Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 7 tháng 3, 2021

GS. Yuval Noah Harari : Lịch sử nhân loại - Một bước ngoặt mới (trả lời phỏng vấn của đài DW - Đức)

Cuộc khủng hoảng [Covid-19] hiện tại sẽ đẩy xã hội nhân loại vào một bước ngoặt mới. Chúng ta rồi sẽ về đâu? Trong một cuộc phỏng vấn mới đây với đài DW của Đức, giáo sư sử học Yuval Noah Harari - tác giả một loạt sách về lược sử và tương lai loài người đã giải thích các quyết định của loài người hôm nay sẽ làm thay đổi tương lai như thế nào.

Giáo sư Yuval Noah Harari, tác giả của các cuốn sách lược sử loài người bán chạy nhất thế giới, đã được dịch sang tiếng Việt là “Sapiens: Lược sử loài người”, “Homo Deus: Lược sử tương lai”, “21 bài học cho thế kỷ 21”. Hình https://www.ynharari.com/

“Mối nguy lớn nhất không phải là con virus”


Thưa giáo sư Harari, chúng ta đang ở giữa đại dịch toàn cầu. Điều gì làm ông lo lắng nhất về sự thay đổi của thế giới?

Tôi nghĩ mối nguy lớn nhất không phải là con virus. Nhân loại có đầy đủ các tri thức khoa học và công cụ công nghệ cần thiết để chiến thắng nó. Vấn đề lớn thật sự là con quỷ nội tâm của chúng ta: sự thù ghét, tham lam và ngu dốt. Tôi sợ rằng mọi người đối phó với đại dịch không phải bằng sự đoàn kết toàn cầu mà bằng lòng thù hận, thói đổ lỗi cho các quốc gia khác, cho các nhóm tôn giáo và sắc tộc thiểu số. Nhưng tôi hy vọng rằng chúng ta có khả năng nuôi dưỡng lòng bao dung, quảng đại để giúp mọi người lúc khốn khó. Chúng ta sẽ có khả năng phân biệt sự thật và không tin vào những thuyết âm mưu. Nếu làm được, tôi không nghi ngờ gì về khả năng chúng ta sẽ dễ dàng vượt qua được cuộc khủng hoảng này.

Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2019

Trịnh Y Thư: Đi Nghe Ngàn Khơi 30 Năm Kỷ Niệm

Bích Vân hát bài Giấc Mơ Hồi Hương của nhạc sĩ Vũ Thành An.Photo Việt Phạm
Ban Hợp Xướng Ngàn Khơi, Giàn Nhạc Giao Hưởng OCofOC, nhạc trưởng Mộng Thủy với Trường Ca Hòn Vọng Phu trong chương trình kỷ niệm 30 Năm- Photo: Việt Phạm

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2018

Phùng Hoài Ngọc: Văn chương thiếu máu yếu ớt về đề tài “CMT8”

Năm trước tôi đã viết bàn luận về Huế tháng Tám, bài thơ duy nhất do Tố Hữu viết ngay sau khi sự biến xảy ra. Bài đã đăng trên VNTB. Tóm tắt trong vài chữ “Tố Hữu tưởng tượng ra một viễn cảnh tương lai từ gợi ý sâu xa của học thuyết Mác-Lê, anh ta phát điên và gào lên theo thể Thơ Mới”. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là “cơn-điên-quyền-lực-bộc-phát”. (Nhớ lại hồi tuổi trẻ nhẹ dạ cả tin, đám học trò chúng tôi từng nghe các thầy giáo, các nhà phê bình say sưa bình phẩm các biện pháp nghệ thuật “kỳ thú, tài hoa” của nhà thơ. Chuyện đó nay không bàn thêm nữa).

Đoàn người biểu tình ngày 19 tháng 8 năm 1945 trước cửa Bắc Bộ phủ
Bữa nay bàn tiếp về vài sáng tác khác viết sau sự kiện, số lượng vừa ít ỏi, cảm xúc gượng gạo, qua loa, lầm lẫn cố tình gây nhiễu về đề tài Cách mạng Tháng Tám.

Nào hãy đọc bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi viết về “Cách mạng Tháng Tám” (nháp 1948, hoàn thành 1955, xuất bản trong tập Người chiến sĩ (NXB Văn nghệ, 1956).

“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”.

Thực tế “Ngày Cách mạng Tháng Tám” không có tiếng súng nổ nào cả, không cả la hét giận dữ. Thiên hạ chỉ ngỡ ngàng ngạc nhiên và “cuốn theo chiều gió” thôi.

Ông nhà thơ Đại tá Chính Hữu viết bài “Ngày về”:

“Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm.
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”

Thực tế là, Hà Nội không tự đốt cháy mình bao giờ. Chính Hữu đã copy cảnh nhân dân thành phố Matskva đốt cháy thành phố của họ rồi rút chạy trước khi quân Napoleon kéo vào chiếm đóng (theo tiểu thuyết “Chiến tranh và Hoà bình” - Lev Tolstoi).

Thứ Tư, 8 tháng 7, 2015

Bùi Văn Phú - Khánh Ly và “Ru tình” từ giã khán giả

Khánh Ly trong đêm nhạc “Ru tình” (ảnh Bùi Văn Phú)
Cách đây hơn một tháng, quanh các quán cà-phê ở San Jose thấy có quảng cáo chương trình nhạc “Ru tình” với Khánh Ly và bạn hữu, do công ty D&D của bầu Dũng Taylor tổ chức vào Chủ Nhật 21/6.

Cũng đã vài năm rồi Khánh Ly không hát ở San Jose. Năm ngoái, đúng ngày 30/4 có chương trình “Đêm nhớ về Sài Gòn” với Khánh Ly, nhưng giờ chót vì chuẩn bị về Việt Nam hát lần đầu tiên, sau 39 năm, nên cô đã bỏ sô ở San Jose.

Thứ Ba, 24 tháng 1, 2012

Đêm xuân, nghe nhạc quỳnh Phạm Anh Dũng

Lê Hữu

Nhẹ bàn chân, hương đêm ơi!
Nhẹ bàn tay, hương yêu ơi!
(“Dạ lai hương”, Phạm Duy)


Quỳnh”, họa sĩ Nguyễn Chính
Đêm thơm như một dòng sữa…
Tôi yêu hai chữ “đêm thơm” trong câu hát ấy, câu hát của Phạm Duy.
Nói đúng hơn, tôi yêu kỷ niệm về câu hát ấy. Bài hát nghe được vào một đêm xuân nào trong một quán café ở Saigon, trước năm 1975. Tôi không nghe một mình, mà với người bạn gái. Trong vuông sân nhỏ ở ngoài vườn và trong bóng tối mờ mờ tỏa ra từ những ngọn đèn màu vàng đục, chúng tôi ngồi bên nhau thật im lặng, nghe đêm trôi đi chầm chậm, nghe nhạc trôi đi chầm chậm lẫn trong hương ngọc lan mơ hồ thoảng trong đêm.
Tôi không gặp hai chữ “đêm thơm” ấy trong bài hát nào khác, cho đến một buổi tối, bất chợt tôi nghe tiếng nhạc dạo êm dịu và giọng hát cũng thật êm dịu.
Em ơi, đêm thơm một đóa quỳnh…
Tôi ngồi lặng yên một lúc, nghe hết bài nhạc. Nghe kỹ, và nhận ra một điều. Đã lâu thật lâu tôi mới lại có được cảm giác ấy, cảm giác lâng lâng nghe nhạc trôi đi, trôi đi chầm chậm, như những cánh hoa mầu trắng nở chầm chậm trong đêm.
Hai câu hát có hai chữ “đêm thơm” ấy đều là câu nhạc đầu trong hai bài hát nói về những bông “hoa nở về đêm”. Bài hát của Phạm Duy tên là “Dạ lai hương”, bài hát của Phạm Anh Dũng tên là “Dạ quỳnh hương”.
Nếu đấy là một sự ngẫu nhiên thì quả là một ngẫu nhiên khá thú vị.

Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”

Đêm thơm, hay là hương thơm dìu dịu của đóa quỳnh nào thoảng trong đêm.
Đã có nhiều bài hát nói về hoa quỳnh. Những bài hát quen thuộc và được nhiều người yêu thích vẫn là những bài của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn và Phạm Anh Dũng.
Cành hoa trắng” của Phạm Duy có một vẻ gì buồn bã, “Người về trong đêm tối / ôm cành hoa tả tơi…”
Quỳnh hương” của Trịnh Công Sơn lại có nét gì tươi vui, “Quỳnh thơm hay môi em thơm…
Nghe “Dạ quỳnh hương”, người ta không chỉ nghe được, thấy được vẻ đẹp quyến rũ của hoa thôi mà còn cảm được cái “tình” thầm lặng và vấn vương giữa hoa và người nữa.
Nồng nàn quỳnh hương thơm giữa cánh môi xinh
lòng ta nghe xôn xao cây lá xanh tình
Nghe những lời ấy mà “nghe” lòng ngất ngây trong phút giao hòa giữa nhạc và thơ, giữa người và hoa, giữa mộng và thực.
Rồi tình ta như trăng sáng ngát trên cao
Bầy chim uyên lao xao theo gió đêm về…
Nghe những lời ấy mà “nghe” tim rạo rực trong đêm lắng sâu, đêm bát ngát trăng sao.
Ngàn vì sao đua nhau thắp nến lung linh…
Hai chữ “lung linh” trong câu hát ấy thật là đẹp. Trong “Dạ lai hương” của Phạm Duy cũng “ngẫu nhiên” có hai chữ “lung linh” thật là đẹp.
Lung linh, trăng lại về nữa…
Những chữ “lung linh” ấy như mang đến cho ánh sao đêm và bóng trăng khuya một vẻ mơ màng, huyền ảo. Có vẻ như “quỳnh” và “trăng” luôn sánh đôi với nhau. “Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên (1), người ta muốn được thưởng hoa và thưởng trăng cùng lúc.
Hoa trăng với lại hồn tôi
phút giây hư thực đất trời trôi qua
Đến khi thức dậy nhìn ra
ánh trăng vừa tắt, sắc hoa vừa tàn
(“Hoa nở theo trăng”, Tế Hanh)

Nguyệt quỳnh”, họa sĩ Thanh Luân

Dạ quỳnh hương” là thoáng hương thơm dìu dịu, là màu trắng tinh khiết của những cánh hoa nở lặng lẽ trong đêm.
Vẻ đẹp của hoa là vẻ thanh cao mà đài các, là vẻ e ấp mà nồng nàn, dịu dàng mà tình tứ, thầm lặng mà quyến rũ.
Khác với hai bài nhạc quỳnh kia, “Dạ quỳnh hương” được phổ từ bài thơ cùng tên của một người làm thơ… cùng tên với loài hoa sắc hương trinh bạch ấy. Hoàng Ngọc Quỳnh, hay Hoàng Ngọc Quỳnh Giao. Như cái tên định mệnh, nhạc phổ vừa xong thì hoa cũng vừa khép cánh. Tác giả bài thơ ấy, người nữ sĩ tài hoa bạc mệnh ấy đã từ biệt thế gian này để đi về một thế giới khác. Hoa đã lìa trần, hoa đã lìa xa người. Mối đồng cảm ấy, mối duyên văn nghệ ấy giữa người thơ và người phổ nhạc bài thơ chỉ như cơn gió thoảng, chỉ như giấc mơ qua, vì cho đến lúc “hoa lìa cành biếc, hồn theo gió vương (2) hai con người nghệ sĩ ấy vẫn chưa hề có một lần tương kiến.
“… Sau một đêm thức trắng tôi viết xong ‘Dạ quỳnh hương’ và gửi cho Quỳnh,” tác giả bài nhạc kể lại. “Quỳnh rất thích, cho biết vẫn đem ra đàn, hát, và có hứa sẽ gửi tôi nghe bài ấy với tiếng đàn dương cầm sau khi sức khỏe hồi phục (nàng có theo học bốn năm về dương cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế). Chỉ ít lâu sau, tháng Giêng năm 2001, bất ngờ tôi được tin Quỳnh qua đời tại Bỉ. Tôi chưa hề được nghe tiếng đàn của Quỳnh. Tôi cũng chưa gặp Quỳnh bao giờ cả.”
Từng cánh khép lại rồi
hoa lả mềm giấc ngủ
Ôi, phút hoa hiến dâng
hồn tôi không kịp hái
(“Hoa quỳnh”, Lâm thị Mỹ Dạ)
Đóa quỳnh hương khép cánh ấy, Hoàng Ngọc Quỳnh Giao, cô đã tạt ngang qua cuộc đời này, rồi lặng lẽ biến mất khỏi cuộc đời này. Cô đã yêu biết mấy cuộc đời này. Cô yêu thi ca, yêu âm nhạc, yêu hội họa, yêu trăng sao, yêu cỏ hoa “cây lá xanh tình”. Cô đã có những hạnh phúc ngắn ngủi giữa cuộc sống cũng thật ngắn ngủi.
Ôi cuộc sống thật ý nghĩa nhưng cũng thật vô nghĩa. Và chút duyên tri ngộ, và chút tình mong manh tựa những cánh hoa quỳnh mong manh ấy… “cũng theo hư không mà đi”. (3)
Dạ quỳnh hương”, một trong số ít những bài nhạc Việt hay nhất viết về hoa.

Chàng nhạc sĩ của hoa quỳnh

Trước năm 1975, chúng ta vẫn có những y sĩ viết văn, làm thơ và có cả những giọng hát thật truyền cảm nữa. Sau năm 1975, chúng ta lại có thêm những người viết nhạc trong giới y sĩ, trong số ấy có Phạm Anh Dũng, vẫn được nhiều người yêu nhạc biết đến như là chàng nhạc sĩ có sức sáng tác thật sung mãn và đa dạng như là “cây đàn muôn điệu”.
Những người y sĩ viết nhạc, làm thơ, hay “lấy thơ ghép nhạc”. Tại sao không? Như Phạm Anh Dũng. Như cô bạn đồng nghiệp của anh, Hoàng Ngọc Quỳnh Giao. Phía sau cánh áo blouse trắng như màu trắng thanh khiết của những cánh hoa quỳnh là trái tim nhân ái, là tâm hồn rộng mở, là lòng yêu cái đẹp. Cùng với “cây đàn muôn điệu” ấy, anh đã dạo lên khúc nhạc êm đềm, đã cất cao tiếng hát ca ngợi thương yêu và cuộc sống kỳ diệu. Cùng với lời ca tiếng nhạc ấy, anh đã vỗ về, đã xoa dịu những nỗi đau và chữa lành những vết thương trong tâm hồn người giữa cuộc sống nhiều hạnh phúc và cũng lắm khổ đau.
Yêu nhạc, yêu thơ và yêu hoa, Phạm Anh Dũng có đến ba mối tình rất thủy chung (nếu không kể mối tình với người bạn đời và cái nghề tay phải gắn liền với chiếc ống nghe mỗi ngày của anh).
- Yêu nhạc: gần bốn trăm ca khúc được sáng tác, hơn mười lăm CD nhạc được phát hành, nguồn nhạc hứng trong tim chàng nghệ sĩ ấy vẫn chưa có lúc nào vơi cạn. Nghe nhạc Phạm Anh Dũng, qua các giọng ca tên tuổi của hai thế hệ cũ, mới và qua mọi thể loại, mọi thể điệu, mọi đề tài, tưởng như anh muốn ôm hết cuộc sống vào lòng vậy.
- Yêu thơ: phần lớn những bài nhạc của Phạm Anh Dũng là những bài thơ của các nhà thơ quen tên được phổ thành ca khúc, cho thấy ở nơi anh tâm hồn yêu thi ca, yêu nghệ thuật. Những sáng tác của Phạm Anh Dũng, cho dù là lấy nhạc ghép thơ hay lấy thơ ghép nhạc vẫn luôn luôn là những bài nhạc rất thơ, luôn luôn là những lời nhạc đẹp tựa lời thơ.
- Yêu hoa: loài hoa chàng “yêu” nhất chắc phải là hoa quỳnh. Không chỉ “Dạ quỳnh hương”, Phạm Anh Dũng còn cho ra đời một series nhạc quỳnh khá độc đáo gồm trên mười bài quỳnh ca.
Đây là một ‘kỳ tích võ lâm’,” tôi nói với anh như vậy, “chưa từng có trong giới sáng tác âm nhạc.” Phải yêu hoa lắm lắm, phải nặng tình với quỳnh lắm lắm mới dày công thực hiện một chuỗi những bài tình ca về “nữ hoàng của bóng đêm” ấy.
Một CD “nhạc chủ đề” có tên là Quỳnh Ca, là một tập hợp những bài nhạc quỳnh của Phạm Anh Dũng và những bài “thơ quỳnh” của Hoàng Ngọc Quỳnh Giao, Vương Ngọc Long, Phạm Ngọc, Hoa Cỏ, Trường Đinh… được nhạc sĩ phổ thành ca khúc. Bên cạnh những bài “Quỳnh”, “Với quỳnh”, “Đêm nguyệt quỳnh”, “Dạ quỳnh hương”, “Đóa quỳnh như”, “Như đóa dạ quỳnh” là những bài có cái tựa bắt đầu bằng chữ “quỳnh”, như “Quỳnh giao”, “Quỳnh hoa”, “Quỳnh lan”, “Quỳnh lệ”, “Quỳnh mơ”, “Quỳnh như”, “Quỳnh thi”, nghe như cách đặt tên của một bộ “tranh sưu tập” về hoa quỳnh.
Thật khó mà nói được tôi chấm bức “tranh quỳnh” nào đẹp hơn cả. Mỗi bức một vẻ, bức nào cũng đẹp, cũng được vẽ bằng những nét cọ mềm mại là những lời thơ ý nhạc. Tôi thích nghe “Dạ quỳnh hương” với giọng hát ấm áp và êm dịu của Trần Thái Hòa. Tôi cũng thích nghe “Quỳnh”, nghe nhạc điệu êm êm, buồn buồn để cảm thương cho số kiếp phù du của loài hoa nở và tàn trong đêm.
Quỳnh hoa rũ tàn
mầu trăng úa mờ…
Còn chi nữa quỳnh!
Lệ ta đã cạn
rồi quỳnh tan theo khói sương mờ đêm đêm
(“Quỳnh”, Phạm Anh Dũng)
Mỗi người đều có thể tìm thấy một bài nào mình yêu thích trong số những bài “quỳnh ca” ấy. Một bài “tự tình khúc” rất thơ, chẳng hạn.
Em cứ trắng cho hồn luôn trinh bạch
cho tơ vàng nhỏ nhẹ nốt thanh âm
(“Quỳnh giao”, Phạm Anh Dũng & Vương Ngọc Long)
Hay một bài tango dìu dặt, lâng lâng, như khúc nhạc dưới trăng.
Vườn trăng rộ nở
trắng muốt đóa Quỳnh thi…
Đi đâu mà nở vội
Đời thoáng chiêm bao
Tình người như cõi mộng…
(“Quỳnh thi”, Phạm Anh Dũng & Vương Ngọc Long)
Tình người như cõi mộng”, Phạm Anh Dũng, chắc hẳn anh từng có những giấc mộng êm đềm, như từng có những phút thả trôi, đắm chìm trong thế giới kỳ diệu của âm thanh.

Đêm xuân, thắp một ngọn nến thơm, nhắp một ngụm trà nóng, nghe một bản nhạc quỳnh, thấy “xuân thắm tình nồng” hơn, và thấy yêu mùa xuân hơn.
Cám ơn Phạm Anh Dũng, cám ơn “chàng nhạc sĩ của hoa quỳnh”.

Lê Hữu

(1) Kiều, thơ Nguyễn Du
(2) Kiếp hoa, nhạc Dương Thiệu Tước
(3) Ảo ảnh, nhạc Y Vân
Dạ quỳnh hương” (Phạm Anh Dũng & Hoàng Ngọc Quỳnh Giao), tiếng hát Trần Thái Hòa: