những năm những cây này chờ đến rằm tháng Giêng mới chịu nở. Mấy chị em tôi thì
U tôi giao cho cắt tỉa củ cải, cà rốt, đu đủ xanh, sau đó trải ra cái mẹt lới,
phơi vài nắng cho héo để U làm dưa món.
Lê Hữu: Lệ Thanh, còn “nhớ một chiều xuân”
Chiều
nay thấy hoa cười chợt...
nhớ một người
Câu hát ấy từ lâu nay cứ theo tôi, theo tôi mãi.
Tại sao lại câu hát ấy mà không phải là câu hát
nào khác? “Hoa cười”, có lẽ vì hai tiếng ấy gợi nhớ câu thơ cũ, “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”.
Chàng trai
trẻ trong câu chuyện tình
xa xưa ấy cũng “thấy hoa cười” mà thẫn thờ “nhớ một người”.
Có ai trong đời mình lại chẳng có những phút như thế, những phút ngắm nhìn những cánh hoa rung
rinh lay động trong
nắng sớm, trong gió chiều mà
lòng bâng khuâng... “nhớ một người”.
Câu
hát làm cho người ta phải bâng khuâng ấy ở trong bài hát “Nhớ một
chiều xuân”.
Nguyễn Tường Thiết: Chú Bẩy
![]() |
Hình chú thím Bẩy (giữa) và các cháu, từ trái: Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Thái Vân, 2004. |
Quẳng chiếc xe đạp lên một toa chở hàng của
chuyến tàu đêm chàng thanh niên họ Lý phóng mình lên toa trước khi con tàu hụ còi
rời bánh chạy về hướng biên giới.
Đó
là khung cảnh nhà ga Hàng Cỏ Hà Nội vào buổi chiều một ngày tháng năm năm 1978,
khung cảnh tuyền một màu xám, nhà ga trông ảm đạm và hoang tàn với những toa tàu
cũ han rỉ nằm ngổn ngang trên các tuyến đường sắt.
Chàng
thanh niên nom còn trẻ lắm. Anh ta mới 25 tuổi đáp chuyến tàu đi Lào Kay để rồi
từ đó sẽ vượt biên giới sang Trung Quốc.
Lúc ấy anh không thể ngờ rằng chuyến đi đầu
tiên của đời mình mở màn cho một cuộc hành trình dài nửa vòng trái đất mà nơi đến
sau cùng là miền nắng ấm của quận Cam thuộc tiểu
bang California
đất Hoa Kỳ.
Phạm Cao Dương: Thêm Chuyện 70 Năm Trước: Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945
Đây là trận đói thê thảm nhất và khủng khiếp chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam với hàng triệu người đã bị bỏ mạng, đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân chính đã đưa tới biến cố 19 tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, và tình trạng hiện thời của một nước Việt Nam lẽ ra ra đã có tự do, dân chủ và tiến bộ từ bảy mươi năm trước.
Đây cũng là một trang sử mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nên đọc, tìm hiểu và ghi nhớ. Không đọc, không hiểu và không ghi nhớ trang sử này người ta sẽ không hiểu được bản chất của Cách Mạng Tháng Tám và biến cố Việt Minh cướp chính quyền sau đó. Những câu hỏi cần được đặt ra là do đâu có nạn đói này? Nạn đói đã diễn ra như thế nào và được người Việt đương thời kể lại ra sao? và Cộng Sản Việt Minh đã thực sự làm gì trước tình cảnh thê thảm của đồng bào ta thời đó?
Thụy Khuê: Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
MỤC LỤC
Chương 1: Chương 1: Nhu cầu viết lại lịch sử thời Pháp thuộc
Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 - (Phần 1) - tt
Chương 4: Tác phẩm của John Barrow (1764-1848) - (Phần 1)Chương 1
Nhu cầu viết lại lịch sử thời Pháp thuộc
Tại miền Nam trước 1975, nền giáo dục phổ thông dựa
trên bộ Việt Nam Sử Lược (1920) của Trần Trọng Kim. Đào sâu về thời Pháp
thuộc hơn, có bộ Việt Nam Pháp thuộc sử 1884-1945 (1961) của Phan
Khoang. Các nhà viết sử lớp sau như Phạm Văn Sơn cũng chỉ dựa trên hai cuốn sử này
mà viết rộng ra, chứ không có khám phá mới.
Trong bài tựa cuốn Histoire moderne du pays d'Annam
(1592-1820) [Lịch sử hiện đại nước Nam (1592-1820)]của Charles B.
Maybon, in năm 1920, Henri Cordier cho biết cuốn sử đầu tiên mà độc giả Pháp được
biết về nước Nam là cuốn Cours d'histoire annamite [Giáo trình lịch sử
An Nam] của Trương Vĩnh Ký in năm 1875.
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, viết
xong năm 1919, in
lần đầu năm 1920, dưới thời Pháp thuộc, tất nhiên có sự kiểm duyệt của chính
quyền thuộc địa. Học giả họ Trần, uyên thâm chữ Nho và chữ Pháp, tuy có đọc những
bộ sử của nhà Nguyễn, nhưng ông vẫn đặt niềm tin gần như trọn vẹn vào tài liệu Pháp.
Khi nhận định về những lý do của cuộc xâm lăng, Trần Trọng Kim lấy lại ý kiến
của các sử gia thuộc địa, cho rằng vì triều đình Huế không chịu canh tân đất
nước, áp dụng chính sách bế quan toả cảng, cấm đạo, diệt đạo, nên người Pháp
mới đánh Việt Nam, để cứu giáo dân, giáo sĩ và bảo vệ tự do buôn bán.
XUÂN ẤT MÙI, 2015: LỜI NÓI ĐẦU
Thưa quý độc giả,
Tết đến, chúng ta tạm gác lại những câu chuyện thời sự Việt Nam và thế giới để thảnh thơi đôi chút với một trang báo tạm gọi là Số Xuân. Đây không phải là một số Xuân in dày cộm mà độc giả có thể đọc suốt mùa xuân, số Xuân này chỉ dùng để đọc trong... một ngày. Chúng tôi cố ý đăng một số lượng vừa phải các sáng tác của những văn hữu đã gắn bó đã nhiều năm với tạp chí Thế Kỷ 21 rồi DĐTK, hầu quý độc giả có thể đọc một cách nhẹ nhàng thảnh thơi, để rồi còn đi tìm những thú vui xuân khác. Và số Xuân còn tiếp tục vào ngày mai, mồng hai Tết, và sau đó là cuối tuần, chuyện Xuân chuyện Tết có thể còn kéo dài.
Như thế, có thể nói năm nay chúng ta ăn Tết lớn...
![]() |
Tranh: Họa sĩ Nguyễn Thị Hợp |
Thứ Năm, 19 tháng 2, 2015
MÙA XUÂN VÀ LINH HỒN MỚI
Trần Mộng Tú
Tuổi của đôi ta mùa xuân này cộng lại sẽ dài hơn cả trăm năm. Thời gian như một cuộn len đan, mỗi ngày tháo ra từng đoạn.
Hơn một trăm năm, hơn một thế kỷ dài nghe thật xa xăm, núi làm gì để
cứu được những mảnh đời mình xụp lở.
Sông chảy về đâu sao hơn trăm năm còn bỡ ngỡ. Bờ bên này vẫn gọi mãi
bến bên kia.
LỘC
Song Thao
![]() |
Hoa lộc từ cây ngọc kỳ lân trong chùa Hoằng Pháp. |
Nhớ ngày còn là những anh chàng độc
thân chạy tung tăng ngoài đường nhiều hơn ở nhà, chúng tôi chẳng năm nào bỏ qua
giao thừa ở Lăng Ông Bà Chiểu. Chàng nào chàng nấy ăn diện hết cỡ. Nói là diện
chứ hạng nhất cũng chỉ thêm chiếc cà vạt lủng lẳng trước ngực. Cà vạt ngày đó
chỉ nhỏ bằng hai ngón tay. Đóng bộ xong,
mỗi tên một chiếc xe gắn máy hoặc vespa lên đường qua Cầu Bông. Đêm giao thừa,
xe cộ đông nghẹt, người người kéo nhau đi lễ Phật và hái lộc. Chúng tôi, thay
vì hái, lại đi săn lộc.
Lộc của chúng tôi là những áo xanh áo đỏ
e lệ nép theo các bà mẹ chơi vơi từng bước nhẹ nhàng trong vùng khói hương dày
đến nghẹt thở. Thứ lộc biết đi này ngày đó dễ thương chi lạ. Trông cứ muốn…hái.
Mắt trước mắt sau, nhìn thấy ưa mắt là lẵng nhẵng theo sau, rình cơ hội, qua mặt
kỳ đà cản mũi là các bà mẹ đang vọng tới thần thánh hơn canh con gái. Thường
thì chúng tôi đi tay không lại về không. Tên nào cũng ôm một cục nhát trong người
thì nước non chi. Thảng hoặc có tên nào trúng số, hấp háy được một em thì lộc sẽ
biến thành đèn để mang đi rước phố Tự Do, Lê Lợi. Tết nhất đi xin lộc kiểu
chúng tôi ngày đó là nhảm nhí. Nhưng tình.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)