Hiển thị các bài đăng có nhãn Trịnh Cung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trịnh Cung. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2021
Trịnh Cung: Xin Còn Gọi Tên Nhau (Chút hương thắp niệm Lệ Thu)
![]() |
(Hình: Nguyễn Lập Hậu) |
Có lẽ, Lệ Thu là giọng hát tôi yêu thích nhất trong những giọng ca nữ Việt Nam được đánh giá hàng đầu Việt Nam.
Tôi đã nghe Lệ Thu hát từ khi giọng oanh vàng này tuổi chỉ mới 20 tại khiêu vũ trường Tự Do từ năm 1962.
Lúc đó, Lệ Thu hát gây ấn tượng nhất không phải là những ca khúc Việt Nam như của Đoàn Chuẩn, Phạm Duy hay Cung Tiến mà là một ca khúc kinh điển của Schubert, bản Serenade do Phạm Duy chuyển sang lời Việt:
...”Thoáng hương trong chiều rơi
Chiều nay hát cho xanh câu yêu đời
Cho người thôi khóc thương ai
Cho niềm yêu đến bên tôi”
(Dạ Khúc)
Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2021
Trịnh Cung: Sự Phát Triển Của Văn Học và Mỹ Thuật Có Phụ Thuộc Vào Mối Quan Hệ Giữa Hai Lãnh Vực Này?
Tiểu luận này được viết ở mức độ đề cương. Mặc dù sự ảnh hưởng của văn học không chỉ có đối với mỹ thuật mà cả nhiều lãnh vực của nghệ thuật như âm nhạc, kịch nghệ,… nên tác giả xin được phép giới hạn biên độ quan sát và nhận định, chỉ tập trung cho mỹ thuật. Mặt khác, khi đề cập đến thực tế của mối tương hợp giữa văn học và mỹ thuật, vì mối lương duyên giữa hai dân tộc Việt và Pháp đã sâu đậm về nhiều mặt trong quá khứ và tác giả là người đã chịuảnh hưởng trực tiếp của tình trạng lịch sử này nên chỉ dựa vào các tư liệu thuộc lịch sử văn học và mỹ thuật hiện đại Pháp để minh họa thêm cho lập luận bài viết dù vẫn có những hoàn cảnh tương tự ở các trung tâm văn hóa lớn như New York của những thập niên 30-50 của thế kỷ 20 chẳng hạn. Nếu thân hữu và đọc giả có những tư liệu khác và những kinh nghiệm xét thấy có thể sẽ giúp cho bước hoàn chỉnh tiểu luận sau này tốt hơn, tác giả rất hạnh phúc được đón nhận.Trịnh Cung
I, Vấn Ðề.
Có một câu hỏi vẫn thường tìm đến với tôi: Nếu nền nghệ thuật hiện đại của nhân loại đã không nhận được sự tán đồng và cổ xúy trên tinh thần bằng báo chí (Revue Immoraliste, Paris năm 1905), viết sách, phổ biến tuyên ngôn (Les Peintres Cubistes 1913, Manifesto Surréalisme 1924, Les Voix du Silence 1951) của các nhà văn, nhà thơ có ảnh hưởng lớn với xã hội Pháp vào những thập niên đầu của thế kỷ 20 như Apollinaire, André Breton, André Malraux, Tristan Tzara,… thì liệu nó có tồn tại và trở nên những giá trị sáng tạo hiện đại vô giá mà thế giới đang thừa hưởng?
Và đối với Việt Nam, giai đoạn vừa thoát ra khỏi văn hóa Hán Nôm, liệu nếu không có sự ra đời của báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Ðoàn vào năm 1932 bởi những nhà văn như Nhất Linh, Thạch Lam, Hoàng Ðạo, Khái Hưng,… thì liệu có sự tỏa sáng của bộ mặt hội họa hiện đại Việt Nam non trẻ lúc bấy giờ hay không, trong khi mấy ai biết đến và thưởng thức được tranh của những Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ,… giữa một công chúng Việt Nam còn khốn khó và lạc hậu, con chữ còn mù mờ huống gì là tác phẩm nghệ thuật?
Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2020
Trịnh Cung: Gửi Du Tử Lê - Chút Khói Cho Ngày Giỗ Đầu
1. Cây Cọ Vẽ Cũ
Vậy mà Lê mất đã một năm...
Giờ này năm trước, tôi đang ở Việt Nam có chút việc, và cứ tưởng mình sẽ không đến dự kịp lễ tang của anh tại nhà quàn Peak Family. Nhưng may thay, cuối cùng công việc lại êm xuôi và tôi trở về Bolsa kịp đúng vào buổi sáng ngày di quan linh cữu của anh - nhà thơ của hằng ngàn bài thơ tình trong số đó có nhiều bài thuộc loại nằm lòng của rất nhiều bạn đọc Việt Nam, nhất là phái nữ.
Dù phải trải qua chuyến bay dài, tôi cũng dễ dàng bỏ qua sự mệt mỏi để đến dự tang lễ và nhất là đến để đưa tận tay chị Hạnh Tuyền, vợ anh, chiếc cọ vẽ cũ của tôi. Trong một buổi sáng cà phê nào đó ở Little SG, anh đã từng ngỏ ý muốn tôi tặng một cây cọ đã dùng của mình cho bộ sưu tập những cây cọ vẽ cũ của các hoạ sĩ Việt Nam nổi tiếng mà chị cất công sưu tập bấy lâu. Và đó là lúc mà tôi thực hiện lời hứa với bạn mình, chỉ là không ngờ phải thực hiện ngay trước linh cữu bạn.
Tầm 11 am, sau khi tìm được chỗ đậu xe, tôi đến nơi đang có rất nhiều người trong trang phục màu xẫm, họ đứng tràn ra trước cửa nhà tang lễ. Đưa tay vẫy nhẹ vài người quen, tôi đi thẳng tới chỗ những người thân nhà thơ Du Tử Lê đang đứng cạnh chiếc quan tài phủ hoa và nến. Họ đều mặc y phục đen và mang băng trắng. Tôi gặp chị Hạnh Tuyền, người đứng cuối cùng, đưa chị cây cọ cũ được bọc trong giấy bìa trắng và nói khẽ: “Đây là món quà mà tôi tặng chị như đã hứa trước kia với anh ấy.” Tôi quay lại nhìn lần cuối bạn mình, nhà thơ của những tình khúc trác tuyệt giờ đây đang nằm an lạc trong chiếc áo quan chờ đến giờ trở về làm tro bụi, rồi đi vội ra về với một âm vang trong đầu: “Rồi chẳng mấy chốc nữa...”
![]() |
Du Tử Lê và bằng hữu tại cà phê Hạt Ngò |
Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020
Trịnh Cung: Ký Ức Tháng Tư Một Câu Chuyện Khác
Trong đám dân chúng miền Bắc ồ ạt đổ về Miền Nam để gặp lại họ hàng sau 20 năm xa cách sau khi những chiếc tăng mang cờ Mặt Trận Giải Phóng tiến vào dinh Độc Lập tiếp nhận cuộc đầu hàng của tướng Dương Văn Minh, có cả những văn nghệ sĩ nổi tiếng của Hà Nội từ những năm 30-40. Họ vào Sài Gòn để thăm những văn nghệ sĩ gốc bắc đã từng là bạn thân của họ trước khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954.
Không thể biết được đám người này có phải chỉ vì tình nghĩa thân thuộc mà kéo nhau vào Nam tìm thăm họ hàng, bạn bè hay còn có một mục đích chính trị nào khác, nhưng về phía những người Sài Gòn thật sự họ rất mong gặp lại bố mẹ, anh chị em đã bị thất lạc từ 20 năm qua vì hoàn cảnh chính trị khốc liệt của đất nước. Thậm chí, có nhiều người đã từ chối di tản ra ngoại quốc, ở lại chỉ cốt để gặp lại người thân thuộc nhân dịp đất nước thống nhất.
Dẫu những người từ Bắc vào Nam có mục đích thầm kín nào hay không, tôi vẫn tin sự vui mừng của họ khi gặp lại người thân trong Nam là rất chân thật, dù là thường dân hay cán bộ.
Riêng tôi tuy không có ai là họ hàng từ Bắc tìm thăm vào thời kỳ đầu buồn thảm mất nước nhưng nhờ là hoạ sĩ có chút tiếng tăm nên cũng được sự thăm hỏi của một số văn nghệ sĩ từng nổi tiếng của Hà Nội những năm 30-40 xưa như nhà thơ Trần Dần, nhà thơ Hoàng Cầm, nhạc sĩ Văn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân, nhà thơ Xuân Diệu,.. và nhiều hoạ sĩ như các anh Bùi Xuân Phái, Trọng Kiệm, Lưu Công Nhân,..
Những lần gặp gỡ ấy có khi tại nhà tôi, có khi tại nhà anh Thái Tuấn, tại xưởng vẽ của Đinh Cường hoặc trên sân vườn nhà Trịnh Công Sơn.
Tất cả các anh ấy đều lớn tuổi hơn tôi rất nhiều, lại không hề có sự quen biết trước nào để họ đến thăm hoặc gặp gỡ hàn huyên như từng thân thiết. Thường là do sự giới thiệu bởi các bạn văn nghệ sĩ Sài Gòn, chẳng hạn, vào một buổi sáng, có một bạn trẻ đưa nhà thơ nổi tiếng với bài “tôi đi không thấy phố thấy nhà / chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ” đến thăm tôi tại nhà. Lúc đầu tôi khá bỡ ngỡ, chưa nhận ra anh là ai, Trần Từ Duy giới thiệu : “Đây là anh Trần Dần, em đưa ảnh đến thăm anh”.
Thứ Ba, 30 tháng 4, 2019
Trịnh Cung: Việt Nam, Quá Khứ Là Mở Đầu (Vietnam - Past is Prologue)
Một Tác Phẩm Nghệ Thuật Đa Phương Tiện của Nữ Nghệ Sĩ TIFFANY CHUNG, Một Công Trình Nghệ Thuật-Chính Trị Khổng Lồ, Giá Trị Nhất về Chiến Tranh Việt Nam sau 44 Năm Kể Từ 30-4-1975.
![]() |
Tiffany Chung, nghệ sĩ đương đại người Mỹ gốc Việt |
Với Tác Phẩm Nghệ Thuật Đa Phương Tiện Mang Tên “Vietnam, Past is Prologue”, đang được trưng bày tại Smithsonian American Art Museum, Washington DC, Tiffany Chung, một ngôi sao nghệ thuật đương đại Việt Nam đã dành hết nước mắt cho một quá khứ của quê hương mình đã bị bức tử kể từ 30-4-75.
Dẫn Nhập
Thật khó tưởng tượng được và cũng là sự trông mong của tôi từ lâu là sẽ có một ngày được nhìn thấy một công trình nghệ thuật xứng tầm cho một bị kịch lịch sử không chỉ có một không hai đối với lịch sử người Việt mà cho cả thế giới vào những thập niên cuối thế kỷ 20, được sáng tạo bởi một họa sĩ Việt Nam, dù rằng trước đây và hiện nay cũng không nhiều thì ít đã có một số nghệ sĩ đương đại Việt Nam thuộc thế hệ trưởng thành sau 1975 đã làm ra những tác phẩm chạm đến xương cốt của cái ác, cái cam tâm đang hủy hoại dân tộc mình. Có thể kể đến những cái tên: Trương Tân, Nguyễn Mình Thành, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Thái Tuấn, Nguyễn Thuý Hằng... Tuy nhiên, tất cả đều, hoặc phải bỏ cuộc hoặc phải sử dụng thứ thủ pháp ẩn dụ để tránh sự truy bức của chính sách nhà nước Cộng Sản.
Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2019
Trịnh Cung: Tôi đã vẽ như thế nào sau ngày 30 tháng Tư 1975?
![]() |
Tự họa 1989, sơn dầu trên canvas, 25 x45cm. Sưu tập của Phan Nguyên. |
1. Vẽ Trong Trại Tù
Ngày đó, không chỉ mình tôi hoang mang, lơ láo mà hầu hết các bạn cùng thời ở trong hệ thống chính quyền Sài Gòn đều có chung tâm trạng.
Làm gì đây, sẽ ra sao? Trong lúc đó những người ủng hộ cách mạng đang ăn mừng, “ anh em ta về mừng như bão tố/ cờ bay trăm ngọn cờ bay”.
Rồi cái gì đến cũng phải đến, tôi cùng cả trăm ngàn sĩ quan và chức sắc hành chánh khăn gói đi tập trung cải tạo. Thế là giã từ nghiệp vẽ.
Nhưng số tôi, việc vẽ đã bị cột vào đời mình, chạy trời không khỏi. Tinh thần của một hàng bình như tôi là vừa sợ vừa chấp nhận, mất khả năng chiến đấu nên dễ tuân theo chủ trương của trại tù, bảo gì làm đó miễn không quá sức và không hại anh em.
Chủ Nhật, 16 tháng 4, 2017
Trịnh Cung: Về Duy Thanh (2)
Cuộc
Lưu Vong và Sự Im Lặng của Sáng Tạo
Kể ra, 1956, năm ra đời của nhóm Sáng Tạo, tôi mới học
tới lớp đệ tứ trung học đệ nhất cấp, mới tập tễnh làm thơ, chưa biết gì nhiều,
thì các anh, những hoạ sĩ bộ ba này đã là những hoạ sĩ hiện đại, những người
khai nguồn cho một dòng chảy nghệ thuật mới cho thế hệ hoạ sĩ trẻ Sài Gòn bằng
những cuộc triển lãm, những bài bình luận và những hội thảo. Ở đây, tôi cũng
xin mở ngoặc, làm mới hội hoạ Việt Nam không chỉ có bộ ba này. Trong một bài viết
về Tạ Tỵ cách nay nhiều năm, tôi đã ca ngợi tài năng và viễn kiến về một thế giới
mỹ thuật phải nhiều đổi thay theo hướng hiện đại của ông khi theo đuổi hội hoạ
Lập Thể từ khi còn là sinh viên Trường MTĐD vào khoảng năm 1940. Chính Tạ Tỵ mới
là người mở đường, nhà tiên phong từ bỏ lối vẽ trường quy sớm nhất, dù vẫn theo
học và tốt nghiệp Trường MTĐD. Tuy nhiên, Tạ Tỵ là một hoạ sĩ rất độc lập và
không giao tiếp nhiều. Nhất là thời gian ông phục vụ trong quân ngũ với cấp bậc
Đại tá thì bọn hoạ sĩ trẻ chúng tôi lại càng khó tiếp xúc. Điều này cũng tương
tự như trường hợp cố hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí, ông cũng là người làm mới cho tranh
sơn mài, nghệ thuật tạo hình của ông rất hiện đại tới mức ông đã bắt đầu loại bỏ
hội hoạ hữu hình để tiến vào trừu tượng trong những năm cuối đời, nhưng rất tiếc
ông không dành cho lớp trẻ sự tiếp cận về chuyên môn lẫn kiến thức sâu rộng của
ông. Như thế, sự cởi mở, sự tạo ra tiếng nói, tạo ra đối thoại chung quanh vấn
đề vẽ và xem tranh như thế nào của bộ ba Thái Tuấn, Duy Thanh và Ngọc Dũng nó
đã tác động mạnh mẽ đến lớp trẻ chúng tôi như thế nào để sau đó Sài Gòn có được
một lớp tài năng mới như Nguyễn Trung, Mai Chửng, Nguyễn Phước, Dương Văn Hùng,
Nghiêu Đề, Đinh Cường, Nguyên Khai, Hồ Thành Đức,... mà cho tới gần 50 năm sau
kể từ tháng tư 75 họ vẫn còn để lại dấu ấn của một nền hội hoạ hiện đại Việt
Nam rực rỡ không thể bị quên lãng dù lịch sử ngày nay đã không dành chỗ cho những
sự thật như thế.
Thứ Bảy, 15 tháng 4, 2017
Trịnh Cung: Về Duy Thanh (1)
1. Một Quá
Khứ đã là Lịch Sử
Tác giả với Duy Thanh (trái) trên phố
Polk - San Francisco
Sau khi viết
Về Kiều Chinh, hôm nay Đi là Về Duy Thanh. Thực ra từ vài tháng qua tôi đã viết
về người hoạ sĩ tự do có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với giới hoạ sĩ trẻ chúng
tôi vào những thập niên 50-60 của thế kỷ trước ở Miền Nam Việt Nam, lúc đó là một
quốc gia có tên là Việt Nam Cộng Hoà, ông là Duy Thanh.
Tuy nhiên,
bài viết không hoàn thành được dù đã viết khá dài. Vì dài nên điều chính yếu để
nói về người vừa là hoạ sĩ hiện đại tiền phong của Hội hoạ Sài Gòn đồng thời
cũng là nhà văn rất mới trong thể loại truyện ngắn trên tạp chí Sáng Tạo, một tạp
chí văn học và nghệ thuật tiêu biểu cho phong trào hiện đại hoá sáng tác văn học
và nghệ thuật của Miền Nam tự do kể từ 1954 đến 1975 lại thiếu tập trung, việc
gì của ông, tôi cũng đều muốn kể nên bài viết cứ lan man, không kết thúc được.
Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2016
Trịnh Cung: Hoạ sĩ người Mỹ gốc Việt và "Dòng Chính Hoa Kỳ" Trịnh Cung
1.
"Dòng chính" là gì và tại sao phải là "Dòng Chính" (main-stream)?
Ở mỗi quốc gia đều có một xu thế văn hoá riêng, một môi trường xã hội chính trị-kinh tế riêng, một dòng chủ lưu nghệ thuật đang chi phối mọi hoạt động của những ai có liên quan. Tuy nhiên, dòng chủ lưu văn hoá hay là xu thế chính về văn hoá của mỗi quốc gia có mức độ quan trọng khác nhau. Ở những nước yếu, chậm phát triển thì tầm quan trọng của nó chỉ nằm trong giới hạn nội địa, thậm chí nó còn dễ bị các dòng văn hoá mạnh của một số siêu cường tràn vào, làm đổi màu dòng văn hoá bản địa, nhất là ở vào thời đại "toàn cầu hoá" ngày nay.
"Dòng chính" là gì và tại sao phải là "Dòng Chính" (main-stream)?
Ở mỗi quốc gia đều có một xu thế văn hoá riêng, một môi trường xã hội chính trị-kinh tế riêng, một dòng chủ lưu nghệ thuật đang chi phối mọi hoạt động của những ai có liên quan. Tuy nhiên, dòng chủ lưu văn hoá hay là xu thế chính về văn hoá của mỗi quốc gia có mức độ quan trọng khác nhau. Ở những nước yếu, chậm phát triển thì tầm quan trọng của nó chỉ nằm trong giới hạn nội địa, thậm chí nó còn dễ bị các dòng văn hoá mạnh của một số siêu cường tràn vào, làm đổi màu dòng văn hoá bản địa, nhất là ở vào thời đại "toàn cầu hoá" ngày nay.
Vì thế, khi những nghệ sĩ thuộc những quốc gia ở những vùng lục địa kém văn
minh, chậm phát triển, khi di cư đến những đất nước phương Tây hoặc Hoa Kỳ, đều
phải đối diện với vấn đề "Dòng Chính" nếu muốn hội nhập đúng nghĩa
vào môi trường văn nghệ bản địa để thăng tiến sự nghiệp.
Tuy nhiên, riêng với nghệ thuật, để trở thành một hoạ sĩ thuộc dòng chính tại Mỹ
là không dễ, rất khó là hiển nhiên, vì đây là một đất nước khổng lồ về mọi mặt,
nơi có một số trung tâm nghệ thuật quyền lực nhất thế giới như thành phố New
York, như thành phố Los Angeles,... là những nơi tập họp những tài năng nghệ
thuật lớn trên toàn thế giới, phần lớn là người da trắng đến từ châu Âu từ hằng
chục thập kỷ trước. Thứ đến là người Mỹ gốc Phi châu, họ đã và đang là một thế
lực văn hoá có sức phủ sóng rộng lớn khắp nước Mỹ, gây ảnh hưởng rất lớn trong
dòng chính văn nghệ Hoa Kỳ. Do vậy, sự quyến rũ của danh vọng ở đây ngày càng
tăng đối với giới làm nghệ thuật không chỉ riêng đối với người Mỹ mà cả thế giới.
Do vậy, nên khi một nghệ sĩ góc Á châu nào đó đang lưu vong mà chen chân được
vào dòng chính ở đây thì được coi như một thành công quan trọng rất
đáng hãnh diện, một giấc mơ đã hiện thực.
Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016
Trịnh Cung: GENTLE WAVES CỦA TRANG LÊ
Một tác phẩm sơn dầu trên canvas của Trang Le trong triển lãm tại gallery Ruth Bachofner.
Hôm
10 tháng 9-2016, vào 4h chiều, tôi và eL cùng cháu Bách từ OC đến Santa Monica
để xem triển lãm tranh của nữ hoạ sĩ Trang Lê.
Lâu
lắm rồi tôi mới trở lại khu nghệ thuật Bergamot Station Arts Center, đã hơn 15
năm.
Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016
Trịnh Cung - Điều Chưa Kịp Nói Với Tạ Chí Đại Trường
Tuy có gặp nhau thời còn làm văn nghệ ở Sài Gòn trước
1975 và cùng trại tù "cải tạo" ở Xuân Lộc - Long Khánh năm 1976-77
nhưng không là bạn thân của anh, tôi chỉ quen biết và mến trọng anh
vì hai lẽ: Bình dị trong giao tiếp và minh bạch trong cách nghĩ về lịch sử.
Chính cách suy nghĩ và phản biện lại một cách quyết liệt và có luận cứ khoa học của anh về những khuất tất và những điều tự thêm bớt của những người viết lịch sử Việt Nam khi họ có thời cơ hoặc cầm quyền cai trị đất nước làm tôi luôn có cảm giác rất gần gũi với anh dù không thân thiết.
Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014
Ðặng Phú Phong - Xoay Quanh Về “ MỸ THUẬT VIỆT NAM - Những Vấn Ðề Xoay Quanh” với Hoạ sĩ Trịnh Cung.
![]() |
Họa sĩ Trịnh Cung (Hình: Uyên Nguyên) |
Đặng Phú Phong (ĐPP) : Thưa Họa sĩ Trịnh Cung, với hơn 50 năm sáng tác tranh và những bài viết, tham luận về mỹ thuật, tên tuổi anh đã được khẳng định rõ ràng và độc lập trong hội họa Việt Nam cũng như trên thế giới. Mới đây anh tự xuất bản cuốn “MỸ THUẬT VIỆT NAM- Những Vấn Ðề Xoay Quanh”(MTVN). Cuốn sách gồm 26 đề mục mà đề mục nào cũng đầy gai góc, nhưng nghiêm chỉnh, đánh động đến những người có tâm huyết đối với nền mỹ thuật Việt Nam. Toàn bộ cuốn sách từ hình thức đến nội dung thể hiện thật rõ nét tâm tư đầy nhiệt huyết của anh trước hiện trạng đi xuống (theo tác giả) của mỹ thuật Việt Nam. Đây chính là nguyên nhân tôi đến với anh, để được trò chuyện thêm về cuốn sách này.
Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013
Trịnh Cung - xem và đọc lại duy thanh
Trịnh Cung
Nhân sinh nhật của Họa Sĩ DUY THANH
Họa sĩ Duy Thanh (hình: Vương Ngọc Minh)
Ông – ngoài là họa sĩ “tự học” nổi tiếng trong nhóm “Bộ 3” Thái Tuấn-Duy Thanh-Ngọc Dũng của Sài Gòn từ năm 1954 đến 1975 – còn là tác giả của nhiều truyện ngắn và thơ đã phổ biến trên tạp chí Sáng Tạo ngay từ những số đầu tiên được phát hành vào năm 1956, đặc biệt là những ý kiến, nhận định, bài viết của ông về quan niệm sáng tác nghệ thuật hội họa.
Duy Thanh sinh ngày 11 tháng 8 năm 1931 tại Thái Nguyên-Bắc Việt, họ Nguyễn. Đến năm nay là sinh nhật thứ 82 của họa sĩ. Ông hiện sống ở San Francisco trong tình trạng sức khỏe yếu kém.
Thời Sài Gòn trước 1975, hình ảnh của ông còn in đậm trong ký ức tôi với khuôn mặt rắn rỏi, khỏe khoắn, đôi mắt lộ và sáng dưới cặp chân mày đậm và to, tiếng cười sang sảng và giọng nói dầy, trầm ấm. Lần tôi gặp ông gần đây nhất là vào dịp Duy Thanh từ vùng Vịnh (San Francisco) xuống quận Cam(Orange County) thăm nhà văn Mai Thảo đang trong tình trạng suy kiệt nghiêm trọng vào năm 1999, cách đây cũng đã trên 10 năm. Lúc ấy trông ông vẫn còn rất “trai trẻ”. Cái cốt cách mà đến nay ông vẫn còn giữ được phần nào dù đang mang căn bệnh hiểm ác ung thư tủy, như trong một bài viết của họa sĩ Ðinh Cường sau khi ghé thăm người bạn vong niên của mình vào năm 2012: “…cùng ngồi bên nhau trong cái không gian bé nhỏ mà ấm cúng, chị (vợ của DT) vẫn tươi tắn với chiếc khăn voal màu đỏ tươi, anh thì quần short áo thun trắng, thân người chắc, đôi mắt lộ, tinh anh… trông như Picasso, mặc dù anh cho biết mình đang bị ung thư tủy…”. Ðối với người bị ung thư, chịu đựng được nó là cả một cuộc chiến đấu lớn với đau đớn và tuyệt vọng, vượt qua được nó là một điều kỳ diệu. Duy Thanh, người họa sĩ từng để lại trong thế hệ họa sĩ chúng tôi những ấn tượng sâu đậm về ngôn ngữ mới cho hội họa Việt Nam thời những thập niên 60-70, đã vừa phải trải qua những năm tháng như thế. Ðể gửi đến ông lời cầu chúc sức khỏe, mong sự kỳ diệu sẽ đến với ông, cho gia đình ông và cũng là cho chúng tôi, bài viết này là một cố gắng tổng hợp khái quát những gì họa sĩ Duy Thanh đã cống hiến cho hội họa, văn chương Việt Nam tự do kể từ ngày ông di cư vào Nam năm 1954.
Duy Thanh, Thái Tuấn và Ngọc Dũng
(hình của Đinh Cường)
Trước khi nói về Hội Họa Duy Thanh, là phần chính của bài viết, tôi xin được lược qua một số bài viết tiêu biểu về hội họa, một số truyện ngắn và thơ của ông đã đăng trên nhiều số của tạp chí Sáng Tạo từ năm 1956 đến 1960.
Tiểu luận về hội họa:
1. Trường Hợp Picasso, Sáng Tạo số 2 – tháng 11 năm 1956
2. Nói Về Hội Họa, Sáng Tạo số 8 – tháng 5 năm 1957
Với 2 tiểu luận này cùng với những phát ngôn trong các Bàn Tròn của tạp chí Sáng Tạo, đặc biệt là bàn tròn Ngôn Ngữ Mới Trong Hội Hoạ (Sáng Tạo bộ mới số 3 – tháng 9 năm 1960) cùng với 8 tác giả khác, có thể thấy Duy Thanh cùng Thái Tuấn và Ngọc Dũng là những họa sĩ tiền phong của phong trào cổ xúy đổi mới ngôn ngữ hội họa Việt Nam.
Trong tiểu luận về Picasso, Duy Thanh viết:
“…Chỉ có Picasso luôn bất mãn, luôn tìm kiếm, luôn phá phách, luôn mâu thuẫn và điều kỳ lạ nhất, Picasso vẫn thành công rực rỡ trước mọi thử thách.”
Và khi đề cập đến vấn đề của người xem tranh luôn đòi hỏi phải hiểu được tác phẩm muốn nói gì một cách cụ thể, Duy Thanh đã mượn lời Picasso:
“…một họa phẩm đến với tôi như tự cõi nào xa lắm, không ai biết được nó bao xa, chỉ có tôi đoán được, trông thấy được và tạo ra được. Làm sao người ta có thể đi sâu vào cõi mộng của tôi, trong bản năng của tôi, trong khát vọng của tôi, khi tất cả những thứ này đã được gạn lọc thấm nhuần từ bao lâu trong tôi rồi bật ra khung vải. Ai đã có thể hiểu được tác phẩm khi ở đó tôi đã vẽ bằng một phần của vô thức.”
Và còn đi xa hơn, cực đoan hơn với tuyên ngôn sáng tạo nghệ thuật của Picasso:
“…Sao chúng ta có thể theo khuôn sáo cũ mà quên mất phần sống bên trong của con người, những tâm trạng con người chúng ta trong thế kỷ này. Tôi đòi hỏi một sự độc tài trong nghệ thuật, sự độc tài của các họa sĩ, sự độc tài của một cá nhân nào đó dám gột bỏ hết thói quen, những trò tiểu xảo, những cái đẹp giả tạo và cùng bao nhiêu thứ khác nữa để dám làm một cái gì mới.”
Với tiểu luận Nói Về Hội Họa, Duy Thanh gần như hưởng ứng những suy nghĩ về sáng tạo nghệ thuật mà Picasso đã chủ xướng một cách triệt để như những trích dẫn đã nêu trên.
Cũng như mượn lời của Braque, danh họa Lập Thể đã nói về cách sáng tác của mình: “Tôi tiến tới độ làm mất đi tính chất của sự vật để cho vật đó một ý nghĩa khác hơn, một sức sống mới, một cuộc đời mới. Khi vẽ cái bình, không phải chỉ là một đồ vật đựng nước. Nói khác đi, những vật được tạo ra giữ một số phận mới trong bức tranh.”
Và Duy Thanh kết luận: “Muốn làm nghệ thuật ít ra phải nắm được cái chất của nghệ thuật, mà phải là thứ nghệ thuật bây giờ, thứ nghệ thuật tiêu biểu cho thời đại của mình. Vẽ chỉ là phương tiện để diễn đạt tiếng nói của linh hồn, vẽ là một thám hiểm nội tâm”.
Với phát ngôn này của Duy Thanh, tôi đặc biệt chú ý đến cụm từ “nghệ thuật bây giờ”, đây là một cách gọi tên rất mới của một họa sĩ Việt Nam vào những năm 50-60 của thế kỷ trước để phân định cho trào lưu nghệ thuật đang làm thay đổi hệ thống mỹ học có từ trước và đến những năm đầu của thế kỷ 21, người Tây mới bắt đầu dùng thuật ngữ Nghệ Thuật Bây Giờ (Art Now) để thay cho Nghệ Thuật Ðương Ðại (Contemporary Art).
Duy Thanh, Chân dung tự họa
Về văn chương:
Truyện ngắn:
- Khép Cửa, Sáng Tạo số 3, tháng 12 năm 1956
- Ðống Rác, Sáng Tạo số Xuân, tháng 2 năm 1957
- Chiếc Lá, Sáng Tạo Bộ Mới số 1, tháng 7 năm 1960
- Lớp Gió, Sáng Tạo bộ mới số 2, tháng 8 năm 1960
Quan niệm về viết truyện của mình, Duy Thanh đã bày tỏ rất rõ trong bàn tròn thảo luận Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết của tạp chí Sáng Tạo (bộ mới) số 1, tháng 7 năm 1960: “Khi viết tôi không hề nghĩ đến nhân vật. Khởi đi từ một hình ảnh, một ý tưởng nào đó viết dần rồi nhân vật hiện ra. Tôi muốn mỗi nhân vật của tôi phải là một sự phiêu lưu bất kể mọi giới hạn. Cũng phiêu lưu như khi tôi làm nghệ thuật.”
Thơ:
- Hoang, Sáng Tạo số 7, tháng 4 năm 1957
- Em Ðã Nghe Gì Trong Bài Thơ Hôm Nay, Sáng Tạo số 9, tháng 6 năm 1957
- Bài Thơ Tình Số 3, Sáng Tạo số 11, tháng 8 năm 1957
- Khung Cửa – Dòng Sông, Sáng Tạo số 12, tháng 9 năm 1957
- Bài Thơ Nga, Sáng Tạo số 15, tháng 12 năm 1957
Quan niệm về làm thơ, trong thảo luận về Thơ Bây Giờ (Sáng Tạo bộ mới số 2, tháng 8 năm 1960), Duy Thanh nhận định: ”Nhà thơ nào độc đáo đều có một ngôn ngữ riêng”. Và: “Tôi thường nói chuyện với anh Thái Tuấn rằng muốn làm nghệ thuật ít ra phải nắm được cái chất của nghệ thuật (mà phải là thứ nghệ thuật bây giờ, thứ nghệ thuật tiêu biểu cho thời đại của mình). Chẳng hạn làm thơ, anh cần phải có cái thứ tôi gọi là esprit poétique trong người anh”.
Sau đây là một số trích đoạn trong Ðống Rác, Lớp Gió (2 truyện ngắn) và Em Ðã Nghe Gì Trong Bài Thơ Hôm Nay, Khung Cửa-Dòng Sông (2 bài thơ) của Duy Thanh:
“Khung vải đặt lên giá, tối ném bừa bãi những hình thể, những màu sắc lên tàn nhẫn. Vẽ để cho vợi một cái gì đương hun bốc trong người. Chiều nắng toả bát ngát lên mặt hoạ phẩm, đan trên sàn gỗ từng phiến màu lồng lộng. Ngón tay xương xẩu của tôi quắp lấy thanh bút, nguêu ngoao, lơ láo như một con nhện rừng. Không phải tôi vẽ như mọi lần nữa, mà chính là tôi đã chửi rủa tàn tệ bằng sắc màu. Vứt vào không gian cái khoái cảm, cái khinh khi tuyệt vời của mình là một điều hể hả biết mấy. Những thỏi sơn ộc ra từng đống quằn quại trên mặt vải.
…
Đứng trước cửa sổ nhìn xuống bãi cỏ hoang cạnh nhà, tôi muốn lăn vào đó. Lăn vào những mảnh vỏ chai, gạch ngói, rác rưởi, cỏ dại cho xây xát mình mẩy mới hả. Để cho thần xác cũng nhầy nhụa như cái tôi hiện tại. Trong một giây không đắn đo, tôi trút căm hờn vào khung vải đang vẽ. Tôi vồ và ném mạnh ra ngoài. Sắc màu man dại quay một đường vòng trong không gian rồi rơi xuống. Tự dưng thấy nhẹ nhõm tôi nhớ đến người chiến sĩ kháng chiến Hung-gia-lợi nằm chết mục xác trên hè phố Budapest…” (truyện ngắn Đống Rác – Sáng Tạo số đặc biệt Mùa xuân năm 1957).“
“…Trong lá thư để lại cho Trinh, Ngạc viết những dòng này trước khi lên tàu xuống Hải Phòng: “Tao lại đi tìm một lối thoát nữa và tao biết chắc có ở lại cũng không tìm thấy một chân lý nào thêm hơn cả. Tao đã sống với Cộng sản mấy tháng trước khi họ tiếp thu Hà-nội. Học cũng đưa ra nhiều lý lẽ vững vàng lắm, để sống cho tương lai. Kể ra thì lắm khi lý lẽ họ cũng phải. Nhưng cứ suy xét tao lại thấy một cái gì rất sai lạc. Tao nghĩ rồi. Tao không muốn làm một viên gạch nung đều đặn như trăm ngàn viên gạch khác cùng được luyện trong một cái lò. Tao muốn trở nên một cái gì khác. Đấy cũng là một lý lẽ để tao đi. Dù chúng mày chửi tao cũng mặc…” (truyện ngắnLớp Gió – Sáng Tạo bộ mới số 2, tháng 8/1960).
***
“Tiếng thở dài. Và chiếu chăn của một đêm trần xô lệch
Và mạch máu côi đơn phập phồng ngách thịt
Có ai nhớ gì tiếng nói hôm qua. Có ai
Anh và em hoạ chăng là những cánh thư dài
Kết bằng cỏ những sợi mai nằm chốn ấy.”
(Em Đã Nghe Gì Trong Bài Thơ Hôm Nay – Sáng Tạo số 9, tháng 6/1957)
“Dang dở là cuộc tình duyên những kinh thành nổi loạn – anh ngủ mê trên đỉnh kim tự tháp – hơi thở mặt trời – sa mạc kín bưng – từng biển cát quàn lên thân thể
Không nhớ làm gì không nhớ làm gì vốc nước suối trong – vì sao đêm đã về thướt tha những vuốt xanh êm
Anh uống những sợi kim xanh cho linh hồn đỏ lửa – cào cấu những vòng gai tâm can – đau một niềm đau của Budapest
Kẻ bộ hành nào đang đi – quằn quại dấu chân lạc đà – vời xa cát trắng
Không còn hàng dừa xanh lưu ly bóng nước
một đốm lửa hay một mảnh trăng vô tình
không một giọt lệ nào vương trên má
một vành xe lăn trên đường
Nếu có đi về tận vô biên hãy đừng nhớ mang chi hành lý – thân thể nặng rồi
vì không ai nhớ gì
vô ích…”
(Khung Cửa – Giòng Sông - Sáng Tạo số 12, tháng 9/1957)
Hội Họa Duy Thanh:
Duy Thanh theo hội họa ở Hà Nội từ năm 1952 như ông đã kể: “Tôi theo học lớp hội họa đầu tiên với thầy Nguyễn Tiến Chung. Dáng người gầy cao, xương xẩu, ông này đã lưu lại ở tôi nhiều kỷ niệm tốt. Nhất là lề lối truyền thụ nghề nghiệp cũng không bị gò bó lắm vào khuôn khổ, nề nếp, vốn là truyền thống của các trường mỹ thuật. Tôi thụ giáo với ông đúng một năm rưỡi. Trong thời gian này tôi quen với chàng Ngọc Dũng, xưởng họa chúng tôi ở trên lầu trường tư thục Trí Tri, phố Hàng Quạt…” (trích trong tạp chí Văn số 93).
Duy Thanh bắt đầu chính thức triển lãm cá nhân ở Sài Gòn năm 1956, tại Phòng Triển Lãm Ðô Thành ở góc đường Tự Do – Lê Lợi, và tại Pháp Văn Ðồng Minh Hội, đường Gia Long (tên có từ trước 1975). Và sau đó, ông nhiều lần triển lãm cá nhân hoặc với nhiều họa sĩ khác của Miền Nam.
Trong một lần trả lời phỏng vấn của tuần báo Bách Khoa, Duy Thanh đã từ chối mình là họa sĩ theo trường phái Dã Thú (Fauvisme), và còn khẳng định mình không theo trường phái nào, tuy nhiên, quan sát về hình thái nghệ thuật, tranh của Duy Thanh đã bộc lộ rất rõ tính cách của hội họa Dã Thú, màu: tươi, nóng; độ tương phản cực đoan; nét vẽ: đơn giản, mạnh mẽ; tinh thần: trực phát, sinh động. Đó chính là những đặc trưng cơ bản của hội họa Dã Thú. Điều này còn có thể thấy rõ hơn qua những phát ngôn, ý kiến của ông trong các bàn tròn thảo luận về thơ, về tiểu thuyết hay về hội hoạ trên tạp chí Sáng Tạo. Ông rất thường hay trích dẫn lời của các danh họa Dã Thú Phương Tây mà ông tâm đắc:
- “Cõi đời này buồn và đáng chán quá nên tôi phải tạo ra một thế giới rực rỡ hơn bằng tác phẩm của tôi.” (Van Dongen)
- “Tôi dùng những màu xanh, đỏ, vàng, nguyên chất hòa hợp với nhau để khuấy động cái dục tính của con người, và tôi vẽ trước hết để tả nỗi xúc động mà tôi cảm thấy ở sự vật.” (Matisse)
- “Tôi dùng màu xanh, đỏ để chỉ sự say mê kinh khiếp của con người.” (Van Gogh)
Van Dongen, Ngón tay trên má nàng (1910)
Henri Matisse, Niềm vui cuộc sống (1905-06)
Duy Thanh, Những sắc màu
(acrylic trên bố, 57×100)
Duy Thanh, Chim của giấc mộng
(acrylic trên bố, 85×100)
Mặt khác, trong truyện ngắn Ðống Rác, Duy Thanh đã viết: “…Khung vải đặt lên giá, tôi ném bừa bãi những hình thể, những màu sắc lên tàn nhẫn. Vẽ chỉ để cho vơi một cái gì đang hun bốc trong người”. Có thể coi đây là một tự sự của chính ông, của một họa sĩ thuần về cảm xúc dữ dội, những rung động bốc lửa, những tâm trạng muốn vỡ tung, muốn bung phá… – những nét đặc trưng tính cách thường thấy ở những họa sĩ thuộc trường phái Dã Thú – một khuynh hướng sáng tạo chống lại tính cách dịu dàng, ngọt ngào cảm xúc của trường phái Ấn Tượng và là sự mở đầu cho thời Hậu Ấn Tượng (Post-Impressionisme).
Về kỹ thuật hội họa, Duy Thanh thừa nhận sự cần thiết có mức độ của kỹ thuật cho việc thực hiện tác phẩm: “Tất nhiên, vì lẽ dễ hiểu, mỗi họa sĩ cần có chút ít kỹ thuật mới mong sáng tác được”. Ông có thể sử dụng tốt nhiều loại chất liệu, từ vẽ màu nước, bột màu, vẽ ký họa đến sơn dầu. Tuy nhiên, với Duy Thanh, sơn dầu là một chất liệu thích hợp với cá tính của ông nhất vì nó mạnh như cảm xúc của ông, vì nó dễ hành động ngay tức thì khi ông cần ném nó lên khung vải, và vì nó có khả năng chịu đựng bền bỉ, không kêu than khi ông muốn dầy vò, chà xát nó đến đâu và chỉ có nó mới làm ông đạt tới tột đỉnh của khoái cảm sáng tạo. Sơn dầu là một chất liệu vô địch cả trong cảm xúc (khi vẽ), biến hóa (kỹ thuật) và bền vững (thời gian).
Nhưng cuộc “nổi loạn” nào cũng phải có lúc dừng lại, phải kết thúc. Tự nó, hoặc bị một cuộc nổi loạn khác kết thúc giùm. Ðó là sự mâu thuẫn đầy bản năng của tuổi trẻ và tuổi già. Trong nghệ thuật ai nổi loạn bằng Picasso? Thế mà vào những năm cuối đời, ông không vẽ tranh Lập Thể để quay về với hội họa Hữu Hình (Figurative) đầy dục tính.
Ở gần chúng ta hơn, trong văn chương, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên, hai nhà thơ tự do một thời khuấy đảo làm nổ tung nền thơ mới Việt Nam bằng thơ Tự Do, sau khi đi tù “cải tạo” nhiều năm về đã bỏ thơ Tự Do. Thanh Tâm Tuyền quay về với thơ vần để trở lại với chính mình, trở về với con người mình vừa đi qua một chặng đường dài đầy bất hạnh. Tô Thùy Yên cho xuất bản tập thơ Thắp Tạ ở Mỹ với một giọng thơ rất kinh điển, trầm tư như một “Tỳ Bà Hành”. Duy Thanh cũng không ra khỏi ngoại lệ, ở những năm cuối đời ông vẽ rất khác, với những tranh vô ngôn, vô sắc, vô hình, bằng mực trên giấy, cho thấy một thể trạng tinh thần khác, hoàn toàn khác với một Duy Thanh thời trẻ tuổi luôn hừng hực dấn thân, nồng nhiệt phiêu lưu vào thế giới sáng tạo, khám phá ngôn ngữ mới. Bây giờ, ông dùng hội họa như một cuộc mạn đàm với hư vô, để trở về cái nguồn cội con người của ông.
Kết:
Với gần 60 năm vẽ-viết trên tinh thần khai phóng, vận động không mệt mỏi cho một phát triển canh tân văn học và nghệ thuật Việt Nam, Duy Thanh là một họa sĩ hiếm có trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Trong tất cả những công việc ấy luôn nhất quán và chín muồi một tư duy rộng và một trái tim đầy chân tình của ông dành cho hội họa.
Những thông điệp kêu gọi làm mới ngôn ngữ nghệ thuật và hướng về nội tâm con người mà ông đã gửi tới chúng ta đã từ rất sớm, mà cho đến nay cái ý niệm ấy vẫn không hề lạc hậu. Cái quy trình của lật đổ và phục hưng trong đời sống sáng tạo của nhà văn-nghệ sĩ ấy vẫn đang được các thế hệ làm nghệ thuật ngày nay tiếp tục nối dài thêm con đường vinh quang của nó.
Viết tại Arcadia-California, 6/8/2013.
Trịnh Cung
Duy Thanh trong studio ở San Francisco (hình: Hạnh Tuyền)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)