Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hoá. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hoá. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2022

Song Thao: Nhạc Bolero

Tôi không nhớ năm nào nhưng trước 1975, khi bản nhạc Hàn Mặc Tử của Trần Thiện Thanh đang phổ biến hết cỡ, một nhà trong xóm tôi ở Thị Nghè ngày nào cũng mở oang oang như muốn có lòng tốt cho cả xóm được nghe ké. Tội cho Hàn Mặc Tử, sáng sớm, khoảng 7 giờ mỗi ngày, đều bị đánh thức dậy đi bán trăng. Có lẽ trăng khó bán nên rao bán cả ngày cũng chưa xong. Ngày hôm sau bán tiếp. “Ai mua trăng tôi bán trăng cho / Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ / Ai mua trăng tôi bán trăng cho / Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”.


Tôi không phải là người thích nghe nhạc bolero nên cũng có lúc khó chịu. Nhưng biết nói sao, dân chúng mải mê với chuyện bán trăng, có kêu cảnh sát can thiệp về chuyện làm ồn ào cả xóm cũng không nỡ. Xóm giềng qua lại nhìn mặt nhau hàng ngày, ai nỡ cản chuyện bán buôn của ông nhà thơ Hàn Mặc Tử.


Nhạc bolero ngày đó quả đã lấn át tất cả các loại nhạc khác. Với lời ca trữ tình bình dân, giản dị được viết trên những giai điệu chậm buồn đều đều có pha âm hưởng dân ca, hát bằng giọng thứ quãng âm trung hoặc trầm, nhạc bolero dễ nghe, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người, chất chứa nỗi niềm của lớp người bình dân trong xã hội. Hầu như mỗi người nghe đều tìm được niềm tâm sự hoặc kỷ niệm của mình trong những bản nhạc này. Nhạc bolero có tại miền đất phía Nam trong những năm từ 1955 tới 1975. Theo một tài liệu chưa thật chính xác thì bài bolero đầu tiên của Việt Nam là bài “Duyên Quê” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ:“Em gái vườn quê /cuộc đời trong trắng/ Dầm mưa giãi nắng mà em biết yêu trăng đẹp ngày rằm / Anh biết mặt em / một chiều bên thềm / Giọng hò êm đềm và đôi mắt em long lánh sau rèm / Ai hát ngoài ao / chừng ngồi giặt áo / Giọng hò êm quá mà anh ngỡ ai rót mật vào lòng / Anh cuốc vườn sau mặt trời trên đầu / Ruộng vườn lên màu vì em ước mong đây đó chung lòng”. Nhưng nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển, trong bài báo “Bài Bolero Đầu Tiên Trong Âm Nhạc Việt Nam”, đã cho bài “Nắng Chiều” của Lê trọng Nguyễn, được sáng tác vào năm 1952, mới đích thị là bản bolero đầu tiên của Việt Nam. Nhưng có người phản biện là bài “Nắng Chiều” không phải là bolero mà là rumba-bolero! Tôi mù tịt về nhạc nên chẳng dám có ý kiến.


Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2022

VOA Tiếng Việt: Tiếng Việt trong trường đại học Mỹ - ‘Nó giúp tôi kết nối với gia đình và văn hóa của mình’

Jennifer Tran sinh ra và lớn lên tại Mỹ. Mặc dù nói tiếng Việt với bố mẹ trong gia đình nhưng cô không thể đọc và viết tiếng Việt cho tới gần đây khi vào đại học.

“Khi lớn lên, bố mẹ và ông bà tôi chỉ nói tiếng Việt với tôi nên đó là vì sao tôi có thể nghe và hiểu được tiếng Việt,” Jennifer, sinh ra ở Charlotte thuộc tiểu bang North Carolina ở miền Đông Hoa Kỳ, nói. “Nhưng tôi lớn lên mà chưa bao giờ học cách đọc hay viết tiếng Việt và đó là điều mà tôi muốn theo đuổi.”

Cũng giống như Jennifer, Megan Lam sinh ra và lớn lên trong một gia đình người Việt di dân tới Mỹ. Mặc dù nói tiếng Việt trong gia đình, nhưng Megan không thể đọc và viết thứ ngôn ngữ của bố mẹ và ông bà của cô.

“Tôi lớn lên với ngôn ngữ tiếng Việt được nói trong gia đình nên tôi có thể nói và hiểu hầu hết tiếng Việt nhưng bố mẹ tôi chưa bao giờ dạy tôi đọc hay viết ngôn ngữ này,” Megan, cũng sinh ra ở Charlotte – nơi có khoảng hơn 17.000 người gốc Việt đanh sinh sống, cho biết.

Jennifer và Megan đều là sinh viên của trường Đại học North Carolina (UNC) nơi đang có khóa học tiếng Việt giành cho những sinh viên nào muốn học ngôn ngữ Đông Nam Á này. Chương trình giảng dạy tiếng Việt, trong đó sinh viên có thể lấy tín chỉ môn học, bắt đầu vào năm 2020 khi đại dịch COVID-19 đang bùng phát ở Mỹ và trên toàn thế giới.

“Ngay trước đại dịch, đã có nhiều sinh viên ở UNC phân viện Chapel Hill ngày càng thích thú tìm hiểu thêm về Đông Nam Á và đặc biệt là ngôn ngữ với hàng trăm sinh viên đã ký một bản thỉnh nguyện thư gửi lên ban lãnh đạo trường ủng hộ việc mở rộng chương trình học về Đông Nam Á,” Tiến sỹ Kevin Fogg, phó giám đốc Trung tâm châu Á Carolina của UNC phân viện Chapel Hill, cho biết. “Chúng tôi cho rằng tiếng Việt có thể đặc biệt quan trọng đối với sinh viên ở Carolina bởi vì đây là ngôn ngữ được nói nhiều thứ 6 trong các gia đình ở North Carolina.”

Chương trình học tiếng Việt cho niên khóa 2020-2021 được giảng dạy qua hình thức trực tuyến và được nhiều người tham gia học, theo TS Fogg. Với nhu cầu tăng cao về học tiếng Việt, trường UNC trong năm học 2021-2022 đã chính thức khởi động chương trình học trực tiếp có giáo viên giảng dạy tại khuôn viên trường ở Chapel Hill.


Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2022

Song Thao: Hát Cô Đầu

Cũng lại tên Khánh Giang! Những ngày của thập niên 1960-1970, Thư Ký Tòa Soạn bán nguyệt san Thời Nay luôn luôn là tên đầu têu chuyện ăn nhậu của chúng tôi. Hồi đó, gần khu hồ bơi Đại Đồng bên Bình Thạnh có một nhà hát cô đầu nhỏ. Sau một cuộc rượu, Khánh Giang bỗng nảy ra ý đi hát cô đầu. Thời chúng tôi chuyện hát cô đầu là chuyện xưa quá là xưa, chúng tôi không nghĩ là còn nhà hát. Khoảng chục tên làm báo đổ bộ vào nhà hát nhỏ. Khi họ đưa cho chiếc trống cầm chầu thì các “quan viên” ngó quanh. Có tên nào biết chi đâu. Khánh Giang nói tôi cầm chầu vì tôi là dân Bắc Kỳ. Rượu đã có trong máu, tôi gật đầu. Khi cô đầu hát, tôi chẳng biết trống triếc ra sao mà từ cô đầu tới các nhạc công mở to mắt nhìn. Tôi gõ lung tung, chẳng biết tại sao mình gõ.


Chầu hát cô đầu hôm đó, lần đầu và là lần cuối, tôi thất bại nặng. Coi như một kỷ niệm không đáng nhớ. Nhưng cho tới nay, khi định viết về hát cô đầu, tôi đọc một số tài liệu mới thấy mình điếc không sợ súng. Tác giả Bùi Trọng Hiền luận về cầm chầu như sau: “Trong quan hệ cung cầu, giá trị quan viên cầm chầu chính là một trong những yếu tố hấp dẫn, thu hút khán giả. Nó như một sự thách đố, kích thích tầng lớp thức giả cô đầu phố thị. Bởi đi nghe hát mà không biết cầm chầu thì sẽ bị coi là chưa biết thưởng thức ả đào. Nên ai cũng có tâm lý phải tập, phải đi nghe nhiều để học hỏi chúng bạn, những mong nâng tầm nhận thức nghệ thuật. Thưởng thức các thể cách, khách chơi - quan viên được coi là sành điệu tất phải am hiểu lề luật âm nhạc, thơ ca để có thể khen thưởng hay điểm chầu khớp với các khổ phách/ khổ đàn. Những quan viên sành điệu bao giờ cũng được giới đào kép nhất mực nể trọng. Ở Hà Nội thời đầu thế kỷ 20, lịch sử đã ghi nhận những cuộc thi lớn được tổ chức thường niên giữa các nhà hát cô đầu. Bên cạnh giải thưởng cho đào kép, cũng có cả giải thường dành riêng cho giới quan viên cầm chầu. Nó chứng tỏ một mối quan hệ cung cầu, một đời sống nghệ thuật phát triển sôi động của thể loại. Nhu cầu làm quan viên của khán giả đô thị thể hiện rõ qua việc Tân Dân Thư Quán xuất bản cuốn “Sách Dạy Đánh Chầu”  ở Hà Nội vào năm 1927. Cuốn sách bán chạy tới mức nó đã được tái bản ngay 2 năm sau đó (1929)”.


Tái mặt với nhận xét của tác giả Bùi Trọng Hiền, tôi còn bị một cú ca dao giũa cho te tua. “Quan viên ba bảy quan viên / Chém cha cái loại lấy tiền vung văng / Cầm chầu roi trống vụt xằng / Say tình nhập nhằng rờ mó hơn ma!”.


Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2022

Vương Trí Nhàn: Sự nghèo nàn của văn hóa Sách ở ta

Viết về tình trạng của những con đường bảo đảm giao thông đi lại ở nước VN cổ, một nhà nghiên cứu nước ngoài đã dùng đến hai chữ ấu trùng.

       

Tôi nghĩ rằng cũng có thể dùng hai chữ ấy để mô tả tình trạng của sách vở ở ta từ xưa tới nay 

       

Gần như dân ta chưa biết làm sách, lại càng không tạo ra được một không gian có ý nghĩa tinh thần cho sách tồn tại và phát triển.   

       

Sự nghèo nàn của văn hóa sách Việt Nam là một căn bệnh kéo dài kinh niên trong lịch sử.

 

1. Văn hóa Việt Nam thường được miêu tả qua các phương diện như tín ngưỡng tôn giáo lễ tiết, thi cử, các ngành nghệ thuật, rồi phong tục tập quán, các nghề thủ công, nhà ở, đồ ăn thức uống.

     
Giở những cuốn lịch sử văn hóa quen thuộc từ Việt Nam văn hoá sử cương (1938) của Đào Duy Anh, qua Văn minh Việt Nam (1943) của Nguyễn Văn Huyên, Hiểu biết về Việt Nam(1954) của P.Huard và M.Durand, không đâu người ta thấy nói tới nghề làm sách và vai trò của sách trong xã hội.

  

Bắt đầu từ quan niệm :  Đọc lướt qua các bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, thấy những chữ lên ngôi, thiết triều, hạ chiếu, chinh phạt, khởi loạn, rồi ban thưởng, xướng họa,… đầy rẫy và lặp đi lặp lại dày đặc bao nhiêu thì chữ sách, đọc sách, soạn sách, dịch sách hiếm hoi bấy nhiêu. Chưa một triều đại nào trong quá khứ có thời giờ nghĩ nhiều đến sách và coi sách là việc lớn của vương triều mình.


Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2022

Lê Văn Khoa: Duyên Tiền Định – Lê Văn Khoa và Ukraine (Phần II)

 “With regards to the Composer Lê Văn Khoa, with great respect and gratitude for the development of cultural contacts between countries and peoples.”

Professor Violetta Dutchak

Vasyl Stefanyk Precarpathian National University



Câu bên trên là lời viết của Giáo sư Tiến sĩ Violetta Dutchak trong quyển sách “Lịch sử và sự phát triển của âm nhạc Ukraine trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21” do Đại học đường Vasyl Stefanyk Precarpathian University ấn hành, đã được gửi tặng tôi. Tác giả dành trọn chương sáu của sách để viết bài nhận xét về hai tác phẩm tôi dùng dân ca Việt viết lại cho đàn dân tộc Ukraine là Bandura độc tấu với dàn nhạc giao hưởng Tây phương. Bằng cách đó tên một người Việt Nam được ghi vào lịch sử âm nhạc Ukraine. Hiện có hai quyển sách bằng tiếng Ukraine có đề cập đến Lê Văn Khoa.


Giáo Sư Dmytro Stepovyk, người có ba bằng Tiến Sĩ: Văn Chương, Nghệ Thuật và Tôn Giáo. Ông là tác giả sách nghệ thuật Mosaic. Hiện là giáo sư nhiều trường đại học ở Kyiv, Ukraine và New York, Hoa Kỳ.


Trong một cuộc phỏng vấn thu hình năm 2017, ông đã hé lộ bí ẩn nằm bên sau cái duyên tiền định của Lê Văn Khoa với nhạc sĩ Ukraine và rộng hơn, những điểm tương đồng của Việt Nam Cộng Hà và Ukraine. Mời quí vị xem tiếp và nhận định.


Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2022

Lê Văn Khoa: Duyên Tiền Định – Lê Văn Khoa và Ukraine

Sự gắn bó giữa tôi và Ukraine là một huyền nhiệm không hề được sắp đặt trước. Khi đại tấu khúc Việt Nam 1975 của tôi được Pacific Institute Orchestra trích diễn năm 1995 ở phòng hòa nhạc Sergerstrom Performance Center trong khu thương mại của South Coast Plaza, California, tất cả báo chí lớn nhỏ của Hoa Kỳ từ Los Angeles trở xuống phía Nam đều có bài nhận định thuận lợi.Tôi nghĩ phải thu bài nhạc này vào CD để làm tài liệu cho thế hệ sau. Lúc bấy giờ tôi làm cố vấn cho Pacific Symphony Orchestra để họ làm chương trình đánh dấu 20 năm sau chiến tranh Việt Nam. Họ đã biết tôi có viết nhạc, nên khi tôi ngỏ ý nhờ họ giúp thực hiện CD, họ nhận lời ngay. Họ cho biết phải thu thanh trong ba ngày, chi phí tối thiểu cho ban nhạc là 120.000 đô-la, chưa kể tiền thuê phòng thu và chuyên viên thu thanh. Sau khi suy nghĩ tôi cám ơn họ nhưng không thể có tiền để đi tới.

Tôi tạm coi Hoa Kỳ như là trung tâm của địa cầu. Tôi không thành công ở trung tâm thì bước kế là xuống tận phương Nam để thử thời vận. Tôi xuống Úc và liên lạc với ban chấp hành của dàn nhạc giao hưởng Sydney. Cuộc gặp gỡ rất tốt. Họ yêu cầu tôi để nhạc lại cho họ nghiên cứu rồi cho tôi biết sau. Chờ đợi trong nhiều tháng vẫn không có âm tín gì. Rồi sau đó mất liên lạc luôn. Ở trung tâm không xong, xuống phương Nam không kết quả, tôi nghĩ thầm bây giờ sẽ lên tận phương Bắc.


May mắn có Giáo sư Tiến sĩ Vũ Tôn Bình biết sự bối rối của tôi nên mách tôi liên lạc với Kyiv (Kiev) Symphony Orchestra ở Ukraine. Tôi làm theo, viết điện thư cho Kyiv Symphony Orchestra rồi chờ đợi nhiều tháng, mỗi ngày duyệt điện thư hai ba lần mà vẫn chẳng thấy tăm hơi nào. Trong cơn chán nản, tôi định bỏ cuộc, thì nhận được một thư rất lạ, viết bằng thứ chữ tôi không đọc được. Do dự trong nhiều tiếng đồng hồ, cuối cùng tôi quyết định mở thư ra xem. Có thể computer bị hư, mất hết tài liệu tôi giữ trong ấy, nhưng không nín được nữa. Tôi mở thư ra và suý thét to lên vì thư ấy viết cho tôi bằng thứ tiếng Anh lạng quạng lắm. Tôi trả lời ngay, ngỏ ý muốn nhờ ban nhạc thu thanh Symphony Việt Nam 1975 của tôi. Họ không trả lời nhận làm hay không, nhưng biểu tôi gửi nhạc cho họ xem trước khi quyết định. Tôi gửi nhạc qua. Họ xem và trả lời là họ nhận thu thanh. Sau khi biết tôi trên 70 tuổi, họ nói tôi không còn nhiều thì giờ, nên lo thu thanh ngay. Tôi một mặt lo xin sổ thông hành và visa, mặt khác làm việc ngày đêm để chuẩn bị cho kịp để họ in nhạc ra cho từng nhạc sĩ trong ban nhạc.


Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2022

Song Thao: Cứ Tưởng Bở

Ngày 7/2 vừa qua, một bé gái đi chơi xuân tại Mèo Vạc, Hà Giang, đã bị một nam thanh niên trẻ khống chế, giằng co giữa đường trước sự chứng kiến của nhiều người. Cô bé kêu la, gào thét phản đối nhưng nam thanh niên vẫn không dừng lại. Đám đông vẫn dửng dưng chứng kiến. Họ cho rằng thanh niên này đang thực hiện tục bắt vợ của người H’Mong nên không cần can thiệp. Một công an đã tới kịp thời để giải cứu cô bé.

Hình ảnh được cắt ra từ clip trên mạng xã hội cho thấy nam thiếu niên đang cố gắng kéo em gái về nhà mình nhưng bất thành

Cảnh "bắt vợ" ở Hà Giang ngày 7 tết Nhâm Dần.


Trước đó một ngày, tại Sa Pa, Lào Cai, cũng xảy ra một vụ tương tự. Một cô gái bị một nhóm thanh niên nắm chặt tay chân bắt về làm vợ. Cô gái chống cự kịch liệt, nắm chặt tay cô bạn đi cùng nhưng vẫn bị khiêng đi dưới trời lạnh giá. Cô đã phản ứng kịch kiệt. Khi thì ngồi xuống khóc, khi thì nằm xuống đường trì kéo nhưng đám thanh niên vẫn không dừng lại.


Quả là người H’Mong có tục bắt vợ nhưng không phải bắt khơi khơi ngoài đường xá như vậy. Theo Tiến Sĩ Nguyễn Hùng Vĩ, Giảng viên Đại Học Xã Hội và Nhân Văn Hà Nội, thì tục bắt vợ là một hình thái đặc biệt của hôn nhân ngày xưa của người Việt chứ không riêng gì của người H’Mong. Tập tục này đã chết trong cộng đồng người Kinh từ lâu nhưng vẫn được duy trì trong cộng đồng người H’Mong. Nhưng thấy một cô gái vừa mắt đi ngoài đường, hè nhau bắt về làm vợ, không phải là tục “bắt vợ”. Bắt vợ trong phong tục của người H’Mong chỉ là một màn kịch. Trai H’Mong chỉ bắt tình nhân của mình. Hai người đã yêu nhau nhưng vì một lý do nào đó gặp trắc trở trong chuyện cưới xin, thường là vì không đủ tiền cưới, đồng lòng diễn màn kịch bắt vợ để đi tắt. Người con gái trong trường hợp này cũng sẽ chống cự nhưng cuối cùng sẽ bằng lòng theo chàng trai về nhà.


Thứ Sáu, 17 tháng 12, 2021

Lâm Vĩnh Thế: Những Sắc Thái Riêng Biệt Trong Tín Ngưỡng Dân Gian Miền Nam

 Người Việt Nam nói chung là một dân tộc rất coi trọng tín ngưỡng.  Ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong nhà, người Việt Nam còn thờ phượng rất nhiều thần linh trong nhiều cơ sở tôn giáo khác nhau, trong đó Đình là một cơ sở mang đặc tính văn hóa tiêu biểu của người Việt.  Mỗi làng, đơn vị dân cư căn bản của người Việt, đều có một ngôi đình để thờ Thành Hoàng bổn cảnh, vị thần được sắc phong của vua có nhiệm vụ che chở cho dân làng.

Tổ tiên của người Việt vùng Đồng Bằng Đồng Nai - Cửu Long (sau đây sẽ viết tắt là ĐBĐNCL), những lưu dân từ Đàng Trong đã vào khai phá, lập nghiệp ở vùng này trong các thế kỷ 17 và 18, cũng đã tiếp tục truyền thống văn hoá Việt này.  Họ cũng lập làng, dựng đình và thờ Thành Hoàng.  Tuy nhiên, cũng giống như trong các nét văn hoá khác trong vùng ĐBĐNCL, những lưu dân này đã tạo ra những biến đổi trong văn hoá Việt về phương diện tín ngưỡng.[1]

Bài viết này cố gắng ghi lại những sắc thái riêng biệt của văn hoá tín ngưỡng dân gian trong vùng ĐBĐNCL. 

Những Cơ Sở Của Biến Đổi Văn Hóa

Biến Đổi Tâm Thức Của Những Lưu Dân

Theo dòng Nam Tiến của dân tộc, những lưu dân Đàng Trong trong quá trình xuôi Nam này, do hoàn cảnh phải đương đầu với những khó khăn lớn lao về mọi mặt, đã phải tự tạo cho mình một bản lãnh anh hùng độc đáo, dám nghĩ, dám làm, hoàn toàn không quá câu nệ vào tập tục truyền thống.  Cá tính phóng khoáng này, mà người viết xin tạm gọi là vượt qua tâm thức lũy tre xanh, một phần nữa cũng do ảnh hưởng địa lý của vùng đất mới đem lại.  Cái không gian mênh mông, hùng vĩ, như của thời hồng hoang, (mà Châu Đạt Quan, sứ thần nhà Nguyên (thế kỷ 13), đã mô tả trong quyển Chân Lạp Phong Thổ KỶ của ông như sau: “Trên các dải đồng hoang, hàng trăm ngàn trâu rừng tụ họp thành bầy, đàn” [2]) của ĐBĐNCL làm sao không ghi lại những dấu ấn đậm nét trong tâm thức của những lưu dân này.  Cụm từ “địa linh nhân kiệt” mang một ý nghĩa vô cùng thực tiễn trong trường hợp này.


Thứ Năm, 1 tháng 4, 2021

Vũ Kim Hạnh: Lịch sử “cầm nhầm” thêm trang mới

Hôm nay 31/3/2021, UNESCO khóa sổ danh sách đề cử di sản văn hóa phi vật thể. Món súp tôm chua cay - tom yum kung - được chính phủ Thái Lan đề cử vào danh sách của UNESCO. Người ta còn nhớ, mới năm 2019, CPC đã đăng ký đưa món hủ tiếu Nam Vang – num banh chok – vào danh sách đề cử nhằm CẠNH TRANH VỚI MÓN PHỞ CỦA VIỆT NAM và món súp tôm chua cay nổi tiếng của người Thái – tờ trình của Bộ Du lịch Campuchia viết (CPC không thành công).

Cạnh tranh để giành thắng lợi vậy cũng là chuyện thường tình.

Còn cứ giành “tài sản” dù phi vật thể của nước khác là của mình, cứ “cố ý cầm nhầm” của nước khác, thích là tuyên bố của mình tất tần tật mọi thứ trong thiên hạ, ấy mới là chuyện ly kỳ.

Mới đây, tờ Korean Herald của Hàn Quốc đã đăng bài về sự tức giận của người Hàn, trước chiến dịch mới của TQ là tuyên bố rằng Samgyetang – một loại súp gà hầm nhân sâm truyền thống của Hàn Quốc là của mình. Tờ Korean Harald cho biết: người dân Hàn Quốc đã thấy rất mệt mỏi trước sự chiếm đoạt và khiêu khích văn hóa của nước láng giềng .

Trên công cụ tìm kiếm Baidu hôm 30/3, món ăn samgyetang được mô tả là nước súp gà có nguồn gốc từ tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc và sau đó mới được truyền vào Hàn Quốc. Baidu cũng nói rằng món súp này sau đó đã trở thành món ăn biểu trưng được các thành viên hoàng tộc ở xứ này ưa chuộng.

Theo Cơ quan phát triển nông thôn Hàn Quốc, người dân nước này bắt đầu nấu súp gà ít nhất là từ triều đại Joseon. Samgyetang là món phổ biến đối với nhà giàu Hàn Quốc trong giai đoạn nước này là thuộc địa của Nhật Bản và giới nhà giàu thường ăn súp gà cùng với bột nhân sâm. Thập niên 1960, người bình dân có tiền hơn để nấu món này.

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2021

GS. Phạm Trọng Lệ (Sưu khảo): Con Trâu Qua Ca Dao Tục Ngữ Việt Anh Pháp - Le buffle à travers les proverbes vietnamiens, anglais et francais

Bài này khởi viết giữa tháng 10, 2020, khi còn ở trong năm con chuột, Canh Tý. Năm tới là năm con trâu. Mồng một tết năm Tân Sửu nhằm vào ngày 12 tháng 2 dương lịch năm 2021. Bài này không bàn về năm con trâu hay đoán những điềm may rủi, vì đã có nhiều học giả đã viết về điểm này trong báo Xuân, và hơn nữa, vì không phải ngành chuyên môn của người viết.

Chủ đích của bài là ghi lạimột số ca dao, tục ngữ Việt, Anh, Pháp ít nhiều liên hệ đến con trâu trong văn hóa “dĩ nông vi bản” mà Việt Nam là một trong những nước một thời được gọi là vựa lúa ở Đông Nam Á và hiện nay đứng hàng thứ năm trong các nước sản xuất nhiều lúa gạo ở Á châu.

(China, India, Indonesia, Bangladesh, Vietnam, Thailand, Burma, Philippines, Japan – Steph Wright, “Largest Rice-producing Countries,” World Atlas, July 23, 2020.)

Phần ghi chú tiếng Pháp và tiếng Anh để cho rõ nghĩa thêm và cho sinh viên đa ngữ muốn giải thích một tục ngữ Việt cho bạn sinh viên ngoại quốc. Để trong ngoặc vuông brackets là lời bàn vui của người viết về một tục ngữ để bài viết bớt khô khan, tuyệt nhiên không phải để tranh biện.

I. Trâu ta khác trâu Mỹ

Trâu ta gọi là Water Buffalo (trâu nước) khác với Bison (American buffalo) đúng ra là bò rừng Bắc và Nam Mỹ.

Con Bison thường gọi nhầm tên là American buffalo hay American bison.

Con bison gắn liền với Văn hóa thổ dân da đỏ Native Americans xưa đã sống tại Bắc Mỹ và Canada trước khi người chuyên săn thú, hoặc những nhà thám hiểm, tới tìm đất lập nghiệp. Họ săn bắn bisons để lấy da ở miền Tây như Wyoming, Arizona, North và South Dakota trong thời lập quốc của Hoa Kỳ. Chủ đề Khai Phá Miền Tây How the West Was Won và Vùng Biên Cương Khi Lập quốc American frontiers đã được những phim Wild Wild West Miền Tây Hoang Dã tả trong phim ảnh và văn chương về các thổ dân người da đỏ và việc lập đất mới của người da trắng và các dân da màu khác. Đây là một đề tài hấp dẫn cho thanh thiếu niên Hoa Kỳ và ngoại quốc, nhưng cũng là những trang lịch sử di dân của người Mỹ thời lập quốc, và những trang sử buồn của người thổ dân da đỏ.

(Xem thêm: American Frontier U.S. History (Britannica.com from the Editors of Encyclopaedia Britannica)

Trâu rừng Phi Châu (Cape buffalo), sống từng đàn, có tình đoàn kết, thường thì hiền hòa nhưng khi bị tấn công cũng biết chống trả kẻ địch. Còn biết bảo vệ trâu con (nghé). Có thể bị sư tử vồ nếu lạc đàn hay lẻ loi hay bị thương, hay bị nhiều sư tử lừa cho chạy khỏi đàn rồi con thì nhẩy lên ngoạm cổ, hay mông, con thì cắn chân khiến trâu ngã nghiêng xuống. Khi hung dữ, trâu biết bảo vệ bạn hay nghé trong đàn bằng cặp sừng nhọn và với sức mạnh có thể hất tung hay đâm thủng sườn sư tử hay hổ.

Trâu đã thuần có tình, biết nhớ đường về nhà, và chịu khó làm việc. Người nuôi trâu biết rõ trâu cũng có tình thân, như khi con nghé đẻ ra, người chủ phải ôm nó vì nó cứ đòi theo trâu mẹ để đi chung với bầy. Từ ngoài đồng về nhà, trâu biết nhà chủ ở trong xóm, tự biết đường về nên có câu tục ngữ: Lạc nhà nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu.

-Trâu được thuần hóa (domesticated), để làm việc nhà nông, tuy chậm nhưng khỏe và chịu cực nhọc, giúp nhà nông cầy bừa, kéo xe, chở đồ đạc hay nông sản khác.

-Trâu còn được coi như vật để tế thần. Đời nhà Lý,vào năm 1117,để bảo vệ và khuyến khích nghề nông, vua LýNhân Tông cấm giết trâu bò bừa bãi: ai mổ trâu bị phạt 80 trượng và người phạm tội phải làm người hầu trong quân đội.

-Trâu nước thuộc loại Trâu bò (Bovidae), loài Nhai lại (Ruminantia), nhóm Sừng rỗng (Cavicornes), thuộc bộ Guốc chẵn (Artiodactyla), Thú có vú (Mammalia), không có răng hàm trên, phần lớn sống ở Nam Á, Đông Nam Á, và miền bắc Úc. Trâu thuần dương, tức trâu nhà, được nuôi ở vùng nhiệt đới Châu Á. Một số nhỏ có mặt ở Nam Mỹ và Bắc Phi. Có người cho rằng trâu chỉ có một loài Bubalus bubalis với ba phân loài. Trâu châu Phi thuộc loài Syncerus, và trâu châu Á gọi là Bubalus.

Riêng loại Bubalus bubalis lại chia làm ba loài là: trâu sông “river buffalo” (bubalus bubalis) ở Nam Á; trâu đầm “swamp buffalo” (Bubalus carabanesis) ở Đông Nam Á, và trâu rừng Á châu (B. Bubalis arnee).

Châu Á là đất gốc của loài trâu với 95% tổng số trâu trên thế giới. Tính đến 1992 Á châu có 141 triệu con trâu, gần một nửa sống ở Ấn-Độ. Trâu nuôi ít tốn kém vì phần lớn chỉ ăn cỏ và có sức khỏe để cầy ruộng, lấy thịt và sữa (sữa trâu rất nhiều chất béo).Việt Nam tuy nhiên ít ăn thịt trâu vì phải dùng trâu để cầy bừa.

Như đã đề cập,châu Mỹ không có trâu như ta hiểu là water buffalo, nhưng có con “bison” hay American bison, hay còn gọi là “American buffalo” là giống bò rừng xưa sống từng đàn ở Bắc Mỹ, nay không còn nhiều. Bò rừng sừng ngắn, bướu gồ, chạy nhanh thuộc họ bovidae, chi (genus) bison, loài (species) bison. Người đầu tiên gọi tên buffalo là Samuel de Champlain (1567-1635), một nhà thuộc địa, hàng hải, họa đồ, ghi chép sử, và ngoại giao người Pháp, người khám phá ra Québec và New France (Nouvelle-France). Champlain dùng chữ “buffalo” để chỉ những con bò rừng bison mà ông mượn từ chữ Pháp “buffle”. Đây là một sự đặt nhầm tên (misnomer) ban đầu, nên từ 1625 tên bison được đưa vào từ điển của các loài động vật có vú đẻ con và nuôi con bú. Từ đó tên American buffalo dễ bị lộn với trâu Phi Châu và trâu Á châu. Bò bison Châu Mỹ sống lâu vào khoảng 20 năm và khi sinh ra không có sừng hay “bướu,” đặc trưng của chúng. Trưởng thành khi được 2-3 tuổi, con đực lớn nhất có tính thống lĩnh cao trong mùa sinh sản.

Lông con bison đổi mầu theo mùa: đen vào mùa đông hay nâu nhạt vào mùa hè. Móng guốc (lừa, bò, trâu, dê, ngựa, cừu, hươu, nai, linh dương, lạc đà, hà mã) tức là loài dùng móng để duy trì sức nặng cơ thể.

Từ đó có sự dễ nhầm lẫn giữa bò rừng Mỹ bisons và trâu nước Á châu (water buffaloes). (Nguồn: vi.wikipedia.org under “TRÂU”)

Tóm lại, có ba cách phân biệt, 1. Con bison có bướu gồ; trâu không có; 2. Bison lông nhiều, trâu ít lông; 3. Bison sừng rất ngắn; trâu sừng dài và cong hay tà.

II. Trâu nào tên ấy


Con trâu cái thì gọi là trâu nái (she-buffalo, buffalo cow); con trâu còn bé từ vài tháng đến một hai tuổi thì gọi là nghé (bufallo-calf). Tiếng Pháp, con nghé gọi là bufflon hay buffletin; còn con trâu cái gọi là bufflonne hay bufflesse. Trâu mộng là trâu đã bị thiến (gelded buffalo). Nhóm chữ “trâu ngựa” không phải là “trâu và ngựa” mà nghĩa bóng chỉ “kiếp tôi đòi” phải làm việc nặng nhọc ngày trước: slaves. Trâu ngố: giống trâu lớn; trâu gié: giống trâu nhỏ. Trâu trắng hay trâu cò: trâu lông trắng. (Trâu trắng đi đâu mất mùa đấy- tục ngữ (Việt Nam Tự Điển). Còn chữ “Ông Trâu” là chỉ chức“Hiệu quan binh đời xưa,” (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của (Saigon: Imprimerie Rey, Curio, 1895, Tome II, p. 475.)

“Con tâu tắng buộc bụi te tụi ăn no tòn như cái tống teo.”
(Con trâu trắng buộc bụi tre trụi ăn no tròn như cái trống treo)

Đây là câu dùng làm bài tập luyện phát âm hai âm địa phương dễ đọc nhầm [tr/t] như một tongue twister cho học sinh.

Trâu cổ: trâu đực to con, vai rộng cổ lớn thật mạnh. (Bộ như trâu cổ mà ninh cái áo của người ta cho rách!(Việt Nam Tự Điển Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ); Trâu cui: trâu sừng tà và mọc trở xuống, sức thật mạnh. (Thành ngữ Mạnh như trâu cui, VNTĐ). Cũng phân biệt với loại “trâu nước”: loại “trâu” to con, chân ngắn da dầy, đầu to, sống dưới nước thường hơn trên bờ, thực ra là con hà mã hippopotamus sống ở châu Phi).

Từ chữ “Ngưu” là trâu đến “Sừng trâu” và “Giải nguyên”

Hán-Việt Từ Điển của Đào Duy Anh giải thích rằng: chữ Hán khi nói đến chữ ngưu ta thường nghĩ đến nghĩa “trâu” nhưng nên phân biệt: ngưu nghĩa là bò và cũng nghĩa là trâu, và để phân biệt:

Bò (cow) là hoàng ngưu, còn trâu là thủy ngưu (water buffalo).

Học giả Đào Duy Anh đưa ra truyện nhân vật Lý Mật cuối đời Tùy, đầu đời Đường bên Tàu (582-619) - thuở bé chăm học nhà nghèo vừa chăn trâu vừa đọc sách, thường buộc cuốn sách, cuộn lại đựng trong ống, treo ở sừng trâu (để khi cần với lấy cho tiện), nên cậu học sinh chăm học này gọi là “Ngưu dác quải thư” (treo sách trên sừng trâu). (p. 53)

Chữ Hán có chữ dác chỉ cái sừng thú. Gốc từ tích đó mà người thí sinh đỗ đầu kỳ thi Hương (kỳ thi liên tỉnh) có điểm cao, qua lọt tứ trường, gọi là cử nhân, người chỉ qua ba trường là tú tài. Người thủ khoa trong số cống sĩ gọi là “ngưu dác tiên sinh” hay giải nguyên. (First on the list of the second degree examination, valedictorian). Cụ Đào phân tích: trong chữ giải thì một bên là chữ dác một bên là chữ ngưu.

Trong lịch sử, học vị giải nguyên có người đỗ rất sớm nhưng cũng có người đỗ muộn. Những nhân vật đỗ giải nguyên khi tuổi còn rất trẻ có Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử cố vấn cho vua Quang Trung Nguyễn Huệ), đỗ giải nguyên năm 21 tuổi, Lê Quí Đôn (soạn Bách khoa từ điển, Vân Đài Loại Ngữ, Đại Việt Thông Sử) 18 tuổi, Nguyễn Khuyến 30 tuổi, Nguyễn Công Trứ 42 tuổi, Thủ Khoa Huân 22 tuổi, Phan Bội Châu 24 tuổi… (Nguồn: vi.wikipedia.org under “Giải Nguyên”)

III.Con Trâu Gắn Liền Với Đời Sống Nông gia Việt


Tranh “trâu đầm” của họa sĩ Văn Đen


Bài ca dao dưới đây cho thấy bác nông dân nói với trâu như một con vật thân tình vì cùng chia sẻ nặng nhọc.

Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cày cấy vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa đầy bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.


Buffalo, listen to me:
Let’s go to the field and do someplowing together
Tilling and rice planting are basically a farmer’s job
I’m here and you’re there, neither you nor I mind hard work
Once the paddy buds and blooms
There will be grass in the field for you to graze your fill.

(Translated by PTL)

-Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã “thi vị hóa” công việc của một em chăn trâu. Ở nhà quê ngày xưa, em bé nhà nghèo được giao cho trách nhiệm vừa săn sóc, cho trâu ăn cỏ và tắm cho trâu trước khi dắt về chuồng.

Ai bảo chăn trâu là khổ? Không, chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu đội nón mê như lọng che. Tay cầm cành tre như roi ngựa. Ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ… (Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Dự Bị)


Ván khắc tranh Đông Hồ mục đồng ngồi trên mình trâu

Sáng tác nhạc Phạm Duy
Em Bé Quê. Sáng tác của Phạm Duy.

“Ai bảo chăn trâu là khổ
Chăn trâu sướng lắm chứ…”

Source: (nhacvangbolero.com)
(Xin vào Google gõ hàng chữ “Em Bé Quê nhạc Phạm Duy youtube”)

-Phải tậu trâu đã rồi mới lấy vợ làm nhà!

Tậu trâu cưới vợ làm nhà
Ba công việc ấy lọ là khó thay!
(ca dao)

Purchase a buffalo, marry a girl, and build a house
These are three tasks, quite difficult for a man to fulfill.
(Translated by PTL)

Phải có trâu thì mới có con vật cần thiết cho nhà nông trong việc cầy bừa hay chuyên chở vật nặng. Rồi phải làm nhà thì mới có tổ ấm cho vợ chồng mới ở và sinh con đẻ cái, nếu không muốn ở nhờ nhà cha mẹ chồng. “Cưới vợ” xếp sau “tậu trâu” không có ý làm giảm tầm quan trọng của việc lấy vợ.

Có trâu, sẵn tằm tơ, lúa má,
Không trâu, không hoa quả, đậu mè
Lúa gặt cất lên đà có trâu xe,
Lúa chất trữ, lại để dành trâu đạp.
Từ tháng giêng cho đến tháng chạp,
Kể xuân, hè, nhẫn đến thu, đông,
Việc cầy bừa, nông vụ vừa xong,
Lại xe gỗ, dầm công liên khói,
Bất luận xe rào xe củi,
Nhẫn đến loài phân bổi, tranh tre.
Hễ bao nhiêu nhất thiết của chi,
Thì đã phú mặc trâu chuyên chở.

(Lục Súc Tranh Công, câu 37-48)

I, Buffalo, give them their grains, their silks--
without me, Buffalo, no fruits, no nuts!
It’s I who’ll haul the stalks of rice they’ve cut;
it’s I who’ll thrash the sheaves they’repiling up.
From the first moon until the last,
from spring to winter, all year around,
as soon as farming work is done,
I cart all things, enjoying not one break.
Branches for hedges, wood for fuel,
twigs, thatch, bamboo, manure—
Take anything that must be moved:
It falls on me to carry all.
(Huỳnh Sanh Thông, p. 361)

-Cảnh thanh bình (a sense of peaceful life)

Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa


(In the upper field, and in the lower field
The husband and the buffalo are plowing,
then harrowing for soil planting
making the rice bed ready for the wife totransplant seedlingsin.
(Translated by PTL)

-Tranh sơn mài tứ thời tả cảnh thanh bình ở đồng quê

Ngư-Tiều-Canh -Mục

Fishing - wood cutting&collecting - Rice planting –herdsboyson buffalo flying a kite

Tranh sơn mài “ngư tiều canh mục” (nguồn:www.sieuthitranh.net)

Cảnh đàn trâu chiều hôm từ ngoài đồng bước về thôn:

-Đàn Trâu

Ngày đã xế, bóng chiều đi chầm chậm..
Ít nắng tà dừng lại các cành cây
Mặt trời hôm gần khuất dưới chân mây
Như một chiếc chiêng vàng đương bốc lửa

Trong ánh sáng hoàng hôn màu úa đỏ
Đàn trâu về thủng thỉnh bước trên đê
Những cặp sừng cúi thấp nặng nề lê
Những chân bước lừ đừ như quá mỏi
Những chiếc đuôi hiền lành se sẽ đuổi
Những con ruồi mê ngủ bám bên hông
Hình sao Hôm trắng toát hiện trên không
Như giọt nước trong rơi trên luống cỏ
Hơi sương tím chân trời tha thướt phủ
Những hình đen lần lượt kéo vào thôn
Tiếng chuông chùa gọi với ánh hoàng hôn
Liềm trăng bạc đêm hè nâng lấp ló

….
Đoàn Văn Cừ, 1943 (Nguồn: Thivien.net)

-Tục chọi trâu

(1) Đồ Sơn Hải Phòng
(còn gọi là Đấu ngưu, mồng 9 tháng 8 âm lịch hàng năm)

Dù ai buôn đâu bán đâu,
Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu.

(vi.m.wikipedia.org under “Lễ Hội Chọi Trâu Đồ Sơn)

(2) Hải Lựu, Sông Lô, Vĩnh Phúc

(tháng giêng mười bảy)

Diễn ra tại xã Hải Lựu huyện Sông Lô, Vĩnh Phúc, từ 16 đến 17 tháng giêng âm lịch. Đây được coi là Hội chọi trâu cổ xưa nhất tại Việt Nam, theo truyền thuyết đã có từ đời nhà Triệu do tể tướng Lữ Gia đặt ra...

Dù ai đi đâu, ở đâu,
Tháng giêng mười bảy chọi trâu thì về
Dù ai buôn bản trăm nghề
Tháng giêng mười bảy nhớ về chọi trâu

(Nguồn: vi.m.wikipedia.org under “Lễ Hội chọi trâu Hải Lựu”)

IV.-Trâu trong văn chương: Lục súc tranh công


(Trâu-chó-ngựa-dê-gà-lợn (Heo)—Ngưu khuyển mã dương kê thỉ. Tác phẩm được ghi xuất hiện ở thế kỷ 18, tác giả vô danh.

Quarrel of the six beasts (anonymous)

Trâu kể công khó nhọc đầu tiên:

-Nỗi cực nhọc của trâu: The Buffalo’s hard labor

Lóng canh gà vừa mới gáy tan,
Chủ đã gọi thằng chăn vội vã.
Dạy rằng: Đuổi trâu ra thảo-dã,
Cho nó ăn ba miếng đỡ lòng.
Chưa bao lâu thoắt đã rạng đông,
Vừa đến buổi cày bừa bua việc,
Trước cổ đã mang hai cái niệt, (dây to buộc ở cổ trâu)
Sau đuôi thêm kéo một cái cày.
Miệng đã dàm, mũi lại dòng dây,
Trên lưng ruồi bâu dưới chân đỉa cắn.


(Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển, pp. 41-42)

The Cock no sooner crows night’s end
than summoning the herdboy up,
the Master tells him, ‘Drive the Buffalo
to pasture now and let him graze a bit.’
But all too soon the east glows red—
it’s time to toil, to labor hard.
In front two ropes coil round my neck;
behind I have to pull a plow.
A bridle ties my mouth, a rope my nose.
Flies swarm my body, leeches prick my legs.

(Huỳnh Sanh Thông, The Quarrel of the six beasts, lines 15-24, from

An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twentieth Centuries. (New Heaven and London: Yale University Press, 1996), p. 360.

Trâu trách ông chủ quên truyện vua Tề rằng một hôm nhìn người ta dẫn trâu đi giết lấy máu bôi chuông cho chuông được vang, vua thấy trâu có vẻ buồn bã nên động lòng thương ra lệnh thả trâu ra và dùng dê thế vào (xem note 7). Khi về già trâu còn được chủ Điền tử khuyên con giữ lại nuôi cho hưởng tuổi già chứ không bán.

Không nhớ thuở bôi chuông đường hạ.
Ơn Tề vương vô tội bảo tha,
Tưởng chừng khi sức mỏi tuổi già,
Cảm Điền tử dạy con chớ bán.
Lời cổ nhân còn dặn
Sao ông chủ vội quên?


Remember? A blood-smearing rite for bells
The king of Ch’i reprieved an innocent.
When old and feeble, I shall bless T’ien-tzu
who bade his children not to sell their beasts.

(lines 91-84)

They’ll say, ‘The Buffalo was Buddha once. (note 6)
Let’s set the brute aflame and speed his soul
To Paradise!”

Rằng: Trâu này cốt Phật xưa kia
Phát đình liệu cho hồn thăng thiên giới
(lines 72-72)

Translator Huỳnh Sanh Thông’s notes:

Con Trâu nhà Phật

Note 6: According to Buddhist lore, there was in India a species of holy oxen (or buffalo) whose blood was drunk for longevity: They were called Buddha-oxen (HST, note 6, p. 374.)

Note 7: Bôi chuông đường hạ: (lấy máu trâu bôi vào chuông mới đúc để tiếng chuông được vang). According to a story in the Mencius, a Confucian classic, King Ch’i Hsuan once saw an ox (or buffalo) being led off to be slaughtered for the ritual anointment with blood of a newly cast bell. Taking pity on the beast, he ordered that it be spared and replaced for the sacrifice with a sheep (or goat). (HST, note 7, p. 374.)

Thập mục ngưu đồ: mười bức tranh chăn trâu nổi tiếng trong Thiền tông tương ứng với quá trình đưa tới giác ngộ:

Tìm trâu -thấy dấu - thấy trâu - bắt trâu - chăn trâu - cưỡi trâu về nhà -quên trâu còn người - người, trâu đều quên - trở về nguồn cội - thõng tay vào chợ.

Xem thêm: vi.wikipedia.org under “Thập mục ngưu đồ”

Mặt mũi trâu bị người dùng làm tiếng chê bai khinh bỉ:

-Đầu Trâu Mặt Ngựa

(Trong truyện Kiều, khi gia đình Vương viên ngoại vừa đi đám giỗ về thì bỗng nhiên Vương Ông và Vương Quan bị một bọn quan quân theo lệnh phủ đường tới bắt trói; sau biết bị một tên bán tơ vu cáo đã chứa đồ bị ăn trộm.)

Cụ Nguyễn Du đã dùng bốn chữ dịch từ chữ Hán để tả cảnh bọn quan quân đột nhập vào nhà khám xét:

Người nách thước kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi (Kiều, verses 577-578)

With cudgels under arms and sword in hands,
Those fiends and monsters rushed around, berserk.

(Translated by Huỳnh SanhThông, The Tale of Kiều, (Yale Univ. Pres, 1983), p. 30.

(Thúy Kiều ngồi một mình hận đã không giữ trọn lời hứa hôn với Kim Trọng và nhờ Thúy Vân thay mình cám ơn chàng đã thương yêu mình và hứa đền bù.)

Tái-sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc-mai (Kiều, câu 707-708)

But haunted by troth-incense we once burned,
I’ll be reborn a beast and make amends.

(HST, The Tale of Kiều, 1983, p. 38.)

Nguồn gốc nhóm chữ “đầu trâu mặt ngựa”: Cụ Nguyễn Du--một dịch giả tuyệt vời—đã dịch thẳng từ chữ Hán “Ngưu Đầu Mã Diện,”literally “Bull-head and Horse-face”. Người Nhật dùng thành ngữ Ngưu Đầu Mã Đầu (Bull-head and Horse-head Gozu Mezu)

Nghĩa bóng: a thug who treats others violently and roughly, ruffian, hoodlum, hooligan.
(en.wiktionary.org under “đầu trâu mặt ngựa”)

Ngưu đầu mã diện còn chỉ thứ quỉ đầu trâu mặt ngựa dưới âm phủ. (Hell, Hades)

-Ngưu lang Chức nữ: (The buffalo boy and the weaver maid)

Chàng chăn trâu Ngưu lang và nàng dệt cửi Chức Nữ, cháu Ngọc Hoàng nên duyên chồng vợ dù giai cấp khác nhau. Nhưng cả hai vì quá đắm đuối yêu nhau, bỏ bê cả phận sự bị Ngọc hoàng phạt phải xa nhau.

[Cặp vợ chồng nào khi lấy nhau mà không ‘đắm đuối’ yêu nhau? Nếu có khác là ở mức độ và thời gian. Trời có bất công không? Hình phạt có quá nặng và quá lâu so với tội đã phạm không?]

Mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần là đêm mồng 7 tháng 7 âm lịch, gọi là đêm thất tịch; nhờ bầy quạ cắn đuôi nhau làm cầu bắc ngang qua dải Ngân Hà cho vợ chồng xum họp. Gặp nhau, vợ chồng khóc than kể lể, nước mắt chan hòa khiến đêm ấy thường có mưa dầm (gọi là mưa ngâu); quạ bị hai người bước qua rụng lông đầu trong tháng 7, do việc đội cầu mà ra vậy. (VNTĐ, quyển Hạ, p. 258)

Tục truyền tháng bảy mưa ngâu,
Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền.

(Nguồn: vi.wikipedia under “mưa ngâu”.Thơ Trần Tế Xương, “Vịnh con Trâu”)

Chinese folk tale: A love story between Zhinu,the weaver girl symbolizing the star Vega and Nulang symbolizing the star Altar. After married they were so infatuated witheach other that they neglected their daily duty. Banished to the opposite side of heavenly river (the Milky Way), once a year, on the 7th day of the 7th month of the lunar calendar, they were allowed to see each other. The magpies built a bridge for the couple to walk over to reach each other. They cried a lot so these days were called mưa ngâu.

Nhớ ai như vợ chồng Ngâu,
Một năm mới gặp mặt nhau một lần.
(ca dao)

V. The Buffalo in proverbs Trâu trong tục ngữ

Le Buffle

(Nguồn: citation-celebre.leparisien.fr/citation/buffle)

-Tiens-toi à sept pas de l’éléphant, à dix du buffle, à vingt d’une femme et à trente d’un homme ivre.

(Proverbe Indien)

Coi chừng nên đi cách xa con voi bẩy bước, xa trâu mười bước, xa một bà hai mươi bước, và xa một ông say rượu 30 bước.

[Trong câu khuyên trên, không hiểu mấy ông Ấn Độ có cách đo mức rủi ro hay sợ chuyện gì sẽ xẩy ra khi khuyên các chàng trai đi cách xa 20 bước một người đẹp Ấn Độ?

Còn mấy chàng trai Ý hay Pháp ở thế kỷ trước có nghe lời khuyên Ấn Độ này đâu? Không! Các chàng—tuy không giống như vua Trần Hậu Chủ, xưa dát vàng trên đường cho nàng Phan Phi bước lên—nhưng huýt sáo, trầm trồ khen đẹp… khi Sophia Loren hay Gina Lollobrigida hay Grace Kelly ‘bộ bộ sinh liên hoa’ mỗi gót sen bước đi…trên hè phố Rome hay Paris hay trên thảm đỏ đại hội Cannes…]

-Trâu buộc ghét trâu ăn

Ghen tị, cùng một giai cấp hay một hoàn cảnh, người được ưu đãi hay hưởng lợi to bị người khác ganh ghét.

Le buffle attaché n’aime pas le buffle qui broute.
(Proverbe Vietnamien) (jalousie, envie)

The chained buffalo does not like the grazing buffalo.

-Trâu chết để da, người ta chết để tiếng.

Le buffle laisse sa peau en mourant, l’homme mort laisse sa réputation.
(Proverbe Vietnamien)

(Con trâu sau khi chết để lại bộ da (cho người làm mặt trống), con người sau khi chết còn để tiếng lại cho đời sau (ngụ ý khuyên sống sao cho khỏi mang tiếng.)

The buffalo leaves his skin while dying; the dead man leaves his reputation.

DƯỚI CHỦ ĐỀ “BUFFLE” CÂU PROVERBE TỤC NGỮ VIỆT NAM NÀY ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ “LE PLUS BEAU” (“đẹp nhất”) bởi website Citation Célèbre. Mạng này sưu tầm được 80,000 danh ngôn và 10,000 tục ngữ trên thế giới.

So sánh câu này với câu trong tiếng Anh:

Trong vở kịch Julius Caesar, sau khi Brutus cùng đồng bọn phản loạn đâm chết Caesar, và hùng hồn nói với người dân La-Mã lý do phải giết Caesar vì ngài có tham vọng, và vì Brutus yêu Rome hơn, thì đến lượt Antony bước ra nói:

The evil that men do lives after them
The good is oft interred with their bones.

(Lời Antony, Julius Caesar, hồiIII, cảnhii, dòng 77-78.)

Tiếng xấu, dẫu chết rồi, người đời nhớ mãi,
Danh thơm, vừa nằm xuống, thiên hạ quên ngay.
(PTL phỏng dịch)

Le mal que font les hommes vit après eux
Le bien est souvent enterré avec leurs os.

(Jules César par William Shakespeare, traduit par M. Guizot (ebook project Gutenberg #15841, released May 17, 2005.)

Theo nguồn về tục ngữ bằng tiếng Pháp ghi bên trên, Việt Nam vốn xưa là nơi có một nền văn hóa lấy nghề nông làm gốc nên đã chắt lọc tinh tuý từ đời sống nhà nông để có một câu tục ngữ chỉ gồm có năm chữ thôi (Trâu buộc ghét trâu ăn) mà tả được lòng ghen tị của người đời và được mạng về tục ngữ thế giới chọn là “nổi tiếng nhất, và gọn nhất thế giới”:

-Quelle est la citation la plus célèbre sur “buffle”?

=>Le buffle attaché n’aime pas le buffle qui broute.

-Quelle est la citation la plus courte sur “buffle”?

=>Le buffle attaché n’aime pas le buffle qui broute.

(Source: Citation Célèbre sur buffle (citation-celebre.leparisien.fr/citation/buffle)

-Trâu chậm uống nước đục:

Les buffles qui arrivent en retard boivent de l’eau troublée.
(citation-célèbre.leparisien.fr/citation/buffle)

The buffalo that arrive late will have to drink muddy water and eat dry grass.
(listofproverbs.com)

-Cho chị mượn…?

Câu ca dao dưới đây nói về tính “khư khư” bảo vệ chồng như ‘của riêng’ của ‘ai đó’ có máu Hoạn Thư:

Của chua ai thấy cũng thèm
Em cho chị mượn chồng em vài ngày?
Chồng em đâu phải trâu cày,
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm!

(ca dao)

[Tình chị em thân thiết, cùng phái, có nhiều sở thích giống nhau, cùng chia sẻ ngọt bùi, nhưng cũng có …giới hạn. Hai chữ “nhà tôi” hay “nhà em” không chỉ có nghĩa ‘ngôi nhà của tôi’ mà còn ngụ ý trìu mến, sở hữu possessiveness, và… độc quyền exclusiveness vì ‘cái nhà đó’ là ‘sĩ diện’ của tui, là chồng tui...]

Củi mục bà để trong rương,
Hễ ai hỏi đến, trầm hương của bà!

(ca dao)

Ngưu tầm ngưu mã tầm mã

(Trâu tìm trâu ngựa tìm ngựa; nghĩa bóng: những người cùng sở thích hay chí hướng thường kết bạn với nhau.

Birds of a feather flock together.

Qui se ressemble s’assemble. (Petit Larousse, Proverbes.)

[Câu sau đây - xin lỗi - đã ví một nàng con gái với con trâu nái, vì ngày xưa, nhà nông nuôi trâu để cầy ruộng nhưng con trâu nái mỗi hai năm, có thể sinh con, nên sau một thời gian, mang lại lợi tức cho người nuôi, nên các cụ ngày xưa, vì quí cô con gái đầulòng, đã “xếp hạng” cô cao hơn con trâu nái, dù xếp hạng cao hơn, nhưng hành động xếp hạng ‘so sánh’ như thế, ngày nay cũng có thể chạm tự ái các vị nữ lưu.

Thời nay politically correct, các bậc nam nhi chớ nên ‘dại dột’ mà bắt chước ví von như các cụ ngày xưa, kẻo …rước vạ vào thân!].

=>Nhưng mục đích câu tục ngữ này chỉ muốn nói sinh con gái đầu lòng là nhà có phúc, vì có thể nhờ vả nhiều, vì con gái đầu lòng thường được mẹ, cô hay dì dành nhiều thì giờ dạy dỗ cho thành người đảm đang, tháo vát, quán xuyến nhà cửa giúp cha mẹ, rồi khi lập gia đình, biết săn sóc chồng con, bố mẹ chồng và ruộng vườn, nhà cửa, giỗ chạp...

a multi-tasking wonderwoman!

Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng.

-Trâu sống không ai mà-cả, trâu ngã nhiều gã cầm dao: Lúc bình thường chẳng ai đoái hoài; khi có mối lợi thiên hạ xúm nhau tranh giành. (ĐNQÂTV, II, p. 475;VNTĐ, quyển Hạ, p. 352.)

-Trâu tìm cột (cọc) chớ cột không tìm trâu: Muốn nên việc cho mình chính mình phải đến cầu người chớ không phải đợi người đến cầu mình; muốn nên việc vợ chồng, người đàn ông phải lên tiếng trước; phải đến tỏ tình trước; còn người đàn bà, cần giữ danh giá, phải tỏ ra lãnh đạm (sic) –(VNTĐ, quyển Hạ, p. 352.)

[Chao ôi! Giáo sư Lê Ngọc Trụ, đồng tác giả bộ Việt Nam Từ Điển, vị thầy đáng kính và là người dạy chứng chỉ Ngữ Học Việt Nam của người viết bài, chắc lo đám sinh viên con cháu của ngài ‘chậm hiểu’ nên sau khi giải nghĩa đen của thành ngữ “Trâu tìm cột” này rồi, ngài còn khuyên nam sinh viên phải “lên tiếng trước, phải tỏ tình trước,” còn các vị tiểu thư nữ sinh viên thì ngài khuyên phải “cần giữ danh giá, phải tỏ ra lãnh đạm.” Nhưng cứ ‘lãnh đạm’ mãi rồi thành ‘Trâu chậm uống nước đục’.]

-Cắt tiết gà đâu cần đến dao mổ trâu” (Tài lớn mà dùng vào việc nhỏ): Câu tục ngữ thông thường trong tiếng Việt, thực ra từ tiếng Trung Hoa trong Luận ngữ: Cát kê yên dụng ngưu đao. Mỹ cũng có câu hơi giống: Don’t burn the house to scare the mouse away. Đừng đốt cả ngôi nhà để xua đuổi một con chuột. (Do not use drastic measure when a small action will do) (Spears).

-Sáng tai họ điếc tai cầy
(Quick to respond to the “stop” command; but pretend not to have heard when the “go” command is given.)

Ngay từ khi trâu còn nhỏ, người ta phải dành ra hơn một năm tập cho trâu đi cày hay bừa cho thuần thục, biết nghe những lệnh căn-bản của người điều khiển, từ cách dạy cho trâu đi thành đường thật thẳng cho luống cày khỏi bị vòng vèo tới tập cho trâu nghe lệnh như “họ” (hay “hò” ở miền Nam) là “ngừng” (whoa!), và “vắt”hay “hí-ì” là “đi!”

Cụ Tam nguyên Yên Đổ, nhà thơ Nguyễn Khuyến, qua bài “Anh Giả Điếc,”diễu một ông bạn già, thấy gì có lợi cho mình thì nhanh nhẹn hưởng ứng ngay, nhưng còn điều gì bận đến mình thì vờ giả điếc như không nghe thấy; giống con trâu nghe tiếng “họ” là ngừng kéo cày liền.

Anh Giả Điếc

Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ sáng tai họ, điếc tai cày,
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Tọa trung đàm tiếu, nhan như mộc,
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu*.
Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu,
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu,
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc.
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à!

Nguyễn Khuyến

*Chữ Hán: Khi mọi nguời ngồi nói chuyện và cười cợt thì ngồi im ngây ra như gỗ. Nhưng đêm khuya thì leo trèo lanh lẹn tai thính như con khỉ.

Nguồn: Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Việt Nam Ca Trù Biên Khảo, nxb Văn Khoa, 1962. Theo (thivien.net)

-Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết

Câu tục ngữ tiếng Việt phần nào giống câu tục ngữ Lào (Laos)và Phi-châu dưới đây:

-Quand les éléphants se battent, ce sont les fourmis qui meurent.

-When the elephants fight, it is the grass that suffers.

(African proverb)

(Trích) “When the major players embroiled in the trade dispute, the African countries could be hit particularly harder by the punitive tariffs.” Khi các cường quốc lớn bị lôi cuốn vào cuộc tranh luận về thương mại, thì những nước ở Phi Châu đặc biệt chịu thiệt thòi nhiều hơn vì thuế phạt.

American proverbs/idioms (source: Spears)/Slang

Phần này liên hệ đến bull chứ không tới buffalo nhưng cũng có thể có lợi cho sinh viên:

1.-Awkward as a bull in a china shop=very clumsy creature in a delicate situation.

Ex: Reaching for an orange, he made several pyramids of fruit tumble down. Anh chàng thật vụng về với tay lấy một quả cam mà làm đổ cả chồng trái cây xếp cao chót vót.

(Richard A. Spears, The McGraw-HillDictionary of American Idioms, 2005).

2.-Cock-and-bull story = made-up story that is a lie. Truyện xạo.

3.-Hit the bull’s eye = hit the very center of a circular target; achieve the goal perfectly: nhắm bắn trúng hồng tâm.

4.-Full of bull = full of hot air = full of nonsense. Oh, you can’t believe a word that guy says –he’s full of hot air. (Farlex Dictionary of Idioms). He’s full of beans. (Spears)

Không tin được một lời anh ta nói, anh ta xạo hết chỗ nói!

5.-Take the bull by the horns = confront the problem head-on and deal with it openly.

Cương quyết đương đầu với một vấn đề khó khăn.

6.-Throw the bull = to chat, to boast, nói chuyện phiếm, tán gẫu. You’re just thowing the bull. Can it. Lại nói tào lao rồi. Thôi! Đừng nói nữa!

(Ít dùng)To buffalo=(động từ) to bully, frighten, intimidate, pressurize, threaten someone, đàn áp, gây áp lực, hăm dọa…

Ex: Don’t be buffaloed in negotiations.Khi thương lượng chuyện gì, đừng để đối phương lấn ép.

VI. Buffalo trong văn hóa bình dân Hoa Kỳ (American popular culture)

The Buffalo in American Indians and American Popular Culture

1.-Buffalo Bill tên thật là William Frederick ‘Buffalo Bill” Cody (1846-1917)

Quân nhân Hoa Kỳ, hướng đạo viên quân đội, nhà săn bò rừng Mỹ bison, từng tham gia các trận đánh nhau với thổ dân Da Đỏ, người bảo vệ đoàn chuyên chở thư tốc hành Pony Express và cũng là một kịch sĩ diễn trò cho dân miền Tây xem, trong các vở tuồng Buffalo Bill’s Wild West Show,và trong một thời gian ngắn có cả tù trưởng Sitting Bull tham gia cưỡi ngựa trình diễn với thù lao năm 1885 lúc đó chưa đến $50.

2.-Buffalo, NY: tên thành phố thuộc tiểu bang New York

3.-Buffalo Bills as professional American football team ở Orchard Park, N.Y. tên đội banh bóng bầu dục nổi tiếng.

4. -Sitting Bull: tên vị tù trưởng Da Đỏ bộ lạc Lakota Tatanka Iyotaka nổi tiếng, (1831-1890), chỉ huy chừng 640 quân da đỏ đã thắng đoàn kỵ binh của Lieutenant Colonel Mỹ George Armstrong Custer, và giết vị tướng can truờng được binh sĩ phục nhưng kiêu và khinh xuất cùng 267 kỵ binh Mỹ, trong trận đánh Battle of the Little Bighorn trong hai ngày June 25-26, 1876. (Britannica.com và history.com)

Lời than của tù trưởng Da Đỏ Sitting Bull, lãnh tụ bộ lạc Sioux: “Only seven years ago we made a treaty by which we were assumed that the buffalo country should be left to us forever. Now they threaten to take away from us also.” (Chỉ cách đây có bẩy năm thôi chúng tôi đã ký một hòa ước theo đó miền đất của những giống bò rừng sẽ vĩnh viễn dành riêng cho chúng tôi sinh sống. Bây giờ người ta đe dọa sẽ cướp miền đất ấy của chúng tôi.)

Hình 7 and 7B : Sitting Bull và George Armstrong Custer



5. - A buffalo nickel: đồng năm xu (cents) in ra năm 1913, một mặt có hình một tù trưởng Da Đỏ, mặt kia hình con bison.

6.- Cờ tiểu bang Wyoming có hình con bò rừng có bướu bison.

7. - To buffalo : ít dùng, nghĩa là dọa dẫm, hăm dọa. Từ điển Chambers Dictionary of Etymology suy ra rằng có lẽ ‘buffalo’từ chữ “cow” (vì chữ buffalo cũng chỉ con bison, và “to cow”=to intimidate, frighten.)

8. -Buffalo wings : món chân gà chiên dòn có nước sauce, bọc bột, thêm gia vị cay paprika và ớt cayenne pepper.

VII. Xin kết thúc câu chuyện vui đầu năm về con Trâu bằng một bức ảnh đẹp kèm theo lời chú thích của nhà nhiếp ảnh nghệ thuật Vũ Công Hiển chụp--Tắm Trâu:


Tắm Trâu, Hình của nhiếp-ảnh-gia Vũ Công Hiển

“Vào mùa nước nổi, khoảng tháng 9 đến tháng 11, bọn trẻ vùng Đồng Tháp Mười, Mộc Hóa thường dẫn trâu lên vùng cao ăn cỏ, chiều lại dẫn về, trước khi về chuồng chúng thường tắm cho trâu… một loài vật rất thích tắm, dù tắm nước hay tắm bùn. Trẻ và trâu rất thân nhau như mấy cô gái thành phố cưng con chó nhỏ. Chúng bảo trâu “Nằm xuống”, thế là trâu ngoan ngoãn nằm xuống…thế là tôi bấm.” (lời chú thích về ảnh của Vũ Công Hiển)

(Hình tác giả gửi và cho phép đăng).

Cùng nên xem phim
Bìa cuốn Hương Rừng Cà Mau
Mùa Len Trâu
lấy cốt truyện trong cuốn tiểu thuyết phong tục của Sơn Nam nhan đề Hương Rừng Cà Mâu, trong đó tả vào mùa nước lụt, cỏ úng, người dân một số vùng ở miền Nam dẫn trâu đi tìm vùng đất cao có cỏ cho trâu ăn thường là về phía Tây.

-Chữ “len” trong tên phim Mùa len trâu nghĩa là gì?

Len/leng [tiếng Nam bộ, vùng giáp ranh với Kampuchea, nơi có nuôi nhiều trâu bò] Động từ này gốc Khmer. Có nghĩa là thả rong trâu bò cho qua ăn cỏ ở một vùng khác. Eng : to immigrate, to transmigrate [cattle seasonally]. Fr : en transmigration saisonnière [bétail] en pâture libre. Nguồn: Nguyễn Hy Vọng, M.D., Từ Điển Nguồn Gốc TiếngViệt (Vietnamese Cognatic Dictionary, Dictionnaire Cognatique Vietnamien, Quyển 2, p. 839 (nxb Đất Việt, 1st ed. 2014)

Mùa Len Trâu Gardien de Buffles (2014).

Đạo diễn: Nguyễn-Võ Nghiêm-Minh

Tài tử: Lê Thế Lữ, Nguyễn Thị Kiều Trinh, Nguyễn Hữu Thanh, Kra Zan Sram

Hình quảng cáo phim Mùa Len Trâu

Trương văn Bé, Nguyễn Anh Hoa, Nguyễn Thị Thâm ...

Music: Tôn Thất Thiết

Link dẫn đến phim Mùa Len Trâu trên youtube:

https://ww.youtube.com/watch?v=edPOj4AFkHc

Hay vào Google gõ hàng chữ “Phim Mùa Len Trâu HD”

-John Deere tractor và tương lai của con trâu.

Trong những tháng sau hiệp định Genève 1954, khi thủ tướng Ngô Đình Diệm cùng chính phủ Mỹ và chính phủ Pháp và cơ quan viện trợ Mỹ USOM đã đưa nhiều trăm ngàn người di cư từ Bắc vào Nam, một tuần báo Mỹ--theo trí nhớ của người viết-- có lẽ là Time, đã đăng một bức hình một chiếc máy cày John Deere nằm trên cánh đồng trong một đêm sáng trăng tại Cái Sắn (?), một thí điểm của Tổng ủy Di Cư Tỵ Nạn cho người di cư mới lập nghiệp.

Hình ảnh chiếc máy cày của Hoa Kỳ qua Viện Trợ Mỹ như một con vật khổng lồ đối với người nông dân di cư suốt đời chỉ quen kinh nghiệm cày bừa bằng trâu, theo tác giả bài báo, là một biến đổi lớn và một niềm hy vọng vào một tương lai mới.

Nhìn từ một khía cạnh khác, hình ảnh chiếc máy cày cũng báo cho biết sẽ có một ngày con trâu bị, hay được, máy cày thay thế, như con người đang được thay thế bởi tự động hóa automatedrobot và computer. Hiệu năng nhiều hơn, mất ít thì giờ hơn, người nông dân đỡ vất vả hơn, nhưng số người chuyên sống bằng nghề nông sẽ bớt đi...

Và những hình ảnh của một nền văn hóa xưa lấy nông nghiệp làm gốc, dựa và sức trâu, trong tương lai dần dần thay đổi và chỉ tìm thấy trong những trang sử và qua ngôn ngữ truyền khẩu trong ca dao, thành ngữ, tục ngữ ông cha để lại cho con cháu trong thời đại biến đổi vì kỹ thuật mới “smart technologies.”

PHẠM TRỌNG LỆ

(Viết xong tại Virginia, November 28, 2020, sửa lại 12/15/2020).

Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2021

Vương Hồng Sển: Cảm Tưởng Về Tết Trong Nam

Hình minh hoạ, Freepik
Tuy cùng một gốc nhưng nước Việt ta, Bắc-Nam-Trung, vẫn thưởng Tết không đâu giống với đâu: Tết trong nam mộc mạc sơ sài, không như tết miền Trung và ngoài Bắc, trước đây giữ nhiều lễ phép và kiêng cử. Tuy không lạnh lẽo đến có tuyết rơi giá phủ, nhưng Trung và Bắc, có đủ xuân-hạ-thu-đông bốn mùa phân biệt: Các thi ông ngoài nớ hơn chúng tôi ở trong Nam vì được thưởng Xuân trọn vẹn, khi chén rượu ấm lòng, khi câu thơ phấn khởi, khi nhắp chén trà hương đượm... và ngoài ấy mới thấy chiếc áo ngự hàn bằng dạ bằng nhung có mãnh lực làm tăng giá trị con người và cũng làm khổ con người bằng cách bắt buộc mọi người phải tùy theo túi tiền, săn sóc và chạy theo từ cái “ăn no mặc ấm.” Nhưng đã là “ăn Tết” đúng theo ý nghĩa tục lệ ông bà để lại, thì đâu đâu cũng như nhau, dùng dịp Tết nhứt để mừng đoàn-tụ gia-đình, tưởng niệm cúng vái tổ tiên đã khuất, há đợi gì: “Xuân từ trong ấy mới ban ra?

Mấy chục năm nay, chiến tranh không dứt, nhơn tâm suy bại, khiến nên cái tết đã thay đổi rất nhiều và trở nên tạm bợ, ai ai cũng có ý nghĩ “chờ hết giặc sẽ ăn tết lớn...” Chớ trước kia, trước năm đảo chánh Nhật 1945, miền Nam sống thái bình, tiền rừng bạc biển, ngày Xuân đối với con dân làm ruộng, quả là những ngày xả hơi và phải thừa dịp ấy, ăn chơi cho thỏa phỉ chí. Thời tiết trong Nam luôn luôn có tiếng là khoan hậu: nóng đều đều, tuy không cho phép nhà giàu mượn dịp tra mãi bộ đồ dạ ấm đắt tiền, nhưng sức nóng mặt trời trong Nam không bao giờ đến cháy da phỏng trán, và ấm áp dễ chịu quanh năm. Tự cổ chí kim, chưa nghe có nạn chết rét vì thiếu y phục, hoặc chết đói vì thiếu cơm. Bẻ cây cần trúc tạm, ra ruộng đứng nhắp chơi cũng có cá tươi kho đầy mẻ, đến ăn không hết. Còn nói chi làm siêng ra đồng quơ bậy bạ cũng đủ nấu nồi canh rau nhẹ lòng.

Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2021

*Song Thao: Ông Địa

Ông Địa là người mang lại cái Tết cho mọi người. Giữa tiếng trống tiếng chiêng nhộn nhịp, ông nhảy múa với khuôn mặt không bao giờ tắt nụ cười. Tôi chưa bao giờ thấy ông Địa không cười. Nụ cười của ông không chỉ là nụ cười cứng ngắc trên mặt nạ mà còn hiển hiện trong bộ quần áo xanh đỏ lộn xộn, cái bụng phệ cố hữu và, nhất là điệu nhảy tung tăng với chiếc quạt bên những chú lân và những tràng pháo đang nhoáng lửa nổ vang lừng.

Múa lân. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Trong đoàn lân ngày tết, “nhân vật” nổi bật nhất dĩ nhiên là lân. Ngày xưa chỉ có một cặp lân, con đực là kỳ, con cái là lân. Ngày nay lân cũng như người, bị nạn nhân mãn nên có cả bày lân. Con xanh con đỏ, con trắng con vàng, hoa cả mắt. Bên cạnh lân là ông Địa. Ông này thờ chủ nghĩa độc thân nên xưa hay nay cũng vậy, cứ mình ên múa lung tung. Trẻ em thường khoái ông Địa. Nhạc sĩ Vũ Hoàng có bài hát “Bé Thương Ông Địa” nói lên sự yêu mến này:

Ơi ông Địa có cái bụng ngộ ghê,
Cầm cái quạt ông nhảy múa say mê.
Ơi ông Địa có gương mặt thật duyên
Ông mãi cười như không biết mỏi miệng.
Đi xem múa lân hay là xem múa rồng
Em thích nhất ông Địa vì ông Địa rất vui
Ông Địa không dám trèo cao như lân như rồng
Ông đứng múa dưới đường trông mặt thấy mà thương.

Thứ Năm, 1 tháng 10, 2020

Phạm Phú Minh: Tết Trung Thu - Xem Tranh Thiếu Nhi, Tìm Lại Sự Trong Sáng Đã Đánh Mất

 LTS. Trong dịp Tết Trung Thu năm 2003, một cuộc thi vẽ thiếu nhi đã được tổ chức tại báo Người Việt, thành phố Westminster, miền Nam California. Từ đó mỗi dịp Trung Thu cuộc thi vẽ này lại được tổ chức, tạo nên một sinh hoạt rất có ý nghĩa cho con em của cộng đồng tị nạn Việt Nam tại miền Nam California. Rất tiếc, kể từ năm 2016, sau 13 năm hoạt động, vì những điều kiện khách quan không thuận lợi, cuộc thi vẽ này không còn tiếp tục nữa.

Sau đây mời quý độc giả xem lại bài viết của người sáng lập và là trưởng ban tổ chức cuộc thi đầu tiên vào ngày 7 tháng 9, 2003, như là một đúc kết ý nghĩa cũng như các kết quả của cuộc thi năm ấy. Bài này đã được đăng trên báo Thế Kỷ 21 số 174, tháng Mười, 2003.

Hình ảnh cuộc thi vẽ tại báo Người Việt

Tổ chức thi vẽ thiếu nhi, và hơn nữa, chấm giải tranh thiếu nhi, là một kinh nghiệm đặc biệt hiếm hoi và thú vị cho tôi. Vốn ham thích cái đẹp – của người, của vật, của thiên nhiên – tôi trước sau chỉ là một người thưởng ngoạn chứ không đóng góp được gì để tạo ra cái đẹp cống hiến cho đời. Và thưởng ngoạn với một trực giác rất chủ quan chứ chẳng được đào tạo “chính quy” trong một môn nghệ thuật nào.


Ý nghĩ tổ chức một cuộc thi vẽ cho các em thiếu nhi nhân dịp Tết Trung Thu năm nay đến với tôi bất chợt vào một lúc đêm khuya chỉ hơn một tháng trước rằm tháng Tám, vào đúng khoảnh khắc tôi bấm delete một bức thư e-mail. Khi bức thư đang biến đi trên màn ảnh máy điện toán thì tôi thoáng thấy ba chữ “vẽ thiếu nhi” và lập tức trong đầu bừng lên ý nghĩ: tại sao báo Người Việt lại không tổ chức một cuộc thi vẽ cho các em nhỏ của cộng đồng mình vào dịp Tết Trung Thu năm nay? Tôi không chắc lắm ba chữ “vẽ thiếu nhi” là từ bức thư đang bị xóa đi, có thể  đó chỉ là một ảo giác do thức khuya mang lại, hoặc hiểu đó là một nhắc nhở của một ai đó từ một cõi xa xôi nào, thì cũng được... Tôi vẫn tin thỉnh thoảng có nhận được các tín hiệu như vậy từ những người bạn đã qua đời, như Lộc, như Điểu.

 


Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2020

Lê Hồng Lâm (Viết cho BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn): Khôi phục những di sản điện ảnh Sài Gòn trước 1975

Tác giả Lê Hồng Lâm phỏng vấn bà Kiều Chinh tại Mỹ

Sau 1975, nếu văn chương và âm nhạc của miền Nam vẫn được lưu trữ chủ yếu thông qua các tác giả rồi dần dần được phổ biến trở lại qua các nhà xuất bản, các nhà xuất bản, trung tâm âm nhạc trong và ngoài nước, thì điện ảnh - vốn là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp tốn kém và chủ yếu được quay bằng phim âm bản (negative) 35mm nên khó lưu trữ hơn.

 

Nền điện ảnh miền Nam trong gần 20 năm tồn tại và phát triển đã sản xuất khoảng 300 bộ phim, nhưng sau năm 1975, hầu hết các bộ phim đều hư hỏng hoặc biến mất vĩnh viễn. Một số hãng phim còn lưu trữ được một số phim âm bản qua nguồn tư liệu của gia đình bắt đầu khôi phục trở lại những di sản của điện ảnh miền Nam thông qua các bản phim DVD nhưng chất lượng hình ảnh và âm thanh đều hư hỏng khá nhiều.


Tại Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc Tế (Viet Film Fest) lần thứ nhất tổ chức vào năm 2003 ở California (Mỹ), bộ phim Người tình không chân dung được mang trình chiếu lại sau đúng 30 năm bộ phim ra mắt lần đầu tiên (1973). Ghi nhận lại buổi chiếu đặc biệt này và trao giải Lifetime Achiviement Award (Thành tựu trọn đời) cho nữ tài tử Kiều Chinh, ký giả Phạm Xuân Đài viết trên tờ Tập san Thế kỷ 21:

 

"Người tình không chân dung có thể nói là một phim bề thế nhất về đề tài chiến tranh của miền Nam, do hãng phim Giao Chỉ sản xuất. Tuy là sản phẩm của hãng tư do Kiều Chinh thành lập và Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn, phim vẫn được sự hỗ trợ của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong việc thực hiện. Ngoài Kiều Chinh là nhân vật nữ duy nhất, các diễn viên còn lại khá đông đảo, hầu hết là quân nhân đang tại ngũ: Vũ Xuân Thông, Nguyễn Mộng Hùng, Hà Huyền Chi, Dương Hùng Cường, Minh Trường Sơn, Trần Quang, Tâm Phan… Điều đặc biệt là sau khi quay xong, phim này đã bị cấm chiếu trong hai năm sau cùng phải do một cuộc bỏ phiếu cả chính Hội đồng Nội các (20/21 phiếu thuận) phim mới được trình chiếu cho công chúng vào năm 1973. Lý do cũng chỉ vì những hình ảnh hiện thực của chiến tranh (những 'mộ bia như nấm' trong nghĩa trang, cảnh quân nhân bị thương, bị chết…) mà Hội đồng Duyệt phim các cấp đều chùn tay không dám thông qua, vì lý do "dễ làm nản lòng chiến sĩ'. Tuy nhiên, tại Đại hội Điện ảnh Á châu 1973, phim đã được hai giải thưởng cao quý: Giải phim chiến tranh xuất sắc nhất và giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất dành cho Kiều Chinh.