Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Công Sung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Công Sung. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015
Trầng Công Sung - Chờ Tết
![]() |
Hình minh họa: Nhật Giang |
Trước khi lụm cụm chui vào mùng, bà cụ Hàn
hỏi con dâu: Thế thằng Cừ nó nói gì với cô?
Đó là lần thứ mười bà già lập lại câu hỏi.
Yến trả lời, lần thứ mười:
- Thì anh ấy bảo Tết này, thế nào nhà con
cũng được thả về.
- Nó có chắc không, hay lại...
- Chắc. Thì anh ấy với nhà con ngày xưa
cùng ở một đơn vị, cùng bị đưa đi một ngày. Nay anh ấy được thả về...
Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2014
Trần Công Sung - Bên bờ vực
Hai người lên tới đỉnh núi lúc trời
vừa nhá nhem tối. Gã thanh niên vạm vỡ đứng ôm bụng thở dốc, mồ hôi chẩy trên
mặt như nước mưa. Người đồng hành, một ông già râu tóc bạc phơ, y phục, dáng vẻ
như một đạo sĩ, đứng ung dung ngắm cảnh, nhàn hạ như vừa uống xong một tuần
trà.
Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012
Trần Công Sung - Bên Bờ Vực
Trần Công Sung
Hai người lên tới đỉnh núi
lúc trời vừa nhá nhem tối. Gã thanh niên vạm vỡ đứng
ôm bụng thở dốc, mồ hôi chẩy trên mặt như nước
mưa. Người đồng hành, một ông già râu tóc bạc phơ, y
phục, dáng vẻ như một đạo sĩ, đứng ung dung ngắm
cảnh, nhàn hạ như vừa uống xong một tuần trà.
Gã thanh niên nhìn vách núi dựng
đứng, chân núi thăm thẳm, mất hút trong mây mù, nói hổn
hển :
- Con sợ thầy thực. Leo núi
suốt từ sáng mà không biết mệt. Không biết bao giờ
con mới tập luyện được như vậy.
Lão trượng vuốt râu, cả cười:
- Cần nhất là đừng sốt ruột.
Phải tập luyện mỗi ngày, nhưng không tìm cách đốt
giai đoạn. Một ông tướng nổi danh nói với binh sĩ: hãy
đi từ từ, chúng ta gấp lắm đấy.
Khi mệt thì nghỉ. Ta ngủ ở đây
đêm nay.
Gã thanh niên lục trong cái túi
cồng kềnh y vẫn đeo sau lưng ra một cái lều vải, lúi
húi dựng lều. Ông già không cần lều; vẫn ngủ ngoài
trời, lấy cỏ làm nệm, phiến đá làm gối. Sương, gió,
nóng lạnh ngoại vật không ảnh hưởng gì tới ông, muỗi
không đốt, hay ông không cảm thấy muỗi đốt.
Đằng sau rặng núi trước mặt,
mặt trời từ từ lặn. Cả một vùng trời muôn mầu tô
rực rỡ núi rừng cây cỏ. Ông già trầm ngâm:
- Hồi trẻ, thầy mất hàng chục
năm học vẽ, mơ thành hoạ sĩ; nhưng thấy mình bất lực,
không diễn tả nổi cái đẹp của thiên nhiên, cái nhiệm
màu của đời sống, thầy bỏ vẽ. Mỗi lần đứng trước
cảnh đẹp như thế này, vẫn thấy đôi chút thất vọng.
Gã thanh niên cảm động trước
lời tâm sự của ông già; bình thường là một người
lạc quan, yêu đời, biết thưởng thức từng giây phút
của đời sống. Tưới một bông hoa, tỉa một cành lan,
ngắm mấy con cá vàng tung tăng trong bể cá, đọc một
trang sách, đón nắng hanh vàng đầu hè hay se se người
trước cơn gió lành lạnh cuối thu, mỗi hành động nhỏ
bé, tầm thường, đối với ông là một nguồn hạnh
phúc.
Ông vẫn nói với học trò đừng
chạy đuổi, tìm kiếm hạnh phúc; nó ở trong ta, nó ở trước mặt, trong mỗi cử chỉ,
trong từng hơi thở. Càng chạy càng mệt, càng đuổi theo
càng mất.
Gã thanh niên đốt lửa, sửa
soạn bữa ăn tối, đúng ra là để pha trà, vì bữa cơm
rất đơn giản: cả hai đều ăn chay
trường, đã gói sẵn trong túi vải.
Một con nai ngơ ngác từ trong
bụi cây bước ra, giương đôi mắt to, đen láy, nhìn ngọn
lửa, nhìn ông già, nhìn gã thanh niên, dò dẫm, rồi đi
lại, nằm dưới chân lão trượng.
Ông già vẫn nói con vật, ngay
cả những con dữ tợn nhất, nếu nó cảm thấy mình vô
hại, cảm thấy cái từ tâm của kẻ đối diện, đương
nhiên nó trở thành thân thiện. Và cái từ tâm, nếu chân
thực, nó toát ra tự nhiên như một hương thơm, như một
hơi thở, ngay cả thú vật cây cỏ cũng cảm nhận được.
Cây cỏ không biết, nhưng gã thanh niên đã thấy, nhiều
lần, những con cọp, báo, gấu nằm cạnh ông già, ngoan
ngoãn như những con mèo con.
Sau bữa cơm thanh đạm, gã thanh
niên đưng dậy, vươn vai, đi vài đường quyền.
Ông già nhìn, hài lòng, thấy
đường võ của học trò đã điêu luyện, nhất là đã
uyển chuyển, không còn cái cứng rắn, cái cố gắng phô
diễn sức mạnh của tuổi trẻ. Gã thanh niên, đã biết
quên cái bản năng háo thắng, cái bản năng muốn chinh
phục, muốn đè bẹp đối phương, y đã quên thân thể
mình. Y đã quên cái tôi. Ông vẫn nói đường võ phải
đi nhẹ nhàng, như không muốn xô đẩy không gian chung
quanh. Phải biết kính trọng cái quân bình ở trong ta cũng
như trong vạn vật.
Gã thanh niên, sau nửa giờ tập
luyện, ngồi nghỉ trên bờ vực. Trăng đã lên tới đỉnh
đầu, sáng vằng vặc. Núi đồi cây cỏ tràn ngập những
trăng là trăng. Sâu dưới chân vực là một con sông uốn
éo như con rắn, chan hoà ánh trăng. Một hai chiếc thuyền
neo bên bờ sông, nhỏ bé xinh xắn như những chiếc thuyền
giấy của trẻ con. Gã thanh niên cất tiếng ngâm:
Thuyền ai đậu bến sông
trăng đó
Có chở trăng về
kịp tối nay
Lão trượng đang
nửa tỉnh, nửa thức, ngạc nhiên,
hỏi :
- Con biết tiếng
Việt?
- Thầy quên con
là một chuyên viên về cổ ngữ ?
Ông già cả cười :
- Quả thực,
nhiều lúc thầy quên con đã trưởng thành, đã là một
học giả có tên tuổi.
Thời gian đi
nhanh quá, vùn vụt. Trong đầu ông già, gã học trò vẫn
còn là một chú nhỏ chạy lăng quăng trong sân nhà, hay
ngủ gà ngủ gật giữa những buổi học kéo dài trong cái
nóng nực của trưa hè. Mới như hôm qua, cái buổi sáng
người ta trao cho ông một hài nhi còn đỏ hỏn ai đem bỏ
trước cổng nhà từ lúc trời còn chập choạng tối.
Một lần trong một
thư viện lớn, ông thấy một nhóm sinh viên chúi đầu
nghiên cứu, trên bàn cả một
đống sách dầy cộm mang tên tác giả là người học trò
thân yêu của mình. Ông vừa kiêu hãnh,vừa xúc động,
vừa bàng hoàng, ý thức rằng đứa học trò nhỏ ngày
nay đã dần dần vuột khỏi tay mình, đã thành một học
giả có uy tín.
Ông già nói:
- Câu thơ đẹp
quá, nhất là trong cái đêm trăng như đêm nay.
Bắt chước học
trò, ông lên tiếng ngâm, giọng sang
sảng:
Sao anh không
về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng
hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang
mặt chữ điền
Gió theo lối
gió, mây đường mây
Dòng nước
buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến
sông trăng đó
Có chở trăng
về kịp tối nay...
Và tiếp :
- Hồi nhỏ, có
lần thầy ghé thăm cái thành phố ngày xưa tên là Huế,
thăm thôn Vỹ. Nhưng Huế không còn là Huế, thôn Vỹ
không còn là thôn Vỹ của Hàn Mặc Tử. Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc đã trở thành những cao ốc kệch cỡm,
những cơ sở sản xuất giầy dép, siêu thị của người
Tàu. Những cô thiếu nữ trong chiếc áo dài lả lướt
ngày xưa đã trở thành những bà vợ Tàu ,vợ Đại Hàn.
Huế bây giờ mang một cái tên Tàu, giống như những
thành phố khác của cái nước ngày xưa gọi là Việt
Nam. Nơi mình đang đứng, có lẽ ít ai nhớ ngày xưa gọi
là đèo Ải Vân
Gã thanh niên
trầm ngâm:
-
Trước Hàn Mặc Tử hàng trăm năm, hàng ngàn năm, đã có
những người nông dân Việt làm những câu ca dao tuyệt
đẹp: Hỡi cô tát nước bên
đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?
Ông già mỉm cười :
-
Người nông dân bất cứ nước nào, làm ruộng chỉ mong
cho được việc, cho chóng xong. Cái anh nông dân Việt Nam,
cực khổ trăm chiều, không được ngày hai bát cơm, anh
ta vẫn không quên mình là thi sĩ. Cái thắc mắc của anh
ta chắc chắn không có một anh nông dân nào trên thế
giới bận tâm: sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
- Con nghiên cứu
đã nhiều, không thấy người nông dân nước nào có cái
tâm hồn ấy. Ngoài ca dao, người dân Việt còn một hình
thức diễn tả rất tài tình là tục ngữ.
- Nước nào
chẳng có tục ngữ. Đó là cái túi khôn của người dân,
những quan sát, những nhận xét về đời sống ghi lại
từ đời này qua đời kia.
- Tục ngữ Việt
có hai điểm đặc biệt: nó đầy hình ảnh và bao giờ
cũng đầy khôi hài tính. Bao giờ
cũng là những nhận xét về xã hội hết sức tinh tế,
diễn tả bằng những hình ảnh ngộ nghĩnh: như
đỉa phải vôi, theo voi ăn bã mía, nằm chờ sung rụng,
ăn cơm nhà vác ngà voi, cá nằm trên thớt, gái ngồi phải
cọc, lệnh ông không bằng cồng bà, nắm thằng có tóc
ai nắm thằng trọc đầu... Những
tác phẩm lớn thường có hai đặc điểm: đầy hình ảnh
và khôi hài tính. Ngoài tư tưởng, cố nhiên. Hình ảnh
của những nhân vật truyện Kiều: Thoát
trông nhờn nhợt mầu da. Ăn gì cao lớn đẫy đà làm
sao. Không có văn chương Anh nếu
không có cái khôi hài đen. Trong văn chương Pháp, ngay cả
ở Proust, nhà văn khó nhai vì rất tỉ mỉ dài dòng, vẫn
có cái khôi hài kín đáo khiến Proust là Proust. Những bài
hát của Jacques Brel, bên cạnh cái xúc động,bao giờ cũng
có cái gì tếu tếu. Thơ không có hình ảnh là vè, văn
không có hình ảnh là những bản báo cáo hành chánh,
những biên bản của thừa phát lại.
Ông già gật gù :
- Người Pháp nói: lời nói bay
đi, hình ảnh lưu lại. Les paroles passent, les images
restent.
- Những người làm nghề quảng
cáo thương mại, làm marketing đều biết: một cái spot
thành công phải có hai điều kiện: hình ảnh đập vào
mắt, bám vào óc và một nét khôi hài khiến người ta
mỉm cười. Và tất cả, trong một spot dài 30 giây. Những
người nông dân Việt nam đã hiểu điều đó trước mọi
người. Không có gì gợi hình và tếu hơn cái cảnh một
anh đi vác ngà cho con voi để nói đến một người làm
chuyện vô bổ, lo chuyện cho thiên hạ, hay cái cảnh một
anh nằm dưới gốc sung chờ sung rụng để nói về một
người lười biếng. Tất cả tục ngữ Việt nam đều
như thế. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, người ta cũng
kiếm được một câu nói lên cái cảnh ngộ của mình,
những nhận xét, phê phán về người, về vật: cá mè
một lứa, cá lớn nuốt cá bé, nó lú chú nó khôn, trứng
đòi khôn hơn vịt, theo đóm ăn tàn, ăn cỗ đi trước
lội nước đi sau, đánh võ miệng, ếch ngồi đáy giếng,
cha ăn mặn con khát nước, con nhà lính tính nhà quan...
Chỉ trong vài chữ, cả một nhân sinh quan trong một cuốn
phim hoạt họa linh động.
- Ít lời nhiều ý là một đặc
tính của Á Đông. Thơ haiku của Nhật...
Gã thanh niên cãi :
- Thơ haiku xúc tích, ít lời
nhiều ý, nhưng nghèo về hình ảnh và không có chất khôi
hài, không có nét châm biếm. Người Nhật ít cười cợt.
Cái khôi hài, cái đầu óc đầy hình ảnh của người
bình dân Việt Nam thật hóm hỉnh, thật bất ngờ, thật
lý thú. Và thật hữu hiệu. Không có gì hữu hiệu hơn
khả năng khôi hài. Những người có tiếng là đào hoa
đều đồng ý: một người đàn bà mỉm cười là một
người đàn bà đã bị chinh phục một nửa.
Ông già lợi dụng cơ hội đề
cập một đề tài vẫn lẩn quẩn trong đầu:
- Nói tới đàn bà, thầy vẫn
tự hỏi: bao giờ con nghĩ đến chuyện gia thất. Phải
nhớ là thời gian qua nhanh.
Gã thanh niên hơi lúng túng:
- Con chưa kiếm ra người hợp
ý. Có lẽ con không có cái khiếu làm cho phái đẹp mỉm
cười.
Chợt nhận ra vẻ ưu tư của
ông già, y trấn an:
- Thầy đừng lo, chuyện phải
đến thế nào cũng đến. Thầy vừa khuyên hãy đi từ
từ.
Ông già không ngờ cái thuyết
đi từ từ quay về ngực mình như một cái boomerang, bèn
trở lại đề tài bỏ dở, thoải mái hơn là chuyện đàn
bà:
- Tại sao một dân tộc như vậy
lại biến mất trên bản đồ thế giới?
- Theo con nghĩ, vận mệnh của
một dân tộc, cũng như vận mệnh của một cá nhân,
không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên. Cái may rủi đối
với một cá nhân, cái tình cờ của lịch sử đối với
một dân tộc là một dữ kiện quan trọng, nhưng không
bao giờ là một dữ kiện quyết định. Cái hưng vong của
một quốc gia là do dân tộc ấy tạo ra. Không có chuyện
tình cờ. Nói theo đức Phật, có cái nhân và cái quả.
Ông già không phải là một học
giả, lại ít tìm hiểu về đề tài đang bàn, nhưng ông
vẫn nghe nói người Việt Nam có nhiều đức tính: hiếu
học, cần mẫn, chịu khó, tháo vát, và, như gã học trò
ông vừa nói, dân tộc ấy nhìn đời với nụ cười
thường trực trên môi, nụ cười khiến họ chịu đựng
nổi trăm ngàn khó khăn, thử thách. Nụ cười ấy chứng
tỏ một nhân sinh quan rất quân bình, ít dân tộc nào đạt
đươc.
Ông cũng nghe nói đến cái hy
sinh vô bờ bến của người mẹ, người vợ Việt Nam,
cái chịu đựng gian khổ không giới hạn của người dân
Việt. Tại sao dân tộc ấy không có một đời sống mà
họ đáng được hưởng? Tại sao dân tộc ấy đi đến
chỗ giải thể?
Sương bắt đầu xuống, lạnh
hai bờ vai. Gã thanh niên chất thêm củi, nướng một trái
bắp non; mùi bắp thơm thoang thoảng trong cái thanh tịnh
của đêm trăng. Con nai đã ngủ vùi, đầu gối trên đùi
ông già.
Ông già nói, độ lượng:
- Dân tộc nào cũng có cái tốt,
cái xấu. Cái tốt cái xấu trộn lẫn nhau, tạo ra cá
tính của một cá nhân, một cộng đồng. Phải là thánh
nhân mới không có thói xấu. Và không có gì buồn tẻ
hơn là những ông thánh.
- Có những tính xấu vô hại,
có tính xấu đưa đến nạn diệt vong. Cái tính xấu ghê
rợn của người Việt là cái thói chia rẽ, đố kị
nhau. Mỗi người Việt như tìm thấy cái vui trong cái thất
bại của người đồng hương, cảm thấy cái thú trong
việc phá phách công cuộc chung. Trong y học, người ta nói
đến trường hợp những người có khuynh hướng tự huỷ,
autodestruction, chỉ tìm thấy lẽ sống trong việc tự huỷ
hoại mình. Không lẽ có một dân tộc có khuynh hướng tự
huỷ? Một nhu cầu tự sát tập thể? Như một đàn cá
voi rủ nhau tự sát trên bãi biển? Cái quốc tính lạ kỳ
ấy ăn sâu vào mỗi người Việt Nam, ngay cả ở tầng
lớp trí thức, nhất là ở tầng lớp trí thức. Học vấn
giáo dục không ảnh hưởng gì đến tư cách của họ,
như nước đổ đầu vịt (gã thanh niên mỉm cười: nước
đổ đầu vịt là một câu tục ngữ Việt). Một quốc
gia làm sao tồn tại được với một giới trí thức bệnh
hoạn như vậy.
- Không phải chỉ có người
Việt có cái thói phá nhau. Chẳng có người Pháp nào đồng
ý với người Pháp nào về một vấn đề gì. Ngay cả
người Do Thái, chính họ tự nhận: cứ có hai người Do
Thái ngồi với nhau là có ba ý kiến...
- Bất đồng ý kiến không phải
là điều xấu. Tranh luận đưa tới tiến bộ. Người
Việt Nam ngồi với nhau không phải để tranh luận, nhưng
để phá nhau. Không một hội đoàn Việt Nam nào tồn tại
vài tháng. Không có một nhóm người Việt nào làm ăn với
nhau được vài năm. Ngay cả những người có cùng một
lý tưởng, thiện chí cùng mình, những người cơm nhà
ngà voi, ngồi với nhau ba bẩy hăm mốt ngày là cái bản
năng tự huỷ ấy đùng đùng kéo đến. Abdel Nasser nói:
tôi rất buồn khi thấy một người Ả Rập nói xấu một
người Ả Rập khác.
Nếu ông ta là người Việt Nam,
Nasser sẽ phiền muộn dài dài. Đập phá nhau là một môn
thể thao quốc gia của người Việt, toàn dân tích cực
tham dự và hăng say tập luyện; như basket ball với người
Mỹ, football với ngưới Ba Tây, sumo với người Nhật,
taekwondo với người Cao Ly.
Ông già chống chế :
- Nhiều sách báo nói đến tính
bao dung của người Việt Nam, ngay cả với kẻ thù.
Gã thanh niên gậm trái bắp
nướng, ăn ngon lành. Y không mời ông già, biết ông già
chỉ ăn một ngày hai lần: giữa trưa và tám giờ tối.
Và cứ ba ngày là một ngày không ăn một hạt cơm, «để
cho thân thể nghỉ ngơi.»
- Thầy nói đúng. Đó là một
dân tộc rất đại lượng, rất bao dung đối với người
ngoại chủng, ngay cả đối với kẻ thù. Nước Việt một
ngàn năm nô lệ giặc Tầu, một trăm năm nô lệ giặc
Tây, nhưng khi một ông tướng Tầu chết, họ quên thù
oán, lập đền thờ (nghĩa tử là nghĩa tận.) Khi chiến
tranh Việt Pháp chấm dứt, họ hết lòng thân thiện với
người Pháp, tiếp đón kẻ thù hôm trước như anh em.
Không thấy ai đi lùng giết những lính lê dương muốn
ở lại. Không thấy có người Việt nào hươi đao chém
cổ một người lính Mỹ trước máy truyền hình. Không
thấy có người Việt nào ngồi hạch tội người Nhật
về những tội ác chiến tranh như bên Tàu. Ông tổng
thống nước Mỹ, đi tới nước nào cũng bị la ó, phản
đối rầm rộ, không dám thò đầu ra ngoài đường, đến
Việt Nam dân chúng hồ hởi đổ ra đường chào đón như
đi trảy hội. Cả dân miền Bắc, những người đã lãnh
hàng triệu trái bom Mỹ trên đầu, lẫn dân miền Nam,
những người đã bị Hoa Kỳ bỏ rơi không thương tiếc.
Ông già mỉm cười, lạc quan :
- Đó là dấu hiệu một triết
lý sống rất cao. Vứt bỏ oán thù, Chúa hay Phật cũng
không dạy gì khác.
- Phiền một nỗi là những
người đại lượng như vậy với người ngoại quốc lại
đối xử với nhau một cách cực kỳ tàn tệ, cực kỳ
dã man. Cạn tầu ráo máng. (Lại một câu tục ngữ Việt,
gã thanh niên lẩm bẩm). Kẻ thắng hành hạ kẻ bại như
những con vật. Tôi nhốt anh để anh khỏi lộn xộn,
nhưng tôi hành hạ, nhục mạ anh, không phải vì anh là kẻ
cựu thù, mà vì anh là chỗ đồng bào, anh em ruột thịt.
Ngọn lửa lách tách nổ, thơm
mùi gỗ thông cháy. Gã thanh niên pha một tách trà, đưa
mời ông già. Ông già nhấp một ngụm, hơi nhau mày, nói:
- Nhớ bọc gói trà cho kỹ. Cái
giống trà ngon nó khó tính lắm. Hơi ẩm một giọt mưa,
hơi một ngọn gió là nó giở chứng ngay.
Gã thanh niên không quên câu
truyện đang bàn, như đã lâu lắm y mới có dịp đề cập
một đề tài vẫn luẩn quẩn trong đầu y:
- Con suy nghĩ hoài, không tìm
được nguyên nhân cái mâu thuẫn lạ kỳ ấy. Tại sao
một dân tộc đại lượng như vậy lại thù ghét nhau đến
như thế? Tại sao những con cá voi rủ sau tự sát trên
bãi biển?
Về những con cá voi, ông già
đành ngọng, nhưng về cái dân tộc kỳ quặc nọ, ông
liều một cách giải thích:
- Có lẽ đó là hậu quả của
những cuộc chiến tranh triền miên. Chiến tranh huỷ hoại
tất cả, huỷ hoại cả tình người. Lại thêm chính sách
chia để trị của kẻ thống trị. Biết bao nhiêu dân
tộc, dưới những thử thách một trăm lần ít cay nghiệt
hơn, đã biến mất trên bản đồ thế giới. Người Tầu,
trong một ngàn năm đô hộ, đã tìm mọi cách chia để
trị. Người Pháp khuyến khích dân Việt hút thuốc phiện,
chia nước Việt ra thành ba nước, bày ra một trăm thứ
ngạch trật, phẩm hàm vốn đã cực kỳ nhiêu khê, biến
mỗi người Việt thành một ông quan, sẵn sàng căm hờn
nhau, sẵn sàng giết nhau vì một cái danh hão, một miếng
thịt chia không đều. Bỏ được một tệ trạng đâu
phải dễ. Hãy nhìn những nước Hồi giáo với những hủ
tục truyền lại từ 14 thế kỷ...
Gã thanh niên ngần ngừ: y ít có
thói quen cãi lý với ông thầy mà y kính trọng.
Ông già cảm thấy cái ngần ngừ
của gã học trò:
- Nhưng?
- Nhưng người Việt Nam là những
người có khả năng thích ứng rất nhanh, những tục lệ
cũ, nhuộm răng đen, tục đa thê v.v... chỉ vài mươi năm
đã biến mất. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn đả kích các tệ
trạng xã hội An Nam, cũng chỉ ít năm sau vấn đề họ
nêu ra không còn là thời sự nữa. Thầy có nhớ cái bài
thơ của Nguyễn Bính: Hôm qua em đi tỉnh về. Đợi em
ở mãi con đê đầu làng...
Cái gì chứ thơ thì không ai
địch nổi ông già .Ông có trí nhớ của thiếu niên 18
tuổi. Ông đọc vanh vách :
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo dài khuy bấm em làm khổ
tôi
Nào đâu cái yếm lụa sồi
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi
sang xuân
Nào đâu cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ quạ cái quần
nái đen?
Gã thanh niên ngắt lời, trong
khi ông già còn cao hứng:
- Con cháu ông Nguyễn Bính, chắc
đã rất bỡ ngỡ trước cái thời trang lạ kỳ của
những người chỉ cách họ một thế hệ. Và nếu con
cháu nhà thơ có bồ khăn nhung quần lĩnh rộn ràng, chắc
họ cũng khổ tâm lắm, nhưng không phải khổ tâm vì cô
bạn quá tân thời mà vì quá quê mùa, cổ hủ. Những
người Việt di tản ra nước ngoài chỉ vài năm đã hội
nhập với đời sống mới. Họ biết cải tiến rất
nhanh, nhưng nhất quyết giữ lại cái quốc tính kia. Cái
thói thù ghét nhau, cái thói vọng ngoại đã có từ rất
lâu. Đọc sử Việt Nam, không biết bao nhiêu những cuộc
huynh đệ tương tàn, mỗi lần chiến trận ngã ngũ, thế
nào ở trang sau cũng có cái màn cả bên thua lẫn bên
thắng chạy ra nước ngoài cầu cống. Cái anh phó thường
dân Việt Nam, không ai hỏi ý kiến anh ta.
Ông già:
- Dù sao dân tộc ấy đã đương
đầu với ngoại xâm hàng ngàn năm, tại sao bị giải thể
đầu thế kỷ 21?
- Nước Tầu ngày xưa là một
cường quốc thực dân, nhưng trong nước cũng chia năm xẻ
bẩy, thập loạn sứ quân, khó giữ vĩnh viễn một thuộc
địa. Sang thế kỷ 21, Trung Hoa trở thành
một trong hai nước mạnh nhất thế giới, cả về kinh tế
lẫn ảnh hưởng chính trị. Một đại cường thống
nhất, vươn lên như vũ bão. Hàng hoá Tàu tràn ngập thị
trường, họ làm chủ về mặt kinh tế. Về văn hoá, sách
vở Tàu tràn ngập, trên truyền hình quốc gia chỉ có
phim ảnh Tầu. Đàn bà, con gái Việt Nam bị gả bán cho
người Tàu để tìm đường sống. Nhân công Việt Nam,
nổi tiếng là chịu khó và không đòi hỏi gì, đi tha
phương cầu thự, làm nô lệ ở những nước phát triển
hơn. Trung Quốc cần dầu lửa, cần thị trường, cần
nhiên liệu, ngang nhiên chiếm một vài hòn đảo. Không ai
phản ứng gì, hay phản ứng đại khái, họ lấn thêm vài
cây số biên giới. Dần dần, họ chiếm trọn Việt Nam
nhẹ nhàng như trở bàn tay.
-
Thế giới không phản ứng gì ?
-
Khi Trung Quốc còn là một nước nghèo đói, không ai ho he
gì khi họ chiếm Tây Tạng; ai dám lên tiếng khi họ đã
trở thành một đại cường?
- Còn người
Việt?
- Họ còn mải
chơi môn thể thao quốc gia.
Ông già vươn
vai, ngả đầu trên phiến đá, nói
với gã học trò, ôn tồn như một lời an ủi:
- Khuya rồi. Ráng
ngủ một giấc. Mai phải đi sớm. Thiên hạ chờ mình
đúng ngọ.
Ông già nói
xong, nhắm mắt, ngủ, dễ dàng, ngon lành như một hài
nhi. Gã thanh niên biết là
sáng hôm sau ông sẽ thức dậy đúng sáu giờ. Muốn dậy
giờ nào, ông già không cần báo
thức. Ông chỉ lẩm nhẩm vài lần trong đầu là sáng hôm
sau nhỏm dậy đúng giờ, như
một cái máy.
Gã thanh niên nằm
thao thức, không ngủ được. Trăng
sáng, chan hoà, phí phạm, lai láng ngập đất trời. Y
không khỏi nghĩ đến cái anh nông dân thi sĩ. Sao cô múc
ánh trăng vàng đổ đi. Câu thơ đẹp quá. Tâm hồn anh
nông dân đẹp quá. Một tâm hồn đẹp như vậy không thể
tàn rụi. Cái anh nông dân ấy, từ bốn ngàn năm nay anh
ta vẫn sống chết bám lấy đất nước. Y muốn tin rằng
cái anh nông dân ấy không biến mất, anh ta vẫn lẩn quẩn
đâu đó dưới kia. Một ngày nào, anh ta sẽ trở về, xây
dựng lại quê hương rách nát, đi tìm đón về những cô
thiếu nữ bị bán ra ngoại quốc, đổ mồ hôi để tưới
cho xanh lại ruộng đồng.
Y chợp mắt,
mơ màng, tưởng như nghe thấy - lẫn với tiếng dế kêu,
tiếng gió xào xạc trên ngọn cây - tiếng bước chân ai
từ dưới thung lũng vọng lên. Tiếng chân của một đoàn
người rậm rịch lên đường.
Paris, mùa hè
05
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)