Hiển thị các bài đăng có nhãn Vũ Ánh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Vũ Ánh. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014
Vũ Ánh - Làm Lại Từ Đầu Ở Tuổi 51
![]() |
Nho à báVũ Ánh và phu nhân, Ngô Yến Tuyết |
Khoảng giữa năm 1985, tôi và một vài người nữa được đọc lệnh tha ra khỏi biệt giam. Có thể quyết định này liên hệ tới một cuộc tổng thanh tra các nhà tù của Bộ Nội Vụ Việt Nam Cộng Sản diễn ra chỉ nửa tháng sau đó. Tôi không có bằng chứng cụ thể nào để gắn vụ tổng thanh tra này với kế hoạch “đổi mới tư duy” của chế độ, nhưng trước khi bị biên chế từ đội làm lò gạch sang đội “đặc biệt” phải di chuyển vào ở chung với khu tu sĩ, tôi đã bị gọi ra làm việc với an ninh trại và qua những chi tiết trong câu hỏi của viên sĩ quan công an phụ trách an ninh này tôi hiểu rằng đang có một biến chuyển chính trị nào đó khá quan trọng ở bên ngoài.
Vũ Ánh - Những Quyết Định Khó Khăn Nhất Trong Đời Tù
![]() |
Ra tù 1988-1992. Ðạp xích lô, dạy kèm Anh văn |
Trích "Thung Lũng Tử Thần," Người Việt Books xuất bản 2014.
Ăn đói, làm việc nặng, nhưng khi đau ốm thì cũng chỉ có “xuyên tâm liên,” một loại lá thuốc nam sơ chế được cấp phát cho tất cả mọi tù nhân cải tạo khai bệnh tại bệnh xá, từ nhức đầu, đau bụng, cao máu cho tới thổ tả, kiết lỵ, nhiễm trùng đường ruột, lao phổi… Chúng tôi châm biếm cái loại thuốc viên từ lá cây xuyên tâm liên nghiền nát đóng thành viên này là thuốc “cải sinh thành tử” hoặc là thuốc “cải tiến thành lùi,” lấy từ ý tưởng chiếc xe cút- kít hay chiếc xe bò do người kéo thì được người Cộng Sản gọi là “xe cải tiến.”
Đoàn Thanh Liêm - Chứng từ của một người tù kiên giam (bài viết nhân đọc cuốn sách Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh)
Tài liệu tham khảo chính yếu:
Tác giả : Vũ Ánh
Nhà Xuất Bản Người Việt phát hành tháng 6/2014.
Trước đây khi còn sinh thời, nhà báo Vũ Ánh đã cho đăng thành nhiều kỳ trên Nhật báo Người Việt những bài viết của mình kể lại một số chuyện xảy ra tại trại giam khét tiếng có tên là Trại A-20 nơi vùng đất Xuân Phước – Tuy Hòa. Nay nhân dịp Kỷ niệm 100 Ngày tác giả Vũ Ánh qua đời, nhà xuất bản Người Việt Books cho tập hợp lại các bài báo đó và ấn hành thành một cuốn sách dày 284 trang với nhan đề :
Thung Lũng Tử Thần - Hồi Ức Một Người Tù Cải Tạo.
Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2014
Giới thiệu sách mới: VŨ ÁNH - THUNG LŨNG TỬ THẦN, Người Việt Books 2014
Có thể mua ngay bây giờ tại Amazon hoặc Người Việt Shop (714) 892-9414
Lời Nhà Xuất Bản - Ít có ai viết về những nhục hình trong giai đoạn ở tù với giọng văn bình thản, nhiều khi đến lãnh đạm, như tác giả tập hồi ức này. Tác giả kể chuyện của mình mà đọc cứ có cảm giác như đang nói về một ai khác. Nhưng chính sự bình thản ấy khiến người đọc có thể tin được, rằng tác giả đang viết sự thật, không thêm bớt, không biến mình thành anh hùng, và cũng chẳng biến người khác thành thiếu nhân cách.
Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014
Ngọc Lan - Vũ Ánh, một con người hiếm có
![]() |
Hình: DÐTK |
WESTMINSTER (NV) - “Đó là một người vô cùng trách nhiệm, dám nhận trách nhiệm, đồng thời cũng là một người vô cùng hiền lành, đôn hậu,” là những điều được mọi người nhắc đi nhắc lại nhiều lần về nhà báo Vũ Ánh, cựu chủ bút nhật báo Người Việt, tại lễ tưởng niệm ông, được tổ chức vào tối Thứ Sáu, 21 Tháng Ba, 2014 tại hội trường nhật báo Người Việt.
Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014
Tuấn Khanh - Trong trí nhớ của mỗi người
![]() |
Anh Chị Vũ Ánh và Yến Tuyết (Hình: Uyên Nguyên) |
Bất chợt trong một buổi chiều, nghe tin một người ra đi khỏi thế gian này, đôi khi không còn là chuyện quá lớn.
Nguyễn Thanh Khiết - Vĩnh biệt Vũ Ánh
![]() |
Hình minh họa (Khang Dương) |
Anh từng hứa về thăm trại
cũ
lên đồi vĩnh biệt đốt một nén nhang
sao đành đi lúc chiều chưa tàn
mà khăn gói vẫn đầy nguyên kiếp nạn
sao đành đi lúc chiều chưa tàn
mà khăn gói vẫn đầy nguyên kiếp nạn
Ngọc Lan - Vĩnh biệt chú Vũ Ánh!
![]() |
Nhà báo Vũ Ánh (1941-2014) |
Vừa kết thúc một cuộc phỏng vấn lúc 7 giờ tối thì nghe tin: chú Vũ Ánh qua đời!
What? Tôi sửng sốt.
Chạy vào phòng Biên Tập, thấy anh Thiện Giao. “Chú Ánh mới mất hả anh Giao?” – “Ừ, đang confirm tin này.”
Tôi thẩn thờ.
Vũ Ánh - Hà Nội vẫn chưa đủ niềm tin cởi trói báo chí
![]() |
Từ phải: Vũ Ánh, Lê Văn Khoa, Yến Tuyết, Becky Ngô, Phạm Phú Minh tại đài VNCR 1997. Thời điểm này ông Vũ Ánh là Giám Ðốc Chương Trình của VNCR. (Hình tư liệu) |
Có thể coi đây là bài viết cuối cùng của nhà báo Vũ Ánh. Và cũng là một "tình cờ định mệnh", chủ đề của bài là tự do báo chí, một vấn đề ông quan tâm hầu như suốt cuộc đời làm truyền thông của ông. Chúng tôi xin đăng lại bài này như một nén hương kính viếng ông, đồng thời bày tỏ, qua ngòi bút của ông, niềm ao ước sớm có tự do báo chí trên đất nước Việt Nam. DĐTK
Nếu mà ngày nay có người nào có đủ kiên nhẫn ngồi điểm lại những tác phẩm và các giáo trình chính yếu về tự do báo chí tại những trường đại học báo chí ở nước Pháp và ở Mỹ không thôi và bắt đầu từ một giai đoạn nhất định, chẳng hạn như kể từ khi Tổng Thống Thomas Jefferson (1743-1826) viết một lá thư cho James Curie vào ngày 28 tháng 1 năm 1786 cho đến nay, tôi nghĩ rằng ông ta sẽ bị dẫn vào một mê hồn trận và sẽ có thể không tìm được lối ra.
Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014
Nhà báo Vũ Ánh, cựu chủ bút Nhật báo Người Việt, qua đời
![]() |
Nhà báo Vũ Ánh (Hình: Uyên Nguyên) |
QUẬN CAM 14-3 (NV) - Nhà báo Vũ Ánh, cựu chủ bút Nhật báo Người Việt, vừa đột ngột qua đời tại tư gia ở quận Cam, California, vào trưa ngày Thứ Sáu, 14 tháng Ba, 2014, thọ 73 tuổi.
Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013
Vũ Ánh - Sửa đổi Hiến Pháp Việt Nam: Trăm hoa đua nở?
Vũ Ánh
Khi đến nhận giải thưởng báo chí dành cho công dân mạng Netizen ở Pháp, nhiều người hỏi rằng làm cách nào mà một người khi viết những bài báo đưa ý kiến hủy bỏ điều 79 và 88 về tội tuyên truyền chống nhà nước và chủ trương đa nguyên, đa đảng mà không bị bắt thì nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh trả lời họ bị chưa bị bắt không có nghĩa là họ sẽ không bị bắt.
Một nhà báo độc lập và không hoạt động cho một tổ chức nào vẫn có thể bị bắt bất cứ lúc nào tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo ông Chênh, kinh nghiệm cho ông thấy tại Việt Nam hiện nay, một nhà báo công dân không thuộc hay không tham gia vào bất cứ tổ chức nào sẽ không tạo cho nhà cầm quyền cái cớ thuận tiện để họ bắt giữ. Câu nói này của ông Chênh có thể hiểu theo nhiều cách nhìn khác nhau. Cá nhân, tôi cho rằng nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh muốn nói tới tính chất độc lập và dựa trên sự thật của người viết báo dù là báo in hay báo mạng trong những xã hội mà nền báo chí bị kiểm duyệt cũng có thể khiến cho nhà cầm quyền phải suy tính hơn, thiệt khi muốn dùng bạo lực chuyên chính để bịt miệng những người có những ý kiến khác với họ. Dĩ nhiên, ý kiến của ông Huỳnh Ngọc Chênh không hẳn là đúng 100%, nhưng ít ra nó cũng đã giúp tạo ra một lá chắn tạm thời “có thể” đỡ đần được phần nào những thành phần bị hoạn nạn khi bày tỏ suy nghĩ riêng tư của mình vốn rất khác biệt với cường quyền.
Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh không muốn nói huỵch toẹt ra mà chỉ muốn hàm ý đã làm báo và truyền thông ở Việt Nam thì không nên hiểu quá xa những giới hạn một nền báo chí và truyền thông còn đang bị thách thức bởi những lưỡi kéo kiểm duyệt, nhưng ít ra nó cũng cho thấy một giải pháp tạm thời để có thể tiếp tục tồn tại để làm những công việc mà mình muốn.
Nếu đi ngược lại thời gian của hai thập niên đầu tiên và vào giai đoạn mà Tổng Bí Thư đảng CSVN Nguyễn Văn Linh cổ võ “perestroika” mà ông ta gọi là “đổi mới tư duy” với những việc “cần làm ngay” để phá vỡ chế độ bao cấp, giới hạn đó lên tới cấp giám đốc và về phía đảng chỉ lên tới bí thư tỉnh ủy là cùng. Giở lại những số báo cũ của 15 năm trước đây của tờ Thanh Niên, Tuổi Trẻ và Người Lao Ðộng và mới đây tiềm ẩn trong những tài liệu được trích thuật lại trong tác phẩm “Bên Thắng Cuộc,” người đọc sẽ thấy rõ những giới hạn ấy. So sánh thời kỳ đó và hiện nay, người ta không thể phủ nhận rằng những vòng trói của đảng CSVN ở cổ tay những nhà báo nhà văn trong nước dù đã được nới lỏng nhiều, nhưng bất cứ lúc nào muốn họ siết lại cũng không có gì khó khăn.
Chỉ cần ông Hoàng Khương, một tay viết phóng sự khá hấp dẫn cho tờ Thanh Niên viết một bài tố cáo tham nhũng bằng cách hối lộ cho công an để có tài liệu dẫn chứng, ông bị khốn đốn ngay. Thực ra chuyện này sẽ chẳng thành vấn đề gì nếu nhà báo Hoàng Khương không dụng tới ngành công an là ngành đang đang bị tai tiếng tham nhũng không phương gột rửa. Mới đây nhất, nhà báo Nguyễn Ðắc Kiên mất việc ở tờ Sức Khỏe và Gia Ðình chỉ vì những bài viết chỉ trích lời tuyên bố của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng khi ông ta lên tiếng đe dọa những người ký kiến nghị đòi hủy bỏ điều 4 Hiến Pháp. Sau đó, ông Trọng thì không hề đề cập gì đến phản ứng của nhà báo Nguyễn Ðắc Kiên, nhưng ai cũng biết rằng bộ máy bên dưới ông ta đã khởi động ngay, và chưa cần họ ra tay, người tổng thư ký của tờ báo đã phải đuổi việc nhân viên của mình trước. Tuy mất việc, nhưng ông Nguyễn Ðắc Kiên nói ông thông cảm với người sếp của mình với một lời lẽ người ta có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Nhưng ai cũng thấy cái vạch vôi bất khả xâm phạm chung quanh những chiếc ghế lãnh đạo trong đảng Cộng sản dù chỉ được vạch ra bằng vôi, nhưng rõ ràng không ai xâm phạm vào mà không phải trả giá.
Nhưng có người lại nêu trường hợp ông Ðoàn Văn Vươn đòi đất ở Tiên Lãng như là một trường hợp tức nước vỡ bờ điển hình nhất và báo chí đã nhất loạt “đụng” tới vụ này. Thật ra nếu duyệt xét những diễn biến từ đầu đến cuối của nội vụ, người ta thấy ngay đây chỉ là một trò biểu diễn của Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng vào lúc ông mới được bầu nhiệm kỳ 2 nhằm tái tạo lại uy tín sau khi đã bị những kẻ “nội thù” trong đảng quăng quật về vụ bê bối ở Vinashin và vụ in tiền polymer. Và chỉ giới hạn ở vụ này mà thôi. Trong những vụ dân đòi đất khác tiếp theo, báo chí truyền thông trong nước lại trở về tình trạng “im lặng vô tuyến.”
Thật ra, chúng ta cũng cần phải nghiên cứu lại một danh sách khá dài những vụ xảy ra liên tiếp chung quanh các vụ tai tiếng cốt lõi của Việt Nam mới có thể đưa ra những kết luận chính xác hơn. Những trường hợp tôi vừa nêu ở trên để đưa ra những cảnh báo rằng không nên đánh giá thấp hay đánh giá cao khả năng kiểm soát dư luận của đảng và chính phủ Việt Nam Cộng sản, mà phải nhìn vào thực tế để tìm cho mình một con đường tồn tại nếu quả thực những nhà báo lề trái còn nuôi lý tưởng sẽ nhất định phải làm một điều gì đó cho giá trị dân chủ, tự do và nhân quyền cho Việt Nam.
Ảnh hưởng của truyền thông và báo chí nói chung chỉ thấm dần vào tâm trí quần chúng nếu nó được khéo léo duy trì. Muốn gia nhập vào dòng báo chí truyền thông lề trái ở Việt Nam mà chỉ sau bài báo đầu tiên mà nhà báo ấy đã bị đưa vào “cũi” thì người di chuyển bên lề trái sẽ thưa thớt dần đi, sẽ thiếu sức mạnh đoàn kết thì còn gì niềm tin nữa? Tôi không biết cuộc Cách Mạng Nhung ở Ba Lan thập niên 1980 có một hệ lụy nào về tầm quan trọng cho nhà lãnh đạo các phong trào cách mạng khởi đi từ trong lòng đất địch hay không, nhưng một số lãnh tụ chính trị của Công Ðoàn Ðoàn Kết Ba Lan còn sống mà tôi được hân hạnh nói chuyện ở thủ đô Warsaw và hải cảng Gdansk đều cho rằng điều làm họ sợ nhất là thủ lãnh Lech Walesa của họ bị bắt và bị Tướng Jaruzelski tống xuất ra nước ngoài.
Họ giải thích rằng thực tình vào lúc đó, những nhà hoạt động trong phong trào không kiếm đâu ra được một người trầm tĩnh, nhẫn nại, tài ba và có đầu óc thực tế để thay mặt Walesa tại nội địa Ba Lan vào lúc đó. Vẫn theo những nhân chứng này nếu không may mà tình hình này xảy ra, bao nhiêu công lao trường kỳ mai phục của dân chúng Ba Lan chờ đợi ngày N giờ G sẽ ra sông ra biển hết.
Từ những bài học trong chiến dịch “Trăm Hoa Ðua Nở” vào năm 1956 tại miền Bắc Việt Nam và 1975 tại miền Nam Việt Nam, “Mùa Xuân Tiệp Khắc” 1968 và cuộc Cách Mạng Nhung ở Ba Lan, tôi không tin rằng Hà Nội có nhu cầu sửa đổi Hiến Pháp 1992. Không lẽ một người như Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng hay Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng lại không biết sự nguy hiểm khi họ chấp nhận cho lấy ý kiến về việc sửa đổi Hiến Pháp? Từ lâu, không lẽ họ lại không biết rằng các điều khoản 79, 88, những đòi hỏi về đa nguyên đa đảng với một chính quyền tam quyền phân lập của một số những nhà bất đồng chính kiến và nhất là việc đòi bỏ Ðiều 4 Hiến Pháp đang là những mũi tấn công mạnh mẽ từ dư luận hải ngoại và những nhà trí thức và nhân sĩ trong nước?
Người Cộng sản đã biết và thừa biết rằng Ðiều 4 Hiến Pháp là cái xương sống cho đảng của họ không thể để nó bị chặt gãy được. Vì thế tôi cho rằng ý kiến sửa đổi Hiến Pháp do chính quyền Việt Nam nêu ra đã được dùng như một thứ vũ khí cho một chiến dịch “Trăm Hoa Ðua Nở” khác để biết rõ dư luận thầm lặng ủng hộ việc đốn ngã cái xương sống của đảng CSVN đến từ đâu, ở khu vực nào, ở tổ chức nào, nhất là lần này Hà Nội biết được thái độ rõ rệt của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam.
Những tháng sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, sau khi đưa các cựu sĩ quan và công chức VNCH vào trại cải tạo, Hà Nội tính đến chuyện bình định các nhóm chống đối còn lại. Những nhân viên tình báo và công an chìm của Cộng sản được lệnh phao tin đồn: trong những khu rừng rậm ở Miền Nam Việt Nam còn tàn quân VNCH. Lập tức vụ nhà thờ Vinh Sơn nổ ra, lực lượng vũ trang còn non yếu của Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vội vã hoạt động ra mặt, rồi mặt trận Phục Quốc nổi lên. Nhưng theo cách tường thuật lại của những anh em Phục Quốc bị bắt và bị giam chung với chúng tôi thì một phần đường dây tuyển mộ của lực lượng này thường bị công an gài. Họ cứ bắt được nhóm này thì lần ra nhóm kia. Và đến Tháng Tám 1975, Hà Nội kéo mẻ lưới cuối cùng. Do tai nghe, mắt thấy qua những nhân chứng của các phong trào nhằm phục quốc bị bắt và bị nhốt chung một trại cải tạo với chúng tôi, kể cả những người mang án tử hình và chung thân, tôi chiêm nghiệm ra một điều: tầng lớp thanh niên yêu nước ở miền Nam Việt Nam vào giai đoạn ấy nhiều lắm, họ rất mong được cầm súng chiến đấu, tinh thần dân chúng ủng hộ VNCH lên cao, nhưng do không có một chút kinh nghiệm nào về trường kỳ mai phục, về tổ chức, về nuôi dưỡng phong trào, lại nóng vội và cả tin vào những lời của bọn công an gài trong các đường dây tuyển mộ và tổ chức khi chúng phao tin nào là ông Thiệu bí mật về nằm ở Phan Rí, nào là ông Kỳ đang ở Rừng Sát, nào Tướng Trưởng bí mật về lập chiến khu ở U Minh Thượng vân vân và vân vân.
Nói cho ngay, vào giai đoạn đó, sau khi mất vùng đất thân thương là Miền Nam thì người Miền Nam mới thấy quí và tiếc vùng đất ấy, nhưng khốn thay mọi chuyện đều đã trở nên quá muộn.
Cho nên tôi tin rằng việc Hà Nội lấy ý kiến dân để sửa đổi Hiến Pháp chỉ là chiến dịch “Trăm Hoa Ðua Nở” mà thôi. Những người cả ở hải ngoại và trong nước nếu quả thật đang trông đợi Hà Nội thay đổi như Miến Ðiện thay đổi, chắc hẳn đã nghe lời đe dọa và khẳng định dứt khoát của Nguyễn Phú Trọng cũng như Nguyễn Sinh Hùng: không được bỏ Ðiều 4 Hiến Pháp.
Không bỏ Ðiều 4 Hiến Pháp thì không bỏ các điều khoản khác được. Chế độ cộng sản cũng không có sức và không dại gì bắt giữ những người ký vào Kiến Nghị Sửa Ðổi Hiến Pháp hay Hội Ðồng Giám Mục. Chiến thuật chuyên chính của người Cộng sản hiện nay coi bắt giữ chỉ là biện pháp cuối cùng, cái chính để ngăn ngừa hữu hiệu các biến động chính trị khỏi nổ ra là “cô lập” để ngăn chặn và răn đe.
Nếu đọc các blog ngày nay, người ta thấy nhiều tác giả viết ra những suy nghĩ rất “bạo” mà không bị bắt bởi có khi công an lờ đi vì đó vẫn chỉ là ý kiến của một cá nhân. Nhưng chỉ cần những blogger liên lạc với nhau để trở thành một phong trào là họ bắt ngay. Những trường hợp như các blogger Ðiếu Cày, Tạ Phong Tần, Anhba Saigon, những thanh niên trí thức như Lê Công Ðịnh, Trần Huỳnh Duy Thức, các thanh niên Công Giáo địa phận Vinh và Nguyễn Phương Uyên là những bằng chứng điển hình!
Cho nên, suy đi nghĩ lại có thể hiểu rằng những khuyến cáo của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh có một phần giá trị thực tế. Phải làm cách nào đó sống còn và tiếp tục viết trong giới hạn của sự kiểm soát lúc bị siết lại, lúc lỏng lẻo để còn có cơ hội chuyển tải ý tưởng dân chủ tự do đến khối dân chúng, giúp cho họ hiểu vai trò của họ trong cuộc tranh đấu vì dân chủ, tự do và quyền thiêng liêng của con người. Huỳnh Ngọc Chênh đã có những chuyện kiếm hiệp tưởng tượng rất vui, nhưng dựa trên người thật việc thật ngay trong xã hội Việt Nam thời đại này.
Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013
Vũ Ánh - Mậu dịch quốc doanh: Thuốc nổ phá hoại kinh tế
Vũ Ánh
Tờ Sài Gòn Giải Phóng ngày 24 tháng 3, 1978 tường thuật lời của ông Võ Văn Kiệt, bí thư thành ủy Sài Gòn, tuyên bố trước Hội Ðồng Nhân Dân thành phố, trong đó có đoạn ông nói: “Khác với tất cả xã hội có giai cấp trước đây, nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu trách nhiệm đầy đủ đối với đời sống của nhân dân, vì thế nhà nước phải nắm toàn bộ khâu lưu thông phân phối, đặc biệt là những nhu cầu thiết yếu đối với đời sống liên quan đến bữa ăn hàng ngày của nhân dân lao động.”
Nhưng chỉ mấy năm sau, theo tác giả “Bên Thắng Cuộc,” “những người như ông Kiệt nhận ra chính tham vọng tốt đẹp đó đã như những bức tường, những hàng rào giam hãm sự năng động của toàn xã hội.”
Thực ra, những bế tắc đã xuất hiện ngay trong những tháng đầu tiên sau chiến thắng 30 tháng 4, 1975 bởi vì cả miền Bắc cũng như lực lượng Việt Cộng trong Nam đều chưa sẵn sàng để tiếp nhận quản lý một vùng đất trước đó đã là một quốc gia chấp nhận nhiều luồng tư tưởng tân tiến về quản trị kinh tế từ thế giới bên ngoài. Những tài liệu mà tác giả “Bên Thắng Cuộc” đưa ra cho thấy rằng những lãnh đạo của lực lượng Việt Cộng trong Nam còn đang lưỡng lự không biết có nên có một thời kỳ chuyển tiếp trước khi tiến tới chế độ xã hội chủ nghĩa hay không, và chuyển tiếp thì chuyển tiếp như thế nào. Nhưng chỉ sau vài tháng nhìn thấy sự lúng túng của ngay cả Lê Duẩn, Hà Nội đã quyết định điều được gọi là “Bắc hóa,” nghĩa là “chặt” mọi ảnh hưởng của lực lượng Việt Cộng trong Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam cũng như kềm hãm giới trí thức, kỹ thuật gia và khoa học gia miền Nam Việt Nam còn ở lại trong nước.
Hà Nội đã khôn khéo che đậy kế hoạch nói trên bằng cách duy trì lại một vài khuôn mặt có ảnh hưởng trong đó có Võ Văn Kiệt vì họ biết rằng ông này có khả năng “hòa giải” với các chuyên viên cũ của VNCH đặc biệt là trong lãnh vực kinh tế và ngân hàng. Với sự kiểm soát của Mai Chí Thọ, tất nhiên Võ Văn Kiệt không được rộng cẳng để tiến hành các kế hoạch chuyển tiếp của ông ta mà tác giả “Bên Thắng Cuộc” gọi là kế hoạch “xé rào” trong việc giải quyết vấn đề kinh tế và tài chánh ở miền Nam Việt Nam với một cơ cấu và kiến trúc vốn đã tiến bộ hơn miền Bắc rất nhiều. Trong suốt gần 3 năm sau chiến thắng 30 tháng 4, 1975, cơ chế “tập trung quan liêu bao cấp” đã đẩy nhân dân miền Nam Việt Nam vào tình trạng thiếu thốn, đói kém. Những nhân chứng tại miền Nam Việt Nam lúc đó gọi đây là một trận chiến kịch liệt giữa những chuyên viên, những nhà trí thức kinh tế tài chánh ở miền Nam Việt Nam với chính những lệnh lạc giáo điều từ Hà Nội. Người ta có thể lên tiếng trách cứ một cách dễ dãi đối với những chuyên viên kinh tế, ngân hàng và kỹ thuật ở miền Nam Việt Nam trước 30 tháng 4, 1975 là đã cộng tác với chế độ mới, nhưng thực sự khi bị kẹt lại trong nước vào giai đoạn ấy, họ có những suy nghĩ rất phức tạp về chuyện đi hay ở, cho nên họ không thể làm khác hơn được và công việc mang tính chất cố vấn của họ với chế độ mới cũng chỉ được thực hiện cầm chừng và điều cần là làm sao tránh được những ổ “phục kích chính trị,” tránh được mối nguy hiểm cho an ninh cá nhân.
Tác giả “Bên Thắng Cuộc” cho rằng tình hình Việt Nam vào lúc đó rất chênh vênh. Bên trong thì bối rối và bực bội, đói kém. Bên ngoài thì giặc giã, không khí miền Nam Việt Nam càng trở nên ngột ngạt, nhất là thời điểm giữa năm 1978. Tác giả nhấn mạnh: “Cỗ xe Việt Nam như đang xuống dốc mà không ai nhìn thấy chân phanh ở đâu.” Khi Võ Văn Kiệt gặp các nhà trí thức thành phố để tìm cách thắng cỗ xe lại thì một trong những người này là giáo sư Nguyễn Trọng Văn đã gây rúng động:
“Chúng tôi sẵn sàng ở lại, nhưng nếu 3 năm nữa và tình hình không thay đổi thì tôi cho rằng người nên ra đi chính là các anh (Võ Văn Kiệt và chính quyền thành phố).”
Mai Chí Thọ bực tức đã ra lệnh bắt ông Văn. Nhưng ông Kiệt đã đỡ được đòn đầu tiên mà Hà Nội nhắm vào chính ông ta để khởi sự phần quan trọng nhất của chiến dịch Bắc hóa. Ðại khái là những chuyện như thế này xảy ra cũng là do sự thất bại trong chính sách quản lý vùng đất trù phú nhất của miền Nam Việt Nam, nhưng không ai trong đảng Cộng sản có đủ quyền lực và sáng suốt để thay đổi giáo điều, cho đến thời Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, người mà theo cách mô tả của Huy Ðức là người hiểu những vấn đề của Miền Nam nhất, nhưng ông ta cũng chỉ làm được nửa chừng vì áp lực của nhóm thủ cựu trong đảng có khuynh hướng thân Trung Quốc muốn giữ nguyên trạng “tiến lên chủ nghĩa xã hội” theo khuyến cáo của Bắc Kinh.
Cả Lê Duẩn lẫn Ðỗ Mười đều là những người ít học và vẫn còn mù mờ ngay cả về lý thuyết của Marx cho nên cuối cùng họ chỉ còn biết bám lấy chủ trương của ông Hồ và trở thành một người có những suy nghĩ bảo hoàng hơn vua để duy trì quyền lực của mình. Nguyễn Thành Thơ một phụ tá của ông Kiệt cho biết nhiệm vụ của Ðỗ Mười khi vào Saigon năm 1978 là “đánh thẳng vào sào huyệt của giai cấp tư sản” và “cải tạo công thương nghiệp (tư doanh) thành quốc doanh.” Nhưng theo ông Thơ thì chính Ðỗ Mười khi nói tới chính sách này cũng chỉ dám nói mông lung, không chứng cớ vững chắc, đại loại như cải tạo công thương nghiệp để “nắm chặt, tránh cạnh tranh, tránh khủng hoảng thừa thiếu, đảm bảo yêu cầu của nhân dân, tránh đầu cơ bóc lột.” Từ những lời lẽ của một con vẹt được “trên” mớm cho, Ðỗ Mười đã cho thiết lập chế độ “ mậu dịch quốc doanh” để làm nền móng cho một đường lối mà những đầu óc u tối ở Hà Nội buộc miền Nam Việt Nam phải thực hiện để bảo đảm tính “tự cung, tự cấp từ tỉnh và sản phẩm dư thừa sẽ được nhà nước thu mua, có kho chứa và vận chuyển đến nơi thiếu.”
Hôm nay là đã vào Tháng Ba, tháng bắt đầu cho một thắng lợi của người Cộng sản cách đây đúng 38 năm. Nếu cứ nhìn bằng còn mắt bình thường của người dân miền Nam Việt Nam đối với hiện tình kinh tế và đời sống vào thời điểm này thì quả thật không ai nghĩ rằng họ đã phải trải qua những cơn ác mộng dài với biết bao nhiêu thương tổn và mất mát chỉ vì những cái điên và tự mãn của người chiến thắng. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh của những “tay tổ” cộng sản lúc đó như Lê Duẩn và Ðỗ Mười đã để lại một vết thương vào chính ngay đảng của họ và ngày nay do nhu cầu làm ăn buôn bán với thế giới bên ngoài, Hà Nội lại phải cải tổ công thương nghiệp quốc doanh thành tư doanh, nhưng công việc này cũng vẫn còn những nút thắt hình bóng của lãng phí, tham ô, cửa quyền và nhất là tinh thần vô trách nhiệm, bừa bãi trong việc điều hành hệ thống quốc doanh. Nếu nhìn vào sâu hơn, người ta dễ dàng nhận thấy những vụ như Vinashin, Vinalines, EVN, Bầu Kiên, Ðặng Thị Hoàng Yến... cũng chỉ là những di sản của tì vết do lối suy nghĩ hoang tưởng trong việc thiết lập hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Theo tác giả “Bên Thắng Cuộc,” nếu thời điểm của hơn hai thập niên trước đây, “chế độ bao cấp lương thực theo định lượng thì chính sách cấm chợ ngăn sống đã trói buộc cả chính quyền lẫn người dân” cho nên dù sản xuất cách nào đi nữa thì người dân vẫn đói, thì vào thời điểm hiện nay, Hà Nội mới chỉ cởi trói cho công thương nghiệp tự doanh có một phần nhỏ trong khi vẫn củng cố quốc doanh chiến lược, nghĩa là vẫn củng cố những ngành mà vốn kinh doanh chủ yếu vẫn từ tiền thuế của dân nên dễ gây ra tinh thần vô trách nhiệm, cửa quyền và lãng phí.
Trong suốt hơn hai thập niên, người Hà Nội cũng đã phải chung sống với các mậu dịch quốc doanh, các cửa hàng gạo như là biểu tượng của Hà Nội thời bao cấp: người dân phải thức dậy từ nửa đêm xếp hàng mua gạo. Huy Ðức viết:
“Gạo mua về không có mùi mốc là lâng lâng sung sướng. Ước mơ của người Hà Nội 1970 là chiếc xe đạp Thống Nhất, chiếc quạt tai voi hay một đôi dép nhựa Tiền Phong. Tiêu chuẩn của các cô gái Hà Nội vào thời đó cũng thật là đơn giản: Một yêu anh có may ô (áo thun lót)/ Hai yêu anh có cá khô ăn dần/ Ba yêu rửa mặt bằng khăn/ Bốn yêu anh có chiếc quần đùi hoa. Một đôi dép nhựa Tiền Phong bán chợ đen thời ấy đủ mua một vé máy bay bao cấp từ Miền Nam ra Miền Bắc. Chỉ có người đạt danh hiệu thi đua mới có thể được phân phối xe đạp...”
Ấy vậy, mà sau khi chiến thắng miền Nam Việt Nam, Hà Nội đã mang khuôn mẫu mậu dịch quốc doanh áp dụng ở Miền Nam, nơi mà cơ cấu kinh doanh tự do đã chiếm lĩnh thị trường trước 30 tháng 4, 1975, mức sống đầy đủ hơn rất nhiều dù là thời chiến. Tuy nhiên, đây vẫn không phải là yếu tố tuyệt đối để có thể kết luận một cách giản dị về hơn thua, bởi vì nền kinh tế miền Nam Việt Nam lúc đó vẫn bị lệ thuộc vào ngoại viện, nhất là việc nhập cảng máy móc sản xuất. Nhưng cách so sánh này chỉ cốt tạo ra một biểu tượng cho sự thất thế của kinh tế xã hội chủ nghĩa là hệ thống quốc doanh, một loại thuốc nổ khá mạnh phá hoại nền kinh tế Việt Nam mà cho tới nay còn khó xóa hết được vết tích.
Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013
Vũ Ánh - Hồ Chí Minh và tập đoàn nhúng tay vào máu vì áp lực viện trợ của Trung Cộng và Liên Xô!
Vũ Ánh
Ðây không phải là một câu chuyện mới mẻ gì. Nó chỉ là câu chuyện cũ về điều mà nhiều người dân miền Bắc cho tới nay vẫn tin là “bác bôn ba hải ngoại để tìm đường cứu nước.”
Nhưng nếu họ được phép “thong thả” đọc cuốn biên niên thời sự “Bên Thắng Cuộc” của Huy Ðức thì họ sẽ thấy từ trang 255 cho đến trang 265, những người phụ tá thân cận của ông Hồ tiết lộ trong những cuộc phỏng vấn của tác giả hay trong những tài liệu mà không phải ai cũng tiếp cận được sẽ thấy nó chứa đựng nhiều điều khác hẳn với suy nghĩ của họ. Nội dung của những lời lẽ của những nhân chứng nói trên đã phơi bầy ra một thực tế mà từ trước đến nay không ai trong số những tác giả ở Việt Nam dám đề cập tới: đó là việc ông Hồ không tìm ra ra được con một con đường nào để cứu nước cả. Áp lực rất nặng nề về viện trợ của Bắc Kinh và Liên Xô khiến ông ta chỉ còn cách nhắm mắt bước vào một ngõ cụt là thực hiện những gì mà các “đàn anh, đàn thầy” mình áp đặt. Tác giả “Bên Thắng Cuộc” trích dẫn lời của Hoàng Tùng, chánh văn phòng Trung ương để chứng minh con hẻm đó như thế nào, xin trích:
“Cho dù Stalin và Mao tiếp tục thúc ép, tại Ðại Hội II diễn ra vào năm 1951, thay vì chủ trương cải cách ruộng đất, Tổng bí thư Trường Chinh (Ðặng Xuân Khu) đã đưa ra thuyết 'ba giai đoạn' theo đó trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất. Theo lời ông Hoàng Tùng: thuyết ba giai đoạn của Trường Chinh đưa ra tại Ðại Hội II là có ý kiến của ông Hồ, nhưng Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, khi họp Xứ ủy, tôi đã được nghe ông (Trường Chinh) nói rằng, những cải cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại thành cuộc cách mạng lớn. Nhưng sau Ðại Hội, theo ông Hoàng Tùng, Mao và Stalin đã gọi ông Hồ sang nhất định bắt phải làm (theo đường lối của họ). Mao Trạch Ðông nói thẳng: nếu các đồng chí (họ Hồ) không cải cách ruộng đất, chúng tôi sẽ không viện trợ nữa. Ðể có viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã phải chấp nhận cuộc đấu tranh giai cấp ở một nước Ðông phương, điều mà trước đó ông đã từng cho là không thích hợp.”
Những điều mà ông Hoàng Tùng nói ra từ trước đến nay vẫn được coi là “tuyệt mật.” Thời kỳ “đổi mới” của ông Nguyễn Văn Linh, một vài viên chức cấp trung và thấp có nói mé trên một vài tờ Tin Sáng cuối cùng trước khi tờ báo này bị đóng cửa về điều gọi là “sức ép của các đàn anh” sau khi một phần của những số báo này lọt được vào trong tù qua những lần các bạn tù của tôi được thăm nuôi. Người nhà họ khéo léo ngụy trang những bài báo nói trên trong những bao bì gói quà tiếp tế. Theo Huy Ðức, chính vì Stalin và Mao quá giáo điều cho nên ông Hồ phản ứng mạnh đối với kế hoạch cải cách ruộng đất theo kiểu của họ mà thôi, chứ thực tế thuyết “ba giai đoạn” của Trường Chinh đã thể hiện một cách rõ ràng bước đi của một nhà nước công nông đúng theo như các lãnh đạo đệ tam quốc tế chủ trương. Cũng vẫn theo tác giả, sau khi chính phủ Ðoàn kết Dân tộc tan vỡ và nhất là thời kỳ chính phủ Việt Minh rời bỏ Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, các chính sách mang mầu sắc giai cấp đã bắt đầu được hình thành.
Ðây chính là thời điểm bố tôi cùng nhiều người bạn của ông phải “dinh tê” có nghĩa là phải bỏ kháng chiến để trở về vùng “tề” hay còn có một từ ngữ khác là “về thành.” Huy Ðức trích dẫn một trong những sắc lệnh của Hồ Chí Minh đầu tiên về cải cách ruộng đất:
“Ngày 14 tháng 7, 1949, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh buộc các chủ điền phải giảm tô cho các tá điền từ 25 đến 35%, lấy ruộng đất của điền chủ người Pháp và người Việt bị ghép tội Việt gian để chia cho nông dân. Ngày 22 tháng 5, 1950, ông ta lại ký sắc lệnh khác xóa bỏ hợp đồng vay nợ giữa chủ điền và tá điền trước năm 1945, nếu là món nợ sau năm 1945 thì chỉ trả vốn mà không phải trả lãi. Ngày 20 tháng 4, 1953 ông Hồ lại ký sắc lệnh “Giảm tô” bằng cách giảm thêm giá thuê đất 25% để tổng số tổn phí của tá điền không quá 1/3 hoa lợi.”
Thế nhưng xương sống của những sắc lệnh của ông Hồ từ 1949 đến 1953 là bạo lực chính trị để bắt buộc người dân miền Bắc phải theo chính là chính sách đấu tố ruộng đất. Ðể thăm dò phản ứng và để thị uy, ông Hồ ra lệnh cho ông Trường Chinh thực hiện với 6 xã thí điểm ở huyện Ðại Từ thuộc tỉnh Thái Nguyên và sau đó chính thức thực hiện vào năm 1953. Về tổng quát, những điều mà tác giả “Bên Thắng Cuộc” đưa ra không phải là những điều mới mẻ, nhưng một vài chi tiết là những bằng chứng mới cho thấy ông Hồ và những phụ tá thân cận của ông biết rằng những áp lực của Bắc Kinh và Ðiện Kremlin ép họ phải thực hiện ngay chính sách cải cách ruộng đất bằng đấu tố sẽ gây ra những hậu quả tai hại, điều mà ông Hồ vẫn cho rằng “đó là điều không phải.” Tại Hội nghị Trung Ương 5 họp từ ngày 14 đến ngày 23 tháng 11, 1953, Hồ Chí Minh đã đọc một bài diễn văn, trong đó ông nhấn mạnh: “Vấn đề mấu chốt là cải cách ruộng đất” và “để đẩy mạnh kháng chiến (chống Pháp), chúng ta phải ra sức thực hiện cải cách ruộng đất.”
Lời lẽ của Hồ Chí Minh mặc nhiên là một lời xác nhận và là một lệnh cho những cấp dưới của ông phải tiến hành ngay việc đấu tố ruộng đất làm như đó là một quyết định của chính ông ta chứ không phải là quyết định từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Và để che giấu sự việc ông và tập đoàn lãnh đạo Việt Minh bị ngoại bang dùng viện trợ (để kháng chiến) để buộc mình phải làm, ông Hồ còn tự phê, xin trích:
“Chúng ta đã nặng về đoàn kết địa chủ để kháng chiến mà không xem trọng đầy đủ vấn đề nông dân và vấn đề ruộng đất. Nông dân ta chiếm 95% dân số mà chỉ có 3/10 ruộng đất, quanh năm khó nhọc và suốt đời nghèo nàn. Giai cấp địa chủ không đầy 5% nhân số mà chiếm hết 7/10 ruộng đất, ngồi mát ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng. Nước ta bị xâm lược, dân ta lạc hậu và bần cùng cũng vì đó.”
Ông Hồ nói tới mục đích của cải cách ruộng đất, đó là “tiêu diệt chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất, giải phóng nông dân, thực hiện người cày có ruộng, bồi dưỡng nông dân, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.” Phương châm mà ông ta đưa ra là: “Làm cho nông dân tự giác, tự nguyện đấu tranh giành lại quyền lợi của mình, dùng lực lượng nông dân để giải phóng nông dân,” với phương thức để thực hiện: “phóng tay phát động quần chúng nông dân và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh, phải dựa hẳn vào quần chúng nông dân, đi đúng đường lối quần chúng, tuyệt đối chớ dùng cách ép buộc, mệnh lệnh, bao biện.” Cái lối kể chuyện lại, trích dẫn nhưng câu chữ của họ Hồ, nghe qua có thể làm cho độc giả chán nản, bảo: “Ồ, câu chuyện này ai mà chẳng biết.” Nhưng với những người cần tìm ra những bằng chứng để thiết lập một cáo trạng đối với mặt trận Việt Minh trong việc lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam, lợi dụng kháng chiến để áp đặt lên đầu lên cổ dân chúng cái ách Cộng sản thì những câu chữ của ông ta là những thông tin cần thiết.
Thế giới cộng sản là thế giới còn có rất nhiều khoảng tối chưa được soi sáng. Những người ở ngoài thế giới u minh này chỉ hiểu được một phần rất nhỏ những khoảng tối ấy. Cho nên họ rất cần những người từng ở trong cái chăn của chế độ còn giữ được lương tri viết lên một phần sự thật về những con rận vẫn còn ẩn núp trong bóng tối. Từ 38 năm qua, trong cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại, nhất là trong những cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ, người ta hay có thói quen tự cô lập mình và tự tạo ra những điều cấm kỵ đối với quê hương cũ của mình. Cho nên, nhiều người vẫn mù mờ đối những vấn đề tại Việt Nam, ngay cả vấn đề lịch sử của cuộc chiến quốc cộng trước đây. Từ chỗ đặt ra những điều cấm kỵ, những nhà lãnh đạo và những chính trị gia cộng đồng tiến tới việc “phịa” ra những nguyên tắc đi ngược lại tự do tư tưởng: viết phải có lập trường, nghiên cứu cũng phải có lập trường chống Cộng, thậm chí họ tiến tới việc vi phạm vào nhân quyền khi đặt vấn đề tư cách chính trị của nhiều tác giả. Cầm tới một cuốn sách, không cần biết những dữ kiện trong phần nội dung có khả tín hay không mà chỉ cần hỏi: “Ông này là ai, từ đâu đến, VNCH hay Việt Cộng?” Ðó là lý do người ta hiểu tại sao trong gần 4 thập niên, các tác phẩm nào gây được tiếng vang trong cộng đồng người Việt là một con số nhỏ nhoi vì những tác giả “phe ta” chỉ viết cho phe ta đọc. Do chỉ viết cho “phe ta” đọc cho nên nhiều tác giả phải tránh những cái hố cấm kỵ và không tác giả nào lại dại dột phơi bầy ra những mảng tối chưa được soi sáng của phe mình !
Tôi nêu ra những yếu tố trên chỉ là có lý do để đưa ra một lời cảnh giác với tư cách của một người thích đọc sách mà thôi: đừng có quá đơn giản khi phủ nhận một tác phẩm nghiên cứu chỉ vì xuất xứ của tác giả. Hãy chú ý đến những thông tin và mức khả tín của chúng trong tác phẩm để giúp cho những nhận định riêng và độc lập của mình. Chẳng hạn như ở trang 262 trong “Bên Thắng Cuộc,” tác giả đưa ra một loạt những phương thức thực hiện trong chính sách đấu tố ruộng đất vốn là những điều mà tác giả từ phía người quốc gia đã nhắc tới nhiều, nhưng phần lớn đó là những kinh nghiệm cá nhân. Huy Ðức thuộc thế hệ của những thanh niên miền Bắc mới lớn sau chiến tranh Quốc Cộng đã có một cái nhìn tổng quát hơn về hậu quả của chính sách cải cách ruộng đất. Trong vụ này, người ta mới chỉ thấy ông Trường Chinh chính thức lên tiếng nhận sai lầm trong các hoạt động cải cách ruộng đất khiến chúng biến thành các cuộc hành hình mang tính giai cấp để chữa cháy cho ông Hồ. Cho tới nay, con số thực của những người chết vì đấu tố vẫn chưa được cấp cao nhất trong đảng Cộng sản chính thức xác nhận. Tuy nhiên, dường như tác giả “Bên Thắng Cuộc” đã có thể rút ra những con số thiệt hại từ Nội San Cải Cách Ruộng Ðất ngày 25 tháng 2, 1956, một nội san phổ biến hạn chế trong số những viên chức, cán bộ Ủy Ban Cải Cách Ruộng Ðất để đưa ra thông tin, xin trích:
“Số người bị qui oan lên tới 123,266 chủ yếu vì các biện pháp truy bức để 'đôn' tỷ lệ địa chủ lên 5% dân số như một định mức bắt buộc, dùng nhục hình như đánh, trói, giam cầm khi chưa có tòa án xét xử, kích động và hù dọa quần chúng để họ tố oan cho nạn nhân. Ở trên thì ‘phóng tay phát động’, ở dưới những ‘đoàn’, những ‘đội’ cải cách tha hồ lộng quyền, ‘nhất đội, nhì giời’. Một quốc gia nghèo như Việt Nam mà các đội đã đưa được 'định mức địa chủ' lên tới 5.68% dân số các địa phương tham gia.”
Tác giả không đưa ra ý kiến của mình về tỷ lệ 5.68% địa chủ trong một quốc gia nông nghiệp nghèo đói như Việt Nam vào thập niên 40, 50. Nhưng độc giả chắc chắn sẽ có những so sánh và người ta sẽ lạnh xương sống khi nghĩ đến việc giết người có định mức mà tập đoàn Hồ Chí Minh chủ trương và thực hiện. Cá nhân, những thông tin này giúp tôi hiểu lý do tại sao làng tôi chỉ là một làng rất nghèo cách thành phố Hải Phòng không xa lắm, bà nội tôi chỉ có 10 mẫu ruộng mà cũng bị đấu tố chết trong đợt phóng tay phát động cuối cùng mà Huy Ðức đề cập tới trong “Bên Thắng Cuộc.” Nhưng ngày nay chuyện bà nội tôi chết oan không còn là vấn đề cá nhân gia đình tôi nữa mà là vấn đề của lịch sử đất nước. Lịch sử cần có thêm những người viết lại, viết thêm về thảm kịch này, không phải là để chửi rủa thù oán, mà là để cho những thế hệ mai sau và trước mắt thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại có thể rút ra được những bài học.
Hồ Chí Minh qua đời năm 1969. Những thuộc hạ của ông ta đã xây một lăng tẩm rất lớn tại quảng trường Ba Ðình. Thời kỳ Việt Nam còn đóng cửa với thế giới bên ngoài, những khách ngoại quốc hay trong nước thăm Hà Nội thường được yêu cầu vào viếng xác ướp của “Bác.” Khách được chụp hình đăng trên báo Nhân Dân để làm bằng chứng về nghi thức ngoại giao. Nhưng từ năm 2000 đến nay, cảnh này không còn diễn ra nữa, một phần cũng vì Hà Nội hiểu rằng hợp đồng kinh tế và những dự án viện trợ, vay nợ, việc chia chác quyền lực, đàn áp những nhà bất đồng chính kiến, cấu véo công quĩ làm của riêng ngày nay quan trọng hơn việc dẫn khách viếng thăm xác ướp của họ Hồ. Ngay cả đối với dân chúng miền Bắc, ngày nay ông Hồ cũng không còn là hình ảnh thiêng liêng như trước đây dù lệnh bất khả xâm phạm đối với cái tên của ông ta vẫn còn trên cửa miệng những người cầm quyền. Một phụ tá rất quan trọng của ông Hồ là ông Hoàng Tùng cũng tiết lộ những chi tiết về người “boss” của mình đã giúp cho những người thích lên án có thể cáo buộc ông Hồ tội nhúng tay vào máu của ngay cả những người ân của mình. Ở các trang 263 và 264, Huy Ðức đã chọc vào đúng “ổ kiến lửa” ở Hà Nội, xin trích:
“Theo ông Hoàng Tùng, về sau chính Hồ Chí Minh đã phải than: ‘Mình nói để mình đánh Pháp xong đã rồi sẽ cải cách ruộng đất theo cách của Việt Nam, nhưng mà (họ) cứ ép cho bằng được. Biết bao trí thức địa chủ đã theo Việt Minh, đóng góp tiền bạc từ những ngày khó khăn, giờ đây bị ‘hai ông anh lớn’ (Nga và Trung Cộng) phải chấn chỉnh lại, không địa chủ, người có gốc ‘Tây’ đứng trong tổ chức. Giữa thập niên 50, 'địa chủ không kháng chiến' thì đã 'dinh tê'. Cải cách đấu tố, theo ông Hoàng Tùng ‘coi như đánh vào lực lượng mình.’ Ông Hoàng Tùng còn kể lể thêm: 'Khi ấy tôi thường họp Bộ Chính Trị nên cũng biết một số việc, trong đó có việc thí điểm cải cách (ruộng đất) chọn bắn bà Nguyễn Thị Năm. Bà Năm nổi tiếng ở Hà Nội với tên gọi là Cát Hanh Long. Bà có con trai là cán bộ Việt Minh, một người là cán bộ cấp bậc trung đoàn trưởng làm việc ở Cục Chính Trị của Văn Tiến Dũng. Từ năm 1945 đến 1953, bà Năm tham gia công tác ở Hội Phụ Nữ. Trong 'tuần lễ vàng', gia đình bà hiến 100 lượng vàng. Vẫn theo ông Hoàng Tùng ‘các anh Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Ðức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà và được bà Năm coi như con. Họp Bộ Chính Trị ‘Bác’ nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải xử, nhưng tôi cho là không phải đạo khi phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà và người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng.’ Nhưng sau đó cố vấn Trung Quốc Lã Quí Ba đề nghị mãi, ông Hồ nói: ‘Thôi tôi theo đa số chứ tôi vẫn cho là không phải.’ Ông Hoàng Tùng nói: ‘Hồ Chí Minh bị nó (Trung Cộng) coi là hữu khuynh. Khi ấy mà kháng cự thì nó cắt viện trợ.’ Ðể có viện trợ, theo ông Hoàng Tùng ‘Mỗi ngày đội cải cách thường phải tìm cho ra một người đến bắn thị uy, nói là để cho nông dân phấn khởi. Tôi đi xem bắn một vụ, tôi thương quá, anh ấy chỉ có 7.5 mẫu ruộng.' Chính Hồ Chí Minh và các ủy viên Bộ Chính Trị đều biết các đội đã dùng nhục hình để qui sai địa chủ, nhưng việc chấn chỉnh chỉ dừng lại ở những lời răn dạy.”
Vào tháng 10 năm 1956, Bộ Chính Trị thừa nhận:
“Do tư tưởng chỉ đạo tả khuynh, tác phong đại khái, quan liêu, độc đoán trấn áp, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng, đánh tràn lan, đánh vào địch, đánh cả vào hàng ngũ của ta, qui bức nhục hình phổ biến. Coi tổ chức của đảng, coi tổ chức cũ của chính quyền và của quần chúng là do địch lũng đoạn nên đã khủng bố tàn khốc những người nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào đảng viên và cán bộ cốt cán của đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng. Hàng vạn đảng viên tốt bị thanh trừng, hàng nghìn bị bắt, một số đảng viên có nhiều công lao bị xử oan, phải chịu những nhục hình rất tàn khốc dã man, dùng quần chúng để vạch tội đảng viên cũ... sai lầm nghiêm trọng và vô nguyên tắc vi phạm những quyền tự do cá nhân của công dân. Trong số 8,829 đảng viên bị xử trí ở Tả Ngạn thì 7,000 thuộc thành phần nông dân lao động và các thành phần lao động khác.”
Cải cách ruộng đất là một đống bùn trộn lẫn với máu của nhiều nông dân hiền lành, những người đã đóng góp xương máu để bảo vệ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ấy vậy mà chỉ vì Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa đòi hỏi mà từ Hồ Chí Minh cho đến những tay chân thân cận nhất của ông đành lòng nhắm mắt ra lệnh tắm máu họ bằng một cuộc tàn sát dã man nhất trong lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp mà đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương. Huy Ðức cho công bố những điểm gây ngạc nhiên được ông Hoàng Tùng tiết lộ trong cuộc phỏng vấn dài dành cho tác giả, xin trích (trang 264):
“Ông Hoàng Tùng, ngay từ đầu cuộc nói chuyện đã gọi các ‘đồng chí Trung Quốc’ là NÓ, (nói) tiếp: ‘Không chỉ có địa chủ bị bắn, nhà thờ, nhà chùa đều bị nó phá sạch. Ðền thờ An Dương Vương thì nó dùng làm nơi để phân bón. Ông Trường Chinh thì mặc cảm vì nhà cũng có 7 mẫu ruộng, do ông chủ yếu làm nghề viết báo nên cho người ta cấy rẽ lấy tô, rất dễ bị 'quy' (cáo buộc, gán tội). Ông Hoàng Quốc Việt thì không sâu sắc, ông Hồ Viết Thắng thì hăng hái quá. Bố ông Trần Quốc Hương, một ông thầu khoán, dành dụm mua được 20 mẫu ruộng, cũng bị đội (cải cách) đem ra đấu. Khi ông Hương nghe được tin chạy về tới nơi thì bố ông đã chết. Ông Hương than: Thôi, ruộng đất thì không tiếc gì, nhưng không thể chịu được cảnh con đấu cha, vợ đấu chồng. Cách mạng thì cũng phải có đạo đức chứ ! Bố ông Nguyễn Khắc Viện là Nguyễn Khắc Niêm từng đỗ Ðệ Nhị Giáp Tiến Sĩ. Tây đưa lên hàng thượng thư (bộ trưởng). Thời kháng chiến, Hồ Chí Minh cũng có gởi thư vận động ông Niêm. Khi có cải cách ruộng đất, bị ‘đội’ bắt, ông Nguyễn Khắc Niêm đã tự tử chết. Mình (đảng Cộng sản) không hiểu thâm ý Trung Quốc là muốn sửa ta. Ðầu tiên là họ sửa quân đội nên lập ra chức chính ủy. Chính ủy là người (ảnh hưởng) bao trùm lên Tư lệnh, ý họ muốn nhắm vào ông Võ Nguyên Giáp, một vị tướng xuất thân từ giới trí thức và mới chỉ tham gia đảng Cộng sản năm 1940. Trung Quốc cho rằng ông Giáp xuất thân không phải công nông mà nắm quân đội là không ổn. Có người, mà tôi (Hoàng Tùng) ngờ là Lý Ban, người phó của Văn Tiến Dũng đưa cho cố vấn Trung Quốc một danh sách những cán bộ xuất thân không phải công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ông Giáp đưa danh sách đó cho ông Hồ. Bác (lời ông Tùng) bảo đốt ngay, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ.”
Tóm lại, trong chính sách đấu tố ruộng đất, có tới gần 72% phú nông bị “quy” sai là địa chủ. Cho nên, theo ông Hoàng Tùng, “Pháp Mỹ chỉ chịu một phần. Chính cải cách ruộng đất, và việc đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản là nguyên nhân chính khiến hơn một triệu người miền Bắc đã phải di cư vào Nam.” Nhưng hậu quả quan trọng trong chính sách nhuốm máu nông dân nói trên không phải là chuyện di cư hay không di cư mà quan trọng chính là: trong phong trào được gọi là cải cách ruộng đất mà sao có quá nhiều máu đổ và người chết như vậy? Hồ Chí Minh là người như thế nào khi ông ta biết rằng việc bắn bà Cát Hanh Long, một ân nhân của cách mạng là sai mà ông ta không vẫn cứ cúi đầu trước cố vấn Trung Cộng và tập đoàn đồ tể dưới quyền ông?
Hiển nhiên, “Bên Thắng Cuộc” mới chỉ đưa ra một phần, tuy là khá quan trọng liên quan đến chiến dịch tắm máu nông dân miền Bắc, nhưng vẫn còn cần phải mở lại những trang kế tiếp về phía những hậu duệ của những nạn nhân trong cuộc đấu tố ruộng đất từ 1950 cho đến hết năm 1956. Khi các cuộc nghiên cứu này có đầy đủ tiếng nói ôn tồn mang tính cương quyết của sử học, bản cáo trạng đối với ông Hồ và tập đoàn của ông mới được kể như tạm hoàn tất. Tôi tin rằng, một bản cáo trạng có nghiên cứu, không mang lời lẽ cuồng nộ, lên án nặng nề, nhưng vô tư và công bằng sẽ hữu hiệu trong việc đánh đổ “thần tượng Hồ Chí Minh” nơi những người Việt Nam còn tin vào ông ta hơn là chỉ đả đảo, đạp mặt và giẫm lên cờ đỏ sao vàng một cách an toàn và dễ dãi ở Hoa Kỳ.
Tuy muộn nhưng đã đến lúc người quốc gia chống Cộng hiện nay ở hải ngoại nên thay đổi sách lược đấu tranh và cần các cuộc nghiên cứu mang tính khoa học và sử học về cả bên thắng cuộc và bên thua cuộc thay vì chỉ trang bị cho mình biểu ngữ, loa điện, vỗ ngực xưng tên và la hét những khẩu hiệu trên đường phố đã bắt đầu bị dư luận hoài nghi.
Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013
Vũ Ánh - Vài suy nghĩ về “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức
Vũ Ánh
Vài dòng về tác giả: Tên thật là Vũ Ánh, sinh năm 1941, còn có bút hiệu khác là Vũ Huy
Thục. Trước năm 1975, từ 1964 phục vụ tại Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia đến
sáng ngày 30-4-1975, với các chức vụ: phóng viên mặt trận 7 năm, rồi trưởng
phòng Bình Luận, Chánh Sự Vụ Sở Thời sự Quốc tế và Quốc nội cho đến 10 giờ sáng
30-4-1975. Ngoài ra, tác giả còn cộng tác với các nhật báo Dân Ý, Báo Đen và
Sóng Thần vào những năm chiến tranh.
Sau
30-4-1975, đi tù cải tạo dưới chế độ Cộng sản 13 năm, trong thời gian này bị
nằm “chuồng cọp” mất 5 năm liên tiếp vì chống lại chế độ lao tù và ấn hành tờ
Hợp Đoàn (báo chui trong trại giam). Được thả về gia đình với 5 năm quản chế,
mưu sinh bằng lao động chân tay cho đến khi được định cư ở Mỹ theo diện HO năm
1992.
Sang
Mỹ, tác giả trở lại nghề báo và truyền thông: Nhật báo Viễn Đông Kinh Tế Thời
Báo (TTK), Nhật Báo Người Việt (TTK và Chủ Bút), cộng tác với nhật báo Việt
Herald. Đồng sáng lập đài Văn Nghệ Truyền Thanh (VNTT), Việt Nam California
Radio (VNCR) và làm việc ở đó 10 năm, cộng tác với Đài Truyền Hình SBTN, hiện
cộng tác với Tuần báo Sống, trong vai trò Cố vấn Biên tập.
*
“Lịch sử cận đại của cuộc
chiến tranh Nam-Bắc Mỹ, Tổng Thống Abraham Lincoln khi chiến thắng Nam quân sau
trận Gettysburg đã ra lệnh cho tướng Grant phải đứng ra để chào kính viên tướng
Nam quân lên ngựa sau khi họ đã ký vào văn bản đầu hàng của Nam quân. Nhưng để
hàn gắn, Tổng Thống Abraham Lincoln không phải ra lời xin lỗi Nam quân vì thực
sự chiến thắng của Bắc Quân không phải là lỗi của ông. Nhưng hành động cấm tất
cả binh lính dưới quyền Tổng Tư Lệnh Abraham Lincoln không được truy bức những
cựu thù là một cách hàn gắn rất thông minh và văn minh khi bên chiến thắng chìa
bàn tay ra trước” – Vũ Ánh.
Gặp Huy Đức nhân một
bữa tiệc tại nhà một người bạn. Chúng tôi có trao đổi một vài câu chuyện. Đây
là lần đầu tiên tôi gặp anh dù rằng trước đó tôi thường đọc những bài của anh
trên blog Osin, có nội dung chỉ trích chế độ rất khéo léo và suy nghĩ sâu sắc.
Huy Đức sang Mỹ theo một chương trình nghiên cứu của Đại học Harvard, một đại
học hiện có khá nhiều sinh viên từ Việt Nam qua theo học. Câu chuyện trao đổi liên
quan đến nội dung một tác phẩm, đó là “Bên Thắng Cuộc”. Tôi có nói với
Huy Đức là đề tài mà anh đề cập tới rất tế nhị và anh sẽ phải đi dưới hai lằn
đạn. Bởi vì viết những gì dù dựa trên sự thật mà bên thắng cuộc không thích,
anh cũng sẽ “lãnh đủ” và viết ra những gì mà chỉ một số người bên thua
cuộc không thích, anh cũng sẽ bị biểu tình và họ sẽ lôi gốc gác của anh ra mà
xỉ vả. Lý do rất dễ hiểu: Kể cả bên thắng cuộc và bên thua cuộc đều vẫn còn
nhiều người chỉ thích “uống nước đường” chứ không thích người nào nói sự
thực hay chứng minh đó là sự thực.
Ít
lâu sau tôi nhận được tập bản thảo “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức và tập
bản thảo dù dầy đến 680 trang, tôi vẫn đọc một cách cẩn thận và có ghi chú. Tôi
kết thúc trang cuối cùng vào đúng lúc Đài BBC đưa ra bản tin phản ứng của độc
giả đối với “Bên Thắng Cuộc”, ủng hộ cũng như chỉ trích, phần lớn đều
rất lịch sự. Tôi nghĩ chỉ cần phản ứng lịch sự là được rồi, dù phản ứng bao gồm
cả những lời chỉ trích, bởi vì chỉ trích lịch sự, ôn tồn ở cái đất này giống như
lá mùa thu.
Cảm
tưởng của tôi đối với “Bên Thắng Cuộc”của Huy Đức: Lần đầu tiên tôi được
đọc tác phẩm của một nhà báo trẻ trong nước viết với giọng văn bình thản, cố
tránh những tĩnh từ vô ích, trích dẫn có cân bằng và đối chiếu thận trọng. Mặc
dù nội dung tác phẩm còn nhiều khiếm khuyết khi Huy Đức viết về phần bên thua
cuộc, nhưng ở vào thế hệ của anh không thể tránh những lỗi này được và điều này
theo tôi cũng không có gì là “big deal” vì anh vẫn còn đầy đủ cơ hội
hiệu đính lần xuất bản sau. Nhưng tại sao lại là “Bên Thắng Cuộc” mà
không là “Bên Thắng Trận”? Nguyễn Giang, trưởng ban Việt ngữ của Đài BBC
cũng đã có những thắc mắc này và tự lý giải nó bằng một tự nhủ:
“Khi
đọc bản thảo ‘Bên Thắng Cuộc’ (cả hai tập), tôi băn khoăn không hiểu vì sao Huy
Đức không đặt tựa cho sách là ‘Bên Thắng Trận’ với tất cả sự oai hùng, hào khí
cách mạng như truyền thông chính thống vẫn nêu. Có phải trận chiến quân sự và ý
thức hệ dù lớn lao đến đâu cũng chỉ là một cuộc cờ vì trận chiến vì tâm hồn và
tương lại Việt Nam vẫn chưa chấm dứt?”.
Tôi
cũng có những thắc mắc giống như ông Nguyễn Giang, nhưng tôi tự lý giải theo
cách nhìn khác. Trong một trận banh, tỷ số các bàn thắng bại được ghi ngay trên
bản và được dứt khoát quyết định, bên bị loại không thể thể giải thích “tại”,
“bị” hay “do… mà tôi thua”.Nhưng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc
chiến rất phức tạp. Những người Cộng sản Miền Bắc tấn công Miền Nam Việt Nam
trước và dưới cái nhãn “giải phóng và thống nhất đất nước”. Miền Nam
Việt Nam chống trả dưới cái nhãn khác, đó là “tiền đồn của thế giới tự do”. Cả
hai bên lao vào một cuộc huyết nhục tương tàn với súng đạn hai bên chẳng do
người Việt Nam sản xuất. Chúng đến từ Nga, Tầu và Mỹ. Hai bên cứ thế mà lao đầu
vào chém giết nhau, trong khi ở các bàn hội nghị quốc tế, những siêu cường
thương lượng về ảnh hưởng của họ trên núi xương sông máu của nhân dân cả hai
miền Nam Bắc. Đó là lý do tại sao những người thức tỉnh nhận ra “cuộc cờ”
khốn nạn ấy mà những người nắm quyền lưc hiện nay ở Việt Nam không nhận ra? Huy
Đức đã ghi ở trang đầu của cuốn sách một nhận định ngắn ngủi của Nguyễn Duy
nhưng đầy ý nghĩa “Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh, bên nào thắng
thì nhân dân cũng bại”. Tôi cho rằng những suy tưởng này chính là lý do
khiến Huy Đức không dùng tựa đề bên thắng trận mà dùng tựa đề “Bên Thắng
Cuộc”.Chỉ cần dùng tựa đề này, Huy Đức cũng đã can đảm rồi. Cậu bé chăn
trâu ở một làng quê nghèo ở Hà Tĩnh ngày nào nay đã thành danh trong nghề
nghiệp báo chí với cái tên blogger Osin đang cố gắng giữ sự tỉnh táo bằng cách
học hỏi và nghiên cứu tại một trường đại học nổi danh ở Mỹ là trường Harvard.
Cuộc nghiên cứu chỉ kéo dài có một năm thôi, nhưng tôi tin rằng ở ngôi trường
vốn là mẫu mực cho nền tự trị đại học và suy nghĩ tự do ấy đủ để cho những
người bảo thủ phải thay đổi suy nghĩ của mình hay ít ra là cũng làm mới lại suy
nghĩ mà họ đã có từ trước.
Tôi
muốn nhắc lại ở đây một điều đã quá cũ, nhưng vẫn cứ phải khẳng định đây là
loại tác phẩm chính văn căn cứ vào những dữ kiện như cuốn “Bên Thắng Cuộc”
một kiểu viết đòi hỏi phải có một phương pháp làm việc mang nhiều tính chất sử
học chẳng hạn như việc lựa chọn dữ kiện, phỏng vấn những nhân chứng còn sống,
sưu tầm những tài liệu của những nhân chứng đã chết, phân tích (chứ không phải
bình luận) những tài liệu, văn kiện sưu tầm được, đi và nói chuyện với những
nhân vật lịch sử có liên hệ hiện còn sống. Xét đến những điều kiện để thực hiện
tác phẩm rõ ràng Huy Đức đã đáp ứng đầy đủ như anh đã trình bày trong Lời Nói
Đầu và nội dung các chương của tác phẩm. Làm được đầy đủ công việc này, phải
mất 10 năm là điều mà tôi tin rằng Huy Đức nói không ngoa.
Đọc
một tác phẩm dầy như “Bên Thắng Cuộc”với biết bao nhiêu dữ kiện lịch sử,
nhiều cuộc phỏng vấn, nói chuyện với những nhân vật, những nhân chứng lịch sử
của cả hai bên, nhất là phần chú thích (nhất thiết phải đọc cả phần chú thích
này, bởi vì nó cung cấp cho những luận đoán của người đọc nhiều chi tiết thú
vị), người đọc phải mất rất nhiều thời giờ, ngoại trừ, những người vì nghề
nghiệp cần phải đọc hết những trang sách trong thời gian ngắn nhất. Ví thử như
Huy Đức viết “Bên Thắng Cuộc” chỉ để thỏa mãn nhu cầu chính trị ca ngợi
chế độ thì không cần phải 3 năm để đọc tài liệu và 10 năm mới hoàn thành. Cho
nên, việc tác giả dùng thời gian hơn một thập niên để viết “Bên Thắng Cuộc” là
có lý do của nó. Huy Đức cần phải căn cứ vào cách làm của những nhà văn viết ký
sự dựa theo dữ kiện lịch sử để bảo đảm tính “không dễ dãi với cách nhìn
những gì đã từng xảy ra trên đất nước Việt Nam”. Đọc “Bên Thắng Cuộc”từ
trang đầu đến trang cuối, người đọc có thể thấy nỗ lực của Huy Đức cố gắng
không để cho tác phẩm của mình trở thành những ly nước đường cho cả bên thắng
cuộc lẫn bên thua cuộc, dù những cố gắng của anh chỉ có giới hạn. Hãy đọc Huy
Đức viết trên trang Facebook lập ra cho cuốn sách:
“Tôi
mong các nhà lãnh đạo hiện nay đọc Bên Thắng Cuộc cho dù họ đánh giá cuốn sách
như thế nào. Nhận ra những sai lầm để ‘đưa dân tộc Việt Nam đi đúng con đường
dân chủ, phát triển’ là mong ước của chúng ta. Nhưng tương lai dân tộc không
thể chỉ trông cậy vào một cuốn sách hay chỉ trông cậy vào những nhà lãnh đạo ở
bên thắng cuộc.”
Ý
kiến mà tôi vừa trích dẫn chỉ là một phần nhỏ trong phần trả lời của tác giả
đối với những phản ứng hay ý kiến của độc giả mà tác giả đặt tên là “Không
thể cứ trú ngụ trong sự sợ hãi”. Đài BBC ghi lại một câu hỏi khá quan
trọng, đó là “liệu ông có sợ những điều không hay xảy ra với ông vì vi phạm
các qui định của Đảng và Nhà Nước”, Huy Đức đã thẳng thừng:
“Tôi
không nghĩ là mình nằm trong phạm vi điều chỉnh các qui định đó. Tôi ý thức được
những việc gì mình đang làm. Sự thật không chỉ giúp chúng ta tìm ra những
phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn giúp những người đang
nắm vận mệnh quốc gia không vi phạm những sai lầm mới. Không ai muốn hứng chịu
những điều không hay nhưng nếu cứ trú ngụ trong sự sợ hãi thì sự thật sẽ không
bao giờ được nói ra, bạn ạ!”
Huy
Đức có thể trình bày suy nghĩ của mình về đứa con tinh thần được kể là quan
trọng của anh khi chính quyền mà anh đang sống với chưa có dấu hiệu gì muốn
nhìn nhận những sự thật mà anh trình bày trong “Bên Thắng Cuộc” là vì
những lý do như anh đã viết trên Facebook. Những đoạn trong tác phẩm mà tôi cho
rằng quan trọng và người Việt ở hải ngoại nên đọc chính là những đoạn mà tác
giả tổng hợp được cách nhìn về mọi phía và về các bên lâm chiến từ giai đoạn
lực lượng Cộng Sản tiến vào Saigon và thời kỳ quân quản, hiệp thương thống nhất
hai miền Nam Bắc.
Nhưng
sau ngày 30-4-1975, thảm kịch diễn ra từ việc trả thù những sĩ quan công chức,
cảnh sát VNCH cho tới việc đánh tư sản, tiêu diệt văn hóa văn nghệ tự do, qui
kết loại trừ tư bản Tầu Chợ Lớn, cưỡng bức người dân thành phố đi kinh tế mới,
cuộc chiến với Khmer Đỏ cùng với những nỗ lực được mệnh danh là “duy ý chí”nhằm
áp đặt các mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp trên cả nước với chế độ
khẩu phần khắt khe đưa đến thảm họa nhân đạo và sự suy sụp kinh tế.
Nguyễn
Giang, trưởng ban Việt ngữ đài BBC nhận định về văn phong của Huy Đức trong các
chương nói trên: “Ở các chương này, ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng
văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ
nghẹn đi vì những biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiến cận
cảnh, nhất là tâm thức một người đi bộ đội và từ Bắc vào Nam”.
Ngay
từ những dòng đầu tiên, niềm đau ấy, tâm thức ấy được phản ảnh như dưới đây về
một sự thực ở Miền Nam Việt Nam. Sự thực ấy khác những điều mà Huy Đức được dạy
dỗ từ thuở thiếu thời:
“Nhưng
hình ảnh Miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói
của mình. Trên Quốc lộ 1, bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long
thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai,
quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi rất nhanh đu ra ngoài cánh cửa gần như trong
một giây trước khi xe rú ga, vọt đi ngạo nghễ. Hàng chục năm sau tôi vẫn nhớ
hai chữ 'chạy suốt' bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho đến lúc ấy thứ
tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết
trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ. Những
gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật đơn giản: mấy chiếc
xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người
làng tập kết (ra Bắc) vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa biết nhắm mắt khi
nằm ngửa và có thể khóc oe oe, buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may
mắn. Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh… được những bộ đội giấu dưới đáy
ba lô đã giúp cho bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn là
“Rừng thẳm tuyết dày”, “Thép đã tôi thế đấy”, những chiếc máy Akai, radio
cassettes được những người hàng xóm tập kết mang ra giúp chúng tôi nhận ra
người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ nhớ em, chứ không chỉ là ‘Đêm Trường
Sơn nhớ Bác’. Có một miền Nam không giống như Miền Nam trong sách giáo khoa của
chúng tôi.”
Qua
đoạn văn này trong Lời Nói Đầu, người ta thấy tác giả tự tay chém vào thân
người mình những vết thương sâu hoắm để tự cảm thấy một nỗi đau, nỗi đau không
thảng thốt, nhưng nó sẽ cắn xé, gậm nhấm từ từ một con người còn tỉnh táo để
nhận biết sự thật, để nhận biết là trong bao nhiêu lâu của tuổi xuân mình chỉ
được biết những gì không phải sự thật. Theo tôi, nỗi đau của Huy Đức cũng như
hàng triệu người có cùng một cảm xúc như anh không khác gì nỗi đau đớn của hàng
triệu người ở Miền Nam Việt Nam đã để mất cái phần đất mà chỉ sau 30-4-1975 họ
mới có thể hoàn toàn thấu hiểu rằng so với Miền Bắc, nó thật là quí giá, đúng
như lời cựu Tướng độc nhãn của Do Thái Moshe Dayan đã nhận định khi ông đến
Saigon để viết một phúc trình cho tờ Israel Times rằng người Miền Nam Việt Nam
phải biết thua Cộng sản thì mới có thể chiến thắng được họ. Theo tôi nỗi đau ấy
không thể được làm thuyên giảm chỉ với những tập tài liệu “Hồ Sơ Mật Dinh
Độc Lập” hoặc “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” hay “Tâm Tư của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu”,hoặc những cuốn hồi ký trong đó có một số tướng
lãnh hay các sĩ quan cao cấp không ngại ngùng nói thẳng ra chuyện các ông bỏ
đơn vị, bỏ lính của mình như thế nào để thoát ra nước ngoài trong cơn lốc
nghiêng ngửa của Miền Nam. Những cuốn sách ấy không thể là những thắc mắc mà
cho tới bây giờ vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát, đó là: “Một quân đội
thiện chiến, quả cảm, chiến đấu không mệt mỏi trong một cuộc chiến dài và đẫm
máu như thế, tại sao họ vẫn thất bại”?
Suy
nghĩ của tôi cũng chỉ là cái cớ để nói tới cái bối cảnh ra đời của “Bên
Thắng Cuộc”. Sống trong lòng chế độ ở Việt Nam mà đề cập tới những người
thắng cuộc cũng đã là một điều khó khăn và đe dọa cho Huy Đức rồi, nhưng đề cập
tới những người thuộc bên thua cuộc lại càng khó khăn, phức tạp và nhạy cảm hơn
đối với một tác giả xuất thân từ phía thắng cuộc. Tôi xin trích dẫn lời kết
luận của một trong những phản ứng chỉ trích của một cựu sĩ quan bên thua cuộc
(VML) qua một e-mail được một bạn tù forward cho tôi: “Tác giả đã bỏ ba năm,
ngồi đọc 126 quyển, rồi trích lấy 609 câu ghép lại thành từng chương mục thêm
vào mấy lời cám ơn, thế là xong một tác phẩm vĩ đại! Tóm lại Bên Thắng Cuộc chỉ
là một công trình đáng giá 3 xu hoàn thành từ một Cháu ngoan của Bác”. Tôi
không ngạc nhiên về những lời phán này bởi vì trong 20 năm sống ở Mỹ, thói quen
của một số người thuộc phía thua trận là bác bỏ và phủ nhận bất cứ một cuốn
sách nào từ phía những người thắng trận, nhưng không may, họ lại không thể
trưng ra được một tác phẩm nào của họ để đối chiếu. Andrew Wiest khi viết cuốn “Vietnam‘s
Army Forgotten”đã có một thư mục sách ông tham khảo dài, những cuộc phỏng
vấn và mất cả 3 năm trời để tìm cách phỏng vấn người anh hùng trong quân đội
VNCH Trần Ngọc Huế và cả người mà ông cho rằng một nửa giai đoạn chiến tranh là
anh hùng nhưng cuối cuộc chiến trở thành người phản bội, Phạm Văn Đính. Larry
Berman cũng đã mất khoảng 10 năm trời, dùng số sách tham khảo nhiều hơn Huy Đức
và nhất là tìm cách phỏng vấn cho được tình báo viên Phạm Xuân Ẩn trước khi ông
ta qua đời để viết cuốn “Perfect Spy”. Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ khi
viết cuốn “Argument Without End”cũng đã phải vùi đầu vào một núi tài
liệu trong văn khố quốc gia Mỹ, rồi phải vận động để được phép thu thập cái kho
tài liệu về chiến tranh Việt Nam của Hà Nội mà trước đó không một tác giả Mỹ
nào xâm nhập vào được, tổ chức các buổi hội thảo tốn kém để đối thoại với các cựu
tướng lãnh và giới chức quân sự chính trị cao cấp từng đối đầu với Hoa Kỳ trong
chiến tranh, gặp gỡ riêng tư những người cầm chịch trong cuộc chiến Việt Nam cả
về phía Mỹ, Việt Nam và VNCH. Ấy vậy mà trong buổi giới thiệu sách ở New York,
tác giả vẫn còn xin lỗi vì những tham khảo chưa trọn vẹn. Có thể có nhiều người
không thích những tác phẩm trên của các tác giả Mỹ với nhiều lý do khác nhau,
nhưng bảo chúng là ba xu hay vô giá trị, tôi thấy chưa ai dám hạ bút như vậy.
Một phản ứng khác từ Tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh viết trên Facebook, vốn là con
của một viên chức cao cấp của VNCH, về cuốn “Bên Thắng Cuộc”, xin trích:
“Không
ai trong chúng tôi lại có thể ngờ có ngày những ký ức và sự kiện lịch sử ấy lại
được một người từ bên thắng cuộc viết ra. Những dòng chữ trong cuốn sách của
Huy Đức được tác giả viết bằng giọng văn bình thản, khách quan chẳng thấm vào
đâu so với những ký ức đầy cảm xúc của chúng tôi, những người phải trải nghiệm
thực sự những thí nghiệm của chế độ mới với những người anh em thua cuộc của
họ… Những thông tin trong cuốn sách không làm tôi xúc động-vì chắc chắn những
chi tiết mà tôi có thể kể ra từ kinh nghiệm cá nhân còn lâm ly và kỳ bí hơn
nhiều – mà chỉ làm cho tôi thắc mắc không biết đến bao giờ người anh em thắng
cuộc mới thực sự hiểu đầy đủ những người thua cuộc và ý thức rõ những điều phi
nghĩa phi nhân mà họ đã làm đối với người anh em kém may mắn của họ”.
Tiến
sĩ Phương Anh cũng nói “chính quyền hiện nay không chân thành nhận lỗi thì
sẽ không bao giờ có hòa giải thực sự”. Một nhân vật lịch sử cổ đại là Vua
Trần Nhân Tôn, một vị vua nhân đức và một tấm lòng mở rộng như Phật sống, tha
tội cho tất cả quan quân đã từng cộng tác với giặc Phương Bắc với để hàn gắn,
hòa giải dân Việt có phải nhận lỗi với phe thua cuộc? Lịch sử cận đại của cuộc
chiến tranh Nam-Bắc Mỹ, Tổng Thống Abraham Lincoln khi chiến thắng Nam quân sau
trận Gettysburg đã ra lệnh cho tướng Grant phải đứng ra để chào kính viên tướng
Nam quân lên ngựa sau khi họ đã ký vào văn bản đầu hàng của Nam quân. Nhưng để
hàn gắn, Tổng Thống Abraham Lincoln không phải ra lời xin lỗi Nam quân vì thực
sự chiến thắng của Bắc Quân không phải là lỗi của ông. Nhưng hành động cấm tất
cả binh lính dưới quyền Tổng Tư Lệnh Abraham Lincoln không được truy bức những
cựu thù là một cách hàn gắn rất thông minh và văn minh khi bên chiến thắng chìa
bàn tay ra trước. Và chung quanh các cộng đồng người Việt Nam ở Hoa Kỳ tổ chức
rất long trọng những ngày gọi là Quốc Hận, nhưng đã có ai trong số những người
lãnh đạo quân sự và chính trị còn sống ở đây dám đứng ra nhận lỗi với chính
những người thua cuộc và dân chúng còn ủng hộ bên thua cuộc dù đã để mất miền
Nam Việt Nam không, hay họ vẫn cứ vẫn dễ dãi đổ tất cả tội lỗi cho Mỹ và Dương
Văn Minh?
Nay
có một người như tác giả “Bên Thắng Cuộc”nói tới những xúc cảm của chính
mình khi viết một tác phẩm về thắng, thua trên bàn cờ chính trị và quân sự Việt
Nam, tôi nghĩ đó là một điều đáng quí. Văn phong bình thản và ôn tồn của một
người viết xuất thân từ xã hội Cộng sản cho thấy đây là một yếu tố rất quan
trọng của một tác giả còn dính líu nhiều đến quá khứ của các phe lâm chiến
trong một cuộc chiến không vinh hạnh gì cho đất nước Việt Nam. Càng bình thản
và ôn tồn sự trình bày của mình càng thuyết phục. Càng gồng mình, càng dao to
búa lớn, càng biểu lộ cảm tính đối với những vấn đề nay đã trở thành lịch sử
thì càng thiếu thuyết phục và trong nhiều trường hợp lộ cho người khác thấy cái
non nớt ấu trĩ của mình.
Khi
viết về bên thua cuộc, Huy Đức còn nhiều thiếu sót nhất là những chương nói về
tù cải tạo và cuộc vượt biển của hàng triệu người Việt Nam (cho tới nay không
có con số ước lượng gần sự thật). Nhưng tôi vẫn nghĩ ở thế hệ của Huy Đức (thế
hệ 1.5), anh không thể hiểu hết những gì diễn ra trong hai tấn bi kịch đầy
thương tổn trong lịch sử cận đại hậu chiến tranh Việt Nam. Hơn nữa, nội dung
cuốn sách chỉ mô tả lại hình ảnh về những sai lầm của bên thắng cuộc, kể cả sai
lầm đối với bên thua cuộc. Ngay cả người Việt Nam thuộc thế hệ 1.0, 1.5 và 2.0
hiện nay ở Mỹ có người còn không hiểu hết những gì cha anh họ từng phải trải
qua trong các trại cải tạo hay trên đường vượt biển, huống chi một nhà báo trẻ
như Huy Đức sinh ra và lớn lên trong môi trường xã hội chủ nghĩa và chỉ khi vào
Nam mới biết rằng có một Miền Nam không giống như sách giáo khoa miền Bắc đã
dạy anh. Cho nên chỉ cần Huy Đức viết về những bi kịch nói trên của bên thua
cuộc không giống như lời lẽ của Phan Xuân Huy, một cựu dân biểu dưới chế độ
VNCH mà anh trích dẫn trong sách là tôi đã có thể gọi anh là một nhà báo còn
giữ được nhân cách và còn tỉnh táo trong suy nghĩ giữa một xã hội mà lòng người
ngày càng tao loạn, và những người quản trị đất nước ngày càng khắt khe đối với
những ý tưởng độc lập.
Cái
oái oăm của lịch sử cũng vẫn theo đuổi những người Việt Nam đã bỏ nước ra đi và
nhận nơi này làm quê hương thứ hai của họ. Người Việt Nam ở quận Cam hình thành
một cộng đồng từ ngày những bước chân còn bàng hoàng của họ từ các trại tị nạn
đặt xuống đây. Cộng đồng này sống giữa một đất nước nơi mà quyền tự do ngôn
luận được thiết lập đã từ lâu và rộng thênh thang. Ấy vậy mà từ 37 năm qua,
người dân ở đây cho biết chưa bao giờ họ được nhìn thấy hay được nghe những lời
lẽ ôn tồn, lịch sự trong các cuộc thảo luận những vấn đề nhậy cảm. Người ta chỉ
thấy diễn ra những lời cuồng nộ và nhục mạ những người có những suy nghĩ khác
suy nghĩ của vài cá nhân hay phe nhóm ở đây. Người Mỹ gốc Việt ở quận Cam nói
riêng ngày nay thấy một số cá nhân hoạt động chính trị trong cộng đồng bỗng trở
thành những “ông biện lý” hay “quan tòa” chỉ biết “phán”mà
không hề biết lắng nghe. Họ động dao, động thớt bằng những lời lăng mạ trước,
dọa biểu tình sau và cuối cùng bơi móc đời tư của “đối thủ”trên một vài
cơ quan truyền thông Việt ngữ. Trong bối cảnh này còn diễn ra một số những hành
động ngược ngạo khác: có một vài tờ báo hay cơ quan truyền thông có những bài
viết bị kết án là thân Cộng thì chẳng ai làm gì họ được, nhưng ngược lại có
những cơ quan truyền thông hay báo chí khác cũng bị cáo buộc tương tự thì bị
làm tình làm tội. Chính nghĩa nào cho những người cứ mở miệng ra là nói mình
phục vụ cộng đồng hay chống Cộng trong khi chỉ đi làm chuyện tào lao này vậy?
Chưa hết, còn một vài nghịch lý nữa: trong một vài buổi ra mắt sách ở đây, có
những nhà “phê bình” lên diễn đàn thú nhận chưa đọc tác phẩm của người
ta mà vẫn tiếp tục khen lấy khen để chỉ vì tác giả thuộc “phe ta”. Ngược
ngạo này sinh ra ngược ngạo khác. Có một thời kỳ, nhiều nhà hoạt động ở Little
Saigon này coi Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu
là khuôn vàng thước ngọc cho công cuộc chống Cộng nhưng cũng lại chính những
người đó nay buông ra những lời lẽ thiếu lịch sự với Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần
và thậm chí cả Vũ Thư Hiên.
Vì
thế, tác phẩm của Huy Đức, ngoài những lời phê bình nghiêm túc, đứng đắn cũng
đã nhận được một số phản ứng đại loại như “Việt cộng con”, “răng hô”, “cháu
ngoan của Bác”, “ve vãn người quốc gia”, “lộng giả thành chân”, “Bên Thắng Cuộc
chỉ đáng gia ba xu” cũng là chuyện thường tình. Trong cơn cuồng nộ của một
nhóm người, những cảm tính này rất dễ diễn tả, rất dễ buột ra khỏi cửa miệng,
nhưng để có những bằng chứng đi kèm cho thuyết phục thì thật là khó khăn vô
cùng vì nó cũng buộc những người phản bác cũng phải dùng một thời gian nghiên
cứu lâu ít nhất cũng lâu bằng thời gian tác giả Huy Đức thai nghén “Bên
Thắng Cuộc”.
Cho
nên, theo tôi, khen, chê, phủ nhận, bác bỏ là quyền đánh giá của người đọc trên
một đất nước tự do. Không ai có quyền ngồi lên trên sự tự do đó được. Như thế
rõ ràng, người đọc có quyền rộng rãi để lựa chọn một thái độ thì không lý do gì
một người nào đó lại cần phải dùng những lời lẽ thô bạo để phê phán một tác
phẩm được viết ra bằng một văn phong thầm lặng như trong “Bên Thắng Cuộc”. Trong
tinh thần suy nghĩ của một người tự do, tôi đọc “Bên Thắng Cuộc”gần một
tháng mới xong và giữ một nhận định riêng cho mình đối với toàn bộ tác phẩm.
Bài viết này được viết để chia sẻ với bạn đọc vào ngày cuối cùng của năm 2012
mới chỉ đề cập tới phần bên thua cuộc trong tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”. Những
phần khác, tôi sẽ đưa ra vào những số báo của năm 2013. (V.A)
Nguồn:
Sống Magazine
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)