Hiển thị các bài đăng có nhãn Viên Linh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Viên Linh. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2018

Viên Linh: Để đưa tiễn Trần Văn Nam

Nhà văn, nhà nhận định văn học Trần Văn Nam (1939 - 10 Tháng Giêng, 2018). (Hình: Trần Yên Hòa)

Thật là nhanh quá. Còn nhớ mơ hồ hồi trước 1975 một hôm tòa soạn tờ báo tôi chủ trương nhận được bài của nhà giáo Trần Văn Nam từ Vĩnh Long gửi lên, một trong những bài có nội dung “thơ và triết học” mà những năm về sau anh viết thêm nhiều, tôi bỗng có phản ứng đáng kể là bốc đồng.

Ngắm nhìn cái xe Lambretta bụi bặm của mình, tôi nghĩ thầm, xe này Sài Gòn-Vĩnh Long kể gì. Nổ máy, chẳng nói với ai, tôi xuống Vĩnh Long tìm Trần Văn Nam, tôi cần bàn với chàng này. Quyết định đó đã mở đầu một tình bạn gần nửa thế kỷ.

Số là làm báo, nhất là làm một tạp chí văn nghệ, tôi rất quen thuộc với những trang bài chỉ có chữ là chữ, nhất là khi nhận được một truyện ngắn hay một bài tham luận dài cỡ 20 trang viết tay – với tôi, đó là 10 trang chữ in dày đặc nếu in hết bài đó mà không xen vào hình ảnh hay một bài thơ, hay những khung chữ hoặc in nghiêng, hoặc in đậm, hoặc bằng một kiểu chữ khác, in xen vào với bài chính.

Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013

Viên Linh - Võ Đình, cơm với cá

Viên Linh

(Để tưởng nhớ nhà Văn/Họa sĩ Võ Đình, nhân ngày giỗ thứ 4 của Ông)

Trong giới nghệ sĩ tạo hình, họa sĩ Võ Ðình (1933-2009) là người có cuộc sống cách biệt với giới văn nghệ Việt Nam hơn cả, song lại là người đi vào nhiều ngành hơn cả trong sinh hoạt văn nghệ: ông vẽ và triển lãm nhiều đã đành, ông dịch thuật mấy tác phẩm từ tiếng Pháp qua Việt ngữ, ông dịch thơ các thiền sư Việt Nam ra quốc âm, là tác giả của mấy tập truyện ngắn, tùy bút, v.v... Và trong cuộc sống tình cảm, nét bút, câu văn của ông cho thấy một sinh lực tàn phá muốn vỡ bờ, một xung uất khó kìm hãm, một hụt hẫng nào đó phải chiêm nghiệm lâu mới có thể hiểu. Ông và tôi có lần đã chưng hửng cùng nhau, quanh một bữa rượu, trong dăm ba lần gặp nhau ba bốn mươi năm trước.


Tên thật ông là Võ Ðình Mai, song người ta biết đến ông qua bút hiệu Võ Ðình, tên ký trên các tấm tranh trong hơn 40 cuộc triển lãm từ Âu về Á, và trên khoảng ba chục bìa sách hay bốn chục ấn phẩm (vì có nhiều ấn phẩm viết chung với nhiều người), từ quốc nội tới hải ngoại.

Sau này khi đã nổi tiếng từ ngoài trở vào tới trong nước, dường như ông có ý định ghép tên Mai vào tên hiệu Võ Ðình cho đủ bộ như lúc vào đời, song độc giả không chấp nhận, nên tên Mai lại bị loại ra, Võ Ðình lại là Võ Ðình một mình mà thôi. Ông sinh năm Quí Dậu 1933 ở Huế, chánh quán huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Những năm '50 ông du học ở Lyon và Paris nước Pháp, song cuộc triển lãm tranh đầu tiên của ông được tổ chức ở New York. Một nghệ sĩ sinh hoạt trong nhiều ngành nghề như thế, hẳn có nhiều nguyên do? Có thể ta sẽ tìm được câu trả lời qua những dòng chữ do chính ông viết: “Phần tôi, có những điều tôi nói ra không được, viết ra không được, mà lại vẽ ra được. Ngược lại, có những điều tôi vẽ ra không được, cho nên tôi cần nói ra, viết ra. Không vẽ ra được, tôi khổ sở như bị đui mù. Không nói ra, viết ra được, tôi đau đớn như bị câm điếc.” (Võ Ðình, Lời Tác Giả, Sao Có Tiếng Sóng..., Văn Nghệ xuất bản, 1991).

Nếu chỉ căn cứ vào câu này, ta có thể hiểu, theo ngành nào, viết gì vẽ gì, ngay cả lúc không viết không vẽ, ông cũng chỉ “thực hiện” con người ông. Con người ông ra sao? Du học ở Pháp thuở thiếu thời, triển lãm ở Âu Châu và Mỹ, ông dịch và viết tiếng ngoại quốc, hai lần lập gia đình với phụ nữ ngoại quốc, và những bài viết đầu tiên của Võ Ðình là truyện dịch. Năm 1971 Sáng Tạo ở Sài Gòn đã in “The Stranded Fish” của ông. Võ Ðình dịch thơ Nhất Hạnh ra “Zen Poems” năm 1976. Danh sách các dịch phẩm của ông dài gần hai trang sách. Tuy thế, như ông đã trả lời một cuộc phỏng vấn của báo chí, tâm hồn ông rất Việt Nam:
Ðến một lúc nào đó trong đời, người ta trút bỏ nhiều thứ vẫn trân quí lâu năm, và chỉ giữ lại những gì cần thiết nhất. Tôi có dịp đọc đâu đó rằng, trong chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên), nhiều lính Mỹ trước khi chết thường chỉ thều thào hai tiếng: Mom! (Mẹ ơi!), và Milk! [cho tôi tí (Sữa!)]. Cho nên, có thể nói rằng “Cuốn sách đã ảnh hưởng tới tôi” là cuốn “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” và “Luân Lý Giáo Khoa Thư.” Những cuốn sách được học (chứ không phải đọc) những năm còn là một chú bé chưa được phép mặc quần tây dài, đi giày (chỉ được mặc quần “sọt” (shorts), đi dép, hay đi... chân đất! Những bài trong sách đó, tôi còn nhớ lai rai. Chẳng hạn, chuyện “một người đã đi du lịch” nhiều nơi,” về đến quê nhà lại nói rằng “chốn quê hương đẹp hơn cả.” Chẳng hạn bài ca dao: “Ðêm đêm ra đứng bờ ao / Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ / Buồn trông con nhện giăng tơ, v.v...” Thú vị vô cùng là cái con cò “đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao,” bị bắt được, có thể bị đem đi xáo măng, mà còn đòi cho được “Có xáo thì xáo nước trong / Chớ xáo nước đục đau lòng cò con.” Có một số bài nữa. Văn xưa cũ, ước lệ, nhưng hay. Chẳng hạn, chuyện người nọ đi trên đường lúc chạng vạng, thấy cục đá lớn, bèn hì hục khuân nó qua một bên, có người hỏi sao lại nhọc nhằn, trả lời là sợ có người trời tối đi vấp phải! Chẳng hạn, chuyện người nọ giấu vàng trong mấy hộp trà, đem biếu xén quan lớn. Quan cầm thấy nặng, không chịu lấy, người ấy nói: “Không ai biết đâu!” Quan bảo: “Trời biết, Ðất biết, ông biết, tôi biết, sao lại nói là không ai biết?” Chẳng hạn chuyện người thợ may (gặp khách hàng hạng người luồn cúi), ông may áo tà sau dài hơn tà trước...” (Võ Ðình trả lời Viên Linh, đăng trên Khởi Hành số 67, tháng 5.2002)

Sau khi kể như thế, Võ Ðình kết luận:
Sách hay như thức ăn ngon. Ăn ngon thì khoái, thì sướng. Cũng có thức ăn thực đơn sơ, đạm bạc, nhưng tiêu hóa đã lâu, món ăn đã thành máu trong người. Sách như Quốc Văn Giáo Khoa Thư, như Luân Lý Giáo Khoa Thư, là thức ăn đạm bạc đó. Ở quê tôi, Thừa Thiên, có thành ngữ: “Cơm với cá như Mạ với con.” Tiếng Huế, Mạ là Mẹ. Với tôi, và tôi nghĩ, với những người cùng lứa tuổi, QVGKT và LLGKT là “cơm với cá” vậy. (Sđd)

Ðó là ý kiến Võ Ðình về những cuốn sách hay đã đăng báo.

-Trong thư riêng với nhau, anh viết lác đác đây đó với tôi. Năm 2001 thấy tờ báo mình làm, là báo văn nghệ, cần những minh họa hay những nét phác họa nho nhỏ, tôi gửi qua Royal Palm Beach Florida cho anh chỉ một tấm danh tiếp ghi hai câu “lẩy Kiều”: “Mai sau dù có bao giờ / Vẽ dăm ba nét cũng nhờ được nhau.” Khoảng một tuần sau một cái phong bì khổ lớn, lộm cộm nhiều mảnh giấy bên trong, đã nằm trong Hộp Thư Lưu Trữ của tờ báo. Mở ra, có tới 10 bức vẽ nho nhỏ “từ dăm ba nét tới cả vài trăm nét,” và một bản photocopy cái thiếp nhỏ của tôi có hai câu lẩy Kiều nói trên, tiếp bằng hai câu “lẩy Kiều” Võ Ðình gửi trả lại: “Trăm năm một cuộc bể dâu / Nét thì nét bấc mà đau đớn lòng.” Mấy chữ đau đớn lòng, nghĩ thế nào cũng được; có thể hiểu là nội dung những nét vẽ, có thể hiểu là vẽ cho bạn ta thì chẳng có nhuận bút gì hết mà vẫn phải vẽ!

Bây giờ là tháng 10, 2005... Mấy tháng nay tôi lấn bấn với chuyện sức khỏe, không lái xe, không đọc sách báo được! Mổ 2 lần, làm lại cầu răng 1 lần. Ðang chờ bão Wilma. Tôi đồng ý với anh về chuyện dịch thơ. Tôi không bao giờ dịch thơ cả. Những bài thơ-kệ trong “Hương Thiền” và “Một Cành Mai” là những bài chú trọng về ý hơn là về lời thơ. Ý, có thể dịch ra một ngôn ngữ khác, thơ, không được.

Hơn một năm sau, anh gửi cho tôi một số “vài nét” khác, và một mảnh “post-it” trên có viết:
VL: Tôi gửi ông vài nét. Tùy theo nhu cầu, xin ông cắt xén tự do. Tôi gửi chậm vì mắt (phải mổ). Tôi thích mấy cái “collages-cắt dán” của ông trong KH mới nhất. Thân (VÐ 6.13.2006)

Khi đụng tới văn học nghệ thuật, Võ Ðình không nể nang. Ðây là điểm đáng quí nhất nơi người nghệ sĩ tự trọng. Ấy là tránh tối đa những viết lách, hay lời nói thù tạc, những khen ngợi chỉ cốt làm vừa lòng người khác, nhưng thật sự là giả dối. Võ Ðình đã nhiều lần bị than phiền vì những phát biểu về nghệ thuật - người có công tâm sẽ thấy, nếu những phát biểu ấy là đúng, và phải thấy như thế - thì người phát biểu chính là người nghệ sĩ chân chính.

Một trong những phát biểu ấy là câu họa sĩ trả lời nhà văn Phạm Thị Hoài, chủ bút Talawas năm 2002, khi cô hỏi ông câu hỏi sau đây: “...nhiều khi anh viết trực tiếp về việc vẽ. Chỉ có một số rất ít họa sĩ Việt Nam làm như vậy. Phần lớn thường từ chối phát biểu bằng lời. Phát biểu duy nhất của họ là: tác phẩm đã đủ nói lên tất cả. Ðây có phải là một thái độ riêng của giới sáng tác hội họa Việt Nam không? Nó có tất yếu không? Có nên giữ như vậy không?”

Võ Ðình:
Tôi thông cảm với những họa sĩ (Việt Nam) “từ chối phát biểu bằng lời.” Không, đây không phải là “một thái độ riêng của giới sáng tác hội họa Việt Nam.” Từng cư ngụ nhiều năm ở Pháp rồi ở Hoa Kỳ, tôi nhận thấy giới sáng tác hội họa ở đó cũng thường giữ im lặng lắm. Theo tôi hiện tượng ấy có mấy nguyên do.

1. Hội họa là một nghệ thuật câm nín. Người họa sĩ không có thói quen phát biểu bằng lời trong cuộc sống, trong công việc. Ngày xưa, Paul Cézanne, cha đẻ của hội họa hiện đại từng nói: “Người họa sĩ suy tưởng với cây cọ trong tay.” (Un peintre pense avec les pinceaux dans les mains.)

2. Ngôn ngữ hội họa là một ngôn ngữ dị biệt. “Nói” về hội họa thường chỉ đi vòng quanh hội họa, khó đi sâu vào bên trong. Câu 3 và câu 4 đã gây xúc động, bài này sẽ không nhắc lại hết, tuy nhiên khi Võ Ðình nói “hiếm có những tác phẩm đã đủ nói lên tất cả, hiếm lắm,” thì điều ấy không sai. Ông nói rõ rằng không chỉ giới họa sĩ, mà “nói chung, ở người Việt Nam,” người ta ngại phát biểu bằng lời vì “e ngại ‘bút sa gà chết’, đụng chạm tự ái kẻ khác.”

Những dòng này được viết ra nhân ngày giỗ thứ tư của họa sĩ (mất vào 6 giờ Chủ Nhật, giờ Florida, ngày 31 tháng 5, 2009). Như một tưởng nhớ người nghệ sĩ bộc bạch hiếm có.

(Ngày 29 tháng 5, 2013)


Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Viên Linh - Niệm khúc Phạm Duy


 Viên Linh

Trong sáu tháng vừa qua, các nhạc sĩ, ca sĩ và tôi trao đổi với nhau nhiều điều quanh một bản nhạc, đó là bài Trường Ca Gọi Hồn nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ một bài thơ dài trong thi phẩm Thủy Mộ Quan, tác giả Viên Linh, xuất bản ở hải ngoại năm 1982. Cũng năm ấy trong Ðêm Thủy Mộ ở thị xã Westminster, Phạm Duy đã bước lên sân khấu một mình hát với giọng sung sức, phấn khởi, trong không khí hơi ồn ào của mấy trăm người trong cái quán của Nguyễn Tú A, tôi nghe không rõ, hỏi Mai Thảo ngồi bên cạnh: “Ông ấy hát bài gì thế?” “Thơ của cậu mà, lúy nói vừa phổ nhạc xong đêm hôm qua.” 

 
Khi hát xong, Phạm Duy bước xuống đưa cho tôi bốn tờ giấy, bản thảo bản nhạc phổ bài thơ Gọi Hồn của tôi. “Bài này phải có ít ra là hai ba bè hát mới được. Tiểu trường ca đấy. Tôi chưa phổ Trường Ca cho ai cả nhé.” Tự dưng giữa năm ngoái gặp Trưởng Du Ca Nguyễn Thiện Cơ ở Little Saigon, tôi hỏi anh qua đây làm gì?” Hóa ra anh vừa thực hiện xong đĩa nhạc Du Ca Nguyễn Ðức Quang, mang qua Mỹ nộp cho thân chủ. Tôi chợt nhớ tới bản nhạc Phạm Duy phổ thơ mình, bỏ trong góc tủ sách đã 30 năm rồi, bèn gom góp đủ 10 bài, kể cả những bài các nhạc sĩ khác phổ thơ thuyền nhân và biển Ðông của tôi,... đưa cho người bạn. “Tôi không có duyên với âm nhạc, nên bỏ xó mấy chục bài anh em phổ nhạc thơ mình, ông xem chỗ nào người ta hòa âm giỏi và hát hay, lại bền và rẻ, thì làm cho tôi một cái đĩa nhạc chơi.” Anh Cơ đồng ý có chỗ quen biết với anh có thể làm một đĩa CD vừa bền vừa rẻ lại vừa hay. Nhạc sĩ Minh Tân coi qua mấy bản nhạc, thấy có cả nhạc Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Song Ngọc, Nguyễn Ðức An,... phổ thơ Thủy Mộ, thì tiếc rẻ, nói rằng nếu 20 năm trước làm đĩa nhạc này, thì số một. Ðĩa nhạc làm xong đợt một, tôi không vừa ý, làm lại đợt hai, thêm tay ghi-ta Trung Nghĩa, thêm bè nữ và bè nam, hát đi hát lại mãi, 6 tháng chưa xong. Chợt tháng trước thấy Duy Quang ra đi, tôi vội xúc tiến trở lại thực hiện bài Gọi Hồn. Vốn là hai ca sĩ đã nhận lời hát, rồi bỏ ngang. Người ta đề nghị tôi sửa mấy chữ, không thì họ không dám hát.

Trên Huyết Hải thuyền trôi về một chiếc
Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương
Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt
Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương...

Chữ Huyết Hải là biển máu, rất đáng ngại. Hay là đổi thành Hắc Hải nghe cũng cùng một âm thanh không sao cả. Có ca sĩ đưa ra ý kiến như thế.

Ðoạn dưới, sau khi thuyền nhân đã chết: “Xong rồi một cõi u minh, Ngựa Hồ Chim Việt biến hình mà đi” nghe ghê ghê, “Ngựa Hồ khiến người ta liên tưởng tới Bác Hồ, đổi đi thì em mới dám hát. Em (ca sĩ) có đưa bài này hỏi ý thầy học thì thầy bảo không nên hát. Hát bài này e rằng sẽ bị cấm hát ở các phòng trà ở Sài Gòn là em chết đói, nhất là câu: “Hồn còn tầm tã mưa rơi / Tháng Tư úng thủy một trời sương tan.”
Còn nhớ, một hai người bạn có đề nghị lấy mấy chữ ở cuối bài thơ, Qui Hồi Cố Hương, làm nhan đề thứ hai cho bản nhạc, chứ hai chữ Gọi Hồn nghe chết chóc quá. Bài Gọi Hồn không chỉ nói về các thuyền nhân vượt Biển Ðông khi chết rồi vẫn còn quanh quẩn ở Ðông Hải, mà còn gọi những người ấy hãy cùng nhập cuộc xua đuổi quỷ dữ ma vương ra khỏi đất nước:
Nhắm hướng hôi tanh, chia bày trận mạc
Hồn binh tàn hỗn chiến Thủy Môn Quan
...
Năm nghìn năm lại bắt đầu
Chim nào tha đá, người đâu vá trời
Chúng ta rời bỏ xứ người
Loài chim trốn tuyết qui hồi cố hương.
(Gọi Hồn, Viên Linh, Phạm Duy phổ nhạc trong CD Tâm Sử Ca sắp phát hành)

Cái kết của bản nhạc, cũng là điều nhạc sĩ Phạm Duy từng nói với báo chí vào khoảng năm 2000: “Nhiều khi tôi tự hỏi trong 25 năm nay, sinh sống tại một nước giàu sang nhất thế giới là Hoa Kỳ,... Mà cứ không quên mình là người Việt Nam?... Khắc khoải cuối cùng... với sự tôi trở về căn nhà thời thơ ấu ở phố Hàng Dầu, Hà Nội để hoàn tất chu kỳ một đời lang thang.” (Nói với báo Văn, 2000)

Phạm Duy có thể không yêu Việt Nam bằng nhiều người, nhưng tình yêu quê hương của ông, nói lên tình yêu ấy, chưa chắc có ai bằng ông. Ông ra đời ở Hà Nội năm 1921, tên khai sinh là Phạm Duy Cẩn, con nhà văn Phạm Duy Tốn (1883-1924), dòng dõi họ Phạm làng Phượng Vũ, Phượng Dực, Phú Xuyên, Hà Ðông, tự học nhạc rồi trong các năm 1943-1945 đi theo một đoàn ca kịch lưu động, cổ võ cho tân nhạc. Từ 1945-1952 đi theo kháng chiến, sáng tác những ca khúc sau này lừng danh, những Bà Mẹ Gio Linh, Sông Lô,...
Sau này học bổ túc âm nhạc tại Institut de Musicologie ở Pháp và học dương cầm, nhạc lý với Giáo Sư Francois Lopez (1954-1955). Dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc tại Sài Gòn 1961-1962. Năm 1979, ông cho biết đã soạn trên 600 ca khúc. Trong hơn 30 năm sau đó, không rõ ông soạn thêm bao nhiêu bản nữa. Vợ là ca sĩ Thái Hằng, gia đình có 8 người con. Soạn nhạc và viết ca khúc là việc chính của ông, Phạm Duy còn viết một cuốn sách nhan đề dài dòng là “Ðặc Khảo Dân Nhạc Ở Việt Nam.” Dân nhạc ở Việt Nam gồm nhiều ngành, như nhạc Thượng, nhạc Chàm, ca Huế, ca Quảng, không phải chỉ có tân nhạc. Ông cũng viết về các nhạc cụ như “thạch cầm,” (nhạc cụ bằng đá ở Trường Sơn,) hay trống đồng Ðông Sơn, đàn tre, sáo,...

Quen biết anh từ Ðàm Trường Viễn Kiến của nhà văn Nguyễn Ðức Quỳnh ở Ðường Hai Mươi, Sài Gòn, khoảng 1957, (lúc tôi chưa 20 tuổi), chúng tôi không ngừng gặp nhau. Trong thư riêng gửi cho tôi, anh tự viết cho riêng tôi cái tiểu sử của anh, trong có đoạn như sau - xin dùng đoạn thư đó để tạm kết bài này, viết vội: “...Vì thời cuộc, phải tạm rời xa quê mẹ, nhưng tự tin rằng mình không khởi sự đi từ Ải Nam Quan và ngừng lại ở Mũi Cà Mâu... và tự nhận là dòng dõi Âu Cơ, bước ra đi từ Ðộng Ðình Hồ, cùng nửa triệu người đi tới Grand Canyon, điện Versailles hay Úc đảo để hát lên tình tự dân tộc, thế giới. Có hẹn ngày về nơi chôn rau cắt rốn!” (Thư riêng, Phạm Duy gửi Viên Linh, 26.1.1979). Cho nên anh đã sống như vậy. Sống và chết trên quê hương mình, mãi mãi sau này Phạm Duy vẫn thực hiện được điều mong ước trong tâm khảm, đó là điều hạnh phúc nhất của một đời người. (VL - trích đoạn, 29.1.2013)


Thứ Năm, 10 tháng 3, 2011

Phạm Công Thiện: ‘Ðã đi mất hẳn đi rồi’

Viên Linh

Sinh hoạt văn hóa miền Nam, thu nhỏ vào lãnh vực Văn Học và Triết Học, và giới hạn từ 1963 trở đi, đã tưng bừng phát triển, như hải triều, như thác đổ, phá vỡ những oi nồng của một thời kỳ ung độc, đưa thế hệ hai mươi thuở đó và những thế hệ hai mươi khác của đất nước trở về với suối nguồn tư tưởng Ðông Phương, là công lao chung của một nhóm thanh niên trí thức đã xuất gia: Nhóm Vạn Hạnh.