Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Văn Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Văn Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2022

Trần Văn Nam: Hai Bài Thơ Trong Thời-Cuộc Mà Như Đứng Ngoài

I/ Tô Thùy Yên hoang-vu-hóa một vùng đảo tranh chấp:

Bài thơ "Trường Sa Hành" của Tô Thùy Yên rất đặc sắc. Tác giả đã thi hóa thật tài tình một tạo vật thiên nhiên, thi hóa một quần đảo hoang vu bằng những từ ngữ sáng tạo tân kỳ độc đáo. Thi-hóa rộng nghĩa hơn thơ-mộng-hóa. Thơ mộng hóa chỉ là một khía cạnh của thi hóa: khía cạnh làm đẹp, hoặc làm huyền ảo lãng mạn. Còn thi hóa có thể còn thêm khía cạnh thần bí, siêu hình. Nhưng thần bí siêu hình hơi nghiêng về khuynh hướng tôn giáo, nên thiết nghĩ dùng từ ngữ hoang-vu-hóa xác đáng hơn với chủ đích của tác giả là làm tăng thêm vẻ quạnh hiu của thiên nhiên. Tức là tác giả muốn hoang vu hóa một quần đảo vốn đã quạnh hiu. Vốn quạnh hiu, vì hầu như từ tiền bán-thế-kỷ 20 trở về trước, người ta đã lãng quên nó ngoài Biển Đông. Lúc bấy giờ chắc chưa có thăm dò trữ lượng dầu chất chứa dưới đáy biển sâu của vùng quần đảo này.

 

Hoang vu hoá một tạo vật vốn đã hoang vu, vậy coi như vô tình tác giả ngược dòng với thời thế đang có cuộc tranh chấp chủ quyền của vùng đảo Trường Sa. Các nước Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân, Brunei, Trung Quốc, Đài Loan… đang tranh chấp để trong tương lai xóa bỏ hoang vu của nó bằng những căn cứ hải quân, phi trường, giàn khoan dầu, cơ xưởng chế biến. Ngược lại, hoang vu hóa chính là đưa tạo vật trở về thiên nhiên nguyên thủy, hoặc làm cho nó càng thêm hiu quạnh:


Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi
Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.


Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2019

Trần Văn Nam: Hình thức gắn bó với nội dung trong thơ Nguyễn Vỹ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa

Thời tiền chiến, có lẽ chưa có từ ngữ cơ cấu rất được ưa dùng ngày nay do ảnh hưởng của thuyết cơ cấu luận của Tây Phương, nên tính chất cách tân của Nguyễn Vỹ qua bài thơ "Sương Rơi" chỉ được coi như "đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để tả một cái gì đương rơi" (Hoài Thanh, trong "Thi Nhân Việt Nam"), hoặc quy định Nguyễn Vỹ như "nghệ sĩ ấn tượng thu cả âm thanh vào cả cảm giác mình rồi phát ra bằng lời thơ" (Nguyễn Tấn Long - Phan Canh, trong "Khuynh Hướng Thi Ca Tiền Chiến"). Ta nghĩ "sáng tạo nhạc điệu riêng" chưa nói lên sự cách tân của Nguyễn Vỹ là nhấn mạnh liên hệ gắn bó ý thơ và thể thơ, vì Nguyễn Xuân Sanh và Đoàn Phú Tứ cũng đã sáng tạo nhạc điệu riêng trong thơ mà không đưa ra một đồng bộ giữa nội dung và hình thức như Nguyễn Vỹ: cứ hai chữ xuống dòng giống như từng giọt sương rơi; ý thơ là niềm đau rơi rụng, cảm thức nỗi hiu hắt lạnh lùng. Ta cũng nghĩ nếu là "ấn tượng" thì thiên về cảm giác; thấy ra sao, nghe ra sao thì diễn tả ra, không cần sự can thiệp của lý trí, cho nên cũng không cần phối hợp chặt chẽ với ý thơ. Ông Hoàng Nguyên Nhuận đã cho ta một ví dụ rất rõ về ấn tượng: "Vẽ đường rầy xe lửa hay đường tàu chẳng hạn. Theo ấn tượng thì hai đường tàu song song giao nhau ở cuối chân trời. Thấy sao vẽ vậy, hay vẽ theo đúng ấn tượng là vẽ đường tàu như A hay chữ V ngược" (Trong tạp chí Hợp Lưu số 55). Nguyễn Vỹ thấy sương rơi từng giọt thì tạo ra thể thơ cứ một hai chữ lại xuống hàng, nhưng còn phối hợp với ý tưởng từng giọt thấm vào lòng lạnh lùng, từng giọt rơi trên mồ hoang; đó là do liên tưởng, không phải chỉ thuần do cảm giác đem lại. Nhưng sự cách tân của Nguyễn Vỹ không phải là dễ dàng đạt tới cơ cấu gắn bó hình thức và nội dung. Ví dụ trong thể thơ diễn tả tiếng chuông phối hợp với nội dung nhớ tiếng chuông chùa quê hương, tác giả dùng thể thơ có hình tượng như từng bậc tam cấp hay đồng ruộng bậc thang ở các vùng đồi xứ Phi Luật Tân hay Indonesia. Ta nghĩ tiếng chuông ngân nga không giống như vậy. Trong khi đó, cũng đồng thời với Nguyễn Vỹ, thi sĩ Bàng Bá Lân không cố ý cách tân để tạo ra một cơ cấu gắn bó mà bài thơ về tiếng võng đưa của ông đã ngẫu nhiên phối hợp được: Cứ một hai câu thơ đưa qua bên trái, lại có hai ba câu đưa sang bên phải, và có khi vài câu lưng chừng ở giữa như cái võng đưa qua đưa lại rồi lắc lư cân bằng; phối hợp với âm thanh tiếng cót két; phối hợp với nội dung bảy tám chục phần trăm dân tộc Việt Nam lớn lên từ tiếng võng mẹ ru con, bà ru cháu nơi đồng quê. Phải chăng có ý thức sáng tạo để cách tân như Nguyễn Vỹ thì mới được văn học kể đến như một người chủ trương sự phối hợp chặt chẽ giữa nội dung và hình thức. 

Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2019

Trần Văn Nam: Lả Trắng Hoa Bay


Lại đến một mùa bông rụng bay
Ngoài trời nắng gió rung hàng cây
Hoa rơi lả trắng trên đường vắng
Khu phố nằm im giấc ngủ ngày.

Cây cỏ nào đây không có tên
Bình thường bên cạnh cuộc đời quên
Nhưng trong thớ vỏ khô gầy ấy
Dòng sóng xoay theo một vận trình.

Khi những hội hè đã cách xa
Giáng sinh chấm dứt, Tết vừa qua
Đến mùa bông rụng nào ai biết
Những cách hoa rơi lượn trước nhà.

Thảo mộc cũng đang chép sử đời
Từ khi chớm nụ đến khi rơi
Âm vang vỏ nứt ngày viên mãn
Trận gió cơ duyên đến chuyển dời.

Cũng giống như mình mang lấy thân
Tuân theo trời đất luật xoay vần
Dẫu rằng lịch sử không gì cả
Sớm tối có mình làm chứng nhân.

Sinh nhật mỗi năm đến hạn kỳ
Như mùa bông rụng chẳng ngày ghi
Một khi cùng gió thăm đây đó
Lăn lóc nằm quên một vỉa hè.

Diễn lại mãi thôi một vận hành
Hóa sinh hoàn tất kiếp vô danh
Nếu đời bình thản như cây cỏ
Chắc chẳng còn ai tiếc tuổi xanh.

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2018

Nhớ Trần Văn Nam; Nhân giỗ đầu của bạn 18/11/1939 - 10/01/2018


Ngày 7 tháng 01 năm nay (2018) từ quán cà phê Factory, một số bạn của Trần Văn Nam đã cùng nhau chạy lên nhà anh ở thành phố Walnut để thăm anh, vốn bị bệnh đã nhiều tháng không họp mặt với anh em tại quán cà phê như từ hơn một thập niên qua. Không ngờ lần thăm và gặp mặt anh hôm đó là lần cuối cùng, vì chỉ ba ngày sau, ngày 10 tháng 01, 2018, Trần Văn Nam qua đời.

Để tưởng nhớ đến người bạn văn học hiền lành mà giàu năng lực, nhân ngày giỗ đầu sắp đến của anh, nhà thơ Thành Tôn và người bạn trẻ Nguyễn Vũ đã bỏ nhiều công sức để thực hiện một cuốn Thơ Tuyển gồm 44 bài thơ của Trần Văn Nam, với bìa do họa sĩ Khánh Trường trình bày. Ngoài phần thơ, cuốn sách còn phần Phụ Lục gồm bài viết về Trần Văn Nam của một số bạn bè anh : Hoàng Xuân Trường, Viên Linh, Nguyễn Mạnh Trinh, Trần Yên Hòa, Phạm Xuân Đài.

Thơ Trần Văn Nam: Biết Rồi, Điều Trừu Tượng

Cuốn Thơ Tuyển nhân giỗ đầu của Trần Văn Nam

Trời không mây, xanh thẳm
Có hai con ó đen
Bay vòng rồi đảo lại
Cảnh này, dường thấy quen.

Nhớ rồi, mùa xuân ấy
Quận huyện, lửa chiến tranh
Người chết bờ kinh vắng
Trên trời, ó quẩn quanh.

Bóng ó thời tao loạn
Là hình ảnh tóc tang
Bây giờ chúng bay đẹp
Một đường bay thênh thang.

Biết rồi, điều trừu tượng
Vượt ngoại diện, sắc màu
Thấy gì trong tương phản
Con ó thời trước, sau

Ở trên xấu và đẹp
Là nguyên lý tồn sinh
Loài tìm ăn xác chết
Thuần khiết lúc thanh bình.

Mùa đông đã sắp hết
Đường xác lá, sương mù
Cũng thấy rồi, trừu tượng
Xoay vần là thiên thu.

Walnut, California, tháng 11,2010


Nguyễn Vy Khanh viết về Trần Văn Nam

Nhà thơ và lý luận văn học sinh ngày 18 - 11 - 1939 tại Bến Tre, trước 1975 là giáo sư Việt Văn và Triết tại miền Tây, Trần Văn Nam sớm có bài đăng trên Nhân Loại (thơ Phương Ấy, về Thị Thành, Sơn Cước, ...), rồi Văn, Văn-Học, Nghệ Thuật, Khai Phá, Văn Khoa, Đối Thoại, Trình Bầy, Vấn-Đề, Thời Tập,báo Dân Chúng, ...Tác-giả tập nhận định Văn Nghệ Đã Đi Đến Đâu? Từ 1954 Đến Bây Giờ - Phụ Tập: Thơ Và Triết Học- Trường Ca Của Dòng Sông Xuyên Á (TGXB, 1966 - 32 tr.). Tư tưởng, lý luận theo khuynh-hướng hiện sinh: Tập Thơ Độc Nhất (thơ và triết học; Trình Bầy 1963) và Tập Thơ Bổ Khuyết (TGXB, 1963) - trong cả hai tập, Trần Văn Nam đã áp dụng triết-học Hiện-sinh vào thi ca và văn-chương, thi ca ở đây được xem như là phương tiện đến với triết lý đồng thời như là mục-đích của cả triết lý lẫn thi ca đồng thời ông đã thử đưa vào thi ca những ý niệm/nhận thức siêu hình về con người[X. Chương Thi Ca).

Trong Văn Nghệ Đã Đi Đến Đâu? Từ 1954 Đến Bây Giờ, ông đã đặc-biệt có những quan sát và nhận định về sinh hoạt văn-học ở miền Nam: Dư vang văn-nghệ lãng-mạn tiền chiến và văn-nghệ chiến khu, Văn-nghệ khởi lên từ cuộc di cư, Văn-nghệ mới với nhóm Sáng-Tạo, Thời kỳ văn-chương và siêu hình học, Văn-nghệ sau ngày 1-11-1963 và cuối cùng, Đường đi của hơn 10 năm văn-nghệ. Ông đã sớm có cái nhìn về giá trị văn-chương của các sản phẩm xuất-bản và đã nhận định về thời 1965- 66: ”... văn-chưong đang tìm về nghệ-thuật muôn đời, văn-chương đang tìm vềước vọng của con nguời ngàn năm, văn-chương đang tìm về Viễn Mơ thanh bình chứ không phải hiện thực xã-hội...” và ông đã khẳng định rằng “không” cho câu hỏi “tác-phẩm vị nhân sinh nào tồn tại đến bây giờ?”.Và Triết học Tây phương đã và đang hướng về phía Đông, “trở về tâm giới, được coi nhưmột cuộc hành hương trở về quê nhà”, thì nghệ- thuật cũng vậy, “sau những quyến rũ của danh nghĩa viết bằng chữ hoa; những danh từ kêu lới: Vị nhân sinh, nhân bản, Dấn thân, Đầu thế, Triết lý, Siêu hình, văn-nghệ đã trở về ngôi nhà đích thực của mình đã bỏ quên là nghệ-thuật thuần túy. Nghệ-thuật là cái Đẹp sau những phong ba của thực tế; cũng nhưcon chim kêu ghềnh núi không hẳn là tiếng kêu thương thảng thốt mưusinh, mà có khi là tiếng kêu ca ngợi cuộc đời. Hành trình trở vềnhà của văn-nghệ không phải là một con đường vạch sẵn do một lý thuyết hướng dẫn, mà là con đường lần mò do sự kiện văn-nghệ diễn tiến phô bày lần lượt trong hơn 10 năm văn-nghệ ...”(tr. 15-16) - đó cũng là lý do mà bản đăng tạp-chí Văn Họccó tựa “Văn Nghệ Đã Đi Về Đâu? Lược trình văn-học sử kể từ 1954, và viết theo lập trường vị nghệ-thuật”!

Hoàng Xuân Trường: Quen Biết Anh Trần Văn Nam Và Những Cơ Duyên

Anh Trần Văn Nam vừa ra đi. Nhiều bạn bè thân thiết của anh chắc sẽ nhớ thương anh mà nhớ lại được nhiều hồi tưởng. Nhưng riêng đối với tôi, khi ngồi nhớ lại những kỷ niệm, những trường hợp quen biết một người bạn hiền lành đáng quí, tôi nhận thấy giữa chúng tôi như có một sợi dây nhân quả vô hình nào đó, đầy những cơ duyên để gặp được nhau và quen biết nhau. 

Thật ra, tôi đã không phải là một trong những người bạn thân thiết nhất của anh. Tình bạn giữa tôi và anh có thể ví như đạm thủy nhưng không thiếu sự đồng cảm và tương kính. Và hôm nay, khi ngồi nghĩ lại những cơ duyên đưa đẩy để chúng tôi, hai người khác hẳn nhau về hoàn cảnh lớn lên, về cá tính, đã quen biết nhau và quí trọng nhau, tôi mới thấy những cơ duyên này hơi bất ngờ và khác lạ. Anh lớn hơn tôi bốn tuổi, sinh ở miền Nam, học Văn Khoa khi tôi học Trung Học. Ra trường anh dạy học trong khi tôi đi lính. Đầu mối duy nhất của sự quen biết chỉ giản dị là anh thích làm thơ và tôi thích đọc thơ.

Cái đầu mối sơ khởi và giản dị này bắt đầu từ hơn năm mươi năm trước đây, khoảng năm 1963, sau khi vừa tốt nghiệp Trung Học, tự nhiên ở đâu ra tôi được đọc một tập thơ nhỏ của anh và trong tập thơ đó, trí nhớ không gì tốt lắm của tôi lại khắc sâu vào tâm tư một cách bền chắc vài câu thơ rời rạc: “Trong làn mưa bụi bay lâm râm Hồn ma đắm bể còn trôi nổi Thây vướng vào chân những đá ngầm”. Tôi nhớ ba câu thơ cũng như tôi nhớ cái tên Trần Văn Nam, cũng là bút hiệu của tác giả, một cái bút hiệu giản dị, chân chất. Nghĩ lại, ba câu thơ kể trên thật ra cũng không có gì đặc sắc, nhưng không hiểu sao, chúng cứ mãi nằm sâu trong tâm thức tôi trong suốt hơn nửa thế kỷ của đời người, đã theo tôi từ những ngày đi học, những ngày đi lính ở cao nguyên hay vùng đồng bằng Cửu Long, từ những ngày tù tội cho đến những ngày luân lạc xứ người . Thỉnh thoảng mỗi khi trong tâm thức chợt hiện ra ba câu thơ trên, tôi lại tự hỏi là cái anh tác giả này hiện ở đâu, làm gì mà sao không thấy nhắc đến tên nữa.

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2018

Trần Văn Nam: Sông Mã qua bút ký và truyện ngắn của Phạm Xuân Đài và Nguyễn Tường Thiết

               Sông Mã, đoạn chảy qua trước trại tù Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa

Không hiếm gì những dòng sông có liên hệ đến tác phẩm văn học của một tác giả. Nếu kể ra hết thì nhiều quá, có khi ta bỏ sót một tên tuổi nào đó mà không hay. Nếu kể về vĩ đại trên bình diện thế giới thì chắc ta không thể bỏ sót, như “Sông Don Êm Đềm” của nhà văn Nga giải Nobel văn chương Mikhail Sholokhov viết về chuyện tình trong bối cảnh buổi giao thời nội chiến ở nước Nga giữa các phe thuộc Nga Hoàng và lực lượng Cộng Sản Sô Viết đang dấy lên hồi đầu thế kỷ 20; và trong bối cảnh ven hai bờ sông Don hùng vĩ của dân Cossacks (loại người thuộc nhiều chủng tộc ở phía cực Nam nước Nga, rất thiện chiến, giỏi về kỵ binh, trước nội chiến vốn là sức mạnh phòng vệ đắc lực cho chế độ phong kiến Nga Hoàng). Hoặc như tác phẩm “Cuộc Phiêu Lưu của Huckleberry Finn” của nhà văn Mỹ Mark Twain viết về cuộc phiêu lưu trên sông Mississipi vĩ đại của một thiếu niên, qua đây nhà văn Hoa Kỳ thể hiện rất sinh động đời sống văn hoá người Mỹ ở hai bên bờ con sông dài, trong đó cũng có vần đề người da trắng người da đen. Với thiếu niên này, trên chiếc bè, dài theo con sông thao thao truyện kể về một xứ sở, về một dân tộc, về một tình bạn (With this boy, on this raft, along this river flows the story of a country, a people and a friendship). Cũng như âm nhạc trên bình diện phổ biến cho toàn thế giới, chắc ta sẽ không bỏ sót dòng sông Danube của nhạc sĩ Johann Straus; với khảo cổ thì có dòng sông Nile ở Ai Cập; với tôn giáo thì có dòng sông Hằng bên Ấn Độ; với lo âu cần phải bảo vệ môi trường xanh cho Trái Đất thì phải kể đến dòng sông dài nhất thế giới Amazon ở nước Brazil; với tranh chấp nguồn nước trong tương lai thì chắc là sông Mekong, vì nó có liên hệ đến một cường quốc đang lên gây lo ngại cho cả vùng Đông Á...

Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2018

Trần Văn Nam: Lá Trắng Hoa Bay


Một sáng Chủ nhật tháng Tám 2018, một số anh em bạn từ Café Factory rủ nhau đi thăm mộ Trần Văn Nam. 

Từ trái : Phạm Phú Minh, Thành Tôn, Phùng Minh Tiến, Nguyễn Mạnh Trinh, Hoàng Xuân Trường. Hình do Trần Yên Hòa chụp.

Ba đoạn thơ được khắc trên mộ bia là trích từ bài thơ Lá Trắng Hoa Bay của Trần Văn Nam dưới đây.

Lại đến một mùa bông rụng bay
Ngoài trời nắng gió rung hàng cây
Hoa ơi lả trắng trên đường vắng
Khu phố nắm im giấc ngủ ngày

*


Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2018

Trần Văn Nam: Tuổi thanh xuân và em



Như bóng mây chỉ một lần qua cửa
Bay bay hoài cho hết kiếp phiêu du
Em đi rồi cho mái tóc thiên thu
Tình đôi ta nay đã thành thuở trước

Vết chân chim trên bãi chiều cát ướt
Chỉ một lần cùng sóng biển có nhau
Em và tôi, tình chẳng có trước sau
Thương tuổi trẻ bóng chiều vàng bến cũ

Đôi tình nhân dưới bóng chùa tình tự
Rồi ra đi cho tiếng kệ kinh buồn
Anh như nhà sư chưa thoát khỏi trầm luân
Chiều thanh thản nghe lòng còn trần lụy

Mưa tha hương thấy đường về cố lý
Đêm mịt mùng có ánh mắt em xưa
Tiếng còi tàu trong hoang tịch trời mua
Đời ta chỉ là nhà ga kỷ niệm

Gió trường giang vẫn ngàn năm bỏ bến
Trăng đầu non cứ trẻ mãi không già
Tuổi trẻ, cuộc tình, rồi cũng phôi pha
Xin trả lại muôn đời cho trái đất


Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2018

Trần Văn Nam: Ngược Dòng Vạn Dặm Trường Giang


Dòng sông không phải bắt nguồn từ không gian 
Của bình nguyên tuyết trắng 
Qua rừng núi bạt ngàn 
Dòng sông đã bắt nguồn từ thời gian 
Do tình thương quá khứ 
Do muôn trùng kỷ niệm miên man. 
Phải, dòng nước tâm tư ra đi từ đất lành 
Vang xa tiếng hát ru con của quê hương thời tuổi mộng 

Chủ Nhật, 14 tháng 1, 2018

Trần Văn Nam: Chất thơ và thi hóa*

Nhà văn Trần Văn Nam (Ảnh: Uyên Nguyên)

Chất thơ là cái có sn, thi sĩ sẽ làm nó hiển hiện ra trong dáng vẻ đã phơi bày, hay khai quật lên khi chất thơ vốn ẩn dấu. Thi hóa là làm thành thơ từ cái không có sẵn chất thơ.

Trước hết, ta đề cập đến chất thơ lồ lộ phơi bày. Theo khuynh hướng thời đại mới, người ta sáng tạo thêm nhiều chất thơ, có chất thơ thô bạo, có chất thơ trần trụi đời sống không cần mơ mộng, có chất thơ dục tính không cần lãng mạn tình yêu. Và theo khuynh hướng chính trị, có chất thơ chiến đấu, có chất thơ xã hội tính, có chất thơ lao động sản xuất... Nhưng chất thơ trong nghĩa cổ điển của nó gắn liền với mỹ cảm hay tình cảm. Thơ T.T.Kh. có chất thơ thiên về tình cảm. Thơ Huy Cận tiền chiến có chất thơ thiên về mỹ cảm. Thơ Hàn Mặc Tử có chất thơ mỹ cảm phối hợp với thần cảm. Những phân biệt “thiên về” trên đây xét theo khía cạnh chênh chếch độ nghiêng nặng nhẹ mà thôi, vì thực ra trong thơ các thi sĩ nổi danh đều có ít nhiều mỹ cảm, tình cảm, thần cảm, thiền cảm... Nhưng chất thơ sẵn tính lồ lộ phơi bày thì đã có quá nhiều nhà thơ Đông Tây Kim C nói đến rồi. Mun nói đến nữa, ta phải viết làm sao khác hẳn họ, phải độc đáo chưa ai từng nghĩ ra. Ví dụ “lá vàng rụng”, chất thơ phơi bày đó đã gợi hứng cho biết bao nhiêu thi sĩ rồi. Thi tính vô địch có lẽ dành cho một bài thơ Đường với tứ thơ khi nghe thấy một chiếc lá vàng rơi thì mọi người đều biết là mùa thu đã đến:

Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu.

Thứ Hai, 8 tháng 1, 2018

Trần Văn Nam: Trường ca khi ở trên tầng bình lưu

(Photo ngày 2 tháng 11 năm 2016 trên máy bay từ Âu trở về Á Châu)

Khi sàn tàu không còn chút rung chuyển
Chuyến bay đã ở trên tầng bình-lưu
Phía dưới là những lớp mây và biển
Hành khách vơi dần mối ưu tư
Chiêu-đãi-viên đến từng hàng ghế
Bữa ăn cho từng người được dọn ra
Thắt lưng an toàn không cần khóa lại
Bây giờ ta lướt trên bao la 

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2017

TRẦN VĂN NAM: TRƯỜNG CA KHI Ở TRÊN TẦNG BÌNH LƯU




Khi sàn tàu không còn chút rung chuyển
Chuyến bay đã ở trên tầng bình-lưu
Phía dưới là những lớp mây và biển
Hành khách vơi dần mối ưu tư
Chiêu-đãi-viên đến từng hàng ghế
Bữa ăn cho từng người được dọn ra
Thắt lưng an toàn không cần khóa lại
Bây giờ ta lướt trên bao la

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016

Trần văn Nam: Nhà văn thích xuề xòa mà viết tinh tế



Trong một cuộc phỏng vấn mới đây trên đài truyền hình “Little Saigon” vào tháng 6 năm 1998, nhà văn Võ Phiến so sánh mình với nhà văn Mai Thảo, một bên là gốc gác thôn quê, một bên là nhà văn của thành thị. Và ông tự nhận đã chịu ảnh hưởng và tiếp thu cái đẹp của văn nói từ các nhà văn miền Nam như Lê Xuyên, Vương Hồng Sển và mới đây là Nguyễn Văn Trấn. Ông muốn viết sao cho giản dị tự nhiên như nói chuyện, truyền thống khởi xướng từ Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hô Biểu Chánh. Quan điểm này của ông không mấy khác với những bài báo ông viết cách nay độ ba mươi năm mỉa mai “văn chương hôm nay” của nhóm Sáng Tạo và “văn học viễn mơ” của văn chương bên lề cuộc chiến. (Xin đọc bài Đăng Tiến viết về thi tập “Thơ Thẩn”.)

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016

Trần Văn Nam - Ngược Dòng Vạn Dặm Trường Giang


Dòng sông không phải bắt nguồn từ không gian
Của bình nguyên tuyết trắng
Qua rừng núi bạt ngàn
Dòng sông đã bắt nguồn từ thời gian
Do tình thương quá khứ
Do muôn trùng kỷ niệm miên man.
Phải, dòng nước tâm tưra đi từ đất lành
Vang xa tiếng hát ru con của quê hương thời tuổi mộng

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015

Trần Văn Nam - Vũ Hoàng Chương và những ẩn số vũ trụ


Nói về Vũ Hoàng Chương, ta thường nghĩ ngay đến bài thơ “Tháng Sáu Mười Hai”, một trong những bài thơ đại diện cho thời kỳ lãng mạn tiền chiến, hoặc nghĩ ngay đến đoạn thơ:
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh...

Đây là những ý thơ đại diện cho mặc cảm bị trị và thiếu lý tưởng thời kỳ Pháp thuộc. Sau khi di cư vào Nam năm 1954, Vũ Hoàng Chương lại có bài thơ “Bài Ca Bình Bắc”, đại diện cho luồng gió đòi Bắc tiến dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Rồi sau phong trào Phật Giáo tranh đấu đưa tới biến cố 1963, lật đổ Tổng Thống Diệm, ông được truyền tụng với bài thơ “Lửa Từ Bi”. Cuối cùng là sau năm 1975, Vũ Hoàng Chương có các câu thơ dự phòng ngày phải vào tù:
Rằng vách có tai, thơ có họaBiết lòng ai đỏ, mắt ai xanh

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

TRẦN VĂN NAM - DƯƠNG NGHIỄM MẬU, THỬ XÉT GIỚI HẠN BA LỐI VIẾT TRONG BA THỜI KỲ




TRẦN VĂN NAM


Nhà văn Dương Nghiễm Mậu xuất hiện rất sớm trong Tạp chí Sáng Tạo ở Sài Gòn, thuộc thời Văn Học Miền Nam, có truyện đăng báo khoảng năm 1956. Từ 1963 đến 1975, ông đã có đến 20 tác phẩm được xuất bản. Vậy thử "xét giới hạn ba lối viết trong ba truyện ngắn và trong ba thời kỳ", kể như là quá ít đối với sự nghiệp văn chương của Dương Nghiễm Mậu. Điều này khẳng định đây không phải một bài nghiên cứu hay phê bình văn chương đòi hỏi phải đào sâu và xét toàn diện các tác phẩm của một nhà văn. Ước mong đây chỉ là một bài tiểu luận nhỏ, một bài nhận định nhỏ về văn học. Ba truyện ngắn này, người viết bài có dịp đọc từ rất lâu, đến nay vẫn còn hoài những điều tự hỏi. Có phải không ba truyện ngắn dưới đây đã viết theo ba lối: truyện “Cũng Đành”viết tự phát theo khuynh hướng vẽ lại bức tranh cùng khổ do chiến tranh, có thể quy định thuộc loại văn chương “Hiện Thực Xã Hội Thời Chiến Tranh”; truyện “Niềm Đau Nhức Của Khoảng Trống” viết tự phát theo hướng tự vấn nội tâm diễn giải thành “Tra Hỏi Hiện Sinh Phi Lý”; truyện “Bên Sườn Núi Đá” viết không tự phát mà có dự định theo hướng “Viết Theo Dòng Ý Thức” (đúng hơn là phải nói theo lối viết đồng-xuất quá-khứ hiện-tại).



Nhà văn Dương Nghiễm Mậu (sinh năm 1936) ở lứa tuổi biết thế nào là loạn lạc vào thời Pháp trở lại Đông Dương, thời xảy ra cuộc kháng chiến chống Pháp, thời Pháp kiểm soát hầu như khắp lãnh thổ và tiến hành bình định. Dân chúng chạy tản cư, rồi hồi cư; khốn khổ vì những nghi kỵ Việt Minh trà trộn vào thành phố.Ông viết truyện “Cũng Đành” trong bối cảnh ấy. Có thể ông đã chứng kiến đau khổ của nạn nhân giặc giã, hoặc có thể ông đã từng kinh qua sợ hãi dù khi ấy ông mới chỉ ở tuổi thơ không bị hạch hỏi tra xét nhiều như người trưởng thành. Rồi khi lớn lên lúc đã di cư vào Nam, ông viết truyện hồi ức mô tả những cảnh mắt thấy tai nghe thời kỳ Pháp chiếm đóng Hà Nội, ngòi bút mô tả hiện thực chiến tranh, hiện thực xã hội cùng khốn. Mô tả có tính chất tự phát, thấy sao thì viết vậy, nghĩa là chưa có ý thức với lý thuyết “viết theo khuynh hướng hiện thực xã hội thời chiến tranh”. Cũng Đành: truyện một thanh niên thuộc một đơn vị kháng chiến (nhân vật xưng tôi, nhưng ta biết đây không phải tự truyện vì thuở ấy tác giả còn ở tuổi thiếu niên), vì bệnh sốt rét phải trở về làng chữa bệnh. Ăn uống thiếu thốn, cơm với bảy tám phần trộn sắn ngô, bệnh sốt sét không thuốc men phải liều theo cách chỉ bảo nuốt sống những con giun (trùn đất). Dĩ nhiên bệnh không chữa khỏi, anh liều vào Hà Nội tìm thuốc uống mà không có giấy thông hành (giấy đi lại vào ra thành phố cấp cho những người đã được chính quyền Pháp công nhận có cư trú trong vùng kiểm soát).Làng anh ởcách Hà Nội 43 cây số. Trong mình không có giấy tờ nên chủ xe nào cũng từ chối cho anh lên xe, may có chiếc xe chở củ nâu bằng lòng nhét anh vào giữa những bao củ nâu.  Đây là cảnh thường xảy ra thờiquân Pháp kiểm soát những nút chặn đi vào thành phố: “Khi tỉnh dậy thì xe đang ngừng. Tôi lắng nghe tiếng giày đinh lộp cộp, những bao củ nâu bị lay động và có tiếng chọc của một chiếc gậy sắt. Tôi biết là xe đang bị khám, nên hai lần bị gậy sắt thọc vào lưng, tôi không dám nhúc nhích…”. Gần tới Hà Nội thì chủ xe không dám cho đi tiếp, và anh bị bỏ lại bên đường giữa hiu quạnh hai bên ruộng lúa. Chủ xe cũng thương tình cho anh vài đồng bạc. Trời còn tối, anh mò vào một cái chòi bỏ trống giữa đồng, sáng ra phải đi ngay vì cái chòi ấy chính là cái quán bán bún riêu và bánh đúc cho nông dân đi ruộng. Anh cũng trót lọt vào được thành phố, đói quá phải bới móc những thịt bánh sót lại trong những lon hộp vứt bỏ ở các đống rác. Gặp người làm công cho bố mẹ ngày xưa, được ông cho tá túc trong lều rách nát, và kiếm cho việc làm trong lò nấu thủy tinh làm ve chai. Nhưng vì uống quá nhiều thuốc ký-ninh trị sốt rét, anh trở thành nghễnh ngãng, bị đuổi việc. Anh kiếm sống bằng cách đi móc rác, thu gom ve chai và vụn sắt, bán cho các nơi tái-biến-chế. Có lần anh trúng mối tìm nhặt được rất nhiều đồ phế thải ấy, do quỷ kế gạt các người đi tìm hài cốt những thân nhân bị chôn vùi trong những hầm trú bom bị máy bay đánh sập thời chiến tranh Mỹ-Nhật: họ tưởng anh là người cư trú trong vùng nên biết đích xác nơi nào có hầm sụp chôn người, họ cứ theo lời chỉ điểm bịa đặt của anh mà đào bới và anh trúng mánh tiếp tục thu nhặt mảnh vụn phế thải đem đi bán. Tuy vậy, anh cảm thấy ngao ngán cuộc sống lây lất này, có ý nghĩ muốn chết cho rồi.Kiếm sống được khấm khá, một hôm anh đang ăn gà luộc thì có một đứa con gái cũng nghèo đói nhưng có vẻ thuộc giới giang hồ,thản nhiên cùng dự bữa ăn.Anh theo về gian nhà tạm bợ của nó, và hai người sống chung, rồi chia tay, và điều không may tiếp liền theo là hậu quả không giấy tờ cư ngụ ở Hà Nội. Anh kể vụ cô gái giang hồ đem “bồ” mới về nhà và đuổi anh đi như sau: “Đừng lấy gã đó. Ở với anh… Mấy ngày sau chúng tống cổ tôi đi với mấy chục bạc. Tôi ngày ngày đi móc rác, chiều đến mò vào Văn Miếu nằm. Đêm đêm sờ soạng những bia đá, những gạch ngói nằm im mà thấy tủi thân… Đến một khuya kia, tôi thức dậy vì ánh sáng đèn bin soi vào mặt. Tôi mở mắt nhìn bọn lính chỉa súng vào người.

 Chúng hỏi giấy tờ, tôi không có gì nên điệu về bót…”. Anh bị nghi ngờ, bị tra khảo đủ thứ cực hình, bị hạch hỏi và trả lời khi thế này khi thế khác nên càng thêm tội, cầu viện đến cô gái giang hồ để mong cô nhận là vợ cho khỏi bị nghi ngờ anh là địch vào thành phố, nhưng cô ta nói không quen biết. Cuối cùng thì anh bị quân Pháp xử bắn. “Cũng đành một kiếp người”: Chắc đây là ý tưởng chủ đạo của truyện ngắn này. Tác giả viết truyện tự phát nhưng có thể quy định vào phạm trù thuộc khuynh hướng “hiện thực chiến tranh, hiện thực xã hội”. Nhà văn chỉ kết án tình thế chiến tranh làm con người đi đến thảm kịch; trong đó có người tốt người xấu (ông chủ xe không xấu bụng lắm, người làm công cho bố mẹ cũ có tình người, cô gái giang hồ trở mặt, và chính anh cũng là một gã mánh mum). Hiện thực xã hội trong truyện của Dương Nghiễm Mậu không đậm nét mâu thuẫn giai cấp; cũng không đậm nét phán đoán đạo đức; còn quân Pháp đang chiếm đóng thành phố thì đương nhiên thuộc phe ác.Như vậy, nhà văn viết truyện nhiều xã-hội-tính này chỉ tự-phát vẽ lại bức tranh đen tối của các nạn nhân chiến tranh, có lẽ tiền khởi không do hướng dẫn bởi lý thuyết văn chương nào.

Rồi nhà văn vẫn tiếp tục viết tự phát, viết về sự trống vắng cô đơn: một chủ đề rất thường được đề cập đến trong thơ văn, nghĩa là không phải một chủ đề mới lạ. Nguyên nhân làm Hạnh, tên nhân vật, cảm thấy cô đơn cùng cực vì có cái bướu nơi cổ, cái bướu làm người con gái Hạnh yêu không muốn cùng đi dự lễ; và Hạnh đã sẵn nỗi cô đơn từ thuở nhỏ vì là một đứa trẻ mồ côi lang thang . Sự cô đơn ấy là một khoảng trống của cuộc đời, một bãi sa mạc trong  cuộc sống, không người thân thích đã đành số phận, mà đi tìm một người yêu cũng bị lạnh nhạt. Nhà văn Dương Nghiễm Mậu trong truyện “Niềm Đau Nhức Của Khoảng Trống”

đào sâu thêm nỗi cô đơn của Hạnh. Bị sự lạnh nhạt của người mình yêu, Hạnh có ý nghĩ muốn tự tử. Hạnh ra nằm ở đường xe lửa, đợi chuyến tàu qua cắt đứt cuộc đời trống vắng lẻ loi. Nhưng Hạnh chợt nghĩ lại, tại sao mình không cắt cái bướu để may ra còn sống và lấp bỏ khoảng trống do nó gây ra. Ai giúp đỡ và tiền đâu để vào bệnh viện, nên Hạnh can đảm và liều lĩnh tự mình cắt lấy. Tuy Hạnh cũng biết cẩn thận với băng vải cầm máu, dụng cụ tẩy trùng, thuốc men; nhưng vết cắt đau quá làm anh ngất đi. Người ta cấp cứu đưa anh vào bệnh viện, và bác sĩ cho biết cái bướu ấy là ung thư. Từ cái bướu làm đau nhức khoảng trống cô đơn đến cái bướu ung thư là một suy sụp qua một giai đoạn khác, giai đoạn tuyệt vọng.Cốt truyện giản dị là như vậy. Nhà văn viết truyện đào sâu về những suy tư nội tâm, những suy nghĩ về xã hội xa lánh, về người mình yêu không được đáp ứng; tự khám phá sự hất hủi chính là để Hạnh nhận ra mình; nhận ra số kiếp mình phải chịu đựng cô đơn, không thể trách ai: “Bao nhiêu nămcô đơn của tuổi trẻ anh đã mang theo – tuổi trẻ của một đứa bé mồ côi lang thang không biết la thét với ai, chỉ biết la thét với những chuyến xe lửa chạy qua mỗi ngày, hú còi và phun khói… Khoảng trống bao la ấy đau buốt, nhức nhối trích vào thân thể anh… Em đã chịu đựng sự có mặt của anh, nhưng đến bây giờ em không còn đủ sức chịu đựng nữa – em lên tiếng, như đám đông lên tiếng cho anh nhận ra anh”. Rõ ràng nội dung, với thân phận mồ côi và cái bướu quái ác, truyện viết có tính chất đi sâu vào những suy tư nội tâm, tự mình hiểu được nguyên nhân tại sao xã hội và người mình yêu đơn phương xa lánh. Nội dung truyện như vậy không phải mới lạ, ví dụ cuốn tiểu thuyết “Bướm Trắng” của Nhất Linh còn phong phú hơn nhiều với vài trăm trang dằn vặt nỗi cô đơn của một người mang bệnh lao phổi, còn nhiều tình tiết hơn vì không phải chỉ là truyện tình đơn phương như trong “Niềm Đau Nhức Của Khoảng Trống”. Dương Nghiễm Mậu viếttự phát nhưng có ý thức truyện sẽ đào sâu tâm lý về khoảng trống cô đơn vì cái bướu cổ, cũng như Nhất Linh với ý thức viết truyện theo dõi những quanh co tâm lý, ứng phó có khi bất ngờ, của một bệnh nhân lao phổi đối diện với những suy sụp cuộc đời và cuộc tình. Nhưng truyện “Niềm Đau Nhức Của Khoảng Trống” đã được Giáo sư Nguyễn Văn Trung diễn giải theo những chủ đề của Triết học Hiện Sinh, thành một giảng khóa cho sinh viên Đại Học Văn khoa Sài Gòn kể từ niên khóa 1961-1962, sau được in ra thành sách “Xây Dựng Tác Phẩm Tiểu thuyết”, do nhà xuất bản Tự Do ấn hành năm 1963 (?) (sách được kiểm duyệt tại Huế để cho phép ấn hành, năm 1962). Những chủ đề Triết lý Hiện Sinh du nhập từ Pháp và Đức, như: Hiện sinh Phi Lý (ta hiện diện trong đời này ngoài ý muốn của ta, có khi như một sự thừa thãi vô ích); Hiện sinh Phi lý nhưng ta có Tự Do (Tồn tại Hiện hữu không thể tránh, nhưng ta có quyền lựa chọn một cách ở đời vì đó là trách nhiệm của mỗi người); và Tiểu Thuyết Như Một Ý Thức (không cần nhiều tình tiết kết cấu thành truyện, chủ yếu dằng dặc độc thoại nội tâm). Cụ thể như cái bướu là một thừa thãi vô ích, Hạnh đâu có muốn mà nó vẫn gắn liền với đời của anh. Rộng ra thì ta hiện diện trên đời này cũng là điều ngoài ý muốn của mình, cha mẹ gặp nhau rồi sinh ra ta. Số kiếp hạnh phúc hay cùng khốn đã an bài sẵn cho ta rồi; cũng như lẽ hiển nhiên phải chết của mỗi người là cái đã định (Être-à-la -Mort ; Being-unto-Death). Từ ngữ “Số phận” trong cảm nghĩ ngày xưa được diễn lại thành Hiện sinh Phi lý. Dương Nghiễm Mậu viết tự phát về một trường hợp số phận, biến thành truyện về sự Tồn Tại Thừa Thãi. Một ví dụ khác do diễn giải từ ý tưởng thông thường thành một chủ đề khác của Triết lý hiện Sinh: Hạnh nằm trên đường xe lửa để tự tử, sau đổi ý muốn tự mình cắt bỏ cái bướu thay vì chết đi cho xong. Sự đổi ý ấy được diễn giải là Con Người Có Tự Do Lựa Chọn, có trách nhiệm với hành vi đời mình: một chủ đề của Triết lý Hiện Sinh về Tự Do và Trách Nhiệm, về Hữu-Tại-Thế (Être-au-Monde; Being-in-the-World). Và đây là một hệ-luận từ Triết Lý Hiện Sinh áp dụng vào truyện viết tự phát của Dương Nghiễm Mậu: truyện chủ định đào sâu tâm lý được diễn giải thành lối dàn trải cảm nghĩ, tất cả chỉ là độc thoại nội tâm, gồm thâu vào thuật ngữ “tiểu thuyết là ý-thức” thay vì “tiểu thuyết là kết cấu truyện”. Tóm lại, ta thấy có những tương đồng giữa xưa và nay, rốt cuộc chỉ là những thuật ngữ mới rọi sáng cho lối viết tự phát mà thôi. Xin lặp lại những diễn giải mới: - Cái bướu bẩm sinh thành Tồn Tại Thừa Thãi -Đổi ý định tự tử sang ý định cắt cái bướu thành chủ đề hiện sinh Tự Do và Trách nhiệm -Đang sốngđời không muốn sống thành Hiện sinh Phi lý -Truyện đào sâu tâm lý thành Truyện Là Ý Thức - Từ mặc cảm bị đời xa lánh vì cái bướu đến trạng thái tuyệt vọng kề cái chết vì ung thư,được diễn giải thành chủ đề“sự vong thân”, ta trở thành kẻ xa lạ với chính ta. Những dòng sau trình bày những diễn giải ấy, những rọi sáng bằng ngôn ngữ triết lý. Chắc nhà văn trước đây sáng tác cũng với những điểm tương tự như vậy. Nay họ có thểminh-bạch-hóa những tự phát mà từ lâu mình đã viết: “… Tiểu thuyết là trình bày kinh nghiệm nhận thức đó, là mô tả cuộc hành trình nhận định về cuộc đời của một nhân vật là chính tác giả. Tác giả suy nghĩ cuộc đời qua nhân vật là chính mình… cảnh vật sự vật không còn được mô tả như một khung cảnh… cảnh vật sự vật chỉ là công dụng, là dịp gây thức tỉnh… Không còn có tình tiết như sợi nút của câu chuyện… nhà văn chỉ là muốn trình bày sự đi tìm, thì làm gì còn tình tiết để kết thúc câu chuyện… dù tác giả dùng ngôi thứ nhất hay ngôi thứ hai thì cũng không thay đổi gì, vì nhân vật cũng vẫn là tác giả đối thoại với chính mình… nhân vật bây giờ là ý thức, ý thức phản tỉnh… thiết thực đời sống con người không trải ra theo một thứ tự nhất định. Trái lại thường là một  sự hỗn độn, trà trộn với nhau giữa quá khứ và hiện tại, hay với tương lai… đập vỡ đồng hồ (một chi tiết trong truyên The Sound and The Fury của Faulkner) có ý nghĩa như một chống đối lạivới thời gian khách quan tuần tự; bây giờ họ đã sa cơ thất thế nhưng vẫn bám níu vào thời xưa, và sống bây giờ như thể mình vẫn giàu sang phú quý(đây là kỹ thuật viết đảo lộn niên lịch)… những sự kiện tương đối không liên tục và liên hệ được xếp gần nhau không theo thứ tự nào, nhưng theo thứ tự xuất hiện trước ý thức (đây là kỹ thuật viết đồng-xuất). Những đoạn trên trích trong cuốn sách “Xây Dựng Tác Phẩm Tiểu Thuyết”, từ trang 147 đến 152, do Xuân Thu tái bản năm 1990 tại California.

Qua đoạn viết trên đây, ta nhận ra có những điều trùng hợp giữa lối viết tự phát không theo hướng dẫn của lý thuyết văn chương nào; như nhân vật chính là hóa thân của tác giả (chẳng hạn nhân vật Thúy Kiều là hóa thân của Nguyễn Du; Nhất Linh chắc có để bóng dáng mình nơi các nhân vật trong “Đôi Bạn” và “Giòng Sông Thanh Thủy”); như tình tiết trong các truyện xưa có khi cũng giản lược để chỉ là một dàn trải những suy tư nội tâm hay trực cảm huyền bí (chẳng hạn truyện “Chơi Giữa Mùa Trăng” của Hàn Mặc Tử nào có tình tiết gì ngoài những giao cảm với ảo-diệu dưới ánh trăng trên những cồn bãi cát trắng gần bờ biển. Và chẳng hạn như “Dòng Sông Định Mệnh” của Doãn Quốc Sỹ đâu có tình tiết gì nhiều ngoài bóng dáng dòng sông có lúc trắc trở, có lúc thênh thang, có lúc hội nhập trùng dương, được lấy làm biểu tượng cho bôn ba đời người (bôn ba xuôi ngược vốn là kiếp sống nhiều người thường từng trải, đâu cần yếu tố phức tạp cho cấu trúc câu truyện). Tuy nhiên có những điều hoàn toàn mới như kỹ thuật viết đồng-xuất, như kỹ thuật viết đảo lộn niên lịch. Những điều này không hẳn thuộc Triết Lý Hiện Sinh mà tổng quát thuộc dòng văn học Hiện Đại của thế giới, được đề cập đến nhiều thời Văn Học Miền Nam trước 1975: gồm ảnh hưởng từ các tiểu thuyết của Marcel Proust (trong cuốn Đi Tìm Thời Gian Đã Mất); William Faulkner (trong cuốn Âm Thanh và Cuồng Nộ); Tân Tiểu Thuyết với các tác giả Michel Butor, Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute; kịch tân kỳ với Samuel Beckett…  Lúc ấy sách báo ở Sài Gòn chưa nói nhiều đến các nhà văn còn ở mức độ hiện đại hơn nữa như James Joyce, Gabriel Garcia Marquez, Cao Hành Kiện… Từ những sách báo không ngớt đề cập đến Triết Lý Hiện Sinh và Tiểu thuyết Hiện Đại kể trên, chắc nhà văn Dương Nghiễm Mậu có ít nhiều chịu ảnh hưởng, và ta thấy ảnh hưởng đó ít nhất trong một truyện mà người viết bài này cảm thức được: truyện ngắn “Bên Sườn Núi Đá” đăng trong Tạp chí “thế Kỷ 20”, số 4, ấn hành tại Sài Gòn, tháng 10 năm 1960. Tuy là truyện ngắn chiếm 9 trang báo (khổ lớn hơn các Tạp chí văn chương cùng thời kỳ), nhưng truyện ngắn này có thể phân tích thành 5 truyện nho nhỏ và xen kẽ nhau thành 8 tiểu đoạn. Các truyện nhỏ xen kẽ nhau như sau: truyện Trình và ông Hai làm nghề biển đang làm việc bên sườn núi đá; truyện ông Hai và đội lính kèn; truyện Trình và vợ con; truyện ông Hai và gia đình; truyện ông Hai và con trai lớn đôi co về nghề đi biển. Và 8 tiểu đoạn xen kẽ nhau như sau: Mở đầu truyện với bối cảnh Trình và ông Hai đang ngồi trong chòi lá tạm bợ bên sườn núi đá sát bờ biển, ngoài trời cả tuần đang mưa bão nên họ không đi biển được để đánh cá ướp muối phơi khô bán cho khách hẹn. Để bớt nôn nóng âu lo, ông Hai ngồi đọc bộ sách “Tam Quốc” bên đống lửa; còn Trình thì ngồi bất động kế bên, nhớ vợ nhớ con đang ở một nơi xa… Tiểu đoạn thứ nhì: Cảnh xưa kia ở sườn núi đá này có một trại lính trấn giữ coi sóc hải phận, nhờ đó có mở một con đường ven sườn núi mà mỗi tuần mới có xe lương thực và thư từ đến với đội lính trấn thủ. Ông Hai từng là lính kèn thuộc ban quân nhạc của trại binh trong một thành phố, lúc ấy ông cũng đã hơn sáu mươi tuổi. Về sau, ông yếu hơi, nên được phái ra trại lính trấn thủ ven biển này, chỉ để làm công việc thổi kèn đánh thức đám lính dễ ngủ quên ven bờ biển lạnh; ngoài ra còn thổi kèn như đồng hồ tập hợp lễ chào cờ, báo phiên gác, báo giờ ăn giờ ngủ. Tiếng kèn của ông yếu vì tuổi đã khá già. Rồi trại binh bị gỡ bỏ vì ở đây không còn cần thiết cho canh phòng. Nhưng ông Hai không muốn rời bờ biển núi đá, dường như nó gắn bó tâm hồn bí ẩn gì đó của ông. Ông giã từ đời lính, đến chòi lá này của Trình để cùng làm nghề đánh bắt cá biển. Và ông cũng tiếp tục thổi kèn, nhưng bây giờ là “kèn miệng” chỉ để đánh thức Trình những khi còn thèm ngủ buổi sáng sớm: “Tiếng kèn sáng nào cũng như sáng nào vọng lên: tò tí te, tò tí te, te te tò tí te tò, te te tò tí te tò”… Tiểu đoạn thứ ba: Ông Hai vẫn ngồi bên đống lửa. Than lửa nóng làm ông nhớ đến trưởng đồn, nghĩ đến bắp rang ông trưởng đồn phân phát cho đám lính ở trại. Đoạn này có những câu đối thoại ngắn trao đổi giữa ông Hai và Trình, qua đó ta biết về gia cảnh của Trình; biết vợ Trình rất ái ngại nghề đi biển của Trình. Tiểu đoạn thứ tư: Ông Hai lại lật tìm chỗ đọc bỏ dở trong cuốn “Tam Quốc”. Cuốn sách già bằng tuổi ông trưởng đồn, so sánh này khiến ông Hai một lần nữa nhớ đến trại lính và những công việc nhàn rỗi của ông trưởng đồn khi xưa: như ký giấy đi phép cho vài người; chơi cờ tướng; làm thơ rồi ngâm vịnh; đọc cuốn sách Tam Quốc này đây vì nó là cuốn sách gối đầu giường trước khi cho ông Hai làm kỷ niệm. Ông lại nhớ hồi trại gỡ bỏ, các bạn lính khác vui mừng vì được giã từ biển, còn ông có bí ẩn gì mà lại thích biển và tìm cách ở lại. Đến đây là lúc nói về gia cảnh của ông Hai: quê hương ông ở vùng núi non đất đỏ mạn ngược, nhiều người như mẹ ông chưa từng thấy biển bao giờ, chỉ biết biển qua những con cá mắm từ miền xuôi đưa lên. Nhưng có tiếng biển gọi trong tâm hồn của ông, mơ hồ như bụi sóng… Tiểu đoạn thứ năm: Sáng sớm, thay vì ông Hai, Trình bắt chước thổi kèn miệng để đánh thức ông già. Lần đầu tiên ông Hai thốt ra lời tự trách mình: “Vô dụng, thật vô dụng”. Biển vẫn còn động mạnh. Trình hé lộ ý nghĩ lo lắng, biết đâu có đêm ngủ quên bị sóng lớn tràn ngập đem tất cả ra biển. Chợt ông Hai thấy một xác thuyền tắp bờ, kẹt vào hốc đá trong đêm. Thuyền còn chắc, nhưng trống trơn. Nhìn kỹ thì thấy còn một cái mũ dạ ướt sũng. Ông Hai ngắm nghía, nói nó giống cái mũ dạ của thằng Khôi, con ông. Tiểu đoạn thứ sáu: Trình thắc mắc sao từ lâu ông Hai thổ lộ ông không có đứa con nào. Đến đây là lúc nói rõ hơn về gia cảnh của ông Hai: khi xưa ông là thủy thủ, có vợ có con, nhưng ông yêu biển hơn gia đình; thường ra đi xa vợ con. Ôngkhông ưa đời sống nơi đất liền vì thường thấy có những va chạm nhỏ nhặt giữa người với người. Ông vui đời thủy thủ, nghĩ rằng cứ lãnh lương gửi về cho vợ con là đủ bổn phận. Rồi một ngày kia, sau một thời gian đi quá lâu trở về, ông mới biết vợ đã mất, có lẽ vì bệnh nhưng sâu xa là do ông bỏ bê xa lánh gia đình. Con ông là thằng Khôi sống với bà ngoại. Ông quyết định giã từ nghề đi biển làm hại gia đình, và đem con lên sinh sống với nghề thư ký ở vùng thật xa biển, nơi mạn ngược. Tiểu đoạn thứ sáu: Con trai ông lớn lên, dần dần tỏ ra bướng bỉnh, không muốn cưới vợ sống yên vui gia đình. Nó thích đọc sách, ham hội họp với bạn bè, và thèm những chuyến đi xa. Nó mang dòng máu giang hồ giống như ông. Tiểu đoạn này có những đối thoại đôi co giữa hai cha con, một bên khuyên răn con đừng mộng tưởng phiêu lưu, một bên nói cha làm thui chột ý chí phải làm một điều gì khác thường hơn đời sống an phận. Và thằng Khôi quyết định vào ngành hải quân. Trước khi nó đi vào cuộc sống lênh đênh hải hành, ông cho nó một cái mũ dạ để làm kỷ vật nhớ cha già. Nó đi biệt, bao lâu nay không biết tin. Tiểu đoạn thứ bảy: Lý do do ông Hai bỏ nghề thư ký ở mạn ngược, xin vào đội lính kèn, vì ông thấy cô độc, muốn sống đời sống có đồng đội thay thế cho gia đình mà vợ con không còn nữa. Ông trở lại niềm yêu thích biển tiềm ẩn trong máu huyết, nên khi trại lính gỡ bỏ, ông muốn ở lại bờ biển có chòi lá của Trình... Ở tiểu đoạn này, ông Hai để bộc lộ tâm hồn lúc nào cũng mãi hoài vọng một điều gì. Xưa là hoài vọng một kiếp sống giang hồ, coi thường cuộc đời yên vui. Mới đây, khi nhặt được cái mũ dạ trên con thuyền tắp vào hốc đá, ông cứ hoài vọng tin rằng con trai ông không chết đâu. Bây giờ, khi Trình nóng lòng không thể đợi bớt cơn biển động và ra khơi đánh cá một mình, và ông Hai cũng lại hoài vọng tin rằng Trình sẽ đánh được cá thật kết quả. Ông đốt lửa nhiều ngày nữa trong mưa bão, hết củi nhen lửa, ông xé từng tờ trong bộ sách “Tam Quốc”để nuôi ngọn lửa, ngồi mà hoài vọng Trình sẽ thành công. Tiểu đoạn này, ta thấy có vẻ không thực lắm, chỉ như một biểu tượng, một bức họa tượng trưng nói lên ý chí muốn thắng nghịch cảnh của con người. Và tiểu đoạn thứ tám: Trái với ý chí nhất định thắng của con người, sự thật trong nhiều trường hợp thì ta không thể vượt nổi thiên nhiên, như trường hợp biển đã xóa bỏ dấu vết ông Hai cùng chòi lá trên bờ biển, còn Trình thì mãi không thấy trở về. Tác giả kết thúc ở cuối truyện như sau: “Sau mùa biển động ít lâu, có một chiếc xe theo con đường độc đạo ra ven sườn núi đá – người ta theo lời hẹn tới lấy cá, nhưng khi những người lái buôn tới nơi thì không thấy dấu vết gì tỏ ra rằng ở đó có bàn chân người đã đặt đến. Sườn núi đá vẫn khô cằn lầm lỳ, biển vẫn màu nâu. Bọn lái buôn nguyền rủa quay xe, có kẻ nói lớn: - Tụi khốn kiếp thế mà dám giao hẹn”.

Từ lối viết tự-phát tương đồng với những chủ-đề Triết Lý Hiện Sinh, nhà văn Dương Nghiễm Mậu chắc đã có đôi chút chịu ảnh hưởng, sau khi có người phân tích những nét tương đương, rồi đọc thêm những tài liệu ngoài cuốn “Xây Dựng Tác Phẩm Tiểu Thuyết”. Qua đó, nhà văn tiếp cận thêm những lý thuyết văn chương hiện đại như Tân Tiểu Thuyết, Viết Theo Dòng Ý Thức Hỗn Tạp của William Faulkner, viết theo kiểu Đồng-Xuất Hiện-Tại Quá-Khứ của Marcel Proust hoặc của Ernest Hemingway, và có lẽ ông đã áp dụng. Vậy thiển nghĩ  ở truyện ngắn “Bên Sườn Núi Đá”, ông không viết tự-phát mà theo lý thuyết văn chương. Truyện ngắn “Bên Sườn Núi Đá” theo thiển nghĩ gần với cách viết ”Đồng Xuất Thời Gian” hơn là “Hỗn Tạp Theo Dòng Ý Thức”. Bởi vì truyện ngắn này theo phân tích gồm có  5 truyện nho nhỏ xen kẽ nhau trong 8 tiểu đoạn, khi thì từ hiện tại nhắc đến quá khứ, khi từ quá khứ sực trở về hiện tại, tuy vậy chúng không hỗn tạp mà có sự chuyển mạch để đổi thời điểm. Ta lần lượt thấy 4 lần chuyển mạch: Mở đầu truyện với bối cảnh ông Hai và Trình ngồi trong chòi lá ven sườn núi, đợi hết mưa bão đang làm biển động. Tiểu đoạn này được chuyển mạch với câu: “Vào những tháng trước chàng (Trình) chỉ có một mình”, chuyển mạch như vậy để bắt vào truyện tại sao có thêm ông Hai (bởi sau khi trại lính không còn, ông Hai ở lại với bờ biển này thay vì về với gia đình như các bạn cùng trại lính). Ở đoạn ông Hai và Trình đối thoại qua lại vài câu ngắn, qua đó Trình nói về gia cảnh của mình, dự định đặt tên cho con, cùng ý nghĩ chỉ ra làm một thời gian ngắn, mong có được một số tiền bán cá, rồi sớm về với vợ con. Thấy ở đoạn này, lúc Trình tư lự miên man, ônh Hai lấy cuốn “Tam Quốc” ra đọc, và câu chuyển mạch viết như sau để bước qua tiểu đoạn nói về công việc của ông trưởng đồn: “Nó (cuốn sách) già như ông trưởng đồn khi xưa”. Và để chuyển mạch nói về gia cảnh làm thư ký thuở nào ở mạn ngược, nhà văn Dương Nghiễm Mậu cho xuất hiện cái mũ dạ trong con thuyền trống không tấp vào hốc đá sau đêm mưa bão. Sau cùng, để báo trước chủ đề con người như ông Hai (và con ông) có bản chất mãi hoài vọng và muốn chiến thắng một điều đã hằn nếp trong tâm tưởng, rồi rốt cuộc là thất bại, được chuyển mạch bằng câu chuẩn bị: “Ra ở với anh là tôi muốn vật lộn với biển”… Tóm lại, ta thấy nhà văn Dương Nghiễm Mậu viết truyện theo lối tự phát và cũng có nương theo lý thuyết văn chương. Xin nhắc lại: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu viết truyện “Bên Sườn Núi Đá” theo lối “Đồng-xuất Quá khứ Hiện-tại” hơn là viết theo “Dòng Ý-Thức Hỗn-Tạp”.

TRẦN VĂN NAM
(City of Walnut, California, tháng 11 năm 2012)

Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

Trần Văn Nam - NHỮNG CHI TIẾT MỚI VỀ VĂN HỌC QUA PHỎNG VẤN CỦA NGUIỄN NGU Í


(Xin cải chính: Bút hiệu trong toàn bài xin sửa lại là NGUIỄN NGU Í”, thay vì Nguyễn Ngu Í)

TRẦN VĂN NAM

Với cuộc phỏng vấn vừa theo quy cách phỏng vấn vừa pha lẫn với hàn huyên tâm sự có tính chất thân mật do quen biết, nhà báo Nguyễn Ngu Í dẫn dắt ta vào sự tìm hiểu nghiệp văn của 12 nhà văn nhà thơ có tiếng tăm trong Văn Học Miền Nam trước 1975. Có biết bao nhiêu chi tiết về cuộc đời sáng tác biên khảo của họ được phơi bày, nhưng trong khuôn khổ vừa phải, người viết bài này chỉ kể ra một hai chi tiết gọi là mới chưa thường nhắc tới trong sách báo trước đây, chỉ có trong cuốn sách này của Nguyễn Ngu Í. Cuốn sách mang tên: “Sống Và Viết Với Nhất Linh, Lê Văn Trương, Lê Văn Siêu, Á Nam, Doãn Quốc Sỹ, Đông Hồ, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Lê Ngọc Trụ, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường”, xuất bản trước  1975, Xuân Thu tái bản tại California sau 1975. Để qua những chi tiết về một đời văn có nhiều ghi chép trong sách báo thì ta không tiếc vì chúng đã được lưu lại; nhưng nếu bỏ qua một số chi tiết mới chỉ có trong sách này của Nguyễn Ngu Í thì rất uổng (do biết mà không phổ biến). Một đôi lần ta có đọc trên sách báo trước đây về tấm lòng quý trọng văn học của ông Nguyễn Ngu Í; riêng trong sách được minh thị với vài dòng thủ bút của Lê Ngọc Trụ ghi nhớ “tấm lòng” và “tâm hồn” đặc biệt ấy của Nguyễn Ngu Í. Và độc giả cũng nhận ra điều này khi đọc trong Bách Khoa thời gian ông còn cộng tác với Tạp chí: Ông đồng ý đăng miễn phí vài lời nhắn tin như cải chính tên hay bút hiệu cho vài bạn trẻ mới đóng góp được một số bài thơ trên các báo; mới là giới trẻ nên họ nhờ cải chính khiêm tốn, nhưng ông sửa đổi lời lẽ cho có vẻ “mạnh miệng”, chững chạc. Bàng bạc trong cuốn sách này là tấm lòng và tâm hồn ấy qua những câu hỏi phỏng vấn, qua chợt nhớ đến một điều nào đó khi lắng nghe lời giải đáp của nhà văn. Nhưng bài viết này không cốt nêu ra hết những bộc lộ tâm hồn Nguyễn Ngu Í, chỉ cốt nêu ra một hai chi tiết mới về văn học của từng tác giả được phỏng vấn. Nhờ phỏng vấn rồi chợt nhớ, rồi được hồi đáp đầy đủ, mà ta biết thêm những điều mới. Những tiết lộ qua trò chuyện giúp cho ta biết chi tiết về nguyên nhân làm “thai nghén” tác phẩm (với đoạn viết về nhà văn Nhất Linh). Cũng kiểu ấy, ta biết thêm về thời cuộc có liên hệ đến văn học của một thời kỳ (với đoạn viết về nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải). Hoặc biết tỏ tường thời điểm lên vàxuống của loạt tiểu thuyết với nhân vật người hùng (trong đoạn viết về nhà văn Lê Văn Trương). Hoặc biết thêm sách nào bán chạy hoặc bán chậm; cũng như tác phẩm “Khu Rừng Lau” sáng tác từ lâu nhưng được sắp xếp lại ở HàTiên khi Doãn Quốc Sỹ làm Hiệu trưởng Trung học nơi đó, năm 1960-1961 (với đoạn viết vềnhà vănDoãn Quốc Sỹ). Hoặc cho ta biết rõ vì sao Nhóm Hàn Thuyên khi thì bị ngộ nhận là công cụ của Sở Mật Thám Pháp, khi thì bị ngộ nhận thuộc hệ-phái Đệ Tứ Quốc Tế (với đoạn viết về nhà biên khảo Lê Văn Siêu). Hoặc giúp ta trước đây nhớ mơ hồ nay biết đúng thời điểm nhà xuất bản “Yểm Yểm Thư Trang” không còn hoạt động, cũng như cho ta biết nhà thơ Đông Hồ có lần được phân công đi dự Hội Thơ Quốc Tế tại Bỉ-Quốc năm 1961, nhưng chuyến đi bất thành. Hoặc để biết vì sao nhà văn Sơn Nam bị ngờ vực từ trước 1975, dù phần lớn truyện của ông chỉ chuyên viết về khai phá đất đai phương Nam thuở  xa xưa, hoặc những chuyện ma chốn đồng quê Cà Mau. Nhờ phỏng vấn thân tình của Nguyễn Ngu Í, nhà văn Bình Nguyên Lộc tiết lộ một cách vui vẻ về vụ báo mình bị ém ra sao. Cũng nhờ qua phong cách quý trọng văn chương chữ nghĩa của Nguyễn Ngu Í, nhà ngữ học Lê Ngọc Trụ tâm sự cơ duyên không ngờ đến giúp ông gắn bó với ngữ học. Với người đồng điệu trong cải cách viết chữ quốc ngữ (như viết “I ngắn” thay vì “y hay I dài”; dùng  “b thay cho dấu sắc” như  “tib thay vì tiếp” trong ý muốn loại trừ 5 dấu trong chữ Việt), nhà phỏng vấn Nguyễn Ngu Í tâm đầu ý hợp với dịch giả Vi Huyền Đắc. Qua tâm sự, Vi Huyền Đắc có ý truyền kinh nghiệm khi làm những tác phẩm đồ sộ như Bách Khoa Tự Điển Việt Nam; công trình lớn và khó tiêu thụ như vậy thì nên thực hiện bằng công sức của chính phủ hợp cùng ủy ban soạn thảo; còn tư nhân dù là nhóm hay đoàn cũng khó thành công. Với đoạn viết về học giả Nguyễn Hiến Lê, ngoài những kể lại đức tính cần mẫn, làm việc có giờ giấc rất trật tự và khoa học của học giả mà nhiều sách báo đề cập, Nguyễn Ngu Í còn có dịp cho ta biết thêm vài điều mới như thời cuộc nào khiến Nguyễn Hiến Lê bị kẹt ở thành phố Long Xuyên đến 7 năm, và nhờ chỉ làm việc ban đêm nên ban ngày rảnh rang khiến ông viết được cuốn sách đầu tay “Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười”. Đoạn viết sau cùng dành cho nhà văn Hồ Hữu Tường. Cómột thời gian ngồi tù dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm cùng Hồ Hữu Tường, nhà phỏng vấn Nguyễn Ngu Í (tên thật là Nguyễn Hữu Ngư, quê quán Bình Thuận) càng nghiêng về chuyện vãn tâm tình hơn là phỏng vấn đúng quy cách, nhờ vậy có những chi tiết mới giúp ta thêm hiểu biết nhà văn hóa này.


Cảm hứng nào là nguyên nhân để nung nấu thai nghén thành hình cuốn “Xóm Cầu Mới” của Nhất Linh? Ta biết nhờ một chi tiết mới phát lộ trong cuốn sách “Sống và Viết với…” của Nguyễn Ngu Í. Khi được phỏng vấn đề cập đến cuốn sách “Bèo Giạt” mới quảng cáo ở bìa sau cuốn tiểu-thuyết Bướm Trắng, Nhất Linh cho biết Bèo Giạt là tên khởi đầu thay vì “Xóm Cầu Mới” (Sách đã được các người con của Nhất Linh cho tái bản tại Nam California năm 2002, do nhà xb. Văn Mới ấn hành). Và nhà văn Nhất Linh nói rõ ông đã phác họa nội dung cuốn sách Xóm Cầu Mới do cảm hứng từ bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận. Các câu thơ làm ông như bị lảng vảng về ý tưởng những thân phận nổi trôi trong thời cuộc: “Bèo giạt về đâu hàng nối hàng/ Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật/ Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng…”. Như vậy Xóm Cầu Mới của Nhất Linh viết từ cảm hứng bất chợt rồi được đào sâu thành cuốn tiểu thuyết lịch sử. Điều đặc biệt, đây không phải lịch sử làm nên do những nhân vật tên tuổi mà lịch sử do những đời thường, những thân phận bèo giạt mây trôi vì thời cuộc, bôn ba vì sinh kế.  Vậy đây lại là một bước ngoặt khác của Nhất Linh. Sau thời kỳ Tiểu thuyết Luận đề Đoạn Tuyệt; sau thời kỳ Tiểu thuyết Phiêu lưu Tâm lý Bướm Trắng; sau thời kỳ Tiểu thuyết lịch sử của trí thức tiểu tư sản (?) Giòng Sông Thanh Thủy, bây giờ là Tiểu thuyết Lịch sử của những nhân vật đời thường Xóm Cầu Mới. Từ lâu, ta vẫn nghĩ “Xóm Cầu Mới” khởi điểm từ lý thuyết viết tiểu thuyết lịch sử những đời thường, mà lý thuyết thì động cơ do lý trí. Còn cảm hứng thì động cơ do từ tâm hồn,rồi sau đó lý trí mới dàn trải xây dựng thành một truyện dài.

Và đây là chi tiết mới cho văn học trong đoạn viết về Lê Văn Trương. Nhờ cuốn sách này của Nguyễn Ngu Í mà ta biết rõ thời điểm lên và xuống của tiểu thuyết người hùng. Người hùng trong tiểu thuyết Lê Văn Trương không phải loại anh hùng lịch sử, loại võ nghệ cao cường, hay loại hoang đường dã sử. Đây là loại anh hùng thấy chuyện bất bằng chẳng tha, loại người hùng gần giống như trong ý nghĩ của Sơn Nam qua câu thơ “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” (Thấy chuyện bất nhân mà không can thiệp thì không phải là người tốt). Nguyễn Ngu Í rất tán đồng loại người hùng này của Lê Văn Trương, nên đoạn viết về Lê Văn Trương hào hứng với 39 trang, đứng đầu trong cuốn sách phỏng vấn này của Nguyễn Ngu í. (Hồ Hữu Tường, người đồng tù Côn Đảo, với 33 trang, đứng hàng thứ nhì). Theo Lê Văn Trương, những người ít từng trải đời, chưa đi khắp thiên hạ, thiếu kinh nghiệm chứng kiến, nên mới nói loại người hùng trong tiểu thuyết của Lê Văn Trương toàn  là “anh hùng rơm”, không tưởng, không thể có trong đời thường. Tiểu thuyết của Lê Văn Trương bán rất chạy vào những năm từ 1935 đến 1945. Đến năm 1964, nghĩa là sau 10 năm di-cư vào Miền Nam, tiểu thuyết Lê Văn Trương chỉ còn ít người đọc, đời sống của ông vất vả bệnh tật. Nhưng năm 1954 và vài năm kế tiếp, sách của ông vẫn còn bán chạy. Lúc ấy, với đời sung túc, ông thuê cả phòng riêng để viết tiểu thuyết ở một khách sạn trên Đại lộ Nguyễn Huệ Sài Gòn; có xe hơi; và mua nhà ở số 100/67 Trần Hưng Đạo gần đường Bùi Viện (thuộc khu vực Tây ba-lô bây giờ). Nguyên nhân sa sút, có phải vì tiểu thuyết của ông không còn hấp dẫn trước viễn ảnh chiến tranh với những dằn co về ý thức hệ, về triết lý Hiện Sinh, về các quan niệm sáng tác mới du nhập từ Tây phương, về thực tế đời sống kinh tế khó khăn lúc chuẩn bị bước  vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt, lúc có các cuộc tranh đấu Phật Giáo chống lại chế độ Ngô Đình Diệm, tất cả những dồn dập ấy khiến tiểu thuyết của ông như thuộc về quá khứ không còn nữa.
Đoạn viết về Á Nam Trần Tuấn Khải có những nhắc nhở thời quần chúng Việt hết sức tán thưởng nhân vật “anh Khóa” trong thi phẩm “Bút Quan Hoài” của ông: anh Khóa được tiễn chân lên đường sang Pháp du học, du học gồm thâu kiến thức văn minh để khi trở về giúp nước thoát ách đô hộ (chắc đây là hoài vọng có được những nhà thông thái, nhà trí thức cấp cao, có thể tranh đấu chốn nghị trường với chính quyền Pháp?). Khi ông đi xe lửa từ Bắc vào Nam năm 1928, nơi nào phải ghé để đi từng chặng như lúc xuống xe ở Vinh - Đông Hà - Huế - Đà Nẵng-Qui Nhơn-Nha Trang-Sài Gòn (đi từng chặng vì đường xe lửa chưa hoàn toàn thông suốt từ Hà Nội đến Sài Gòn vào thời ấy), thì ông đều có dịp nghe người ta ngâm thơ hay đọc thơ anh Khóa. Nhắc nhở ấy cho thấy nguyện vọng nung nấu của toàn dân từ Nam chí Bắc muốn thoát ách đô hộ thực dân Pháp.Thi phẩm Bút Quan Hoài xuất bản năm 1924, được tái bản nhiều lần, lần cuối vào năm 1957 tại Sài Gòn. Riêng người viết bài này đã có thấy nó vào năm 1950 tại Tháp Chàm, nơi nhà người bạn học lớp Nhất Tiểu Học (lớp cao nhất bậc Tiểu Học, năm ấy còn phải thi bằng tốt nghiệp bậc Tiểu Học, thi tại Phan Rang): nhớ mang máng hình bìa vẽ người đàn bà gánh nước với màu đen trên nền màu vàng nâu; và cũng nhớ mơ hồ có câu thơ Tản Đà ghi trên hình bìa Bút Quan Hoài: “Non sông nặng một gánh tình/ Trời chưa cho nghỉ thì mình cứ đi”.

Đoạn viết về Lê Văn Siêu nhắc ta nhớ Nguyệt san in màu rất hiện đại vào thời 1955 hay 1956, Nguyệt san hình ảnh “Sáng Dội Miền Nam” do Lê Văn Siêu làm chủ bút. Nhớ mang máng trên báo ấy có bài tùy bút của nhà văn Mai Thảo viết về giờ khắc lúc gần sáng của Sài Gòn; với hình ảnh đen trắng những người uống cà phê nóng trút vào dĩa; với hình ảnh xe thổ mộ lắc lư ngọn đèn dầu từ ngoại ô đi vào thành phố; với hình ảnh ánh sáng bình minh bắt đầu đượm hồng trên cột thu lôi Nhà Hát Lớn (tức trụ sở Tòa Nhà Quốc Hội sau này dưới thời Việt Nam Cộng Hòa). Cũng nhớ mang máng đọc trên nguyệt san Sáng Dội Miền Nam 2 bài thơ của Vũ Hoàng Chương xuất hiện lần đầu tiên: Đăng Trình và Mây Sóng Tình Thơ. Nhờ một chi tiết mới, qua đoạn viết về Lê Văn Siêu, nó xóa tan những ngộ nhận Nhóm Hàn Thuyên (hiện diện từ năm 1939 ở Hà Nội). Lê Văn Siêu có chân trong nhóm nên biết rõ những ngộ nhận. Ngộ nhận thứ nhất: Nhóm Hàn Thuyên là công cụ của Sở Mật Thám Pháp, sở dĩ bị ngộ nhận như vậy vì nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh có chân trong nhóm quen thân với người bạn học Pháp lúc ấy với chức vụ Giám Đốc Sở Thông Tin- Báo chí và Tuyên truyền. Sở ấy có công việc riêng khác với sở Mật Thám. Ngộ nhận thứ hai là Nhóm Hàn Thuyên thuộc hệ-phái Đệ Tứ Quốc Tế, sở dĩ bị ngộ nhận như vậy vì nhóm có đăng bài và xuất bản sách của Hồ Hữu Tường. Thật ra, theo sự hiểu biết thân cận của Lê Văn Siêu thì cơ sở Hàn Thuyên do gia đình ông anh vợ của Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa, đầu tiên chỉ là cơ sở nhà in làm việc thương mại. Sau nửa năm thành lập, cơ sở không đủ sống, nên Trương Tửu bày việc xuất bản sách, và khéo léo lèo lái thành công thương mại nhờ xuất bản những cuốn sách có giá trị về Chính Trị và Văn Hóa. Tóm lại Nhóm Hàn Thuyên không phải của Mật Thám Pháp, hay của Đệ Tam hoặc Đệ Tứ dù có sự cộng tác của Đặng Thái Mai hoặc Hồ Hữu Tường.

Nhất Linh và Doãn Quốc  Sỹ là những nhà văn lớn có những tác phẩm lớn để lại cho đời, nhưng Nguyễn Ngu Í dường như không chuẩn bị được nhiều câu hỏi để làm dồi dào cho cuộc phỏng vấn, cho nên đoạn viết về Nhất Linh chỉ có 9 trang, và Doãn Quốc Sỹ với 25 trang. Ta chỉ tìm được một ít chi tiết mới về văn học như nhà văn cho biết tác phẩm nào bán chạy nhất (cuốn Dòng Sông Định Mệnh), tác phẩm nào từ lâu ta vẫn tưởng phổ biến mạnh lại hóa ra bán chậm (cuốn Gìn Vàng Giữ Ngọc). Qua cuộc phỏng vấn này, Doãn Quốc Sỹ giúp ta nhớ lại thời điểm có vụ xung đột Bình Xuyên và chính phủ Ngô Đình Diệm, xảy ra năm 1955. Lúc ấy, Doãn Quốc Sỹ cư trú tại Đại Học Xá Minh Mạng ở Chợ Lớn, và vừa viết xong một tác phẩm văn học, cuốn “Trái Cây Đau Khổ”. Đạn súng lớn có khi rơi lạc vào Đại Học Xá, may mắn tác phẩm mới viết xong của ông không sao cả. Doãn Quốc Sỹ nói đến tác phẩm không bị tiêu hủy trong khói lửa, hàm chứa ý tưởng còn có biết bao tác phẩm văn chươngcủa nhân thế mất mát trong các cuộc chiến tranh quá dài ở Việt Nam.

Nguyễn Ngu Í nhắc cho ta nhớ về nhà thơ Đông-Hồ khi được mời dạy ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn kể từ niên khóa 1964-1965. Lúc ấy, ông có ý muốn soạn bộ Văn Học Sử Miền Nam từ thời đi mở đất sình lầy hoang phế của Thủy Chân Lạp. Dân đi khai phá vùng đất hoang thì phần đông là người nghèo tha phương lập nghiệp để sinh tồn, thì dĩ nhiên đâu có nhiều sáng tác văn chương, đâu có nhiều tư liệu văn học. Ước vọng soạn thảo ấy không dễ có tài liệu dồi dào, vì vậy hình như ông chỉ soạn thảo được có phần Văn Học Hà Tiên của các danh nhân Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích. Cũng qua phỏng vấn, ta ghi được để mà bùi ngùi thời điểm Nhà sách Yểm Yểm Thư Trang ở Sài Gòn không còn nữa tại đường Nguyễn Thái Học (trước là đường Kitchener). Nhà sách kế bên trường trung học tư thục năm 1953 vẫn còn dạy học sinh Việt với chương trình giáo khoa Pháp, đó là trường Lê Tấn Thành. Liên hệ tới điều này để ta biết Nhà sách Yểm Yểm Thư Trang đã cố công phát huy văn chương Việt, đã xuất bản nhiều sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cho Miền Nam lúc ấy còn chịu nhiều ảnh hưởng học văn hóa Pháp. Một số trường tư thục vẫn dạy theo chương trình Pháp trước 1954, mặc dù lúc ấy đã có chính phủ Việt Nam Quốc Gia dưới thời Thủ tướng Trần Văn Hữu hay dưới thời Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm. Nhà sách Yểm Yểm Thư Trang tại đường Kitchener ngưng hoạt động vào năm 1961.

Về Sơn Nam, qua phỏng vấn phối hợp với chuyện vãn, Nguyễn Ngu Í tiết lộ cho ta biết Sơn Nam đã bị nghi ngờ rất sớm có liên hệ đến “Mặt Trận Giải Phóng”, từ năm 1965. Bởi vì Sơn Nam từng đi kháng chiến ở vùng rừng Cà Mau, đã từng được giải văn chương vùng kháng chiến với các tác phẩm “Bên Rừng Cù Lao Dung” và “Tây Đầu Đỏ”. Có thể đó chỉ là tác phẩm viết về kháng chiến chống Pháp không có gì đáng nghi ngờ, nhưng sự kiện sau hiệp định Geneve năm 1954 tại sao Sơn Nam không đi tập kết ra Bắc; làm gì mãi đến năm 1965 mới từ Cà Mau về Sài Gòn sống nghề viết truyện cho các báo. Có người nghi ngờ Sơn Nam đến Sài Gòn với nhiệm vụ gì đó. Biết bị nghi ngờ như vậy, qua tâm sự với Nguyễn Ngu Í, Sơn Nam cho biết dù có dồi dào đề tài về kháng chiến chống Pháp, nhưng ông chỉ chuyên viết chuyện ma hoặc chuyện quái đản vùng quê Miền Nam, một phần cũng vì các chủ báo yêu cầu để báo bán chạy. Nhưng Nguyễn Ngu Í biết Sơn Nam rất tâm huyết khi viết các truyện đi khai mở đất phương Nam thời còn “Dưới Sông Sấu Lội, Trên Rừng Cọp Đua”.

Bài viết này chủ yếu nêu ra những chi tiết mới về văn học liên hệ đến từng tác giả, qua phỏng vấn phối hợp với chuyện vãn. Vậy nên những điều cốt yếu của văn nghiệp mỗi tác giả nếu đã được đề cập nhiều trong sách báo, không cần nêu ra nữa. Do đó, ở đoạn viết về Bình Nguyên Lộc, ta chỉ lưu ý đôi điều mới lạ mà thôi, mới lạ nhưng cũng liên hệ đến đời văn. Như từ lâu ta đinh ninh truyện ngắn “Rừng Mắm” của Bình Nguyên Lộc sáng tác từ hứng cảm vùng đất khai phá nào đó ở Miền Đông (các đề tài của Bình Nguyên Lộc lai vãng ở vùng này), mà thực ra ông lấy được hứng cảm từ hình ảnh Hòn Khoai cùng với Mũi Cà Mau, nơi có các bãi bùn mọc lên những cây mắm tiên phong giữ đất phù sa bồi tụ. Ông so sánh chúng như các tiền nhân cách nay hơn 300 năm, những đợt người đầu tiên đi khai phá mở đất vùng sình lầy Thủy Chân Lạp. Qua tâm tình thổ lộ cùng Nguyễn Ngu Í, nhà văn Bình Nguyên Lộc tiết lộ chuyện cay đắng về vụ báo của ông bị ém: Cơ sở Phát hành không  giao báo đầy đủ cho các đại lý, rồi ngày sau nói báo ế bị các nơi trả lại. Nhà văn biết báo mình bị ém, vì vết cắt của máy xén báo còn giữ nguyên dấu như khi mới ra lò từ nhà in (nếu báo phát hành khắp nơi trả lại thì không thể còn giữ nguyên dấu xén báo). Nhờ tâm tình thân mật mới có những điều kể nghe vui như trên, một nỗi buồn trong nghiệp văn chương chữ nghĩa của Bình Nguyên Lộc.

Nguyễn Ngu Í có vẻ rất hào hứng ở đoạn viết về Lê Ngọc Trụ, một phần vì nhà ngôn ngữ Lê Ngọc Trụ chuyên về cấu trúc ngôn ngữ Việt, tâm đầu với Nguyễn Ngu Í cũng là người đang muốn cải cách lối viết Việt ngữ (như làm sao để có thể viết mà không cần đến 5 dấu “sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng”, như chữ nào thay thế cho y hoặc d…). Hứng thú hơn hết trong đoạn viết này của Nguyễn Ngu Í về Lê Ngọc Trụ, ở chỗ biết được duyên cơ nào Lê Ngọc Trụ trở thành nhà ngôn ngữ xuất sắc với tác phẩm “Chính Tả Việt Ngữ” (xuất bản năm 1951) và “Việt Ngữ Chính tả Tự Vị” (xuất bản năm 1960). Duyên cơ: do Lê Ngọc Trụ có thời gian 13 năm làm quản-đốc tiệm vàng cho cha vợ, thường tiếp xúc với khách hàng người Hoa Quảng Đông. Qua tiếng Việt nói giọng lơ-lớ của họ, ông lưu ý nguyên tắc biến âm từ tiếng Hán phát âm qua tiếng Hán Việt; rồi nghiên cứu cách biến âm từ tiếng Đức qua tiếng Pháp (hai bên có những tiếng mượn nhau nhưng phát âm biến đổi). Nhờ hiểu cách biến âm như vậy mà Lê Ngọc Trụ khám phá luật hỏi ngã trong tiếng Việt, và luật viết đúng chữ cuối trong vần. Công lớn của Lê Ngọc Trụ được áp dụng dạy từ bậc Tiểu Học với những nguyên tắc tất yếu khiến có thể viết đúng dấu hỏi dấu ngã, chữ cuối cùng là T hay C, có G hoặc không G (người Miền Bắc phát âm đúng, nhờ đó viết đúng, nên các nguyên tắc khoa học này hình như để dạy cho học sinh Trung Nam, và phải khởi đầu từ bậc Tiểu Học). Những phát kiến như vậy rất hay, cho nên Bộ Trưởng Giáo Dục khi ấy là ông Trương Công Cừu cố mời cho được Lê Ngọc Trụ giảng dạy lớp Chứng chỉ Ngữ Học Việt Nam tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Lớp chứng chỉ ngữ học này không khô khan như ta tưởng, mà rất thú vị nhờ truy ra nguyên ngữ của tiếng Nôm, và vạch rõ những biến âm do từ đâu. Tuy nhiên, nhà phỏng vấn cũng có lần thắc mắc tiếng thuần Nôm như trái “Mít” do từ nguyên ngữ nào, vì xứ Trung Hoa không có cây mít? (nhà ngôn ngữ nói là do nguyên ngữ Mật).

Vi Huyền Đắc cũng là người có những suy tư để cải cách viết Việt ngữ, có những ý tưởng hợp với Nguyễn Ngu Í, trong đó có sáng kiến muốn loại trừ 5 dấu trong cách viết tiếng Việt. Nên đoạn viết về Vi Huyền Đắc phong phú gồm 27 trang phỏng vấn cùng hàn huyên trong bữa cơm ở nhà Vi Huyền Đắc tại Ngã Năm Bình Hòa (Gia Định). Vi Huyền Đắc là dịch giả từ Hoa Văn và Pháp Văn. Trong khi hàn huyên, Vi Huyền Đắc nói ra những ví dụ về dịch thuật, dịch làm sao cho hợp với  cách nói cách viết của người Việt, không thể dịch sát với nghĩa của tiếng nước ngoài. Những ví dụ ấy thật thích thú, thật đáng nhớ để áp dụng khi dịch. Và Vi Huyền Đắc cũng từng là một người trong ban soạn thảo cuốn “Bách Khoa Tự Điển Việt Nam” do Đào Văn Tập chủ trì. Việc soạn cuốn sách này được phân công chu đáo, giờ giấc làm việc và bàn luận thật nghiêm túc. Rồi Đào Văn Tập mất, Đào Đăng Vĩ đem công sức tiếp tục việc soạn thảo, nhưng công sức tư nhân dù là một nhóm khá đông cũng chỉ có giới hạn, việc soạn sách phải bỏ dở dang. Vi Huyền Đắc qua suy nghiệm, có ý kiến thật chí lý: Công trình vĩ đại về học thuật như vậy phải giao cho chính phủ. Chính phủ mới có đủ nhân vật lực để thực hiện, chính phủ mới có đủ quyền uy phát hành sách đến các cơ quan. Như vậy, nhà nước vừa thu hồi tài chánh phải trả ấn phí cuốn sách đồ sộ và tiền công hậu đãi cho toàn ban soạn Bách Khoa Từ Điển; vừa phổ biến được khắp các ngành nghề công trình vĩ đại về chữ nghĩa, rất ích lợi lâu dài cho toàn thể dân chúng; để mọi nơi có thể tham khảo kho tàng văn hóa quốc gia.

Đến phần viết về Nguyễn Hiến Lê, dù rằng cũng do hàn huyên tiếp xúc thân mật tại nhà của học giả, nhưng ta cảm thức  được sự nể nang của Nguyễn Ngu Í. Nể nang dành cho các nhà văn khác cũng đều do thành quả văn nghiệp của họ, nhưng với Nguyễn Hiến Lê thêm cái nể nang giờ giấc làm việc rất nghiêm nhặt của ông: từ mấy giờ bắt đầu viết, từ giờ nào dùng bữa, lúc nào phải tức khắc không viết nữa vì đến lúc đi ngủ. Nghỉ là nghỉ, sau viết tiếp, vì Nguyễn Hiến Lê quen với công việc của ngòi bút, không cần đợi hứng tới thì mới viết được. Có người cũng từng thắc mắc, trước Đệ Nhị Thế Chiến, tức là chưa phải thời kỳ kháng chiến chống Pháp, học giả Nguyễn Hiến Lê làm gì ở Đồng Tháp Mười mà viết được cuốn “Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười”. Ta cũng nên lưu ý thời điểm năm 1935 thì Đồng Tháp Mười còn vô cùng hoang vu, ít ai dám tới. Nguyễn Hiến Lê nói với Nguyễn Ngu Í duyên cơ viết được cuốn sách ấy: năm 1935, ông là công chức Sở Công Chánh chuyên đi đo mực nước kinh rạch vùng Hậu Giang. Công việc đo mực nước chỉ làm vào ban đêm, ban ngày rảnh rang, ông giết thời giờ bằng cách viết du ký. Rồi thì xung-đột Việt Minh-Hòa Hảo xảy ra, ông bị kẹt ở thành phố Long xuyên đến 7 năm, làm nghề dạy học tại đó, từ năm 1947 dến 1953. Từ tâm sự của Nguyễn Hiến Lê qua Nguyễn Ngu Í, ta phải ngưỡng mộ ông là người tính toán làm ăn rất có kế hoạch. Tiến trình như sau: mỗi năm “Nhà xuất bản Phạm Văn Tươi” ấn hành 3 cuốn trong 5 bản thảo có sẵn của ông, và trong năm đó ông viết thêm 3 cuốn; cứ tiếp tục như vậy trong 4 năm thì ông đã có 12 cuốnsách xuất bản. Đến năm thứ năm thì hết giao kèo với nhà xuất bản Phạm Văn Tươi; ông thành lập “Nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê” để vừa tái bản vừa có sách mới viết, như vậy cũng mỗi năm 3 hay 4 cuốn ấn hành. Nhưng sau 1954, đất nước chia đôi làm ông mất một nửa độc giả mua sách.Tuy nhiên, nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê vẫn đứng vững nhờ những cuốn sách của ông rất có ích lợi văn hóa. Nói những con số như trên cho dễ thấy kế hoạch của Nguyển Hiến Lê, chứ thật ra thì trồi sụt một hai cuốn, thường chỉ trồi sụt một cuốn mà thôi.

Phần cuối cuốn sách, Nguyễn Ngu Í cũng một cách thức vừa hàn huyên vừa phỏng vấn tìm hiểu đời văn nhà văn hóa Hồ Hữu Tường. Có một thời gian đi tù Côn Đảo cùng Hồ Hữu Tường dưới chế độ Ngô Đình Diệm (theo tài-liệu trong “Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc” thì tác giả Ng. Ng. Í bị an-trí ở trại cải-huấn Tân Hiệp Biên Hòa, vậy không phải đi tù Côn Đảo), nên đoạn viết về Hồ Hữu Tường được Nguyễn Ngu Í thân tình hỏi cặn kẽ từ thuở Hồ Hữu Tường làm báo thời Pháp-thuộc, cho đến lúc bị bắt ở Rừng Sát vì mưu định lợi dụng lực lượng Bình Xuyên (cũng là mưu định của vài nhân sĩ khác) để làm chuyện lớn nơi chính trường một khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Nhờ thân tình như vậy, Nguyễn Ngu Í được học giả tiết lộ vài điều dấu kín thuở viết báo bằng tiếng Pháp. Như năm 1935, giới viết lách chống thực dân đã đánh lừa được Sở Mật Thám, khiến người Pháp đinh ninh báo lén lút của họ chỉ có thể in tại Pháp mà thôi, vì các chữ in rất rõ và rất đẹp (thật ra làm báo tại một cái chòi vùng ngoại ô Sài Gòn). Đinh ninh như vậy, mật thám Pháp chuyển hướng truy tầm mãi tận Paris. Đó là do kế hoạch vận động bọn trẻ xin làm công nhân trong nhà in tối tân Ardin đường Catinat, học cách xếp chữ, rồi ăn cắp từ từ ngày một ít các chữ đúc sắc sảo của nhà in này. Và một tiết lộ cần nên hiểu rõ về báo Pháp ngữ “La Lutte” (Tranh Đấu), bắt đầu từ số 5 tháng 10 năm 1934 với Nguyễn An Ninh “đứng mũi chịu sào” cho cả các phe phái gồm Đệ Tam Đệ Tứ và Nhân Sĩ, họ cùng đồng tâm viết báo  và hô hào chống thực dân Pháp. Nguyễn An Ninh thuần túy quốc gia và rất uy tín với quần chúng Miền Nam, nên đã được mời làm vai trò làm trung gian điều hợp cho tờ báo. Những tác phẩm đáng lưu ý của Hồ Hữu Tường như “Tương Lai Văn Hóa Việt Nam”, “Phi Lạc Sang Tàu”, “Thằng Thuộc, Con Nhà Nông”, dĩ nhiên có nhiều đề cập trong phỏng vấn của Nguyễn Hữu Í; với những nét chính mà mọi người chắc cũng đã biết, nên xin không nhắc lại. Có phải không, đây là một chi tiết khá mới: Hồ Hữu Tường quan niệm đừng ngần ngại viết về mình, viết như vậy dễ trung thực hơn viết những điều chung chung mơ hồ trừu tượng; trái với quan niệm nên tránh tự-truyện vì “Cái Tôi Là Cái Đáng Ghét”. Tuy là tác phẩm chủ yếu phỏng vấn thân mật đời văn sống và viết, nhưng NguyễnNgu Í cũng không quên cung cấp cho ta tài liệu ghi chép theo lối biên-khảo tiểu sử của từng người. Sau đây là tư liệu để ta biết qua vài nét chính của “Thuyết Trung Lập Chế” do Hồ Hữu Tường cùng Võ Thành Minh hô hào trước lâu đài Hội Nghị Geneve chia cắt Việt Nam năm 1954: Miền Nam nên trở thành lãnh thổ của Liên Hiệp Quốc (có nghĩa là Miền Nam trở thành nước “Siêu Lập”). Và “Triết Lý Hòa Đồng” của ông như sau: Tổng hợp Văn Minh Kỹ Sư, Văn minh Chính Ủy, Văn minh Tu sĩ. Chắc ông có ý-kiến chủ trương nhà cầm quyền không nên chỉ toàn là chuyên viên các ngành khoa học; không nên toàn là nhà chính trị; không nên toàn là người của tôn giáo nào.

TRẦN VĂN NAM
City of Walnut, California, tháng 7 năm 2012

Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

ĐÔI DÒNG ĐIỂM SÁCH CỦA CÁC NHÀ VĂN HỌC NGUYÊN SA VÀ ĐẶNG TIẾN VỀ THƠ TRẦN VĂN NAM

Trần Văn Nam ghi lại

I/ Trích lại bài tựa của thi sĩ NGUYÊN SA:  
Tình yêu trong thơ Trần Văn Nam là một tình yêu lớn (1). Nếu so với âm thanh, tình yêu đó là một bản hòa tấu (2), nếu mượn màu sắc để so sánh, tình yêu trong thơ Trần Văn Nam hiện ra như một cầu vồng ngũ sắc (3). Hình ảnh thiên nhiên có thật nhiều trong thơ Trần Văn Nam, bởi lẽ nhà thơ có một phần trái tim dành cho những cánh đồng thơ ấu của quê hương cũ, có những khu rừng thâm sâu kỷ niệm (4), có những biển mênh mông khi đe dọa, lúc an ủi ngày dứt áo ra đi (5). Những khúc nhạc lên tới đỉnh cao cảm xúc trong thơ Trần Văn Nam là tình yêu đam mê cất dấu trong những khu vườn êm đềm nhất của nội tâm (6).