Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học-nghệ thuật-khảo cứu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học-nghệ thuật-khảo cứu. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2018
Nguyễn Đức Tùng: DƯƠNG TƯỜNG, BẢN NHÁP CHIỀU TƠ LIỄU
Trong khi chúng ta quay đi, thế giới thay đổi. Những
liên kết nhảy vọt trong thơ Dương Tường tạo ra các ảo ảnh. Đó là chuyển động nhanh
từ một hình ảnh này đến hình ảnh khác; hai hình ảnh, rời nhau, và khoảng cách
giữa chúng, tập hợp ba ấy tạo ra nội dung mới và ý tưởng mới.
Vẽ
nhăng trên tường ở Paris
Ngớ
ngẩn thăng hoa
Thơ
ca cứt đái
Âu
yếm đầu đường xó chợ
Vẽ
nhăng trên tường ở Paris
Tình
sử khoác vỏ ngoài tục tĩu
(bản dịch của Phạm Toàn)
Trong một bài thơ của Dương Tường, có sự chuyển động
phức tạp, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai và ngược lại, từ
hiện thực đến ảnh trong gương và ngược lại, và cuối cùng tác giả lăm le vượt
qua biên giới giữa lời và ngoài lời. Thơ Dương Tường là một cố gắng, đối với
nghĩa thì đi ra ngoài nghĩa đến chữ, tức đến âm, và đối với chữ, thì đi ra
ngoài chữ, hay ngoài lời, tới cái không lời.
Phạm Xuân Đài: Muôn sự của chung, kể cả văn chương
Gần đây có một sự kiện gây bất
bình cho một số người trên mạng: có một kẻ là Trần Nguyên Phát nào đó lấy bài
viết của một tác giả khác, thêm thắt hình ảnh, sửa chữa một số địa danh, rồi ký
tên mình và đưa lên mạng.
Lại thêm một vụ đạo văn, một
hành vi chẳng hay ho gì mà cũng chẳng mới mẻ trên các trang mạng tiếng Việt.
Nhưng mọi người vẫn thấy khó chịu, vì đó rõ ràng là một việc làm thiếu lương
thiện, mà lại được thực hiện công khai một cách “vô tư” như thách thức mọi người
có lương tâm.
Kể ra số người cầm bút bị đạo
văn kiểu này cũng không ít, ngay cả loại văn “khó” như các bài khảo cứu vẫn có
người cầm nhầm.
Có lẽ nhân dịp này, chúng ta
cũng nên để tâm mổ xẻ nguồn cội của một hành vi rất đáng tiếc vẫn xảy ra trên
báo giấy lẫn báo mạng tiếng Việt của chúng ta.
Tạ Ký: Niềm bể dâu này
Ta viết bài thơ thương nhớ đây
Run run tay ấy nắm tay này
Bao lâu em lạc hồn ta nhỉ ?
Đô thị cười nghiêng mí mắt gầy.
Ta vẫn chờ em héo cả thơ
Đèn khuya đêm trắng nẻo tương tư
Tóc tơ có kẻ ngàn năm hẹn
Ai hẹn ngàn năm chuyện tóc tơ ?
Tờ thuở quen nhau rồi cách biệt
Lòng nghe còn nặng chuyện tang thương
Mà dâu bể dậy từ chinh chiến
Từ thuở trên đầu tóc điểm sương.
Mê lối vàng son, lạc những đâu ?
Em ơi ! má thắm có nguyên màu ?
Bên hiên Lãm Thúy câu tình tự
Niềm bể dâu này tiếp nối nhau.
(Trích từ thi tập Sầu Ở
Lại)
Nguyễn Tường Thiết: Chị Thoa
Chị Thoa có lần nói với tôi:
- Em biết không? Cậu lấy tên của
chị đặt cho một nhân vật trong tiểu thuyết của cậu đấy!
Tôi hỏi:
- Truyện gì?
- Hai Buổi Chiều Vàng. Em đọc
truyện ấy chưa?
- Có lẽ em đọc rồi. Hồi bé. Bây
giờ em chả nhớ truyện ấy thế nào.
- Em đọc lại đi. Buồn lắm...
Bao nhiêu năm trôi qua. Tôi quên
lời chị nói và không hề đọc lại Hai Buổi Chiều Vàng.
Mãi gần đây nhớ đến chị tôi lại
tủ sách lục tìm quyển truyện ấy của Nhất Linh ra đọc lại. Đọc xong tôi gấp sách
ngồi thờ thẫn một hồi lâu. Rồi tôi buột miệng nói với chị như thể chị vẫn còn ở
trước mặt:
- Vâng, em cũng thấy truyện ấy
buồn man mác...
CHƯƠNG 12 KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM
DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung
Pháp hiệu đính năm 2018
CÂU 805 ĐẾN CÂU 992
“Suối lệ phân ly, lưỡi
dao oan nghiệt”
805. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen. [1]
807. Quá chơi lại gặp hồi đen, [2, 3]
Quen mui lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.
809. Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi đã giã về già hết duyên. [4]
811. Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường. [5]
812. Chung lưng mở một ngôi hàng, [6]
Vẫn là một đứa phong tình đã quen. [1]
807. Quá chơi lại gặp hồi đen, [2, 3]
Quen mui lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.
809. Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi đã giã về già hết duyên. [4]
811. Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường. [5]
812. Chung lưng mở một ngôi hàng, [6]
Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2018
Khánh Hà: Lửa hạ
Ảnh Khánh Hà
Dây hoa tím lạc lõng
Dưới trời xanh bao la
Mây phiêu du biền biệt
Chẳng nhớ lối về nhà
Một mùa hạ nghiệt ngã
Tháng bảy chẳng giọt mưa
Mây làm mưa xứ khác
Cây cỏ buồn lưa thưa
Những con bò thiếu cỏ
Tiếng kêu nghe thương thương
Trời xanh cao thăm thẳm
Ai đem nước về nguồn
Chuyện nhỏ bé tầm thường
Như giọt mưa, cọng cỏ
Bỗng trở nên bi thương
Khi đất trời biến đổi
Những khu rừng bốc cháy
Bao người chết thành than
Cánh đồng xanh mơn mởn
Bỗng khô khốc, hoang tàn
Làm sao về lại được
Thuở trời đất giao hòa
Thu rụng một hạt giống
Xuân nở một cành hoa
Làm sao về lại được
Thuở mưa nắng chan hòa
Đất trời chưa ô nhiễm
Vườn hạ nở đầy hoa./
Trần Mộng Tú: HOA HỒNG TRẮNG LẠI NỞ
Tháng năm vào Hạ và bè bạn cũ
Những bụi hoa Muguet nở từng chùm chuông trắng xoá một
góc vườn, tiếng chim ríu rít mỗi buổi sáng trên cây Magnolia, tiếng đập cánh của ong bay vào khu vườn vừa thơm mùi nắng
mới. Lá bắt đầu xanh đậm hơn, cành bắt đầu sung mãn, cây vươn vai như muốn với
bầu trời. Trời đất cùng rủ nhau vào hạ. Tôi đi mua những loại hoa chỉ nở vào mùa
Hạ trồng thêm trong vườn, treo những lẵng hoa lồng đèn
đỏ dưới mái hiên
trước nhà, đặt thêm ở deck những chậu
cúc vàng, pansies tím, đỏ, trắng, đủ
mầu. Chung quanh ngôi nhà hoa đua nhau nở rộ.Tôi đón mùa Hạ với tất cả hân hoan.
Tháng năm bay xuống Cali gặp lại những người bạn
cùng sở thời ở quê nhà. Thế mà đã ba mươi sáu năm, những đường vân ngày tháng
trên mặt mỗi người như vòng tròn đánh dấu tuổi đời trên đường kính của những thân
cây. Gặp nhau rồi lại chia tay, mỗi người quay lưng đi về một hướng với những địa
chỉ, số phôn của bạn mình trong túi. Lần gặp tới sẽ thu ngắn lại ba, hay năm năm.
Không ai dám nghĩ đến mười hay ba mươi năm nữa, vì ai còn dám hứa hẹn ai trên
quãng đường đời người rất ngắn còn lại.
Trần Xuân Tiến: Trương Vĩnh Ký và Gia Định Báo
Trương Vĩnh Ký là nhà văn hóa lớn, là người trí thức đầu tiên
của Việt Nam dùng chữ quốc ngữ để làm báo và in sách. Ông đã để lại một công
trình đồ sộ, hàng trăm cuốn sách gồm sách dịch thuật, khảo cứu, sáng tác bằng
chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông có một văn nghiệp lớn lao nhưng cuộc đời lại
nhiều lần trở ngại và bị hiểu lầm đáng tiếc. Chúng tôi nghĩ rằng, hơn lúc nào
hết, ngày nay chúng ta đã có đủ điều kiện để nhìn nhận một cách đúng đắn
nhất, công bằng nhất về sự nghiệp văn hóa, văn học của Trương Vĩnh Ký. Chính
vì những lẽ trên, mặc dù còn nhiều khó khăn và hạn chế nhưng chúng tôi – với
niềm cảm phục và yêu mến nhân vật lịch sử này – vẫn mạnh dạn thực hiện đề
tài Tìm hiểu đôi nét về
Trương Vĩnh Ký và Gia Định báo. Qua đó, chúng tôi hy
vọng phần nào phác hoạ đôi nét về chân dung nhà văn hóa lớn, nhà ngôn ngữ học
lỗi lạc Petrus Ký, cùng với tờ báo đầu tiên của nền báo chí quốc ngữ và ghi
nhận những đóng góp của ông cho sự đổi mới và phát triển nền học vấn Việt Nam
hiện đại.
|
Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2018
SONG THAO: PHO
Vâng! PHO
chứ không phải PHỞ. Chẳng là khi theo đoàn người di tản đi khắp mọi phương
trời, phở đã làm mưa làm gió trên trường quốc tế. Chiến thắng nào cũng có cái
giá phải trả. Cái giá phải trả của phở là mất râu, cháy dấu. Còn trần xì có ba
chữ dễ đọc cho những người không phải là người Việt. Tom Vu là người Việt,
nhưng là người Việt sanh đẻ ở ngoại quốc, thế hệ thứ hai của người Việt di tản
nên tên anh trên một bài viết bằng tiếng Anh, bài Pho In London, đăng trên tờ nguyệt san BN, số tháng 5 năm 2006 cũng
chẳng dấu, chẳng mũ mãng gì cả. “The name
of the restaurant by my residence is quite generic: Pho. Actually, one can say
that it’s so generic it’s unique; how many Vietnamese restaurants are simply
named Pho?”
Vào internet
tìm trên Google hoặc Yahoo, cứ đánh ngay một chữ PHO chẳng dấu diếc gì là có cả
đống tên tiệm phở trên toàn nước Mỹ, tha hồ mà... phở! Có bao nhiêu tiệm ăn
Việt Nam mang tên PHO? Ai mà đếm nổi! Chỉ biết là đi tới bất cứ nơi nào có vết
chân của người Việt Nam là ở đó có phở. Mà ở đâu có phở là món ăn này chinh
phục được miệng lưỡi của người sở tại. Một người Việt Nam từ trong nước qua
Boston đã ngạc nhiên kể lại trong một bài viết trên Ngoisao.net : “Đêm đầu tiên đến Boston, Mỹ, mệt lử sau một
chuyến bay dài gần hai ngày, đầy ứ với các loại fastfood, tôi hỏi cô tiếp tân
khách sạn xem có quán “Vietnamese noodle soup” nào gần đây không. Không một chút suy nghĩ và cũng chẳng thèm
mở sổ, cô bấm điện thoại nhoay nhoáy, và ngẩng lên nhìn tôi với một nụ cười
thông cảm ra vẻ ta đây biết cả rồi: ‘Pho Pasteur still open, sir!’ Hóa ra món
phở quốc hồn quốc túy của dân ta đã phổ biến đến mức trở thành một địa chỉ ẩm
thực trong bộ nhớ của một nhân viên khách sạn Jury’s 5 sao của Mỹ!”
TƯỜNG LINH: DẤU LẶNG
Từ em
rớt lệ trên tơ
Một dây
đàn đứt, đôi bờ chia phôi
Gọi
tình, tình đã lìa ngôi
Gọi đò,
đò chuyển bến bồi, không qua
Từ em
rắc lệ trên hoa
Vàng
hiên cúc nhớ nhạt nhòa màu xưa
Tiếng
mùa lạnh tiếng mưa đưa
Tiếng
vườn bặt tiếng gà trưa thuở nào
Bướm
nghiêng cánh mỏi bên rào
Tường vi
héo hắt, trúc đào ngẩn ngơ
Từ em
tắt khúc xuân mơ
Phím
bâng khuân phím, trăng thờ thẫn trăng
Giọt
buồn chạm giải sông băng
Còn sau
dấu lặng vết hằn thanh âm.
Nguyễn Tường Thiết: ĐẸP NHƯ KIẾP BOHÉMIEN
Người đẹp
thành Vienne
Trước mặt
tôi là một tờ giấy nhỏ. Tất cả còn lại ghi dấu kỷ niệm của tôi với nàng. Tờ
giấy chỉ là một phiếu tính tiền, mặt trước in hình màu vàng óng của một cốc bia
sủi bọt. Cắt ngang cốc một hàng chữ lớn EDELWEISS. Phía dưới là một hàng chữ
nhỏ Das edle weisse aus den alpen. Dưới
nữa là những cột và hàng kẻ của phiếu tính tiền với những hàng chữ nhỏ mà vị
trí trên cột cho tôi phỏng đoán ý nghĩa của chúng. Rechnung Mr. (Liệt kê?),
Rechnungsbetrag (Tổng cộng hay Giá thành?). Tôi lật mặt sau. Mấy nét vẽ và nét
chữ của nàng. Hai đường kẻ sát nhau song song có vạch những nét xéo ngắn ngắn
tượng trưng cho con đường tàu điện (Tram). Hai chữ thập bên cạnh đường tàu ghi
dấu hotel nơi tôi ở và quán rượu nơi chỗ chúng tôi gặp nhau. Trạm số 52. Tuyến
metro N3. Trạm Westbannhoff. Và địa chỉ e-mail của nàng. Anita_kurzydlak@.
Lê Văn Lân: NẾU ĐẦU LÂU MOZART BIẾT NÓI…
Chết
chưa hẳn là “hết”?
Chết
là hết, ai cũng nghĩ thế. Nhưng đời vẫn có nhiều trường hợp không hẳn vậy. Ngày
4 tháng11, 2004 đài CNN có đưa tin sau: Ngôi
mộ của thiên tài âm nhạc Mozart chết cách nay hai trăm năm bị khai quật để thử
DNA! DNA là thử nghiệm hiện đại nhất
mà người hy vọng có thể giải quyết một bí ẩn lâu mấy thế kỷ để xem cái sọ đang
trưng bày trong Viện International
Mozarteum Foundation có đúng thực là sọ của ông
không?
Mozart
chết năm 1791 và được chôn vào một huyệt mộ nghèo trong nghĩa địa St Marx ở
thành phố Vienna nước Áo. Địa điểm của huyệt mộ này ban đầu không ai rõ nhưng
hình như được xác định vào năm 1835 nhờ đặc điểm là một cột trụ với tượng một thiên thần trên đó.
Truyền
thuyết nói rằng một phu đào mộ nhận biết hài cốt của Mozart và lén trộm sọ của
ông. Sau khi bị chuyền qua nhiều tay, sọ này cuối cùng đến Viện Mozarteum ở
Salzburg vào năm 1902 theo như lời của giám đốc viện này là Tiến sĩ Stephan
Pauly. Sọ không trưng bày ra công chúng chỉ vì viện không biết chắc chắn làm
sao tên phu đào mộ trên biết rõ chỗ nằm của di hài của Mozart mà ăn trộm sọ của
ông.
Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2018
Đỗ Hồng Ngọc: Nhớ Nguyễn Hiến Lê
“Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây
bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu… Hà Nội mùa thu…
Mùa thu Hà Nội…Nhớ dến một người… ”
(Hà Nội mùa
thu- Trịnh Công Sơn).
“Nhớ đến một người” đó, với tôi, là nhớ Nguyễn
Hiến Lê, một người Hà Nội, một học giả, một nhà trí thức chân chính ngày nay được
cả nước biết đến. Nhưng nói Nguyễn Hiến Lê người Hà Nội chỉ đúng… một phần ba,
vì tuy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, lúc mới 22 tuổi, ra trường Công chánh, ông
đã khăn gói vào Nam nhận nhiệm sở để rồi sống luôn ở đó suốt nửa thế kỷ cho đến
ngày mất, năm 1984, khi vừa 72 tuổi. Nửa thế kỷ dằng dặc đó của một đời người,
ông đã chẳng lúc nào nguôi quên Hà Nội của tuổi thơ ông.
Tôn Nữ Thu Nga: Miền Trung Tây Mỹ Quốc
Người Mỹ rất thích đi du lịch, phần nhiều ai cũng có một danh sách trong trí hoặc viết ra những nơi mình muốn thăm viếng trên thế giới rồi từ từ thực hiện ước mơ ấy trước khi từ giã cõi người. Danh sách này họ gọi là “bucket list”. Bucket list dài hay ngắn, đầy hay vơi là tùy theo tài chánh, sức khỏe và tánh ưa mạo hiểm của cá nhân. Người Mỹ được an hưởng hòa bình khá lâu nên hầu hết ai cũng có niềm ước mơ được viếng thăm nhiều nơi trên thế giới.
Ngày còn trẻ sống tại Việt Nam, mặc dầu tánh phiêu lưu mạo hiểm đã có trong tâm hồn nhưng cái “bucket list” của tôi nó ngắn lắm vì còn trẻ, không có tiền lại bị ba mẹ còng chân. Niềm ước ao của tôi là được đi Sài Gòn chơi; tuy chỉ cách Nha Trang 434 km, thế mà trong cuộc đời ngắn ngủi của tôi (kể cả lần chạy giặc) tôi chỉ được ngao du thành phố “Hòn Ngọc Viễn Đông” có bốn lần; thăm Đà lạt là một giấc mơ chưa thành tựu cho đến khi tôi được về dưới danh nghĩa Việt Kiều.
Từ ngày di cư sang Mỹ, “bucket list” của tôi dài hơn, dài thêm và dài gần như bất tận. Vì rứa thành ra ngay sau khi sanh thằng con út năm 1976 được bốn tháng, hai vợ chồng tôi bắt đầu cuốn gói bế hai đứa con đi chơi. Dĩ nhiên là ngoài những ngày lễ; chúng tôi nai lưng làm việc để chờ ngày đi chơi tiếp.
Hà Kỳ Lam: VÀI CHẶNG ĐƯỜNG ÂU CHÂU
Chúng tôi vừa trở lại Paris đầu tháng Ba năm nay. Chẳng phải vì có duyên với thành phố một thời được mệnh danh kinh đô ánh sáng, cũng chẳng phải vì lưu luyến con sông Seine với nhiều cầu bắt ngang hay tương tư tháp Eiffel ngạo nghễ mà duyên dáng. Chỉ vì ở Paris vợ tôi có người bà con sẵn sàng phối hợp du lịch, và sẵn sàng cho chúng tôi tá túc vô điều kiện. Paris đã trở thành bàn đạp du lịch của chúng tôi.
Hai lần trước ghé Paris chúng tôi đã có dịp ngồi xe hơi xuyên miền Nam Pháp sang tận Tây Ban Nha. Lần này chúng tôi đi xuyên miền Bắc Pháp sang Bỉ và Hòa Lan. Và lần này chúng tôi còn có hai dịp đặc biệt nữa: được đi thử tuyến đường Ba Lê - Luân Đôn bằng xe lửa xuyên biển Manche và được gặp gỡ vài văn hữu tại Paris. Với bấy nhiêu sự việc trong một tuần ở Pháp thật cũng hơi “nhiều”, nhưng rất vui.
Hai lần trước ghé Paris chúng tôi đã có dịp ngồi xe hơi xuyên miền Nam Pháp sang tận Tây Ban Nha. Lần này chúng tôi đi xuyên miền Bắc Pháp sang Bỉ và Hòa Lan. Và lần này chúng tôi còn có hai dịp đặc biệt nữa: được đi thử tuyến đường Ba Lê - Luân Đôn bằng xe lửa xuyên biển Manche và được gặp gỡ vài văn hữu tại Paris. Với bấy nhiêu sự việc trong một tuần ở Pháp thật cũng hơi “nhiều”, nhưng rất vui.
Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2018
PHẠM XUÂN ĐÀI: CHUYỆN ĐÁ BANH
Tranh của Đinh Trường Chinh - Tháng Bảy, 2018
Lời Tòa Soạn.- Bài dưới đây được viết cách đây đúng 20 năm, nhân World Cup năm 1998
diễn ra tại nước Pháp, và Pháp đã lên ngôi vô địch. World Cup năm nay 2018 được
tổ chức lần đầu tiên tại nước Nga, Pháp đã được vào chung kết với Croatia ngày
15 tháng 8, và một lần nữa Le Jour De
Gloire lại đến với nước Pháp. Đội Pháp đã thắng Croatia với tỉ số 4-2, đoạt
chức vô địch World Cup 2018.
Dù hai thập niên đã qua từ khi
bài này được đăng lần đầu trên tạp chí Thế Kỷ 21 số 112, tháng Tám 1998, tâm
tình và những vấn đề về bóng đá của người di dân Việt Nam có vẻ vẫn thế (tuy
bài có được thêm bớt gọt dũa lại chút đỉnh), chúng tôi xin mời độc giả xem
lại... cho vui. DĐTK
World Cup tổ chức ở Pháp năm nay đem lại cho những người đàn ông Việt Nam trung niên đang
tị nạn tại Hoa Kỳ ít nhiều thích thú say mê đích
thực, sau những năm tháng sống lửng lơ với một cố gắng thích ứng liên tục với
một văn hóa mới, một cố gắng mà họ biết không bao giờ đạt tới đích. Tất cả vui
thú say mê của một đời người hoàn tất từ thời người ây còn trẻ, và khi đã sống
tròm trèm nửa đời rồi mới gặp hoàn cảnh đòi hỏi phải đổi mọi chuyện thì rất
khó, nếu không nói là chẳng thể được. Vì thế người ta phải tiếp tục ăn cơm với
cá kho, ăn phở, hủ tiếu, bún riêu, mì Quảng, tiếp tục coi video và nghe CD nhạc
Việt Nam, tiếp tục xuất bản và đọc sách báo tiếng Việt, tiếp tục xây dựng chùa
chiền và tu viện Phật giáo... Nói cho lớn lao thì
là người ta đang cố gắng bảo tồn văn hóa của quê cha đất tổ, nhìn
một cách thực tế thì tất cả việc ấy chẳng
qua nhằm đáp ứng nhu cầu sống của chính một lớp
người mà thôi. Không thích ứng nổi với cái mới một cách toàn vẹn thì ta bày
những gì của ta ra để... ta dùng vậy.
Nhưng riêng về môn đá banh thì người tị nạn
tại Hoa Kỳ... thua. Họ có thể tha hồ gào với cái máy Karaoke những bản nhạc
Việt mà họ ưa thích một thủa nào, nhưng họ không cách gì đến với môn đá banh,
mà những người Việt trung niên ấy hầu hết đều say mê từ
thời còn nhỏ xíu, và được nuôi dưỡng đầy hào hứng khi lớn lên. Nếu anh tị nạn ở
bất cứ một chỗ nào trên thế giới khác với Hoa Kỳ thì anh vẫn có thể gần gũi với
niềm say mê ấy, và
cảm thấy thế giới này vẫn có một mẫu số chung mà mình
là người lạ đến vẫn có thể tiếp tục chia sẻ. Một người Việt Nam ham đá banh từ
ngày nhỏ gặp một người Pháp chẳng hạn cũng cùng một sở thích ấy thì sẽ rất dễ
gần gũi nhau. Sân cỏ, luật chơi, kỹ thuật lừa bóng, những cách chơi xấu, lòng ham mê, kỷ niệm về các trận đấu... là tài sản chung
của hai người dù họ đã sống trong hai xứ sở cách rất xa nhau, với hai nền văn hóa khác biệt. Cùng tôn giáo chưa chắc đã có
nhiều điểm chung bằng cùng chơi một môn thể thao, nhất là môn thể thao ấy lại
là môn đá banh. Cùng môn chơi loại khác, ví dụ cờ bạc, cũng không thể có gì sâu
xa để chia xẻ với nhau như môn đá banh. Khi ra sân tranh nhau trái bóng thì thể
xác, tinh thần, tình cảm, tài năng đều được đẩy lên một mức độ thể hiện rất
cao, tất cả tổng hợp lại thành một cái vốn tươi sáng lành mạnh gắn chặt với sự
sống của một đời người, sẽ ở với người ấy suốt
đời. Nước Mỹ sẽ là một hành tinh lạ đối với một người có một “background” như
thế. Đất nước giàu có xinh đẹp này, dân tộc hào hiệp cởi mở này không có quá
khứ giống như các dân tộc khác trên thế giới — quá khứ ở đây chỉ xin hiểu một
cách đơn giản là những công dân nhỏ tuổi của họ không lớn lên với môn đá banh.
Chỉ đơn giản như thế nhưng đã tạo ra một khác biệt ghê gớm, là cả dân tộc này
đứng ngoài nhịp đập của trái tim nhân loại khi trên thế giới xảy ra các biến cố
về bóng tròn. Khi World Cup đang diễn ra ở Pháp, khi một đường banh “diễm ảo”
(xin mượn chữ của ký giả thể thao Huyền Vũ) bay vào lưới, bao nhiêu triệu người
từ bất cứ xó xỉnh nào trên quả đất, đúng vào phút, giây, sát na ấy, cùng một lúc ồ lên suýt soa, thì dân Mỹ không hay
biết gì cả. Họ đứng ngoài, họ không tham dự vào, mặc kệ cái buồn vui thổn thức của phần nhân loại còn lại. Họ có môn
chơi của họ, chơi
riêng, chơi một mình. Sự
kiện nước này bắt đầu có đội bóng tham gia
vào World Cup xem ra chưa có ảnh hưởng gì
đến “trái tim”của người
dân Mỹ chính cống cả.
Nhưng một người Việt Nam trung niên di dân tại đất nàv, tức là người Mỹ không chính cống, thì đón chào World Cup như bắt gặp
lại một loại quê hương của mình. Từ khi còn
nhỏ xíu anh con
trai nào cũng ít nhiều tham gia các trận đá
bóng nếu là người Bắc, đá banh
nếu là người Trung hoặc Nam. Nếu những người trung niên ấy sinh vào khoảng giữa
đến cuối thập niên 30 thì khi vừa lon ton ôm vở đi học đã ở trong không khí hào
hứng của phong trào Ducouroy, trong đó môn đá banh lan tràn rất mạnh, đến từng
phủ huyện, làng xã, từng trường học, ảnh hưởng ngay đến những lớp nhỏ nhất
trong trường.
Thời ấy trẻ con biết chơi biết chạy là đã ít nhiều biết đá banh, dù dưới những hình thức đơn sơ nhất. Khi đã cắp sách đến trường thì
gặp ngay một môi trường
thuận lợi để hiểu biết và tham gia môn chơi
hào hứng này. Các cậu bé lúc bấy giờ mới biết ra rằng đây là một môn chơi
có luật lệ, và chính khi chơi với luật lệ thì thích thú hơn là những trận đá qua đá lại bừa bãi ở ngoài đường nhiều. Trong sân trường, thường phải chia
phe trước khi một trận cầu xảy ra: những người thích chơi đứng thành một đám giữa sân,
hai người tương đối lớn và đá hay sẽ đứng đầu
mỗi bên và bắt đầu chọn cầu thủ cho bên của mình,
gọi là
"bắt phe." Cách chọn khá công bình, mỗi bên luân phiên lần lượt “bắt” một người, cho đến khi đám đông giữa sân được chia hẳn
thành hai phe, mỗi bên kéo về một đầu sân
để dồn quần áo nón mũ thành hai ụ để làm gôn, rồi dàn trận bắt đầu đá.
Họ đá bằng gì? Dĩ nhiên bằng trái banh, nhưng
banh của họ rất nhiều loại. Nếu là tập thể các lớp lớn, sẽ có một
trái banh loại “demi” nghĩa là banh da có vét-xi bơm hơi đàng hoàng, nhưng nhỏ bằng một nửa banh người
lớn. Đó là loại sang. Thường chỉ là banh bằng cao su, lúc mới còn căng cứng đá
rất tốt, nhưng chơi một thời gian ngắn cao su trở nên mềm nhẽo, đá nghe lịch
phịch và khi rơi xuống đất thì không nảy lên được nữa. Nhưng chẳng hề gì, miễn là có một vật tròn tròn để mà tranh nhau đá
vào gôn bên kia là vui rồi. Học trò trường nhà quê thì ngay banh cao su cũng là
món xa xỉ chỉ ước ao chứ không mấy khi
có được, họ thường dùng trái bưởi để làm banh. Bưởi xanh mới hái trên cây xuống
rất cứng và nặng, đá mạnh vào có thể bị sưng chân, vì thế các cầu thủ chân đất
ở thôn quê nghĩ ra cách đem nướng trái bưởi trên lửa cho mềm bớt trước khi cho nó ra sân. Nhưng ngay cả bưởi có
khi cũng không phải là thứ dễ kiếm và lúc nào
cũng có, trong khi đá banh là nhu cầu hàng ngày. Họ bèn tự làm lấy banh, với một loại nguyên liệu dồi dào lúc nào cũng
có sẵn trong tầm tay: lá chuối khô và dây chuối.
Dùng một vật tròn, có thể là một hòn đất cứng để làm lõi bên trong, họ lấy lá chuối khô bao bọc nhiều lớp bên ngoài, khi thành
một khối tròn to độ trái bưởi thì họ bắt đầu dùng dây chuối để thắt một lớp bao
bọc bên ngoài. Đối với học trò nhà quê, “thắt banh” là một nghệ thuật, nhiều
đứa khéo tay đã tạo nên những trái banh lá chuối tròn trịa được thắt chặt bởi
một lớp lưới dây chuối dày bọc bên ngoài, đá êm chân mà lại bền. Cần nhất là bền, nếu chỉ mới đá có một lúc mà đã
“lòi ruột,” lá đi đàng lá dây đi đàng dây thì chán chết. Nhưng đối với những
bàn chân còn non nớt, có được một trái banh te nít cũ là lý tưởng nhất, tha hồ
đá không sợ bị hư.
Đám con nít Việt
Nam ấy chơi bóng dưới thiên hình vạn trạng, khắp
nơi, từ thành thị đến thôn quê, trên sân vận động, sân trường, trên hè phố,
trên đường làng, trong sân đình, ngoài bãi sông hoặc trên những thửa ruộng mới
gặt còn trơ gốc rạ; có nơi được huấn luyện
chỉ dẫn hẳn hoi và cầu thủ được mang giày vải,
nhưng phần lớn là “đá rừng” với chân không, và
chỉ biết dựa trên một số luật chơi căn bản bất
thành văn được truyền từ nơi nọ sang nơi kia. Họ chơi say mê đến
quên giờ giấc, trầy da, trặc chân, rách áo là chuyện thường, và niềm say mê ấy sẽ ở
lại với họ như những kỷ niệm trong sáng nhất trong quãng đời về
sau.
Từ trước thập niên bốn mươi cho đến
đầu những năm 50, các danh từ, động từ trong môn chơi này hầu
hết dùng tiếng Pháp, dĩ nhiên trong đó có nhiều
chữ được Pháp hóa từ tiếng Anh, vì môn này do người Anh bày đặt ra. Cả xã hội dùng như thế, và đám trẻ cũng lặp theo, một
cách tự nhiên như các từ được Việt hóa. Họ gọi thủ môn là giữ gôn hoặc gạc gôn (garde goal, một chữ nửa Pháp nửa Anh, có nơi
còn dùng chữ nửa Việt nửa Pháp là bắt buýt do but,
tiếng Pháp dịch chữ goal), trung phong là a văng xăng (avant centre), hậu vệ là a ri e (arrière), phạt góc là cọt ne (corner, tiếng Anh đọc theo kiểu Pháp), đụng
tay là manh (main), đánh đầu
là tết (tête), đá vào gọi là suýt hoặc sút (shoot), và khi đá lọt một bàn thì trước khi dùng chữ
“dô!” như sau này, cả bọn phe thắng cùng gào lên “gô...ô...n” giống như anh tường thuật viên người Mễ ở
đài KMEX/34, Los Angeles. Khi đám trẻ ấy lớn
lên ở miền Nam thì các thuật ngữ bóng đá dần dần được Việt hóa,
và họ quên dần cái mớ chữ lai căng họ đã dùng suốt thời nhỏ tuổi trong các trận
thư hùng đầy say mê. Kỷ cương của nền túc
cầu miền Nam đã làm công việc Việt hóa ấy, và báo chí và đài phát thanh đã hoàn tất việc phổ
biến và thay thế hẳn thói quen dùng tiếng ngoại quốc trong môn chơi này. Có
công nhất trong việc phổ biến này có lẽ là Huyền
Vũ, người tường thuật các trận đấu bóng
tròn trên đài phát thanh Sài Gòn. Thính giả say mê lối tường thuật sôi nổi,
duyên dáng và chính xác của ông, và người ta thuộc dễ dàng những thuật ngữ mà
ông dùng.
Ký giả thể thao Huyền Vũ
Ai là người đầu
tiên đã chế ra các thuật ngữ bóng tròn bằng tiếng Việt? Chắc là các vị phụ
trách về Thanh Niên và Thể Thao trong chính quyền đệ nhất Cộng Hòa. Nhưng
không rõ trước đó các từ này đã được Việt hóa phần nào chưa. Dân chúng Nam phần
Việt Nam có khả năng Việt hóa chữ nghĩa ngoại quốc rất tài tình, hơn hẳn ở Bắc và ở Trung, những vùng rõ ràng có ưu thế hơn về
chiều dày của văn hóa truyền thống. Nhưng càng truyền thống thì lại càng rụt rè
trong việc chế ra chữ cho chính mình dùng, cho nên hay có
khuynh hướng hoặc phiên âm, hoặc tìm chữ Hán Việt tương đương, trong khi đó
người miền Nam chế ngay ra chữ mới gọi thẳng tính chất và công dụng của sự vật
muốn chỉ bằng tiếng Việt. Ví dụ, trong khi miền Bắc và Trung còn dùng tiếng frigidaire thì người miền Nam gọi một cách thoải mái cái
ấy là cái tủ lạnh (cái tủ phát ra hơi lạnh thì gọi là tủ lạnh, còn ngần
ngại gì nữa?); còn limonade thì miền Nam
gọi là nước
ngọt (một tiếng tổng hợp tất cả các thứ nước giải khát có đường, sau đó nếu cần
mới chỉ rõ là nước cam, nước chanh, xá xị v.v...); theo Tàu gọi là mì chính hay vị tinh thì miền Nam
gọi là bột
ngọt; các bộ phận trong
chiếc xe đạp thì trong khi Bắc và Trung còn dùng toàn tiếng Tây thì miền Nam Việt hóa một cách dễ dàng: cái ghi đông là ‘tay
cầm’ (còn vô lăng của xe hơi
thì là ‘tay lái’), sên là ‘dây xích,’ phanh là ‘thắng’
(cho cả danh từ lẫn động từ), moyeu là cái ‘đùm,’ garde-boue là ‘vè chắn bùn’; loại xe chở xăng mà tiếng
Pháp gọi là citerne thì người Bắc chỉ
biết gọi nhại là ‘xi-téc’, hay người Trung ‘xi-tẹt’, người Nam đã Việt hóa vô
cùng tài tình và chính xác : ‘xe bồn’... Đặc điểm của sự Việt hóa này là thấy
sao nói vậy, có tính thực dụng, để có thể dùng ngay một cách dễ dàng hàng ngày,
không bị cái gánh nặng chữ nghĩa bác học ám ảnh, mà rốt cuộc lại có sức sống
nhất, được cả nước chấp nhận và dùng rộng rãi.
Điều này ngẫm ra cũng là sự lạ. Đất Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp mà dân ở đó
lại không sính dùng tiếng Pháp trong sinh hoạt hàng ngày. Họ Việt hóa chữ nghĩa
của họ một cách triệt để. Hình như đó là tính cách của vùng đất mới, “dọc ngang
nào biết trên đầu có ai" kể cả cái mớ chữ nghĩa rắc rối
của giới học thức. Tự tạo chữ ra mà dùng, dù thoạt đầu chỉ là để cho tiện dụng
thôi, nhưng đó
cũng chính là biểu hiện lòng yêu nước, một cách hồn nhiên gần như tự phát không chịu nô lệ
tiếng nước ngoài.
Cho nên không lạ là các thuật ngữ tiếng Việt của môn đá banh được
phổ biến và dùng rộng rãi rất nhanh trong quần chúng miền Nam, những manh, những tết, những nu (ném biên), những gạc gôn. những a ri e... biến mất sạch trong không đầy một thập niên, (những
người sinh trong thập niên 50 có thể chẳng hiểu gì về những chữ này!) và được
thay thế bằng một hệ thống thuật ngữ hoàn chỉnh, tuy là có nặng phần hán-việt. Rõ ràng quần chúng miền Nam không dự phần trong vụ đặt tên này (nếu làm được thì chắc họ đã làm từ trước lâu rồi), bởi lẽ môn đá banh thoạt tiên chỉ là môn chơi của một nhóm người,
sau nữa các ý niệm vai trò và động tác trong sân khó
diễn đạt bằng ngôn ngữ thường ngày, vì không có
chữ tương đương và cũng không có nhu cầu trong rộng rãi quần chúng. Tuy nhiên
mọi người chấp nhận hệ thống thuật ngữ mới một cách tự
nhiên, ngay cả chữ “túc cầu” cũng trở nên quen
thuộc không kém chữ “đá banh.” Ở đây tưởng cũng nên mở
một dấu ngoặc của một ngoại lệ, đó là chữ
“banh.” Chỉ ở Bắc dùng chữ “bóng” để chỉ một vật khối tròn có hơi bên trong,
Trung và Nam không dùng, cùng lắm chỉ dùng chữ “bong bóng,” cho nên đành phải
chấp nhận phiên âm chữ balle từ tiếng Pháp thành “banh.” Mà xin các nhà ngữ học xem lại coi, người
Bắc có dùng chữ “bóng” để chỉ một cái gì khác ngoài cái vật ngoại nhập có tên
gọi là balle ấy hay không? Hay đây cũng là một chữ được chế
ra rút từ chữ “bong bóng,” cốt để chỉ cái vật ấy?
Nghĩa là cũng là một cách phiên âm, nhưng có “dính dáng” với ngôn ngữ Việt Nam
hơn, để cuối cùng ta có “quả bóng” cho miền Bắc,
“trái banh” cho Trung và Nam?
“Đá banh” là một động từ nôm na, không thể
dùng nó như danh từ để chỉ môn chơi, như chữ “túc cầu” hay “bóng tròn” trước
đây được dùng ở miền Nam, hay chữ “bóng đá” của miền Bắc mà hiện nay trong nước đang dùng một cách chính
thức. Kể ra trong các chữ ấy,“bóng đá” là hay hơn cả, vì khi đã có bóng chuyền, bóng rổ, bóng
bàn thì bóng đá hợp lý và tượng hình hơn... bóng tròn rất nhiều, và dĩ nhiên là Việt
Nam hơn “túc cầu.” Nhưng sự thành hình của ngôn ngữ rất nhiều khi không dựa vào
sự hợp lý mà còn vào nhiều yếu tố khác, hễ dùng
quen thì nên, còn nếu vì một lý do gì không dùng nữa và được thay thế thì nó
chết, nó lẳng lặng rút vào quên lãng, chẳng kiện cáo ai cả.
Đề cập đến sự
dửng dưng của người Mỹ đối với bóng đá, một người di dân trung niên đã nói
rằng: “Phải là những kẻ khi còn nhỏ có cái say mê dắt trái banh đi thì lớn lên
mới thích môn này được.” Phát biểu ấy hẳn nhiên là đúng nhưng không đủ, vì
nhiều người cả đời chưa bao giờ đụng đến trái banh vẫn ham xem đá banh như
thường. Ngày nay cánh phụ nữ tại Việt Nam cũng mê World Cup lắm, cũng thưởng
thức được cái hay cái đẹp của môn chơi, cũng cổ võ nồng nhiệt, nhưng tuyệt đại
đa số trong bọn họ chưa bao giờ chơi bóng đá. Môn này đã biến thành một cảm
hứng chung của xã hội rồi, và hoàn toàn có khả năng thu hút mọi người thành
“fan” của nó mà không cần bắt họ phải là đồ đệ
chính cống, theo nghĩa là phải nhập môn, phải tập
dượt, phải ra sân.
Hầu hết
những người chơi đá banh từ ngày nhỏ khi lớn lên thì không chơi nữa. Chỉ một số ít theo nghiệp này, trong một thời gian mà tuổi tác
và sức khỏe họ còn cho phép. Một số đông hơn thỉnh thoảng ra sân, một cách tài
tử. Nhưng tất cả đều tiếp tục ham xem các cuộc thi đấu, hầu như không có loại trừ. Trước kia ở trong nước, họ cố gắng có mặt trong các trận quốc tế,
các trận tranh cúp quốc gia. Ra nước ngoài họ ôm lấy cái ti vi trong những ngày
World Cup, hoặc nếu bận đi làm thì thu vào băng video để tối về coi. Tại một
nước hững hờ với bóng đá như nước Mỹ, người xem các cuộc thi đấu dễ có thái độ trung lập hơn là những nơi mà sự ham
thích làm sôi sục cả xã hội. Nhưng thật ra ít khi nào xem một trận đấu là lòng ta hoàn toàn trung lập, không mong cho một
bên thắng hơn là bên kia. Nếu một bên là đoàn cầu
của nước mình thì khỏi nói, sự thiên vị sẽ ở sẵn trong ta như một yếu tố bẩm
sinh, dù có tu luyện cái tâm đến mức nào cũng không thể trung lập tuyệt đối
được. Thế nhưng khi xem một trận giữa hai nước trên thế giới không có liên hệ
gì đến mình, sự thiên vị một bên vẫn thường có, hoặc có ngay từ đầu, hoặc thành
hình lúc nào không hay trong lúc đang
xem. Ví dụ ta đang xem trận Hòa Lan đấu với
Argentine chẳng hạn. Hai “thằng” đó thì chẳng dính líu gì
tới Việt Nam, bên nào thắng cũng chẳng tác động gì đến tình cảm của mình. Đó là
hai đội hay, có tiếng, đều đã từng đoạt chức vô địch thế giới, một trận sẽ đem
lại cho sự thưởng ngoạn của mình nhiều “sướng thỏa” (lại chữ mượn
của Huyền Vũ). Thế nhưng xem một lúc thì mới phát giác
ra rằng chính mình đang nghiêng về phía Hòa Lan, nghĩa là hồi hộp lo lắng khi
thấy quân Nam Mỹ ào ạt tấn công sát khung thành
của Vùng Đất Trũng, và nếu thấy điều ngược lại đang diễn ra thì vui mừng... Khi phát giác
ra như thế thì thoạt tiên thấy hơi bực mình, vì vẫn
cho rằng đừng để cảm tình xen vô thì thưởng thức
cái hay được trọn vẹn hơn. Và thử dò lòng mình xem do đâu mà sinh ra thiên vị
như thế, và đưa ra một vài lý do như là các giả
thuyết, chứ chưa dám khẳng định hẳn. Có phải vì thời xửa thời xưa Hòa Lan đã
đến Việt Nam buôn bán, lập thương điếm ở Phố
Hiến và Hội An, nên từ vô thức lòng ta đã có cái gì đấv gắn bó với “nó”? (giả
thuyết này xem ra nặng phần... phân tâm học quá!).
Hay là vì hai thập niên trở lại đây Hòa Lan đã tỏ ra rất tốt với dân tị nạn
Việt Nam, nhận rất nhiều thuyền nhân cho tá túc ở nước
mình để làm ăn sinh sống? Hay là vì nhà xuất bản Cái Đình của các anh em tại
Hòa Lan nặng lòng với văn hóa Việt Nam như Nguyễn Hiền, Cao Xuân Tứ, Nguyễn Lê Hồng Hưng, Nguyễn Hoàn Nguyên v.v...? Hay vì gần đây mình đã có một chuyến
du lịch Hòa Lan và có cảm tình với các loại hoa ở đó?... Khó có thể biết lý
do nào là chính, cái nào là phụ, nhưng ngẫm ra thì rõ ràng Hòa Lan đang “có
điểm” trong lòng một người Việt Nam đang coi đá banh hơn là nước Argentine nhiều. Từ đó suy ra, ở đời này thật khó mà giữ lòng được
công bằng tuyệt đối. Từ một chỗ ngóc ngách sâu kín trong tâm lý của chúng ta sẽ
nảy ra một yếu tố nào đấy xô
cho cán cân dần dần thiên lệch, ngoài sự kiểm soát của lý trí.
Những người đàn
ông trung niên Việt Nam ở bất cứ nơi nào trên thế
giới xem trận chung kết giữa Pháp và Brazil vừa
rồi có thể nói đều đứng về phe
Pháp (*). Dù họ là con cháu của những vị quan lớn có nhiều liên hệ với “mẫu quốc” ngày xưa, hay của những người
đã ngã gục trước họng súng của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ, dù họ từng là
những cầu thủ tí hon thời Ducouroy hay chỉ mới là kẻ say mê Huyền Vũ trong thập niên 60, tất cả các tấm lòng đều nghiêng về phía Pháp. Có lẽ chẳng cần lý
giải vì sao. Lịch sử đã tạo như thế. Họ được xem cảnh vui mừng của dân Pháp tại
cầu trường Stade de France, tại Champs Elysées
ngày hôm đó, có lẽ chính lòng họ cũng mang phần nào nỗi hân hoan ấy. Và họ vô cùng tâm đắc khi nghe người tường thuật
của đài truyền hình KABC của Mỹ, vào lúc cuối của trận chung kết ấy đã trích câu quốc ca Pháp để nói về đội Pháp: ... Le jour de gloire
est arrivé... Ngày vinh quang đã tới. Không câu nào “đắt” hơn là câu đó, trong giờ
khắc ấy. Một tổng hợp văn hóa, lịch sử và sự kiện
hiện tại cực kỳ khéo léo, trong giây phút xuất thần của một phóng viên thể
thao.
Nhiều người cho
rằng coi đá banh là phải coi với lòng mong cầu một phe thắng, chứ nếu hoàn toàn
dửng dưng thì còn gì là hào hứng? Có phải vì thế mà người ta bày đặt thêm vụ cá
độ để lòng mong cầu càng mạnh mẽ thiết tha hơn nữa, hầu cuộc
chơi càng thêm hào hứng? Ngược lại, đối với một người đang dốc lòng tu tâm
dưỡng tánh — thường nằm trong lớp trung niên — thì càng tránh những xúc động
thái quá càng tốt cho tâm thân của họ, ngay trong lúc coi đá banh cũng không
nên để cái cảm xúc hơn thua nó chế ngự tâm của mình, mà chỉ nên để ý đến nghệ thuật của hai phe mà thôi. Cảm xúc sẽ che
mờ khiếu thưởng ngoạn, lòng mong cầu sẽ như một mảng vô minh che mắt khiến
chúng ta không thưởng thức được trọn vẹn cái hay cái đẹp thuần túy của chiến
thuật chiến lược mỗi bên, hay tài nghệ của những đôi chân vàng của các cầu thủ. Xem thế thì cái Chân, Thiện, Mỹ cùng lòng ham
muốn, mong cầu, dục vọng nằm cả trong thế giới
túc cầu này. Hàng triệu người xem nhưng mỗi người sẽ
với căn cơ khác nhau, với trình độ thưởng thức cao thấp khác nhau, với niềm vui
và nỗi buồn khác nhau. Nhưng may mắn tất cả đều có một mẫu số chung đẹp: ham thích một môn chơi say mê và lành
mạnh, có khả năng đem con người lại gần nhau.
*
Nhận định này không hoàn toàn đúng. Sau khi báo Thế Kỷ 21 số 112, tháng Tám
1998 phát hành ít lâu, tác giả Chuyện Đá Banh đã nhận được một email từ Canada
có nội dung : “Không, không, tôi yêu mến
và hoàn toàn ủng hộ đội Brazil chứ không phải đội Pháp !!”
Ký Giả LÔ RĂNG: "Nhà Báo Nói" Huyền Vũ
Ở miền Nam chúng ta ngày trước, người viết thể thao hay nhất là Thiệu Võ, còn "nhà báo nói" thể thao kiệt hiệt nhất là Huyền Vũ. Trong những kỳ đại hội bóng tròn thế giới hay Euro 4 năm một lần, thuyết mình viên bóng tròn danh tiếng được mời là Martin Tyler hay là Gary Bloom. Tôi không dám đưa ra một sự so sánh vì các ông M. Tyler và G. Bloom là nhà bình luận bóng tròn cho truyền hình tầm cỡ thế glới. Còn nhà báo nói Huuyền Vũ của chúng ta là thuyết mình viên bóng đá cho vô tuyến truyền thanh ở Việt Nam mà thôi. Nhưng các nhà bình luận kể trên chỉ trình làng giọng nói mà không có xuất hiện trên màn hình, nên tôi mới có một sự liên tưởng. Tất nhiên cái tiếng Anh hạn chế của một người di dân già là tôi chắc không thưởng thức được hết cái tinh túy của các nhà bình luận M. Tyler và G. Bloom nên đối với tôi, người tường thuật bóng đá ly kỳ nhất, linh động nhất, say mê nhất... chỉ nghe chuyện bóng đá trên radio mà vung chân muốn sút, chính là Huyền vũ.
Nguyễn Duy Chính: GIÁO SƯ ĐẶNG NGỌC THIỀM
Thằng Tiến Con ghé tai tôi nói nhỏ:
- Thiềm thừ là con cóc.
Tôi hơi ngạc
nhiên, không hiểu tại sao nó lại có thể “uyên
bác” đến thế, hỏi lại:
- Thiềm thừ là con cóc?
Thằng Tiến gật gù:
- Đúng rồi,
tao mới tra hôm qua. Nhà tao có quyển từ điển Hán Việt.
Phục thằng
này thật, nó bé bằng tôi mà cái gì cũng biết. Nó lại
thì thầm:
- Mày nhìn
xem ông ấy có giống con cóc không?
Nó nói đây
là nói về ông giáo sư Việt Văn đang trên bục
giảng bài, ông Đặng Ngọc Thiềm. Cái tên nghe cũng hay nhưng những
đứa bé 11 tuổi vừa vào đệ Thất chúng tôi thì chắc chẳng ai muốn biết cái tên ông ấy nghĩa là gì, trừ thằng Tiến. Độ này chúng tôi đã hơi quen quen với tính khí của ông Thiềm nên cũng đỡ sợ chứ mấy hôm đầu vừa thấy ông ta bước vào lớp là
đã chết khiếp. Nhìn kỹ,
với cái bụng to và đôi mắt gườm gườm, đứng chống hai tay lên bàn ông quả cũng
giống một con cóc đang chờ mồi thật.
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO: CHƯƠNG 11: KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM
DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung
Pháp
hiệu đính năm 2018
° ° ° ° °
CÂU 693 ĐẾN CÂU 804
“Nhờ em trả nghĩa, mắc
bợm buôn hoa”
693. Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về. [1]
695. Một mình nương ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt tủi, tóc se mối sầu.
697. Phận dầu, dầu vậy cũng dầu, [2]
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
699. Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít, cho người dở dang. [3, 4]
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về. [1]
695. Một mình nương ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt tủi, tóc se mối sầu.
697. Phận dầu, dầu vậy cũng dầu, [2]
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
699. Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít, cho người dở dang. [3, 4]
Bùi Văn Phú: Bóng đá, nước Mỹ và kỷ niệm
Nhiều nghìn khán giả Mỹ đến trước Toà Thị chính San Francisco
xem trực tiếp truyền hình trận Mỹ-Bỉ trong World Cup 2014
(Ảnh: Bùi Văn Phú)
Giải Túc cầu Thế giới đang diễn ra ở Nga từ một tháng qua và sẽ kết thúc vào
Chủ Nhật 15/7 này, khi đội tuyển Pháp và đội tuyển Croatia gặp nhau tranh vô
địch World Cup 2018.
Ba mươi hai đội banh từ khắp các châu lục đã tranh tài
trong bốn tuần lễ qua, với nhiều bất ngờ. Đức, đương kim vô địch và đã bốn lần
đoạt giải World Cup nhưng năm nay phải khăn gói rời nước Nga sau vài trận đầu
là điều gây ngạc nhiên cho giới hâm mộ bóng đá. Rồi Spain, Brazil, Uruguay là
những nước đã từng đoạt cúp, cũng lần lượt xách vali ra về để lại nước Croatia
bé nhỏ, mới ra đời hơn hai thập niên, vào chung kết đối đầu với Pháp, từng đoạt
cúp.
Thật là một mùa thi đấu nhiều kịch tính khiến giới cá độ
bàn vui với nhau là mùa World Cup này đã có nhiều vụ “nhảy cầu, nhảy lầu” sau
những trận tranh tài.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)