Hiển thị các bài đăng có nhãn Võ Phiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Võ Phiến. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 28 tháng 9, 2023

Tưởng Nhớ Nhà Văn Võ Phiến

Nhà văn Võ Phiến (20/10/1925 –28/9/2015). Photo: Hoàng Ngọc Biên, 2009.

 

Thụy Khuê: Võ Phiến

Võ Phiến tên thật là Đoàn Thế Nhơn, bút hiệu khác: Tràng Thiên. Ông sinh ngày 20/10/1925 tại làng Trà Bình, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Cha là Đoàn Thế Cần làm giáo học, mẹ là Ngô Thị Cương. Võ Phiến có người em ruột là Đoàn Thế Hối, sinh năm 1932, sau này ra Bắc tập kết, cũng là nhà văn bút hiệu Lê Vĩnh Hoà. Khoảng 1933, cha mẹ xuống Rạch Giá lập nghiệp đem Đoàn Thế Hối theo; Võ Phiến ở lại Bình Định, sống với bà nội, học trường làng, trung học ở Quy Nhơn. 1942 ra Huế học trường Thuận Hóa và bắt đầu viết văn. Bài tùy bút đầu tiên tựa đề Những đêm đông viết năm 1943 đăng trên báo Trung Bắc Chủ Nhật, ký tên Đắc Lang.


Võ Phiến: Ăn và Đọc

Hình mình họa: Annushka Ahuja

Thỉnh thoảng chúng ta gặp ở tiệm một vài người Mỹ ngồi ăn phở. Có người cầm đũa khá thạo. Trong số một đôi triệu người Mỹ luân phiên đến xứ này rồi ra đi, những kẻ tò mò tiến xa vào nếp sống Việt Nam tới mức ấy chắc không lấy gì làm nhiều. Các kẻ ấy trở về nước, giữa dăm ba câu chuyện ly kỳ về đất Việt xa xôi kể với bạn bè, có thể múa biểu diễn cặp đũa, có thể nói đến cái mùi lạ lùng của rau quế vừa ăn vừa ngắt từng lá bỏ vào tô phở, đến cái vị ngộ nghĩnh của những tép củ hành nhúng trong nước dùng vớt ra với chỏm lá xanh xanh v.v... Như thế là vượt xa quá những khuôn sáo, những chỗ gặp gỡ thông thường của các du khách rồi. Du khách Tây phương nói về món ăn Việt, bất quá gặp nhau ở món nước mắm, rồi thôi.


Võ Phiến: Viết lách

Hình minh họa: cottonbro studio
Loài người lúc nhúc lao nhao đông đảo, nhưng thoạt trông giống ấy sống với nhau “được” lắm. Có nhiều gặp gỡ: Trời xanh ai cũng thấy xanh, mồng gà đỏ chị A thấy đỏ anh B cũng thấy đỏ, đá cứng ai gõ vào đều thấy cứng, cỏ mềm ai sờ đến cũng nhận ra mềm v.v... Làm người, tiếp xúc với thế giới quanh mình xem ra đề huề. Như thế dễ chịu quá. Riết rồi có cảm tưởng: nếu không thế e không thể sống chung với nhau được.

Thế nhưng theo dõi thêm, thấy ở địa hạt khác, thình lình Trời bắt người chịu cảnh ngộ oái oăm. Tôi đang nghĩ về chuyện tiếng nói. Mỗi giống người nói một thứ tiếng. Người Nhật phát lên một tiếng nói, người Việt chẳng nghe ra nghĩa lý gì; người Việt nói lên một câu, trẻ già khắp xứ Congo ngẩn ngơ. Xem tranh nghe đàn không cần đến sắc điển, thanh điển; mà xem sách thì các giống người khác nhau nhất thiết phải dùng tự điển, từ điển. Đối với vạn vật mọi giống, người tha hồ tiếp xúc; nhưng giữa người với người, mỗi giống bị cầm giữ trong một cái ngục cô liêu của ngôn ngữ.

Võ Phiến: Kẻ viết người đọc

Hình minh họa:Gijs Coolen

Các ca sĩ, các diễn viên kịch tuồng, các đào kép già trẻ xưa nay, nhiều người kể khổ về những đòi hỏi gắt gao của nghề nghiệp (cuộc sống thất thường, cảnh đời lênh đênh, những vất vả khuya sớm...), thường kêu rằng lắm khi họ muốn bỏ nghề; nhưng bỏ rồi vẫn quay lại, năm lần bảy lượt không dứt tình được. Sao vậy? Nghệ sĩ bảo: Vì nhớ ánh đèn, nhớ sân khấu quá, không chịu thấu.

Ánh đèn sân khấu, cái ấy nghe như ma quái. Nhưng nghệ sĩ bảo thế, e là nói chơi; không phải nói thật. Cái nhớ đích thực là có lẽ là nhớ tiếng vỗ tay. Nằm nhà, giữa cha mẹ vợ chồng con cái, tha hồ sum vầy, giữa nhà cửa tươm tất đèn đuốc tha hồ sáng choang, người nghệ sĩ bỏ nghề thỉnh thoảng vẫn có lúc chợt thấy xuất hiện cái thiếu thốn lớn lao: tức tiếng vỗ tay. Những trận vỗ tay vỡ rạp ngày nào, thiếu nó, đời bỗng mênh mông, vô vị thấy mồ.


Võ Phiến: Cái tiếng mình nói

Hình minh họa: Trần Long

Không tiếng nước nào giống tiếng nước nào, dĩ nhiên là vậy. Nhưng tiếng của ta có chỗ rắc rối đặc biệt, lắm khi nó làm khó ta. Lắm khi, mới mở miệng ra đã gặp ngay cái khó: xưng hô thế nào với người đang nghe mình nói?

Có lần, xem một cuộn băng hình, tôi được thấy một cô ca sĩ lần đầu tiên tiếp xúc với người điều khiển chương trình (đồng thời cũng là một nhà văn), hai bên vừa gặp nhau trên sân khấu đã bị kẹt: có kẻ rũ ra cười, có người lúng ta lúng túng. Xưng là chú với cháu, là anh với em, hay là cháu với bác? Phải chi cùng dùng chung được một tiếng you hay vous thì tiện quá.

Lê Hữu: Võ Phiến, thơ với thẩn

Nhà văn/nhà thơ Võ Phiến

Thơ thẩn, nhà văn Võ Phiến gọi thơ của mình là vậy. Thơ ấy hay, dở thế nào? Một vài “bạn văn” của ông từng cho những nhận xét thành thật về thơ ông.  

Người thứ nhất là nhà văn Mai Thảo, “Võ Phiến cũng có chỗ được chỗ không được… Thơ dở. Tạp văn hay”.(1) Người thứ hai là nhà phê bình văn học Thụy Khuê, “Tôi cảm phục một số truyện ngắn, truyện dài, tuỳ bút của Võ Phiến… Thơ Võ Phiến không hay.” (2) 

Người thứ ba, nếu kể thêm được, cũng là chỗ quen biết của Võ Phiến. Người này không nói thơ ông hay, dở chi cả, chỉ thành thật cho biết là không chọn được bài nào trong thi tập của ông. Câu chuyện được một “bạn thơ” của ông thuật lại, “Thơ Võ Phiến không tệ, nhưng rõ ràng nó không được giới trẻ đón nhận. Khi còn sống gần nhau ở Nam Calif., có lần ông ghé tệ xá uống trà và than rằng: ‘Tôi có tặng cho X (một người viết phê bình trẻ bên Úc) một cuốn, và cậu ấy có thư cho tôi bảo rằng ‘Cháu đã nhận được tập thơ của bác và đã đọc, nhưng nếu chọn, cháu chỉ có thể chọn được cái tựa tập thơ thôi.’” (3)


Thư Võ Phiến viết về thân phụ ông

Los Angeles ngày 30.5.1991 

Thân gửi anh Nguyễn Hưng Quốc, 

Thư trước gửi anh đã hơn một tháng, nay mới lại có thì giờ để bắt đầu viết lá thư thứ ba. 

Bây giờ xin nói về ba tôi. Ba tôi tên là Đoàn Thế Cần. Ba tôi mất năm 1983, thọ 80 tuổi; lúc ấy tôi được 58 tuổi. Suốt đời tôi, tổng cộng thời gian bố con tôi cùng sống chung dưới một mái nhà chắc là không tới ba năm. (Và thời gian tôi được sống gần má tôi có lẽ hơn chín năm, nhưng chưa tới mười năm). Tôi không có được bao nhiêu kinh nghiệm về tình cảm cha con. Có thể vì vậy mà trong các tác phẩm của tôi không thấy bao nhiêu nhân vật được hưởng thứ tình cảm ấy. 


Thư Võ Phiến viết về vợ và bạn

Vợ chồng nhà văn Võ Phiến-Viễn Phố

Los Angeles ngày 4.12.1991 

Thân gửi anh Nguyễn Hưng Quốc, 

Vậy mà từ thư trước đến thư này cũng cách nhau cả tháng! Anh phải dạy học, tôi đã nghỉ việc nằm nhà nhưng cũng không nhàn rảnh được. Lần này là chuyện tôi với... bà xã. 

Trong lá thư viết ngày 2.7.91, có câu “Làm việc đoàn thể tôi quen với nhà tôi”, khiến có thể hiểu lầm là tôi chỉ được biết nhà tôi sau 1945. Thực ra trong lá thư ngày 26.4.91 đã có đoạn nói rằng nhà chúng tôi ở gần nhau, thuở nhỏ chúng tôi cùng học một thầy v.v... 


Nguyễn Hưng Quốc: Đến với Võ Phiến

Mãi đến năm 30 tuổi, tôi mới đọc Võ Phiến, lần đầu. 

Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu lý do tại sao có cái sự muộn màng như thế. Tôi mê sách từ nhỏ. Ngay trong những năm đầu của trung học, tôi đã ngốn ngấu hầu như toàn bộ sách của Tự Lực Văn Đoàn cũng như của những tác giả thường được gọi là “tiền chiến”, từ Nguyễn Tuân đến Nam Cao, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng, Bùi Hiển, Trần Tiêu, từ Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương đến Nguyễn Bính, Huy Cận, Hồ Dzếnh, v.v... Sau khi “nuốt” hết các tác phẩm được coi là kinh điển đối với học sinh trung học, tôi “tấn công” dần sang các tác giả nổi tiếng của miền Nam thuở ấy. Tôi đọc nếu không hết thì cũng gần hết tác phẩm của Mai Thảo, Chu Tử, Tuý Hồng, Nhã Ca, Thuỵ Vũ, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Mạnh Côn, v.v... Nhiều vô kể. Chỉ riêng Võ Phiến, tôi chưa đọc quyển nào. 


Trần Doãn Nho: Một vài kỷ niệm với nhà văn Võ Phiến

 Đầu tháng 9/2023 vừa rồi, tôi đi quận Cam thăm bạn bè. Nhân 8 năm ngày nhà văn Võ Phiến ra đi (28/9/2015), chúng tôi gồm các anh Cung Tích Biền, Phạm Phú Minh, Thành Tôn và tôi, Trần Doãn Nho, ghé thăm bà Võ Phiến (tên thật là Viễn Phố) hiện cư ngụ tại Little Sài Gòn. Tuy đã 93 tổi, nhưng trông bà còn rất khỏe mạnh. Bà vẫn đọc sách hàng ngày. Gặp chúng tôi, bà nhớ tên và tác phẩm từng người. 


Nguyễn Hưng Quốc: Võ Phiến, những lần gặp sau cùng

Nhà văn Võ Phiến (trái) và nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc. Hình chụp tại nhà Võ Phiến năm 2014

Mỗi lần có dịp qua Nam California, một trong những người đầu tiên tôi đến thăm bao giờ cũng là Võ Phiến. Chủ yếu là vì tình thân. Tôi quen với khá nhiều người cầm bút Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, nhưng người tôi gần gũi nhất có lẽ là Võ Phiến. Gần, chủ yếu là vì, trong thời gian viết cuốn Võ Phiến (1996), tôi đọc ông nhiều và rất kỹ; và cũng vì, trong suốt thời gian chuẩn bị tài liệu cho cuốn sách ấy, kéo dài cả mấy năm, tôi và Võ Phiến thường xuyên liên lạc thư từ với nhau. Thư, thoạt đầu, khá khách sáo; sau, cứ dần dần thân thiết. Sự thân thiết, thoạt đầu, giống như tình bạn, thứ bạn vong niên trong văn nghệ, dần dần, giống như tình gia đình: Tôi xem Võ Phiến như một ông bác. Khi đã xem như bác, việc thăm viếng trở thành một cái lễ, một thứ bổn phận.


Võ Phiến: Bắt Trẻ Đồng Xanh

Trong những ngày gần đây ai nấy chỉ những xôn xao về chuyện ngưng chiến: Bao lâu nữa nhỉ? Làm gì bây giờ?

Trong bao nhiêu năm trời, chúng ta đã quen với nếp sống chiến tranh đến nỗi hòa bình làm chúng ta bối rối. Nhưng thiết tưởng ngưng chiến không đáng làm chúng ta bận tâm đến thế. Chiến tranh này sắp kết thúc, bằng cách này hay cách khác, hoặc sớm hơn một ít hoặc chậm hơn một ít. Chuyện phải đến rồi sẽ đến, nó xảy đến ra sao dường như cũng đã được trù liệu.

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

Nguyễn Hưng Quốc: Để Nhớ 7 Năm Ngày Võ Phiến Mất - Những Năm Tháng Cuối

Mỗi lần có dịp qua Nam California, một trong những người đầu tiên tôi đến thăm bao giờ cũng là Võ Phiến (1925-2015). Chủ yếu là vì tình thân. Tôi quen với khá nhiều người cầm bút Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, nhưng người tôi gần gũi nhất có lẽ là Võ Phiến. Gần, chủ yếu là vì, trong thời gian viết cuốn Võ Phiến (1996), tôi đọc ông nhiều và rất kỹ; và cũng vì, trong suốt thời gian chuẩn bị tài liệu cho cuốn sách ấy, kéo dài cả mấy năm, tôi và Võ Phiến thường xuyên liên lạc thư từ với nhau. Thư, thoạt đầu, khá khách sáo; sau, cứ dần dần thân thiết. Sự thân thiết, thoạt đầu, giống như tình bạn, thứ bạn vong niên trong văn nghệ, dần dần, giống như tình gia đình: Tôi xem Võ Phiến như một ông bác. Khi đã xem như bác, việc thăm viếng trở thành một cái lễ, một thứ bổn phận. 

Mà kể cũng lạ. Trong giới cầm bút nổi danh trước năm 1975 sau này sống ở hải ngoại hầu như chỉ với Võ Phiến là tôi xem như một ông bác. Với những người khác, ngay cả với Mai Thảo, chỉ nhỏ hơn Võ Phiến hai tuổi và lớn hơn tôi đến 30 tuổi, tôi chỉ xem như là anh. Nói chuyện với Mai Thảo, theo đề nghị của chính ông, tôi gọi bằng “anh” và xưng “em”. Không những vậy, có lúc tôi còn xem ông như một đứa em nữa là khác. Đó là những lần, lúc tôi còn ở Paris, ông bay từ California sang chơi. Sau khi ăn uống hay đi dạo phố, đưa ông xuống trạm xe điện ngầm để về nhà Trần Thanh Hiệp, nơi ông ở trọ, sau khi dặn dò đường đi nước bước, rồi nhìn cái ánh mắt lúc nào cũng mơ mơ màng màng, cái dáng người cao lêu nghêu và cái bước chân hơi liêu xiêu của ông, tự dưng tôi thấy bất an. Sợ ông đi lạc. Sợ ông băng qua đường ẩu, xe đụng. Sợ vu vơ đủ thứ. Như sợ cho một đứa em ngơ ngác giữa phố lạ. Những lúc ấy, tôi quên bẵng là ông đã từng qua Paris nhiều lần và rất giỏi tiếng Pháp. Với Võ Phiến, chưa bao giờ tôi có cảm giác ấy. Nhìn ông và nói chuyện với ông, tôi có cảm giác như đang đối diện với một công chức tỉnh lẻ hiền lành. Từ dáng dấp đến vẻ mặt, có vẻ gì hơi hơi thật thà, hơi hơi chất phác, nhưng đôi mắt của ông thì khác: Lúc nào cũng tinh anh, cũng nhanh nhẹn, toát lên vẻ gì vững vàng, có thể đương đầu với mọi tình huống và mọi bất trắc.


Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2022

Võ Phiến: Cô Quì Còn Không?

Bình Nguyên Lộc có tập truyện bằng văn vần, gọi là Thơ Ba Mén. Truyện ấy hình như chưa bao giờ xuất bản. Thơ Ba Mén là thơ thế nào, tôi không biết. Chỉ tình cờ biết qua lời khai từ, trên vài chục câu. Và chỉ nhớ vài câu:


“Ghe ơi, vài bữa ghe về

Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?”


“Ghe ơi”, ghe ấy tức những chiếc ghe thương hồ đậu ở bến sông Ông Lãnh một buổi sáng mưa dầm. Trong thời chiến tranh, chốn nông thôn bất an, lắm kẻ bỏ quê lên tỉnh sinh sống. Trong số những kẻ ấy có người đã yên thân làm ăn ở Sài Gòn; nhưng thân có yên mà lòng chưa chịu yên. Những hôm mưa rơi nhẹ nhàng, tiết trời lành lạnh, người nọ ra bến sông, ngồi uống tách cà-phê nóng ở một quán nhỏ, nhìn lũ ghe thương hồ từ dưới quê chở nông phẩm lên bán mà nhớ về làng xóm cũ. Ghe đi vài bữa ghe về, mà mình thì biền biệt, nhớ cô Quì muốn chết. Một ông khách bới tóc (tức cũng người gốc quê) ngồi bàn bên cạnh liếc sang có trông thấy người nọ khóc trộm. Thảm quá. 


Vì bấy nhiêu mà tôi không quên được thơ Ba Mén. Mà tôi bị thơ Ba Mén ám ảnh.


Áng chừng người nọ bỏ quê ra đi cũng không lâu mấy. Cô Quì vẫn còn gọi được là cô Quì thì xa cách có gì là lâu. Xa như chúng ta — một số đông đảo trong chúng ta, những kẻ rời bỏ xóm làng từ tuổi đôi mươi cho đến tận cuối đời — xa nhau đến thế thì nhớ về người cũ đâu còn nỡ gọi nhau là cô!  Từ lục tuần thất tuần về sau, dẫu có còn đấy các cô Quì cũng thành ra cụ Quì cả thôi.


Đàng này, mới tách lìa nhau đấy đã mếu máo, đã rối rít: “Cô Quì còn không?” — Làm gì mà chả còn. Lo sao lo quá lắm vậy.


Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2022

Võ Phiến: Thơ Dịch

— Bạn nghĩ thế nào về thơ dịch?

— Tôi nghĩ: Thơ dịch không phải là thơ, dịch thơ không phải là dịch.

— Thế à?

— Thế.

— Nghĩ thế không nghĩ còn hơn. Nhảm quá.

— Thế à?

— Thế. Thơ dịch đang đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn học quốc tế. Bạn xem: Ngày nay trên các tạp chí văn học nước nào mà thỉnh thoảng không giới thiệu sáng tác nước ngoài qua thơ văn phiên dịch?

— Từ từ. Hãy nói chuyện giá trị trước, chuyện vai trò sau. Về giá trị: Thơ dịch không phải là thơ. 

— Thế nó là cái gì?

— Là ý thơ. Ý thơ đâu phải là tất cả bài thơ? Cũng không phải là phần quan trọng của bài thơ.  Không quan trọng chút xíu nào.

— Từ từ. Xem nào: Bạn bảo thơ dịch là ý thơ?

— Vâng. Thì chỉ là cái ý, cái nghĩa của bài thơ gốc thôi. Bạn còn đòi dịch được cái gì nữa?

Thế ngoài cái ý ra, bài thơ còn có những gì?

— Ngoài cái ý ra, còn lại bài thơ. Nói cách khác, khi bạn vất cái nghĩa bài thơ đi rồi thì cái còn lại là phần cốt tủy của bài thơ.

Gớm. Sao mà phét lác thế. Còn lại những gì? Nói cho cụ thể xem.

— Điệu thơ này, thể thơ này, giọng thơ này, lời thơ này, không khí bài thơ này... Bao nhiêu là cái, cái nào cũng quan trọng hơn ý thơ.

Bạn có thể nói mà không huênh hoang được không? Nói cho rõ ràng, cho cụ thể xem nó quan trọng như thế nào?

— Thì nói. Bạn nhớ bài ‘Tống biệt hành’ của Thâm Tâm chứ? Hãy thí dụ bây giờ ta “dịch” bài ấy ra... lục bát. Vẫn là một bài thơ bằng tiếng Việt, nhưng theo thể lục bát. Thế thôi. Như vậy ta tránh cho nó sự chuyển biến từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Ta hạn chế bớt sự thay đổi, mất mát. Chỉ có đổi từ thể thơ này sang thể thơ kia mà thôi. Cái đổi ấy cũng không lớn lao gì: Từ một thể thơ Tàu đã Việt hóa sang một thể thơ Việt thuần túy. Gần như từ Việt sang Việt. Đâu thấm thía gì nếu đem so sánh với trường hợp dịch một bài sonnet ra một bài thất ngôn bát cú, hay dịch những câu thơ alexandrin ra những câu song thất lục bát. Phải không?


Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2022

Võ Phiến: Quanh Mình

Nàng giặt mấy món đồ. Hai con vịt xiêm loanh quanh bên cạnh, tìm bắt những con bọ màu đen, nhỏ bằng hạt cải, sinh sôi rất nhiều ở những chỗ đất ướt.

Hai con vịt nhỏ bằng hai cái hột xoài, mình cũng dẹp như hột xoài. Chúng lại ưa nằm bẹp xuống đất, vừa nằm vừa ăn: từ xa chạy tới nơi, rồi nằm xuống, mổ lia mổ lịa. Trông chúng lăng xăng, láu táu.

Sống lưng và chóp đầu màu đen, còn lại là vàng. Ở khoảng đen trên sống lưng có bốn chấm vàng, tròn. Hai bên đuôi mắt lại có hai vệt đen kéo dài ra đến tận sau cổ: hai vệt ấy như hai nét vẽ nghịch ngợm làm cho con vịt trông buồn cười, lố bịch.

Lộc được một người đàn bà trong xóm cho hai con vịt từ năm hôm trước. Bà ta mua sáu con, đem về nuôi, một đêm chuột cắn chết ba con, đêm sau lại cắn thêm con nữa. Nàng đến chơi nhà bà ta sáng hôm ấy, đúng lúc bà tìm thấy xác con vịt thứ tư. Người đàn bà nóng tính xách chân con vịt chết giơ lên cao la lối om sòm, rồi tức mình cho nàng luôn hai con vịt còn lại.

Lộc chưa bao giờ nuôi vịt xiêm, không biết tính chúng, nên ngạc nhiên thấy chúng mau quyến luyến mình quá sức: nàng giặt đồ, chúng theo ra giếng, nhưng lát sau nàng vào nhà, chúng sẽ bỏ ăn lúc thúc chạy vào, quanh quẩn và phóng uế đầy bếp. Mới nuôi có mấy hôm, chúng đã mến nàng, không chịu rời.

Người con gái lấy tay lật một mảnh gạch bể: đám bọ rúc dưới gạch hoảng hốt nhảy lung tung, vịt mừng rỡ đuổi bắt. Nàng trông theo vịt, và khi lũ bọ đã tẩu tán hết, nàng ngước mắt lên thì bắt gặp ngay Tín đang rình mình.

Tín đứng ngoài rào nhìn vào. Không biết chàng đã đứng đó từ lúc nào. Bị bắt gặp, Tín cười xòa, cười thật lớn. Người con gái đã bối rối, may nhờ tiếng cười ấy nên lấy lại được bình tĩnh.

Tín bảo “nhân đi ngang qua... tình cờ trông thấy...sẵn dịp v.v...” Chàng giải thích đại khái, qua quít. Rồi chàng ném qua rào cho nàng một quả cam lớn. Lộc đón bắt, quả cam đã rơi đúng vào tay, nhưng vì nàng không giữ kịp nó lại lăn xuống chậu nước. Tín cười lớn lần nữa, rồi vẫy chào, đi luôn.

Vợ Tín đẹp lắm, Lộc không dám tự so sánh. Thiếu phụ ấy vừa đẹp vừa sang trọng, lại khôn ngoan và có trình độ học vấn cao hơn Lộc nhiều. Vả lại trong gia đình đó, người chính là bạn của nàng là chị ấy chứ không phải là anh Tín.


Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2022

Võ Phiến: Quanh Mình

Nàng giặt mấy món đồ. Hai con vịt xiêm loanh quanh bên cạnh, tìm bắt những con bọ màu đen, nhỏ bằng hạt cải, sinh sôi rất nhiều ở những chỗ đất ướt.

Hai con vịt nhỏ bằng hai cái hột xoài, mình cũng dẹp như hột xoài. Chúng lại ưa nằm bẹp xuống đất, vừa nằm vừa ăn: từ xa chạy tới nơi, rồi nằm xuống, mổ lia mổ lịa. Trông chúng lăng xăng, láu táu.

Sống lưng và chóp đầu màu đen, còn lại là vàng. Ở khoảng đen trên sống lưng có bốn chấm vàng, tròn. Hai bên đuôi mắt lại có hai vệt đen kéo dài ra đến tận sau cổ: hai vệt ấy như hai nét vẽ nghịch ngợm làm cho con vịt trông buồn cười, lố bịch.

Lộc được một người đàn bà trong xóm cho hai con vịt từ năm hôm trước. Bà ta mua sáu con, đem về nuôi, một đêm chuột cắn chết ba con, đêm sau lại cắn thêm con nữa. Nàng đến chơi nhà bà ta sáng hôm ấy, đúng lúc bà tìm thấy xác con vịt thứ tư. Người đàn bà nóng tính xách chân con vịt chết giơ lên cao la lối om sòm, rồi tức mình cho nàng luôn hai con vịt còn lại.

Lộc chưa bao giờ nuôi vịt xiêm, không biết tính chúng, nên ngạc nhiên thấy chúng mau quyến luyến mình quá sức: nàng giặt đồ, chúng theo ra giếng, nhưng lát sau nàng vào nhà, chúng sẽ bỏ ăn lúc thúc chạy vào, quanh quẩn và phóng uế đầy bếp. Mới nuôi có mấy hôm, chúng đã mến nàng, không chịu rời.

Người con gái lấy tay lật một mảnh gạch bể: đám bọ rúc dưới gạch hoảng hốt nhảy lung tung, vịt mừng rỡ đuổi bắt. Nàng trông theo vịt, và khi lũ bọ đã tẩu tán hết, nàng ngước mắt lên thì bắt gặp ngay Tín đang rình mình.

Tín đứng ngoài rào nhìn vào. Không biết chàng đã đứng đó từ lúc nào. Bị bắt gặp, Tín cười xòa, cười thật lớn. Người con gái đã bối rối, may nhờ tiếng cười ấy nên lấy lại được bình tĩnh.

Tín bảo “nhân đi ngang qua... tình cờ trông thấy...sẵn dịp v.v...” Chàng giải thích đại khái, qua quít. Rồi chàng ném qua rào cho nàng một quả cam lớn. Lộc đón bắt, quả cam đã rơi đúng vào tay, nhưng vì nàng không giữ kịp nó lại lăn xuống chậu nước. Tín cười lớn lần nữa, rồi vẫy chào, đi luôn.

Vợ Tín đẹp lắm, Lộc không dám tự so sánh. Thiếu phụ ấy vừa đẹp vừa sang trọng, lại khôn ngoan và có trình độ học vấn cao hơn Lộc nhiều. Vả lại trong gia đình đó, người chính là bạn của nàng là chị ấy chứ không phải là anh Tín.

Hồi nàng còn ở Plei-Piom, có một độ Tín thường lui tới địa điểm dinh điền để theo dõi việc khoan mấy cái giếng nước. Tín là kỹ sư học ở Mỹ vừa về được vài năm, dáng dấp nhanh nhẹn, trẻ trung; người ta có cảm tưởng chàng chưa vợ con gì. Một hôm, chàng trông thấy Lộc ở văn phòng địa điểm trưởng, vô ý để lộ một vẻ ngạc nhiên sững sờ. Người con gái đỏ mặt. Tín vội vàng nói chữa thẹn:

– Các cô tài thật. Ðến đây mà vẫn giữ đầu tóc uốn: mỗi bận làm tóc phải đi hàng trăm cây số. Khiếp.

Người chung quanh cùng cười với chàng. Và sự việc không hề đi xa hơn những câu chuyện trao đổi lớt phớt. Sáu tháng sau, khi gặp người vợ xinh đẹp của Tín, người con gái chợt đau nhói trong lòng, nhưng nàng tự dưng muốn làm quen cho kỳ được. Vợ Tín là một người vui vẻ, không bao lâu hai bên chị chị em em với nhau thân mật. Mối quan hệ giao du với gia đình người kỹ sư ấy thật lành mạnh. Vả lại họ không có dịp ở gần nhau lâu: trong những năm qua hai bên đã nhiều lần thuyên chuyển, mỗi bên mỗi nơi.

Nhưng cách đây bốn tháng, khi Lộc đến Bảo Lộc thì gặp gia đình Tín đã ở đấy từ ba tháng trước. Vợ Tín mở một quán cà-phê, nhạc hay, trang hoàng khéo, thu hút được giới trẻ đông đảo. Chị đề nghị với Lộc:

– Em rảnh không? Tối tối em đến giúp chị một lát đi. Ðược không?

Nàng chưa kịp trả lời, chị đã mau mắn phân trần:

– Cả ngày chị ngồi hoài ê ẩm cả người, mà không giao được công việc cho ai. Ờ, ngồi két ấy mà. Em làm việc ở sở ban ngày, chứ ban đêm... Quán chị không mở cửa khuya đâu.

Sự thực chị Tín đâu có cần thuyết phục? “Giúp” chị, Lộc quá sẵn sàng. Nàng mơ hồ lo lắng về cái tâm lý sẵn sàng của mình: chính vì vậy mà nàng chùng chình, ngại ngùng, không dám mở miệng nhận lời ngay.

Tới lui nhà Tín để làm gì? Nàng cần gì, mong đợi gì ở Tín? Nàng không biết, không có ý định nào rõ rệt cả. Tuy nhiên, một cảm tình mơ hồ, khuây khỏa, nhạt nhòa, từ nhiều năm tháng, vẫn hướng nàng về phía gia đình ấy. Làm sao nàng không nhận lời đến “giúp” chị Tín được?

Quán cà-phê ấy, ban ngày với “bà kỹ sư” ngồi két, ban đêm với Lộc, càng thu hút nhiều khách, mà một thiếu phụ một thiếu nữ, cả hai đều kín đáo đoan trang. Chính cái vẻ hững hờ, thản nhiên của họ làm họ càng xa cách và càng có sức hấp dẫn.

Ðêm đêm đến quán cà-phê của Tín, thực ra Lộc không có mấy dịp gặp chàng. Nàng gặp chàng ở sở này sở nọ hay ngoài phố nhiều hơn. Tuy vậy, cái việc ngồi két ở quán của chàng khiến Lộc có cảm tưởng gần với chàng hơn. “Gần” một cách hết sức mơ hồ.

Vào tuần lễ cuối cùng trước nghỉ Tết năm vừa qua, một buổi chiều, sau giờ làm việc, Tín đến sở của nàng trong lúc nàng sắp mãn phiên trực. Sở không còn ai, nàng thờ thẫn ra sân rồi đi lần ra đứng bên cánh cổng sắt, chờ người nhân viên trực đêm đến thay thế.

Ðúng vào lúc ấy, Tín đến. Chàng hỏi:

– Giờ này cô còn ở sở?

– Em trực, sắp về.

– Ông cụ có trong ấy chứ?

Nàng lắc đầu:

– Ðâu có. Ông ấy về từ bốn giờ rưỡi.

“Ông cụ” là trưởng ty của nàng. Tín tới tìm ông ta tại nhà, không gặp, tưởng ông ta còn bận việc ở sở. Sau câu trả lời của Lộc, hai người không thấy có gì để nói về vấn đề “ông cụ” nữa. Và cái phút lặng yên, kẻ phía trong người phía ngoài cánh cổng một tòa nhà vắng vẻ làm cho họ bất ngờ lúng túng.

Hồi sau Tín hỏi:

– Ngày mốt cô về Sài Gòn?

– Có lẽ em ở lại thêm một hôm nữa.

– Mùng mấy lại lên?

– Có lẽ đến mồng mười.

– “Có lẽ” hoài. Không cái gì nhất định hết.

Giọng hai người bất giác thấp xuống. Tiếng cười cùng hạ thấp. Lộc đang nắm mấy cái kẹo trong tay, đưa ra mời. Nàng lặng lẽ mở bàn tay, không nói gì. Tín đưa tay nhón lấy một cái. Hình như chàng toan làm một cử chỉ gì hay nói một câu gì đó thì có tiếng dép ở xa xa.

Không cần quay lại, Lộc đã biết đó là vợ người lao công. Nàng rút tay về, xô rộng cánh cổng, nói lớn:

– Mời anh vào. Chờ một tí, không chừng ông cụ lại đến.

– Thôi khỏi cô. Tôi sẽ lại đằng nhà đúng vào giờ ăn tối, thế nào cũng bắt được.

Sáng hôm sau thật sớm, Lộc đang giặt giũ ở giếng nhà trọ thì Tín “nhân đi ngang qua” gọi chào nàng, và ném vào cho nàng một trái quít, bảo vừa hái ở đồn điền ông Tâm về. Rồi một hôm khác nữa...

Những chuyện như thế, tự nó cũng chưa có hẳn một ý nghĩa gì, một hứa hẹn gì rõ rệt. Nhưng thỉnh thoảng Lộc chợt nghĩ đến, nhớ lại một vài chi tiết, và nàng nhận thấy nó có một sức “ngấm” đáng sợ. Nó ngấm dần, ngấm dần.

Cuối cùng Lộc nghĩ: nên về ở hẳn với mẹ nàng, ở Thủ Ðức. Mẹ nàng nhắn đã nhiều lần. Lương bổng chẳng bao nhiêu, trước đây đã có lúc nàng muốn xin nghỉ việc về ở với mẹ. Lần này thì không nên dần dà nữa. Về đi thì hơn.





Một mặt nàng đã chán cuộc sống lênh đênh, lẻ loi, đầy bất trắc. Mặt khác nàng về với mẹ, việc ấy có nghĩa như một sự tha thứ, sẽ đem lại cảm tưởng yên ổn để mẹ nàng vui sống trong tuổi già.

Tha thứ tội lỗi gì? Lộc cũng không rõ lắm. Cái biến cố kinh khủng ấy trong quá khứ của mẹ nàng, nàng chưa gặp một người nào chịu trình bày đầy đủ cặn kẽ cho nàng biết. Những người thân thì vì cảm tình đối với mẹ nàng mà không nỡ nói đến chuyện ấy, nhất là nói với đứa con gái của bà. Nhưng cũng có lẽ là thực ra chẳng mấy ai hiểu biết tường tận câu chuyện xảy ra làm sao.

Mẹ nàng mà lấy một lượt hai người chồng? Không tưởng tượng được. Bà đâu phải con người lẳng lơ. Từ ngày khôn lớn tới giờ Lộc càng ngày càng ngạc nhiên về mẹ mình. Nàng đâu có ngây ngô gì? Nàng biết phán đoán chứ, nàng đi đây đi đó nhiều, giao thiệp nhiều hạng người, nàng biết nhận xét chứ: mẹ nàng không những không phải một người đàn bà lẳng lơ, bà lại còn quá bảo thủ, cố chấp. Mẹ nàng cũng kín đáo như nàng, ngoài ra bà lại là con người nề nếp thuộc lớp trước.

Người đàn bà như thế lấy hai chồng cách nào? đã ăn ở, chung sống một lượt với hai người đàn ông nọ ra sao? Trời ơi, mẹ nàng! Không tưởng tượng được.

Mà chính bà mẹ của Lộc, chính bà, bây giờ có lẽ cũng không nhớ, không nghĩ ra thái độ của mình hồi đó. Biến cố nọ như một chuyện dị thường, từ đâu xảy đến, rồi mất đi, không cắt nghĩa nổi. Trong số những người ngạc nhiên có cả chính bà.

Ðại khái những điều Lộc được biết là sau khi cha mẹ nàng sống với nhau êm đềm được ba năm, nàng đã được một tuổi rưỡi, thì trong số bạn bè của cha nàng có một kẻ bỗng tới lui thân mật. Hình như là một người làm thầu khoán gì đó. Người ấy đau một trận thập tử nhất sinh tại nhà gia đình nàng, mẹ nàng săn sóc. Lành bệnh, người đàn ông nhất định không đi đâu nữa: Chết sống chỉ biết có một người đàn bà là mẹ nàng, ông ta nói vậy. Nói thành khẩn, chí tình.

Tất cả gia đình, họ hàng, xóm giềng v.v... đều lấy làm một sự kinh hoàng. Nhưng còn biết làm gì được nữa?

Cuộc sống của bộ ba kéo dài ba năm. Có nhiều sóng gió dữ dội xảy ra trong thời gian ấy, đưa tới hai kết quả: thứ nhất, Lộc được bà nội đem về nuôi, không cho ở chung với mẹ (từ đó nàng sẽ lênh đênh từ nhà nội đến nhà bà cô này bà dì kia cho tới lớn); thứ nhì, cha nàng bỏ nhà đi biệt tích.

Nghe nói ông đi vào dịp mẹ nàng hạ sinh một đứa con trai. Con của ai? Mẹ nàng không trả lời được cái thắc mắc ấy. Cha nàng và cả người đàn ông kia, cả hai không thể không băn khoăn. Rồi lồng lộn lên. Cho nên một người phải ra đi.

Còn người chồng sau của mẹ nàng thì ông ta không thể đi đâu, không thể rời được mẹ nàng. “Sống chết” với mẹ nàng, “ông Trời bắt tôi...”, ông ta phân trần với mọi người như thế. Ðó là một người đam mê liều lĩnh đến bất thường. Mẹ nàng vốn điềm đạm bình tĩnh như vậy mà rồi cũng lao vào cuộc tình này, ấy có lẽ là do sức lôi cuốn khốc hại của người đàn ông nọ. Sức đam mê của ông ta lôi cuốn như cuồng phong, như lốc bão. Mẹ nàng bấy giờ còn trẻ, không đủ sức tự chủ, lại vì tính tình chậm chạp cho nên bà đã bị hút vào trận lốc mà vẫn chưa kịp hiểu tình thế.

Ðứa em trai duy nhất của nàng sinh ra chẳng bao lâu rồi mất. Mà người chồng sau của mẹ nàng cũng chết trong một tai nạn lao động: ông ta bị ngã từ trên trần nhà xuống, đập đầu vào một đống gạch, ngắc ngoải năm tuần lễ, rồi đi luôn.

Sau khi chôn cất người đàn ông ấy, mẹ nàng như tỉnh một giấc mơ. Bà bước ra khỏi một thời kỳ cuồng loạn, và như thể không bao giờ dám ngoảnh mặt ngó lại. Không ai nghe mẹ nàng nhắc một lời nào tới quá khứ. Mẹ nàng dứt khoát: bà không có quá khứ nữa.

Cái việc mẹ nàng trôi giạt vào tận Thủ Ðức, lập nghiệp ở đây, một phần là do sự run rủi của công việc làm ăn, nhưng một phần khác chắc chắn cũng là do ý bà muốn rời xa quê hương, thân thuộc. Trong nhà, Lộc đã để ý tìm kiếm mà không hề thấy một vết tích gì của đời vợ chồng hay tình ái của mẹ nàng xưa kia: không một món đồ nào của đàn ông còn sót lại, không một tấm hình của người nào trong hai người.

Mẹ nàng mất hẳn quá khứ, tưởng như cũng không còn tình cảm nữa. Từ ngày khôn lớn, Lộc tuyệt nhiên không biết đến một mối tình nào của mẹ. Thậm chí nàng cũng không hề có lúc nào bắt gặp ở mẹ nàng một lời nói, một cử chỉ, một ánh mắt biểu lộ sự xúc động đối với nam phái. Bà như tắt ngấm đi. Nguội lạnh, uể oải.

Càng lớn Lộc càng thương mẹ. Những bất trắc tình cảm ở đời, ai cho khỏi? Chẳng qua là tai họa, có gì đáng trách đâu. Bấy lâu nàng không về ở được với mẹ không phải là vì thành kiến gì đối với chuyện cũ của bà, thực ra chỉ vì tính nàng dùng dằng bất quyết. Bây giờ nàng về, chắc bà mừng lắm.

Nàng về chứ. Lúc này nàng đang cần một chỗ để về, để trốn nấp. Nàng đang bối rối vì sự đe dọa của một thứ tình cảm không lành.





Hôm qua, hai con vịt đã biểu diễn một màn thân ái làm nàng ngạc nhiên. Nàng ngồi lặt mớ rau muống ngoài sân, chúng chạy loanh quanh, vung vung cái đuôi, rồi nằm bẹp xuống bên cạnh. Một lát, nàng bưng rổ rau đã lặt xong vào bếp. Nàng vừa ngồi xuống trước cái hỏa lò, nghe có tiếng líu ríu sau lưng, quay lại thì đã thấy đủ hai con vịt xiêm con. Chúng nằm bẹp từ lúc nào sát chân nàng, nghểnh cao cổ, mở những con mắt đen lay láy, vung vung cái đuôi... Buồn cười, chúng bám theo nàng như trẻ con theo mẹ. Trông ngây ngô, tội nghiệp.

Vài ngày nữa Lộc về với mẹ, và sẽ bỏ lại hai con vịt xiêm con với sự quyến luyến của chúng. Nàng đã bỏ sau lưng những “tình cảm” quấn quít như thế ở nhiều nơi. Một con chó quắn ở Gia Nghĩa mỗi lần trông thấy nàng bế một đứa bé trên tay hay ôm một con gà ra vẻ tưng tiu là nó khốn khổ chạy quýnh lên, rên ư ử. Nó ganh tị. Nàng đi đâu vắng vài ngày, lúc về tới nhà, nó lăng quăng, sủa ăng ẳng, mừng vãi cả nước tiểu ra, lúc được bồng lên nó ngậm lấy tay nàng giữ trong miệng thật lâu.

Còn những con mèo của các nhà trọ ở đây đó chúng đều tinh khôn và mến nàng kín đáo. Có con ngày đêm quanh quẩn bên gối giường nàng, nó quen hơi hướng của nàng và nàng quen nó. Có con mỗi bữa ăn lặng lẽ nép bên mình nàng, và thỉnh thoảng lấy chân trước khều thật nhẹ để nhắc nhở, để xin món ăn. Nó khều nàng mà như biết tránh sự chú ý của mọi người khác.

Hồi ở trên Pleiku, công việc bàn giấy tại địa điểm dinh điền chẳng có bao nhiêu; nàng vẫn lãnh phần đi chợ hàng ngày cho mấy anh chị em cán bộ ở chung với nhau. Lần nào đi chợ Lộc cũng xin một ít đầu tôm đuôi cá đem về cho mấy con gà. Gà ăn quen, riết rồi mỗi lần nàng đi chợ về, nghe tiếng nói hay tiếng chân của nàng từ ngoài sân hay trước ngõ, chúng nó đã mừng rỡ rối rít, đập cánh, nhảy nhót, la lên quang quác trong chuồng. Người đàn bà ở căn nhà sát vách bật cười, kêu: “Má về, tụi bay ơi. Má về rồi đó”. Ít khi lũ gà lầm lẫn: chúng phân biệt tiếng chân và bóng dáng của nàng từ xa thật đúng.

Những thứ tình cảm như vậy đều có đi có lại. Ðối với những con gà, con vịt, con chó, con mèo ấy Lộc cũng có một thái độ âu yếm theo cách riêng. Nàng có cảm tưởng mình sống ở đâu xung quanh cũng có một bầu không khí tình cảm ấm áp bao bọc. “Bao bọc những người con gái muộn chồng”, có lúc nàng chua chát.

Lần này tại sở của nàng làm, vợ chồng người lao công có một đứa con trai vào khoảng tám, chín tuổi gì đó. Gia đình người lao công ở một căn nhà phụ ngay trong sở, cho nên nàng vẫn trông thấy đứa bé hàng ngày. Hai tháng gần đây, Lộc nhiều lần bắt gặp nó hoặc quanh quẩn bên chiếc xe gắn máy của nàng, hoặc đứng từ xa nhìn nàng làm việc, hoặc lảng vảng đón đợi nàng lúc đi lúc về.

Cái rung động mông lung, ngây thơ trong lòng một đứa trẻ ấy, có mấy người khác trong sở cùng để ý. “Nó yêu đấy”. Nàng cười: “Nếu tôi có chồng sớm con tôi cũng bằng nó.”

Nàng nói để đuổi câu chuyện đi. Nhưng thực sự, nàng không thể xua đuổi được khỏi tâm trí “mối tình” nọ. Quanh nàng bầu không khí tình cảm bao bọc càng ấm càng nồng.

Lộc lúc nào cũng được yêu mến. Nhưng yêu mến vậy vậy thôi, chẳng đi tới đâu, mà tuổi trẻ của nàng thì... tuổi trẻ bất cứ của ai cũng thế, nó không chịu chờ đợi. Chờ đợi mỏi mòn trong những tình yêu gà yêu vịt.

Lộc không ở hẳn với cha, không ở với mẹ. Từ bao nhiêu lâu nàng không có hẳn một quê hương, dù là quê cha hay quê mẹ. Dần dần, lớn lên, nàng thấy mình sắp mất đi một thứ quê hương nữa: là tuổi trẻ. Xa tuổi trẻ nàng mất tự tín, nàng bơ vơ, hoang mang.

Tự nhiên Lộc thấy mình cần về ở với mẹ, về hẳn.




Khi cha nàng bỏ nhà ra đi, ông bặt tin luôn bốn năm. Rồi vẫn không thư từ tin tức gì, một hôm thình lình ông về thăm nhà thì bấy giờ ông đã thành một quân nhân rồi. Cũng như nhiều người khác từ ngoài Trung ra đi, ông cũng vào trong Nam tìm sinh kế, nhưng không hiểu làm sao ông lại vào lính. Bây giờ cha Lộc là một đại úy ở dưới Cần Thơ.

Hình như mẹ nàng có biết về những điều đó: cha nàng lấy vợ ở Vĩnh Long, có thêm hai con trai ba con gái, cha nàng thỉnh thoảng về thăm nhà ngoài Trung, vẫn gặp Lộc, cha con vẫn liên lạc với nhau, lâu lâu cha nàng gửi cho nàng một món tiền, một món quà v.v... Mẹ nàng không biết gì rõ rệt lắm, bà cũng không trực tiếp hỏi nàng lần nào. Tuy nhiên mỗi khi có cái áo dài, cái ví của cha nàng mới cho, Lộc vẫn khéo léo cho mẹ biết.

Thái độ của người đàn ông làm cho nàng ngạc nhiên. Cha nàng không giấu được sự thù hận. Thật lạ lùng: Ông không phải không biết đại khái mẹ nàng bây giờ sống ra sao, nhưng càng ngày ông càng thâm thù. Sau cuộc đổ vỡ, giữa hai người ông được nhiều “thành công” hơn chứ, ông vẫn lập lại một gia đình, ông đang sống sum vầy. Còn người đàn bà thì cuộc đời tan hoang rồi, còn gì đâu. Vậy mà ông không tha thứ được. Ông vẫn như còn ngượng ngùng, dằn dỗi: không bao giờ về quê mà ông chịu đem theo người vợ sau hay những đứa con của người vợ sau. Lộc chưa gặp bà dì Vĩnh Long và mấy đứa em. Bà nội nàng thì có một lần vào Cần Thơ nửa tháng, nhưng Lộc và bao nhiêu người khác ở phía nội đều chưa được ghé mắt nhòm vào cuộc đời sau của cha nàng.

Quả là khi cần về, nàng chỉ có thể về ở với mẹ mà thôi, dù bà có ra sao đi nữa.



Phơi xong các món đồ vừa giặt lên dây, Lộc xách cái thau nhựa và nhặt trái cam lên. Nàng vừa bước vào nhà vừa nghĩ: “Anh ấy mà biết những trái cam trái quít này tống xuất mình ra khỏi Bảo Lộc?”

Người con gái nghĩ đến những giây phút xúc động, những cái nhìn những câu nói trao đổi với Tín... Nàng nghĩ đến những cái nhìn những câu nói đêm đêm trong quán cà-phê của những người con trai, trong số đó có mấy khuôn mặt mà chắc chắn nàng sẽ không quên được, dù không quen biết... Trong cái quán cà-phê mà nàng sẽ rời bỏ mãi mãi.

Nàng nghĩ... quanh nàng không phải chỉ có những cặp mắt đen láy của vịt xiêm con, của thằng bé nhà bác lao công, không phải chỉ có tình gà tình vịt. Quanh nàng không phải chỉ là một bầu không khí ấm áp, mà có cả một bầu không khí chất chứa những luồng điện nguy hiểm, luôn luôn sẵn sàng phát nổ vì một tia lửa, một bầu không khí đầy bất trắc...

Nàng mà ngại sự bất trắc? Vâng, chán cảnh lênh đênh thì có, chứ còn đối với sự bất trắc...

... Một người con gái chỉ thực sự “sống” trong sự bất trắc. Ðến lúc quyết định về với mẹ, với cảnh an toàn, Lộc mới cảm thấy mình đang thu xếp cho một cái gì như là một cảnh hạ màn. Thu xếp rời bỏ cuộc sống thực sự. Không còn đe dọa bất trắc nào nữa, đời nàng còn gì sống động? Ðối với một người con gái, như vậy có còn là sống nữa chăng?

Những ánh mắt lén lút, những câu nói lập lờ...: tới phút chót người con gái đoan trang bỗng thấy mình vẫn yêu thích sự bất trắc.

Khi bất trắc bùng nổ như bom trong đời mẹ nàng thì suốt một đời bà không lấy lại được thăng bằng. Trái lại ở một cuộc sống như của nàng thì nàng gần như không ngớt chờ đợi sự bất trắc, những bất trắc làm run rẩy cuộc sống. Chờ đợi âm thầm, vô ý thức, nhưng mà thiết tha, như thể mong mỏi cái ý nghĩa của cả cuộc đời, ít ra là ý nghĩa của tuổi xuân mình vậy. – Ô hay!


1974

Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2022

Võ Phiến: Ế Ị ! (tùy bút)

Các nhà chuyên môn cho rằng ở các làng mạc vắng vẻ tiếng động chỉ có chừng ba mươi décibels vào ban ngày và trên vài mươi vào ban đêm.

Con người có thể chịu đựng thêm một chút ồn ào nữa cũng không sao, miễn là đừng vượt quá ba mươi lăm ban ngày và ba mươi décibels ban đêm. Thế nhưng ngày nay, tại những khu phố gọi là yên tĩnh nhất, vào đêm khuya (nếu không phải là giờ thiết quân luật) tiếng động cũng vượt quá năm mươi décibels. Đó là không kể những ồn ào bất thường trong thời chiến: tiếng quân xa di chuyển từng đoàn, tiếng phi cơ phản lực đi đi về về...


Thần kinh Đỗ chịu đựng kém. Từ hồi về sống ở đô thị chàng đâm ra đố kỵ âm thanh. Tiếng nhạc cũng ít khi dám nghe. Bối âm thường xuyên đã ầm ĩ quá rồi, tăng thêm một tiếng động, tinh thần thêm bị kích thích, bực bội.


Vậy mà rồi một hôm Đỗ tự bắt gặp mình chờ đợi một tiếng kêu lớn. Chờ đợi mơ hồ, nếu không tình cờ để ý có lẽ không biết đến.


Số là đối với mỗi người trong ngày chỉ có một giờ nào đó coi là thích nhất. Các cụ trước kia chọn cái lúc tờ mờ, đêm vừa tàn ngày vừa rụt rè hiện đến; trong cô tịch, các cụ ngồi nhấp trà suy nghĩ.


Đỗ không lấy trầm tư làm thú. Chàng thích cái khoảng thời gian trơ trẽn từ chín rưỡi tới mười giờ. Lúc đó, điểm tâm xong, tách cà-phê nóng đã làm cho người tỉnh táo, những công việc khẩn cấp nhất trong ngày đã tạm giải quyết xong, tâm trí nhẹ nhàng, thảnh thơi. Ngoài trời nắng vừa đủ ấm, sương vừa đủ ráo, ánh sáng tươi mà chưa gắt. Bấy giờ, chàng có thể khoanh tay ngồi trước bàn, ngừng công việc, nghếch mặt nhìn trời xanh ngoài cửa sổ, đầu óc rỗng tuếch mà vẫn ngấm ngầm hân hoan, không có một dự định gì mà vẫn tràn trề hy vọng. Chừng mười thước tây dưới tầng lầu của chàng xe cộ tiếp tục ồn ào; nhưng chàng tha thứ. Ở sân thượng một tòa nhà nào đó, cùng trong khu phố, có người (chắc chắn là lao công một sở công hay tư) có thói quen xấu là đốt giấy lộn vào buổi sáng, khiến tro tàn tản mác theo gió, lặng lẽ đậu lên mặt bàn, lên mái tóc chàng. Nhưng Đỗ tha thứ.


Thứ Sáu, 28 tháng 1, 2022

Võ Phiến: Thịt Cầy

 — Thơ Nguyễn Du thật độc đáo.

Ôi tư tưởng tân kỳ táo bạo. Mừng bạn có nhận định sắc bén, mới lạ. Bạn nói về Truyện Kiều chăng? 

— Không.

— Nói về ‘Độc Tiểu Thanh ký ‘, “tam bách dư niên hậu” chăng?

— Không. Tôi định nói về thơ thịt cầy.

— Trời! Tiên sinh có cả thơ thịt cầy nữa à? Nếu quả có hẳn là độc đáo, không sai.

— Sao lại “nếu”? Có chứ. Này nghe:

“... Nhân sinh vô bách tải

Hành lạc đương cập kỳ

Vô vi thử bần tiện

Cùng niên bất khai mi

Di Tề vô đại danh

Chích Kiểu vô đại lợi

Trung thọ chỉ bát thập

Hà sự thiên niên kế

Hữu khuyển thả tu sát

Hữu tửu thả tu khuynh

Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận

Hà sự mang mang thân hậu danh”.

Đó là một đoạn trong bài từ ‘Hành lạc’1. Thịt chó hiển hiện rõ ràng. Thấy không?

Quả nhiên. Đúng nó. Đọc lên nghe thơm phưng phức. Người xưa từng nói đến thứ văn hay đọc thơm tho cả miệng lưỡi. Là đây chăng? Giá có luôn cái nghĩa...