Thứ Sáu, 1 tháng 9, 2023
Lê Nguyễn: Chuyến Bắc hành của học giả Trương Vĩnh Ký và cái chết của Tổng Trú Sứ Paul Bert
![]() |
Học giả Trương Vĩnh Ký (6/12/1837–1/9/1898). Nguồn Hippolyte Arnoux và Emile Gselltrong Voyage de l'Égypte à l’Indochine – Paris 1870’s |
Hầu hết người Việt Nam và nhất là giới nghiên cứu sử học đã quá quen thuộc với Pétrus Trương Vĩnh Ký, một học giả xuất chúng am hiểu nhiều ngoại ngữ và có công lớn trong việc vận dụng chữ quốc ngữ trong giai đoạn sơ khai vào đời sống cộng đồng. Hàng trăm tác phẩm do ông để lại - đã xuất bản cũng như chưa xuất bản - có giá trị rất lớn trong điều kiện một xã hội Việt còn lạc hậu và đang bị ngoại bang chi phối. Tuy nhiên, có một mảng không nhỏ trong cuộc đời ông ít được đề cập đến, hoặc đề cập không đầy đủ, rõ ràng, khiến cho việc tìm hiểu và nhận định về nhân vật đặc biệt này dễ rơi vào trạng thái khiếm khuyết, phiến diện. Đó là mối quan hệ của Trương Vĩnh Ký với triều đình Huế, và với viên Tổng Trú sứ Paul Bert vào nửa sau thế kỷ 19.
***
Nói đến khả năng về ngoại ngữ của Trương Vĩnh Ký, có thể viện dẫn sau đây mấy dòng hồi ký của một du khách người Anh là J. Thomson, trong tác phẩm nhan đề “10 năm du hành ở Trung Quốc và Đông Dương”: “ Ông Petrousky (Petrus Ký-LN), một giáo dân Nam kỳ và là giáo sư dạy tiếng mẹ đẻ của ông tại Trường Thông ngôn Sài Gòn, là một ngoại lệ đáng lưu ý trong số những người bản xứ mà tôi vừa giới thiệu cùng bạn đọc. Ông từng theo học tại trường dòng Penang và tôi không bao giờ quên nỗi kinh ngạc khi được giới thiệu với ông. Ông nói chuyện với tôi bằng một thứ tiếng Anh rất vững, với một cách nhấn nhẹ nhàng của người Pháp, còn với tiếng Pháp, ông diễn tả không kém phần trong sáng và lịch sự. Tiếng Y Pha Nho, Bồ Đào Nha, Ý, ông cũng quen thuộc như những ngôn ngữ phương Đông; chính nhờ sự hiểu biết đặc biệt này mà ông đang nắm giữ một địa vị cao. Một ngày nọ đến thăm ông, tôi nhìn thấy ông đang thực hiện quyển Phân tích, đối chiếu các thứ tiếng chủ yếu trên thế giới, tác phẩm mà ông phải bỏ ra 10 năm lao động miệt mài. (Jean Bouchot – Un savant et un patriote cochinchinois – Petrus J.B. Trương-Vĩnh-Ký (1837-1898)- trang 43).
Thứ Bảy, 18 tháng 7, 2020
Phạm Phú Minh: Người Mở Đường Cho Văn Chương Quốc Ngữ
![]() |
Diễn giả Phạm Phú Minh |
Cụ Trương Vĩnh Ký được coi như là người viết văn xuôi đầu tiên bằng chữ quốc ngữ. Đáng kể nhất, có thể coi là tiêu biểu, là hai quyển Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi và Chuyện Đời Xưa. Cuốn Chuyến đi Bắc kỳ là một du ký, ghi chép mọi chuyện trong chuyến đi, với một lối văn khá bình thường, không quá địa phương khiến người vùng khác hoặc người đời sau phải có chỗ khó hiểu. Có thể nói với du ký này, Trương Vĩnh Ký đã đạt đến lối viết tiêu chuẩn của tiếng Việt, không mấy khác với cách viết của thời nay. Nhưng cuốn Chuyện Đời Xưa thì khác hẳn. Cụ viết theo lối kể chuyện và tạo nên một văn phong riêng, với cách dùng từ ngữ riêng. Giáo sư Phạm Thế Ngũ đã nhận xét về cuốn này : “Về hình thức có thể coi đây là bước đầu lối truyện ngắn, nhất là bước đầu của văn xuôi quốc ngữ. Ý tác giả muốn viết như người ta nói (...) ông muốn viết câu nói annam ròng, diễn câu nói trơn tuột ở cửa miệng bình dân.” Điều này đúng, chuyện đời xưa là để kể, và lời kể dù viết xuống thành chữ cũng nên giữ phong cách kể chuyện và dùng những từ ngữ rất bình dân rất phổ biến của địa phương mình. Và TVK đã giữ được điều đó. Gs Phạm Thế Ngũ nhận xét đó là “lối văn lủng củng, khi cộc lốc nhát gừng, khi lôi thôi lòng thòng”, nhưng đối với riêng tôi TVK đã thể hiện đúng cách nói của người kể chuyện theo giọng Nam Kỳ. TVK đã đem vào văn viết kỹ thuật của người kể chuyện bằng lời, với một số người ngồi quanh lắng nghe. Qua lối viết này, tôi có cảm tưởng TVK là người có tài kể chuyện, biết ngắt câu để tạo sự hồi hộp, biết cách viết câu kết ngắn gọn rất duyên dáng để tạo một cảm giác kết thúc thấm thía nơi người nghe. Và cũng từ các cố gắng của Trương Vĩnh Ký cùng với nhóm những người cộng tác với cụ, mà đã phát sinh một nền văn xuôi bằng quốc ngữ đầu tiên tại miền Nam, làm tiền đề cho cả nền văn học mới của toàn cõi Việt Nam trong thế kỷ 20. Muốn hiểu hiện tượng này, ta phải hình dung tình hình Việt Nam thời ấy. Từ đầu thế kỷ 17 (1600), cuộc phân tranh Bắc Nam giữa chúa Trịnh (miền Bắc) và chúa Nguyễn (miền Nam) chính thức nổ ra, miền Nam coi như độc lập với miền Bắc. Một chính quyền mới do chúa Nguyễn lập nên để cai quản từ sông Gianh trở vào Nam, gọi là Đàng Trong. Các chúa Nguyễn một mặt kháng cự với chúa Trịnh, và về sau với cả nhà Tây Sơn nữa, một mặt liên tục mở mang bờ cõi vào phía Nam. Sau suốt hai thế kỷ 17 và 18 nội chiến liên miên, ở phía Nam dân Việt Nam đã chiếm hết Thủy Chân Lạp của nước Cao Miên lập nên vùng Lục Tỉnh trên châu thổ của hai con sông Tiền và sông Hậu là hai nhánh của sông Mekong. Từ nhiều thế hệ, công việc của đám dân tiên phong này là luôn luôn phải lo chiếm đất, canh tác, kiếm sống để tạo nên một đời sống vật chất ổn định trên đất mới, có thể là êm đềm với sông nước và đồng ruộng mênh mông nhưng cũng đầy bất trắc hiểm nguy “hùm tha sấu bắt”. Cuộc sống trên đất mới là một cuộc phấn đấu không ngừng, phải vận dụng cả sức mạnh của tâm trí lẫn của bản năng để tồn tại và ổn định. Và cuối cùng Gia Long đã thống nhất đất nước và lên ngôi năm 1802, mở ra triều đại nhà Nguyễn cho đến năm 1945. Như vậy, sau hai thế kỷ chia rẽ bởi phân tranh và nội chiến, chúng ta có thể thấy với đám lưu dân định cư tại miền Nam, ảnh hưởng về mặt văn hóa từ miền Bắc hầu như không có gì, vì đã bị cắt đứt từ lâu. Ký ức về gốc gác của họ có khi trở nên rất mù mờ, đến nỗi trong dân gian miền Nam vào giữa thế kỷ 20 vẫn còn nghe câu nói này : “Người ngoài Huế không giống như người mình.” Người mình đây là dân Nam Kỳ, mới chỉ Huế mà họ đã coi là một nước khác rất xa xôi, nói gì đến Thăng Long, Hà Nội ! Lịch sử nội chiến đã biến những lưu dân miền Nam thành một tập thể độc lập, từ đó họ có tập quán riêng, nếp sống riêng, và nhất là ngôn ngữ riêng dù vẫn nói tiếng Việt. Và chính từ thứ tiếng Việt riêng của dân Nam Kỳ mà đã thành hình các câu văn xuôi đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, họ viết ra một cách tự nhiên như họ nói, chưa có và cũng không biết đến cái gọi là văn chương văn vẻ. Nhưng người miền Nam chính là những người Việt Nam đầu tiên sáng tác văn học bằng văn xuôi, hoàn toàn không bị ảnh hưởng của ngôn ngữ miền Bắc hay miền Trung, các cuốn tiểu thuyết đầu tiên đó có dấu ấn duy nhất là ngôn ngữ miền Nam, từ cuối thế kỷ 19 đến ngày nay dấu ấn ấy vẫn không phai mờ. Chúng ta hãy đọc một đoạn văn của Hồ Biểu Chánh trong truyện Con Nhà Nghèo, để thấy cái đặc trưng trong ngôn ngữ miền Nam : “Xóm Đập Ông Canh nằm dựa bên Gò Công qua Mỹ Tho, ngang qua ngã ba tẻ vô Ụ Giữa, bây giờ nhà chen rất đông đảo, cây đua mọc sum suê. Cái nhà việc cũ sùm sụp của làng hồi trước đã đổ bao giờ mà cất lại một toà nhà mới, nền cao khoảng khoát, nóc phơi đỏ lòm. Vài cái nhà lá tum hùm, cửa xịt xạc, vách tả tơi, hồi trước ở rải rác chung quanh đó cũng điêu tàn bao giờ mà nhường chỗ lại cho hơn chục cái nhà khác, tuy cũng lợp bằng lá dừa, song cột kê táng, vách đóng be, coi rất đẹp đẽ thơ thới”. (Người viết bài này nhấn mạnh bằng chữ đậm) Chúng ta có thể đi ngược thời gian tìm lại Trương Vĩnh Ký để thấy sự độc lập về ngôn ngữ ấy đã bắt đầu như thế nào. Tờ Thông Loại Khóa Trình là tờ báo đầu tiên do một ng |
Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2020
Trần Hữu Phúc Tiến: Petrus Trương Vĩnh Ký - người tiên phong sử dụng và truyền bá chữ Quốc ngữ với tấm lòng yêu nước, yêu dân
Cuộc đời Petrus Ký gắn liền với sự phát triển của chữ Quốc ngữ
Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2019
TS Trần Thanh Ái: Góp phần tìm hiểu Trương Vĩnh Ký
Các phê phán Trương Vĩnh Ký
Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2019
Nguyễn Văn Sâm: Trương Vĩnh Ký, người yêu nước
Lời Tòa Soạn.- Xin mời độc giả theo dõi bài dưới đây, đã được Giáo sư Nguyễn Văn Sâm trình bày trong buổi Hội Thảo và Triển Lãm về Trương Vĩnh Ký tổ chức tại báo Người Việt, Orange County Nam California vào ngày 8 tháng 12, 2018.DĐTK
![]() |
Giáo sư Nguyễn Văn Sâm |
Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2019
Thư ông Trương Vĩnh Ký gửi ông Đại biểu Nam Kỳ Blancsubé về việc từ chối vào quốc tịch Pháp
A. Ảnh chụp bức thư 18 trang viết tay của Trương Vĩnh Ký gửi ông Blancsubé
Thứ Tư, 28 tháng 8, 2019
Buổi ra mắt cuốn KỶ YẾU về Trương Vĩnh Ký
Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2019
Ts. Trần Thanh Ái: Tìm hiểu danh hiệu “Thế giới Thập bát Văn hào” của Trương Vĩnh Ký
Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2019
Phạm Phú Minh: Trương Vĩnh Ký từ chối vào quốc tịch Pháp
![]() |
Những dòng cuối bức thư Trương Vĩnh Ký từ chối vào quốc tịch Pháp |
Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2018
Bùi Vĩnh Phúc: Đọc Kiều của Trương Vĩnh Ký, nghĩ về ngôn ngữ Việt & một vài khía cạnh biến đổi ngữ âm, ngữ nghĩa trong tiếng Việt (Kỳ cuối)*
(Bài thuyết trình tại cuộc “Triển lãm và Hội thảo Tưởng niệm Trương Vĩnh Ký” tại nhật báo Người Việt, Westminster, Calif., USA, ngày 8 tháng 12, 2018)
(Tiếp theo và hết)
![]() |
Quyển ‘Kim, Vân, Kiều Truyện’ tái bản năm 1911, với nhiều hình minh họa Việt hóa các nhân vật trong truyện. |
*“Thoắt đâu thấy một tiểu kiều. Có chìu phong-vận, có chìu thanh-tân” (dị bản: có chiều). Trương Vĩnh Ký giải thích từ “Phong-vận” là xinh tốt , còn “Thanh-tân” là sạch sẽ. Trong quyển “Truyện Kiều” do Trần Nho Thìn chủ biên & Nguyễn Tuấn Cường khảo dị, chú thích, bình luận, ta thấy ghi:
Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2018
Bùi Vĩnh Phúc: Đọc Kiều của Trương Vĩnh Ký, nghĩ về ngôn ngữ Việt & một vài khía cạnh biến đổi ngữ âm, ngữ nghĩa trong tiếng Việt (*)
(Bài thuyết trình tại cuộc “Triển lãm và Hội thảo Tưởng niệm Trương Vĩnh Ký” tại nhật báo Người Việt, Westminster, Calif., USA, ngày 8 tháng 12, 2018)
![]() |
Giáo sư Bùi Vĩnh Phúc đang thuyết trình trong buổi hội thảo |