Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn Cao. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn Cao. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 16 tháng 11, 2023

Nguyễn Phú Yên: Văn Cao, giấc mơ một đời người

 
Nhạc sĩ Văn Cao. Ảnh: Nhiếp ảnh gia Lê Quang Châu.

Nhân 100 năm ngày sinh Nhạc sĩ Văn Cao (15/11/1923 –15/11/2023)

Nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ Văn Cao (15/11/1923-15/11/2023), một tài năng lớn trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật mà cuộc đời phản ảnh bi kịch chung của rất nhiều trí thức, văn nghệ sĩ thời ấy đi theo Việt Minh vì lòng yêu nước, chống Pháp, nhưng rồi tài năng hoặc bị vùi dập hoàn toàn hoặc bị kìm hãm, không thể cất cánh trong một chế độ độc tài toàn trị. So với nhiều người trong vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm bị bắt, bị tù đày nhiều năm, Văn Cao có lẽ một phần nhờ vào việc là tác giả của bài Tiến Quân Ca (được chọn làm quốc ca của nước VNDCCH và bây giờ, nước CHXHCNVN) nên chỉ phải đi học tập chính trị và bị đảng cho ra ngoài lề một thời gian. (Trừ Tiến quân ca, tất cả những ca khúc của ông cũng giống như các nhạc phẩm tiền chiến khác không được lưu hành ở miền Bắc. Giai đoạn này, Văn Cao sống bằng những công việc khác và hầu như không còn sáng tác. Đến cuối thập niên 1980, những nhạc phẩm này mới được lưu hành trở lại). Tuy nhiên biến cố đó cũng khiến ông thu mình lại, sống khép kín, lặng lẽ cho đến cuối đời.

Một trăm năm ngày sinh của Văn Cao, DĐTK xin giới thiệu một vài bài viết với quan điểm khác nhau của hậu sinh về ông.


Hoàng Hưng: Kỷ niệm lần đầu gặp Văn Cao.

Nhạc sĩ Văn Cao (trái) và nhà thơ Hoàng Hưng

SÁNG NAY, VOV KỶ NIỆM 100 NĂM VĂN CAO, RA MẮT SÁCH “VĂN CAO – MÙA CHỮ, MÙA NGƯỜI” CÓ BÀI THƠ TẶNG VĂN CAO CỦA HOÀNG HƯNG

Nhân đây, xin kể lại buổi đầu tiên gặp anh và bài thơ tặng anh.


Phạm Xuân Nguyên: Văn Cao trong “Ghi” của Trần Dần

 “GHI” là những tập sổ tay ghi chép của nhà thơ Trần Dần trong vòng bảy năm (1954 – 1960). Bảy năm đó đã xảy ra hai sự biến động dữ dội trong lịch sử nửa nước miền Bắc: Cải Cách Ruộng Đất và Nhân Văn – Giai Phẩm. Những ghi chép của Trần Dần kể về hai sự kiện đó, nhưng chủ yếu là về tai nạn Nhân Văn – Giai Phẩm. Đó là ghi chép của một người, cho một người, song nói như nhà văn Phạm Thị Hoài người được gia đình Trần Dần cho phép đọc, biên tập và xuất bản “GHI” (in ở nước ngoài, 2001), thì “Với chúng ta, đó là những văn liệu và sử liệu vô giá về một giai đoạn văn chương và lịch sử cho đến nay vẫn xếp sổ, nếu quả còn có sổ.” Bởi vì trong “GHI” Trần Dần viết theo lối nhật ký ghi lại rất thực các sự kiện, suy nghĩ, hành động của các văn nghệ sĩ tìm cách chống đỡ tai nạn ập xuống đầu mình và cả thái độ ứng xử của họ với nhau trong cơn bĩ cực đó. Đọc “GHI” thấy được sự khốn khổ, khốn nạn của một thời.


Thận Nhiên: Về bài thơ “Đồng chí” của Văn Cao.

ĐỒNG CHÍ

Thơ: Văn Cao

Người ta các đồng chí của tôi

Treo tôi lên một cái cây

Đợi một loạt đạn nổ

Tôi sẽ dẫy như một con nai con

Ở đầu sợi dây

Giống như một nữ đồng chí

Một anh hùng của Hà Tĩnh


Thứ Sáu, 10 tháng 11, 2023

Phạm Đình Trọng: Văn Cao – Buổi sáng có trong Sự thật

100 NĂM VĂN CAO  15.11.1923 – 2023 

Văn Cao (1923-1995). Ảnh: Phạm Đình Trọng.

Mẩu chuyện nhà thơ Phác Văn (1932 – 1996), cán bộ phòng Văn hoá Văn nghệ quân đội, Tổng cục Chính trị kể về Văn Cao từ thời tôi còn làm báo binh chủng Thông Tin ở Hà Nội trước khi khoác ba lô vào mặt trận phía Nam đến nay vẫn còn nguyên trong trí nhớ của tôi. Chuyện rằng:


Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2023

Đọc lại một bài viết của Xuân Diệu phê phán, đấu tố Văn Cao


Nhà thơ Hoàng Hưng bình: Nhân 100 năm Văn Cao, đọc lại bài Xuân Diệu phê phán quan điểm Thơ của Văn Cao qua những trích đoạn thú vị mà Văn Cao viết gần 70 năm trước! Chắc không ít người giật mình!

***

Xuân Diệu: Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao


Mặt trận tư tưởng, tinh thần, mặt trận văn hoá văn nghệ quả thật là xung yếu, tinh tế! Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. Cũng là một thứ văn thơ “giật gân”, giật gân đến một độ rất nguy hiểm; thà cứ như cái thùng sắt tây Lê Đạt, thà cứ ngổ ngáo cao bồi như Trần Dần: dễ thấy; đằng này cứ như triết gia ban phát đạo lý nghìn đời; người nào đã biết thế nào là chân lý chân chính, đọc một số thơ và những bài văn, tựa của Văn Cao, có thể tức tối đến đau óc, bởi cái giả dối ở đây nó chằng chịt thật là khó gỡ, nó đã thành máu thịt của Văn Cao, nó nói cứ như thánh, và còn biết nhoẻn miệng cười duyên nữa!


Thứ Sáu, 4 tháng 2, 2022

Trần Mạnh Hảo: Tác phẩm “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao từng bị “giết” như thế nào?

Nhạc sĩ Văn Cao (file photo) - SGN

Không đợi khi Xuân đến, Tết về như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết cuối Tháng Mười Hai 1975, hoàn thành trong dịp Tết Bính Thìn năm 1976. Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa: vui ít, buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều…

Hầu như tất cả trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này: ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình… Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.

Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay:

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường mùa vui nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

Một trưa nắng cho bao tâm hồn

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Người mẹ nhìn đàn con nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên


Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2022

Phan Lạc Phúc: Văn Cao. Giấc Mơ Một Đời Người

Tranh Đinh Cường, minh họa nhạc phẩm Thiên Thai của Văn Cao

 Đầu năm 1995, có người trao cho tôi một cuốn video mà tôi mong đợi đã từ lâu. Cuốn băng về Văn Cao: “Giấc Mơ Của Một Đời Người”. Từ bữa ấy tới nay, đã hai, ba lần xem đi xem lại cuốn băng này mà lần nào xem xong tôi cũng không tránh khỏi thở dài. Một con người tài hoa như vậy, tâm hồn lớn lao như vậy, có đóng góp như vậy mà cuối đời, sao mà tẻ lạnh, buồn tênh. Một ông già lụm cụm, râu tóc bạc phơ, một mình trong gian phòng vắng, ngoài trời mưa bay, cây bàng khẳng khiu, những chiếc lá cuối cùng đã rụng. Văn Cao nhìn “cây bàng mồ côi mùa đông” trong khi chiếc đồng hồ trên tường không ngừng nghỉ, điểm những giọt thời gian tích tắc, tích tắc. Những tiếng tích tắc ấy vang lên mênh mông trong gian phòng vắng như một câu hỏi mơ hồ nhưng khắc nghiệt: đến bao giờ.

Đến bao giờ xuất hiện dấu chấm hết cho một đời người, bởi vì không ai tránh khỏi: con người sinh ra là để chết (l’homme, un être mortel). Những tiếng tích tắc ấy như những giọt cường toan nhỏ xuống lòng người.


Thứ Bảy, 29 tháng 2, 2020

Phạm Duy: Nói về ca từ trong những bài đầu tiên của Văn Cao

Thiên Thai – họa phẩm của Đinh Cường

Về ca từ, vào lúc thành lập của Tân Nhạc, đa số các nhạc sĩ đều làm lời ca với thơ năm chữ… có thể họ đã bị ảnh hưởng thi sĩ Lưu Trọng Lư trong bài Tiếng Thu :

Em không nghe mùa thu              Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực               Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ?

Cũng có thể họ bị ảnh hưởng của bài thơ này trong sách giáo khoa Lớp Một :

Cứ mỗi độ thu sang                      Hoa cúc lại nở vàng
Ngoài vườn hương thơm ngát     Ong bướm bay rộn ràng
Em cắp sách tới trường                Nắng tươi rải trên đường
Trời xanh thay áo mới                 Đẹp sao lúc thu sang

Văn Cao đã dùng thơ 5 chữ trong một bài hát hướng đạo như Anh Em Khá Cầm Tay

Anh em khá cầm tay                     Mau đến cùng nhau hát
Nơi đây chúng mình ca                Trong gió chiều thật êm
Bao nhiêu gió về đây                    Chim chóc về đây hót 
A vui sướng làm sao                    Ta ngó trời xanh êm

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014

Ðặng Huy Văn - "Đồng Chí Của Tôi"

Nhạc sĩ Văn Cao (hình: internet)
Đồng Chí Của Tôi” là một bài thơ cho đến nay vẫn còn bị cấm in thành sách của nhạc sĩ Văn Cao, tác giả Quốc Ca VN vì nó mô tả chân thực một vụ xử bắn trong CCRĐ. Vụ xử bắn này được diễn ra ngay trên quê hương Hà Tĩnh máu thịt của tôi. Đọc bài thơ lên, nhất định các dư luận viên ăn lương của đảng CS VN sẽ vô cùng phẫn nộ vì cho rằng, nhạc sĩ văn Cao đã bịa ra để nói xấu đảng và bác Hồ chứ chuyện này không có. Nhưng xin thưa các vị, chuyện này đã xẩy ra trước mắt tôi vì người bị bắn trong bài thơ này chính là một bà cô họ của tôi, một người bạn cùng hoạt động trong cuộc kháng chiến chống Pháp với chú tôi trước đây.

Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Phạm Duy - VĂN CAO TRONG TÔI


Phạm Duy

Trong ba đêm VĂN CAO TRONG TÔI tại phòng trà TÌNH CA, tôi nói ra được vài điều mà tôi nghĩ là sẽ bổ ích cho những người yêu nhạc và nhất là yêu nhạc Văn Cao.


Trước hết, tôi nói tới sự đa dạng trong nhạc tình của VC trong thời kỳ mới thành lập của Tân Nhạc này. Lúc đó, những chàng thanh niên mới tập tễnh soạn ca khúc VN (như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Hoàng Qúy, Văn Cao…) thường dùng một âm giai “mineure” hơi giống như âm giai của điệu Sa Mạc (re fa sol la do re). Những bài như Buồn Tàn Thu, Bản Đàn Xuân, Cô Láng Giềng, Con Thuyền Không Bến đều có chung một hơi hướng VN và một phong cách buồn bã như nhau.

Duy chỉ có Văn Cao là muốn thay đổi phong cách, cho nên sau Buồn Tàn Thu thì ông buông cái “re mineure” ra và dùng những âm giai “majeure” để diễn tả cái buồn (lúc đó chưa có nhạc vui trong Tân Nhạc như hướng đạo ca hay thanh niên lịch sử ca. Ngay Nguyễn Xuân Khoát và Đỗ Nhuận cũng còn bám vào âm giai “re mineure” để viết Hồn Xuân, Nhớ Chiến Khu hay Côn Đảo).

Không còn là ngũ cung “re mineure” nữa, và dù tác giả tuyên bố trong một cuốn video, đây là ca khúc của kẻ thất tình, nhạc điệu trong Thu Cô Liêu, Cung Đàn Xưa của Văn Cao là nhạc chủ thể Tây Phương (musique tonale) với những áp-âm (notes sensibles) làm cho nét nhạc có nhiều cảm tính. Nhịp điệu là thể valse đầy lưu luyến và cũng đầy luyến tiếc.

Sau đó, trong hai bài nhạc tình về mùa Thu và mùa Xuân là Suối MơBến Xuân, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy một chút hạnh phúc. Con suối trong rừng Thu buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu của chúng ta. Ðứng trên bến Xuân để nhìn những cánh buồm xa xa và nghe tiếng chim ca như lưu luyến cuộc tình vừa qua của chúng mình…

Rồi tới khi vươn tới những tác phẩm lớn như Thiên ThaiTrương Chi thì “ngữ nhạc” của Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của cuộc tình tiên cảnh cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của tình buồn với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thuở.


Nói về ca từ trong những bài đầu tiên
của Văn Cao
(trích trong đêm NHẠC THỌAI VĂN CAO TRONG TÔI)

Về ca từ, vào lúc thành lập của Tân Nhạc, đa số các nhạc sĩ đều làm lời ca với thơ năm chữ… có thể họ đã bị ảnh hưởng thi sĩ Lưu Trọng Lư trong bài Tiếng Thu :
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?

Cũng có thể họ bị ảnh hưởng của bài thơ này trong sách giáo khoa Lớp Một :
Cứ mỗi độ thu sang
Hoa cúc lại nở vàng
Ngoài vườn hương thơm ngát
Ong bướm bay rộn ràng
Em cắp sách tới trường
Nắng tươi rải trên đường
Trời xanh thay áo mới
Đẹp sao lúc thu sang

Văn Cao đã dùng thơ 5 chữ trong một bài hát hướng đạo như Anh Em Khá Cầm Tay :
Anh em khá cầm tay
Mau đến cùng nhau hát
Nơi đây chúng mình ca
Trong gió chiều thật êm
Bao nhiêu gió về đây
Chim chóc về đây hót
A vui sướng làm sao
Ta ngó trời xanh êm
Và sau đó, trong kháng chiến, anh có bài Ngày Mùa :
Ngày mùa vui thôn trang
Lúa không lo giặc về
Khi mùa vàng thôn quê
Ngày mùa vui thôn xóm,
Đầy đồng giáo với gươm
Súng tì tay anh đứng,
Em ngừng liềm trông sang.

Quê Em của Nguyễn Đức Toàn cũng là thơ năm chữ :
Quê em miền trung du
Đồng suôi lúa xanh rờn.
Giặc tràn lên thôn xóm…

Sau này là những bài thơ hay bài hát khác :
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Cung Trầm Tưởng

Đưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Như u tình đã qua
Thấm linh hồn ma soeur
Nguyễn Tất Nhiên

Chỉ chừng một năm thôi
Là quên lời trăn trối
Ai nuối thương tình đôi
Chỉ chừng một năm thôi
Phạm Duy

Thế hệ nhạc sĩ đầu tiên của Tân Nhạc là chúng tôi, nghĩa là Lê Thương, Đặng Thế Phong, Văn Cao, Phạm Duy v.v… cũng như các thi nhân tiền chiến, vào lúc sắp thoát ra khỏi hay vừa thoát ra khỏi ách thực dân Pháp, nhờ có cuộc Cách Mạng mùa Thu 1945, thì trong sáng tác, chúng tôi đều muốn kêu gọi hay lắng nghe tiếng quê hương đất nước, mùa màng cây cỏ, nghe tiếng mẹ, gọi em, gọi đồng bào ruột thịt, nghe Trời, gọi Phật…

Sau khi Lưu Trọng Lư lắng nghe mùa Thu (Em không nghe mùa Thu, dưới trăng mờ thổn thức), Lê Thương gọi mùa Thu (Thu Trên Đảo Kinh Châu), Thẩm Oánh gọi thuyền (Thuyền ơi hãy ghé vào bờ), Văn Cao gọi suối (Suối ơi, bên rừng Thu vắng), tôi gọi chiều (Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai)… Mấy chục năm sau, Trịnh Công Sơn vẫn còn gọi nắng (Gọi nắng trên vai em gầy), còn thi sĩ Phạm Thiên Thư thì vẫn nheo nhéo gọi người tình Ẩn Lan (Gọi Em là Đóa Hoa Sầu). Và dường như tất cả chúng tôi đều cất cao tiếng gọi Mẹ (Mẹ Việt Nam ơi, chúng con đã về giữ thơm quê Mẹ)…

Lúc tiến qua những tình khúc dài hơn Thu Cô Liêu, Cung Đàn Xưa như Suối Mơ, Bến Xuân thì ca từ trong nhạc Văn Cao lại khác đi, có khi nặng về thơ 7 chữ, phần nhiều là thơ tự do nhưng đi theo với những câu nhạc. Trong hai bài này, nhạc tính Văn Cao có tính chất mô tả nhiều hơn.

Trong thực tế, cho tới lúc này, chưa có một nhạc sĩ nào có thể mô tả cái đẹp của con suối trong rừng Thu hay mô tả người đẹp trong cảnh bến sông vào lúc Xuân sang. Trong cả hai bài nhạc tình về mùa Thu và mùa Xuân này, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy một chút hạnh phúc. Con suối trong rừng Thu buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu của chúng ta :
Suối ơi ôi miền yêu mến
Còn ghi khi bóng ai tìm đến
Đàn ai nắn cung lưu luyến
Suối hát theo đôi chim uyên…

Ðứng trên bến Xuân để nhìn những cánh buồm xa xa và nghe tiếng chim ca như lưu luyến cuộc tình vừa qua của chúng mình :
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua...

Ba Tuyệt Phẩm của Văn Cao
Tôi muốn dành phần cuối của chương trình này để nói về ba tuyệt phẩm của Văn Cao : Thiên Thai, Trương Chi Trường Ca Sông Lô.
Hãy nói về nhạc tính (caractère musicale) của ba tác phẩm này.
Tuy viết ra một bản hát vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh – nghĩa là đã vượt qua hình thức đoản khúc… Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc (measures) chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca thần diệu… nhưng Văn Cao không tả thực trong bài Thiên Thai này !
Thiên Thai là một trường ca ấn tượng, impressionist, tạo cảm xúc cho người nghe nhiều hơn là mô tả một câu truyện. Tất cả những hình ảnh chính của câu truyện cổ như hai chàng Lưu Nguyễn, bầy thiên tiên hoặc những cảnh vật như suối hoa đào, chiếc thuyền lan, nước ngọc tuyền, đều được mô tả một cách rất mơ hồ… giống như trong một giấc mộng vậy. Ta biết là có con thuyền chở Lưu Nguyễn tới cõi Thiên Thai, ta biết là có bầy thiên tiên múa hát dâng trái đào thơm… nhưng ta không thấy được họ.
Khi cùng người yêu xây được ngôi nhà bằng cỏ bên suối mơ hay trước bến xuân với hai tình khúc trước thì Văn Cao có thể mời đón chúng bước vào căn nhà bên chiếc cầu soi nước để ngồi nhìn đàn nai đùa trên đám lá vàng tươi hay đứng trước bến sông để nhớ tiếc những ngày tha hương… Nhưng trong Thiên Thai, cõi mơ của Văn Cao, chúng ta không thể nào bước vào cái vườn cấm này được. Ðây là cõi riêng của Người Sông Ngự, cõi riêng của nhạc sĩ Văn Cao.
Trương Chi cũng không hiện thực trong tính cách, không mô tả (descriptive), chỉ gây ấn tượng cho chúng ta về tiếng hát hay của anh lái đò, về hạnh phúc của Mỵ Nương mỗi lần nghe tiếng hát…
Ông chỉ dùng Trương Chi để tỏ thái độ của chàng Trương sau khi thất tình, trước khi chết cũng như sau khi chết : Ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta...
Tâm hồn tôi đẹp - vì tôi hát hay - nhưng tôi nghèo và hình hài tôi xấu cho nên người ta không yêu tôi à ? Thì tôi vẫn có thể đưa ra một tuyên ngôn, rằng : Người đời có thể khinh ta, quên ta, nhưng ta vẫn còn riêng ta với trái đất này Ðó là ý nghĩa của bài Trương Chi

Nhưng tới khi soạn Trường Ca Sông Lô thì Văn Cao đã
không còn dùng phong cách gây ấn tượng trong tác phẩm nữa. Cuộc sống hiện thực và anh dũng của toàn thể dân tộc đã khiến cho anh ra khỏi chất mơ mộng trong việc mô tả con người, cảnh vật, sự việc trong một giai đoạn lịch sử kháng chiến oai hùng của chúng ta.

Trường Ca Sông Lô mở đầu với đoạn 1 mô tả Sông Lô, là con sông ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau nơi núi rừng âm u, có những ngôi nhà mờ biếc chìm một màu khói Thu... Đó là nơi mà lửa kháng chiến đã làm cháy bờ lau thưa, cháy cả thôn trang. Ai ơi, hãy lặng nhìn màu nước sông Lô xưa mà nhớ tới cảnh cũ người xưa….

Sang đoạn 2 ông chuyển cung, chuyển nhịp để kể cho ta nghe chuyện một đoàn người reo mừng trên sóng nước biếc, trở về và thấy trên sông bao nhiêu là đám xác thù. Đó là người dân hân hoan trở về con sông hiền hòa, bát ngát. Dân hân hoan chiến sĩ pháo binh Việt Nam với tiếng trái phá làm quân thù ngập chìm dòng Lô…

Qua đọan 3, một lần nữa Văn Cao lại chuyển cung, chuyển điệu : Đây dòng Lô, đây dòng Lô… Với đoàn chiến sĩ sông Lô, thân rừng áo sương, đã vút cao lòng căm hờn làm cho thây giặc nát tan.

Đoạn 4 của trường ca là đoạn mineure chậm rãi, là lời thề trong đêm gió rét, trong đêm chìm chờ đợi ánh chiêu dương.

Đoạn 5 của trường ca là đoạn majeure nhanh nhẹn nói lên niềm vui hát ca của dân buông lưới, của bóng người sầm uất bến Then…

Đoạn cuối là đoạn 6 xưng tụng dòng sông Lô trôi, dòng sông Lô vẫn trôi, mùa xuân tới nước băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh ươm bóng tre… dòng sông Lô lướt trôi, lướt trôi, lướt trôi.
Nếu Thiên Thai chỉ nằm trong một giọng Re (mineure và majeure) và Trương Chi chỉ chuyển nhịp, chuyển điệu trong hai giọng Re và Sol… thì Trường Ca Sông Lô có tới SÁU LẦN chuyển âm (modulations) cũng như chuyển tiết tấu (changing rythmes).

Trường Ca Sông Lô là bản hát dài đầu tiên của chúng ta, là một tuỵệt phẩm mà những người đi sau Văn Cao (như tôi) đã học hỏi được rất nhiều ở ông để tiếp tục làm giầu cho âm nhạc Việt Nam.
Tôi muốn được công khai tỏ lòng biết ơn thiên tài Văn Cao trong buổi nói chuyện này.

Phạm Duy,
Phòng Trà TÌNH CA,
Sài Gòn
ngày 5 tháng 10, 2007