Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiêu Dao Bảo Cự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiêu Dao Bảo Cự. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Tư, 1 tháng 4, 2015
Tiêu Dao Bảo Cự - Tình hình Việt Nam hiện nay: Phải chăng “Nhân dân nào chính quyền ấy”?
Diễn tiến trong
thái độ của chính quyền đối với vụ tưởng niệm Gạc Ma 14/3 và việc thực hiện kế hoạch
chặt 6700 cây xanh ở thủ đô Hà Nội cho thấy hành động của nhân dân đã tác động
đến chính quyền.
Sau khi đám “dư
luận viên” phá rối vụ tưởng niệm Gạc Ma, khác với sự im lặng hay công khai hỗ
trợ hành động phá rối, lần này chính quyền đã lên tiếng phủ nhận việc tổ chức
và ủng hộ đám “dư luận viên” thô thiển, ngu ngốc gây phẫn nộ trong nhân dân;
thay vì gọi những người đến tưởng niệm là “bọn phản quốc” như các lần khác, đã
tôn vinh họ là “những người yêu nước”. Tương tự, sau việc chặt phá một số cây xanh, chính quyền đã lùi bước trước
phản ứng mạnh mẽ và tức thời của nhiều tầng lớp dân chúng trên đường phố và
trên mạng xã hội.
Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014
Tiêu Dao Bảo Cự - Một trải nghiệm về dạy và học môn Việt văn ở Miền Nam trước 1975
Tác giả bài viết này là “giáo sư Việt văn” bậc trung học ở Miền
Nam trước năm 1975 (các thầy cô giáo dạy trung học được gọi là giáo sư trung
học). Trong cuộc thảo luận về đề tài “Ngữ văn trong nhà trường” do Văn Việt nêu
ra, tôi thấy trải nghiệm dạy văn của mình có nhiều vấn đề liên quan đến các đề
tài được gợi ý trong cuộc thảo luận. Sau 1975 tôi không còn dạy học nên không
đủ thẩm quyền góp ý về việc dạy và học văn hiện nay nhưng tôi nghĩ những trải
nghiệm của mình trong nghề cũng là một cách so sánh, đối chiếu để góp phần soi
sáng thêm về một vấn đề chung mà Văn Việt đã nhấn mạnh tầm quan trọng là “có
tác động rất lớn đến tâm hồn con em chúng ta và tương lai văn học nước nhà”.
Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2014
Tiêu Dao Bảo Cự - Trách nhiệm của “những đảng viên cộng sản vì dân vì nước” đến đâu?
(qua Thư ngỏ ngày 28/7/2014 gởi Ban Chấp hành Trung ương
và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.)
Nhiều người có thể nhìn thấy Thư ngỏ ngày 28/7/2014 gởi
Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (sau
đây gọi tắt là Thư ngỏ) của 61 đảng viên là một bước ngoặt lớn
trong nội bộ những người cộng sản. Tiếp theo việc một số người tuyên bố từ bỏ
Đảng Cộng sản có tính lẻ tẻ, cá nhân và lời kêu gọi bỏ Đảng Cộng sản, thành lập
đảng mới của Lê Hiếu Đằng chưa được đáp ứng thì việc xuất hiện Thư ngỏ này quả
là một bước đột phá.
Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013
Tiêu Dao Bảo Cự - Góp phần giải mã hiện tượng Lê Hiếu Đằng
Tiêu Dao Bảo Cự
Thời gian gần đây có một số “hiện tượng” mang sắc thái chính trị đáng cho mọi người quan tâm: Huy Đức xuất bản cuốn sách “Bên thắng cuộc” bạch hóa một giai đoạn lịch sử Việt Nam, Nguyễn Đắc Kiên gay gắt phê phán trực tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng Sản, Nguyễn Phương Uyên tuyên bố quan điểm chính trị chống đảng trước tòa án, hoạt động của Mạng lưới blogger với Tuyên ngôn 258 tố cáo với thế giới điều luật phản dân chủ của luật hình sự… và gần đây nhất là hiện tượng Lê Hiếu Đằng. Những hiện tượng này không phải “đột xuất” mà có nhưng chính là sự tiếp nối của quá trình đấu tranh dân chủ hóa đất nước của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là trí thức, qua mấy thập niên và cũng ghi dấu mở đầu cho một giai đoạn mới, trong đó điều nổi bật là một số người đã vượt qua nỗi sợ hãi do chế độ độc tài toàn trị áp đặt nặng nề lên toàn xã hội, nói lên chính kiến của mình ngược với quan điểm chính thống của chế độ.
Cũng đã gần một tháng trôi qua từ khi Lê Hiếu Đằng công bố bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” (17/8/2013), dư luận phản hồi từ nhiều phía đã phân tích, ủng hộ, phê phán bài viết cũng như tác giả, lại một lần nữa làm lộ rõ các loại “ lập trường chính trị” trước hiện tình đất nước. Tuy nhiên trừ một số ít bài (như bài viết của Lữ Phương) nêu vấn đề một cách khách quan, sát thực tiễn, phần lớn các bài viết từ hai cực chính trị, tạm gọi là “chống cộng triệt để” và “cộng sản bảo thủ” đều không căn cứ vào bản chất của sự việc mà chỉ áp đặt cách suy luận và diễn dịch theo quan điểm chính trị của mình. Từ đó gán cho Lê Hiếu Đằng những gì ông không hề có như cò mồi lừa bịp của đảng, cơ hội chủ nghĩa… hay ngược lại như phản bội chống đảng, bị thế lực thù địch giật dây…
Thật đơn giản và rõ ràng khi người ta biết và chịu nhìn vào chính bản thân bài viết, ngay từ tựa đề “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”. Trong những ngày nằm bệnh Lê Hiếu Đằng có thời gian suy nghĩ để “tính sổ” đời mình, một việc quá tự nhiên và thông thường. Hồi tưởng về thời tuổi trẻ và quá trình cuộc sống, đấu tranh qua hai chế độ với những kỷ niệm và nhận thức qua mỗi thời kỳ, ray rứt về hiện tình đất nước dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản và một vài gợi ý để tìm lối thoát cho đất nước. Với ý tưởng chân thành, hành văn mộc mạc, đề cập nhiều vấn đề, đây là bài viết của một người đang nằm bệnh có tính cách tự sự chứ không phải chính luận hay cương lĩnh. Sao có thể đòi hỏi những gì không thể có qua một bài viết trong hoàn cảnh này.
Bài viết chứng tỏ tác giả là một con người có trải nghiệm thực tiễn, suy nghĩ tự do và tinh thần phản kháng. Mấy năm gần đây, Lê Hiếu Đằng nổi lên như một “nhân vật phản biện” với các bài viết, các cuộc trả lời phỏng vấn và cả việc tham gia biểu tình chống Trung Quốc xâm lược. Đối với những người có hiểu biết về ông, thực ra Lê Hiếu Đằng đã nổi tiếng phản biện từ nhiều năm trước trong các hoạt động ở guồng máy chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh (mà ông đã có nhắc tới vài việc trong bài viết “Suy nghĩ…”) và điều này cũng là sự tiếp diễn của tinh thần đấu tranh và ý thức dấn thân thời trai trẻ. Đó không gì khác hơn là lòng yêu nước, tinh thần phản kháng trước bất công áp bức của rất nhiều thế hệ người Việt Nam.
Bài viết của Lê Hiếu Đằng có nhiều chi tiết dễ gây tranh luận nhưng điểm nút tạo ra cơn sốt chính là lời kêu gọi tập thể từ bỏ đảng cộng sản và thành lập một đảng mới. Về đảng mới này ông chỉ viết “chẳng hạn như đảng Dân chủ Xã hội”. Rõ ràng đây chỉ là một gợi ý đầu tiên. Có thể sự gợi ý này bắt nguồn từ mấy nguyên nhân mà ông và bạn bè hay một số trí thức đã từng suy nghĩ : Đã từng có hai đảng Dân chủ và Xã hội hoạt động song song với đảng Cộng sản (cho dù chỉ là đảng cây cảnh); gốc gác của dân chủ xã hội cũng có chung cội nguồn với chủ nghĩa xã hội của cộng sản nên những đảng viên cộng sản dễ chấp nhận; sự ưu việt hiện nay của các chế độ dân chủ xã hội, đặc biệt ở các quốc gia Bắc Âu đã được thừa nhận và có sức thuyết phục đối với toàn thế giới. Chỉ là một gợi ý, làm sao có thể đòi hỏi ông phải nêu cương lĩnh của đảng hay định hướng gì khác trong một bài viết tự sự khi đang nằm bệnh. Ông cũng không khẳng định đây là đảng mới duy nhất mà chỉ là thí dụ cho sự đối lập chính trị để kềm chế sự độc tài toàn trị của đảng cộng sản.
Dĩ nhiên Lê Hiếu Đằng không còn ủng hộ đảng cộng sản khi ông kêu gọi từ bỏ đảng nhưng ông cũng không kêu gọi lật đổ đảng cộng sản. Đây không phải là thái độ lập lờ mà là căn cứ vào thực tiễn, không duy ý chí. Đảng CS còn tồn tại được bao lâu là điều không ai có thể nói trước chính xác nhưng thực tế là họ đang cầm quyền với một thế lực hùng mạnh, một bộ máy có mạng lưới rộng khắp, số đảng viên và những người ủng hộ chiếm thành phần không nhỏ trong dân số. Dĩ nhiên dù hùng mạnh tới đâu cũng có ngày sụp đổ như lịch sử của các đế quốc và các chế độ độc tài của loài người đã cho thấy. Giả thiết ngay cả khi đảng bị lật đổ, nghĩa là không còn nắm chính quyền, thì số đảng viên và những người ủng hộ họ vẫn còn đó như một thực thể chính trị. Trong công cuộc dân chủ hóa đất nước, thoát khỏi nạn độc tài toàn trị, như một ước mơ của đại bộ phận dân tộc, có nhiều cách nghĩ và phương thức để giải quyến nan đề này. Lê Hiếu Đằng chọn phương thức hình thành sức mạnh đối lập để chuyển hóa một cách hòa bình chứ không bạo loạn lật đổ. Không ai có thể đoan quyết phương thức nào là duy nhất đúng và lựa chọn là quyền của mỗi người. Nếu cùng một mục đích, các phương thức khác nhau có thể hỗ trợ cho nhau để tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Lê Hiếu Đằng chỉ gợi ý chứ không phải tuyện bố tự mình đứng ra thành lập đảng mới. Ông chưa chuẩn bị sẵn sàng cho điều này. Việc thành lập đảng mới chỉ có thể được thực hiện khi có rất nhiều người tán thành, liên lạc với nhau và cùng chung tay hành động. Thời gian sẽ trả lời cho điều này. Nếu việc này được thực hiện, hay sẽ gợi mở cho việc hình thành các tổ chức và hoạt động khác của xã hội dân sự, đây sẽ là một đóng góp đáng kể vào việc tạo nên sức mạnh đối lập với chế độ toàn trị.
Trong việc dân chủ hóa chế độ và dân chủ hóa đất nước, những người cộng sản cấp tiến có thể đóng một vai trò đáng kể. Tuy nhiên lại có người nói cộng sản không thể thay đổi, chỉ có thể xóa bỏ. Đây cũng là vấn đề cần thảo luận.
Trước đây khi những người cộng sản nói về cộng sản, người ta thường trích dẫn các “ông Tây cộng sản râu dài râu ngắn”. Bây giờ những người chống cộng lại trích dẫn các ông Tây khác, cộng sản cũng như không cộng sản. Các kiểu trích dẫn này thực chất cũng không khác mấy với các kiểu “Tử viết” (Khổng tử nói rằng) thời phong kiến, phần nào mang tính chất nô lệ về tư tưởng. Dĩ nhiên những tư tưởng lớn đáng cho mọi người suy gẫm nhưng không phải tất cả đều là chân lý phổ quát. Một tư tưởng cần hiểu trong bối cảnh của nó và khi áp dụng cần so sánh, đối chiếu với thực tiễn. Từ đó trở lại với câu hỏi cộng sản có thể thay đổi không?
Cộng sản từ Karl Marx đến Lenine, Staline, Khrutchov rồi Gorbachov, Eltsine có gì khác biệt và thay đổi? Cộng sản từ ước mơ thế giới đại đồng đến “chủ nghĩa xét lại hiện đại” rồi đế quốc cộng sản Nga, đế quốc cộng sản Tàu, chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc có gì thay đổi? Cộng sản Việt Nam từ kinh tế tập thể sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thay đổi không? Người vạch trần rõ ràng nhất “bản chất phản động” của chủ nghĩa cộng sản trong tác phẩm “Giai cấp mới” có phải là Milovan Djilas, một lãnh tụ cộng sản cấp cao, Phó tổng thống nước Nam Tư? Người góp phần quyết định làm sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới có phải là hai tay cộng sản gộc Gorbachov và Eltsine? Những công thần cộng sản kiên định như Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Hộ cuối đời đã khước từ chủ nghĩa cộng sản, những đảng viên cộng sản nhiệt thành cũ và mới đã quyết định từ bỏ đảng như Huỳnh Nhật Tấn, Huỳnh Nhật Hải, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Chí Đức có phải đã thay đổi? Đó là nói cộng sản một cách chung chung chứ đúng ra phải phân tích một cách rạch ròi về lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa cộng sản, chế độ cộng sản, đảng cộng sản, đảng viên cộng sản ở từng quốc gia, từng thời kỳ mới có thể kết luận cộng sản có thay đổi hay không.
Sự vật trên đời này chẳng có gì không thay đổi sao lại khẳng quyết cộng sản không thể thay đổi trong khi thực tế đã không là như thế. Xóa bỏ được cộng sản là điều tốt nhưng khi không hoặc chưa xóa bỏ được thì làm cho nó thay đổi hướng về điều thiện phải chăng là việc cũng nên làm? Đó không phải là thỏa hiệp với cái ác mà chính là hóa giải cái ác một cách hòa bình.
Vấn đề trung tâm của đất nước ta là dân chủ hóa, thoát khỏi độc tài toàn trị. Chế độ này do đảng cộng sản cai trị nhưng thực ra hiện nay chất cộng sản còn rất ít, chỉ là một bộ máy thống trị hà khắc của những kẻ nắm quyền lực muốn “muôn năm trường trị” để trục lợi cho cá nhân và phe nhóm. Những người nắm quyền lực thống trị kiểu này không phải chỉ có cộng sản. Các “lãnh tụ độc tài” ở các nước Bắc Phi và Trung Đông đã và đang bị lật đổ gần đây đều từng là anh hùng dân tộc được nhân dân ủng hộ và tôn vinh nhưng về sau trở thành tội đồ dân tộc. Có người đã nói đại ý khi quyền lực tuyệt đối, tha hóa cũng tuyệt đối. Và lòng tham của con người là vô đáy, bất kể cộng sản hay tư bản. Chuyện “lương khủng” (lương một năm của giám đốc bằng 83 năm của nhân viên bình thường) của mấy công ty nhà nước ở TP/HCM vừa được phát hiện gợi nhớ đến chuyện các ông trùm ngân hàng gây ra khủng hoảng kinh tế ở Mỹ mấy năm trước khi ngân hàng phá sản còn tự thưởng cho mình hàng triệu đô la. Một số công ty tư bản nước ngoài hối lộ cho quan chức Việt Nam để trúng thầu, các công ty khác trốn thuế, gây ô nhiễm mội trường để tăng lợi nhuận và một viên chức Tòa Lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn cũng nhận hối lộ hàng triệu đô la để cấp visa lậu vào nước Mỹ. Chế độ nào cũng có kẻ xấu.
Việc cần làm là xây dựng một chế độ chính trị pháp trị thực sự có cơ chế hãm để ngăn chặn lạm dụng và lòng tham cá nhân. Trên thế giới có nhiều mô hình nhưng không có mô hình nào là tuyệt đối hoàn hảo và còn cần phải phù hợp với đặc điểm riêng của từng dân tộc, không thể bắt chước một cách máy móc. Với Việt Nam để tiến đến đó sẽ phải qua những bước nào? Chuyển hóa, diễn biến hòa bình hay bạo loạn lật đổ? Cách mạng nhung, cách mạng hoa lài hay diễn biến từ thượng tầng? Có nhiều phương thức nhưng chắc chắn điều tốt nhất là không hay ít tốn xương máu, không gây nội chiến, không kéo dài thù hận. Lê Hiếu Đằng chọn điều này nên ông đã đưa ra gợi ý thành lập đảng mới để đối lập với đảng cộng sản. Dĩ nhiên việc này không phải là lối thoát duy nhất cho tình hình và chưa biết lúc nào có thể được thực hiện nhưng đó là một gợi ý tốt và khả thi, ít ra đối với những đảng viên cộng sản cấp tiến, khi họ có đủ nhiệt tình, dũng cảm và số đông cần thiết. Gợi ý này cũng có thể “kích hoạt” hình thành các tổ chức xã hội dân sự để từng bước xây dựng xã hội công dân có khả năng kháng cự lại những lạm dụng của nhà cầm quyền.
Trong ba bài viết của Nguyễn Minh Cần nhân chuyện Lê Hiếu Đằng (Chuyện dài ra đảng và đa đảng), tác giả có trích câu nói của Viện sĩ Andrei Sakharov khi trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài trong thời kỳ đen tối của phong trào dissident dưới chế độ toàn trị Liên Xô: “Giới trí thức biết làm gì? Họ chỉ biết làm một việc là xây dựng lý tưởng, cứ để cho mỗi người làm được điều gì anh ta có thể làm được”. Suy nghĩ một lúc, ông nói thêm: “Nên biết rằng những con chuột chũi đào hang ngầm dưới đất có thể làm sụp đổ những thành trì lịch sử”. Điều này có lẽ thật đúng cho Lê Hiếu Đằng và những trí thức có tâm huyết với đất nước như ông. Không thể đòi hỏi nhiều hơn vì chuyện đất nước là trách nhiệm của toàn xã hội, không của riêng ai.
Biến cố mới nhất (ngày 11/9/2013) là vụ Ông Đặng Ngọc Viết xông vào trụ sở Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Thái Bình dùng súng bắn vào 5 cán bộ Trung tâm Phát triển Quỹ đất, làm hai người chết, sau đó tự sát. Nguyên nhân là do việc thu hồi đất, giải tỏa, đền bù không được đáp ứng thỏa đáng. Đây là sự phản kháng quyết liệt trong bước đường cùng, gióng lên một hồi chuông báo tử cho chính nạn nhân và cả chính sách thất nhân tâm của nhà cầm quyền. (Trong cùng thời gian này, hàng ngàn thanh niên nam nữ háo hức mong đợi gặp “Trai đẹp Ả Rập bị trục xuất” và đã đội mưa hàng giờ liền dưới sân khấu ngoài trời để chờ xem chàng trai đẹp người mẫu này xuất hiện chừng 10 phút ướm thử chiếc áo???!!!)
Có lẽ đã đến lúc những người cộng sản phải nghĩ đến khẩu hiệu “thay đổi hay là chết”. Tuy nhiên người dân không chỉ trông chờ vào sự thay đổi tự thân của nhà cầm quyền mà người dân cũng phải “thay đổi hay là chết”. Nếu đại bộ phận nhân dân cứ thờ ơ, vô cảm hay cúi đầu chấp nhận những bất công áp bức đè lên số phận mình thì không ai có thể cứu được.
Đà lạt 15/9/2013
Tiêu Dao Bảo Cự
Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013
Tiêu Dao Bảo Cự - Sự đoàn kết hiệp đồng giữa các thế hệ trong cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước trên tầm chiến lược.
Tiêu Dao Bảo Cự
Sự khác biệt, mâu
thuẫn, xung đột giữa thế hệ già và trẻ là điều
bình thường trong các xã hội dân chủ. Tình trạng thế
hệ trẻ phục tùng thế hệ già chỉ là một dấu chỉ
của sự trì trệ, bảo thủ trong các chế độ phong kiến
và độc tài.
Việc lên tiếng của
Nguyễn Đắc Kiên trong bài viết “Trách nhiệm với chữ
ký” có phần phê phán thái độ của ông Nguyễn Đình
Lộc và cả ông Nguyễn Huệ Chi sau vụ ông Lộc “lên
Tivi” để nói về chuyện Kiến nghị 72 là một sự kiện
đáng chú ý, một dấu chỉ của xã hội dân chủ bắt
đầu trưởng thành. Chưa kể đến ý kiến của Nguyễn
Đắc Kiên phê phán Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, dẫn
đến phong trào Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do,
nằm trong sự đối lập giữa người dân với nhà cầm
quyền, việc sau này có thể nói diễn ra giữa những
người đấu tranh cho dân chủ.
Các thanh niên “thế
hệ chiến tranh”trước đây đã từng lên án những
người đi trước là để lại cho họ một gia tài rách
nát với chiến tranh tàn khốc, đất nước phân ly, tương
lai mù mịt. Thế hệ trẻ hiện nay cũng có thể oán trách
cha anh đã để lại cho họ một chế độ độc tài toàn
trị mà từ nhỏ đến lớn họ bị tuyên truyền nhồi
sọ, thui chột tinh thần sáng tạo và bị tước đoạt
nhiều quyền tự do đáng ra họ phải được hưởng từ
khi đất nước thống nhất. Có thể khi thế hệ này già
đi, họ lại bị thế hệ kế tiếp phê phán vì chưa làm
được gì nhiều cho tương lai và cũng để lại nhiều
gánh nặng. Tất cả đều trải qua tuổi trẻ, tuổi già
và nằm trong “gọng kềm lịch sử”.
Khi tuổi già đến,
mọi người sẽ ngẫm nghĩ nhiều về quá khứ nhưng khi
còn tuổi trẻ, hầu như chẳng ai bận tâm suy xét gì
nhiều chuyện đã qua. Thế mạnh của tuổi trẻ là nhiệt
huyết, trong sáng, dũng cảm, dám nghĩ dám làm. Thế mạnh
của tuổi già là từng trải, khôn ngoan, trầm tĩnh và
kinh nghiệm trong xử sự, giải quyết tình huống. Nhược
điểm của tuổi trẻ là nông nổi, thiếu kinh nghiệm, dễ
chán nản. Nhược điểm của tuổi già là bảo thủ, ích
kỷ, hèn nhát. Những điều chung này ai cũng biết và dĩ
nhiên có ngoại lệ cho cả già lẫn trẻ. Thời hiện đại
với cuộc cách mạng về công nghệ thông tin đã tạo ra
một tình thế mới cho việc tiếp cận thông tin, tri thức
và giao tiếp xã hội, trong đó người trẻ nhanh nhậy và
có khả năng tiếp thu, sử dụng nhanh hơn người lớn
tuổi.
Trong tình hình hiện
nay, việc đấu tranh dân chủ hóa đất nước bắt đầu
từ những người lớn tuổi và những năm gần đây có
sự tiếp sức của những người trẻ, càng ngày càng trẻ
hơn. Sự hợp tác giữa các thế hệ là điều đáng mừng
vì công cuộc khó khăn gai góc này đòi hỏi sức mạnh
đoàn kết của toàn dân tộc nhưng cũng sẽ phát sinh
những vấn đề cần có sự giải quyết khôn ngoan, hợp
lý mà ý kiến của Nguyễn Đắc Kiên trong vụ việc nói
trên và vô số bình luận trái chiều nhau trên mạng đã
trở thành sự kiện cho nhiều người suy ngẫm.
Ý kiến của Nguyễn
Đắc Kiên rất thẳng thắn, buộc những người lớn
trong cuộc và mọi người nói chung phải suy nghĩ. Nhưng
nếu những điều Kiên đề nghị được thực hiện (ấn
định thời gian lấy chữ ký, lập đoàn đại biểu, yêu
cầu chính quyền công khai trao đổi tranh luận) được
thực hiện thì tình hình sẽ đi đến đâu? Nếu nhà cầm
quyền vẫn lờ đi như lâu nay thì công việc tiếp theo sẽ
là gì, hay cũng là những vụ việc phản ứng theo tình
thế mà phía những người đấu tranh cho dân chủ chỉ
chạy theo chứ không hề chủ động.
Một số người đã
nói đến sự cần thiết của một chiến lược dài hạn
cho cuộc đấu tranh nhưng cho đến nay ai đã làm được
việc đó, với lộ trình rõ rệt, có chỗ cho mọi người
trong cuộc đấu tranh? Thực tế có thể cũng đã có
người, tổ chức đề ra được chiến lược như thế
nhưng chưa tạo ra được sự chú ý hay đồng thuận trong
đa số, trước hết là những người đấu tranh cho dân
chủ vì nhiều lý do. Một trong những lý do là nhiều
người bị hút vào những vụ việc có tính cách thời
sự, gây chấn động, đôi khi nhỏ nhặt, mà quên đi
chuyện đường dài. Mặt khác sự chia rẽ, óc kỳ thị,
tính hẹp hòi, bảo thủ, kể cả sự kiêu ngạo vô lối
đã làm cho người ta không những không chịu thừa nhận
nhau mà còn kích bác, đả phá nhau. Trong khi đó những
người cầm quyền của chế độ toàn trị lại có sẵn
chiến lược dài hạn và những sách lược ngắn hạn,
trung hạn để đối phó với sự nổi dậy của người
dân. Việc sửa đổi Hiến pháp hiện nay là điều đã
được chuẩn bị kỹ càng tuy họ vẫn bị bất ngờ
trước một số phản ứng của người dân.
Thành phần thức tỉnh
để đấu tranh cho dân chủ hiện nay là ai, chiếm bao
nhiêu phần trăm dân số? Nổi bật là trí thức, văn nghệ
sĩ, cựu đảng viên – quan chức và những người trẻ
chiếm bao nhiêu phần trăm trong tầng lớp của họ? Chưa
có sự thống kê chính thức nhưng nhìn thực tế e rằng
còn quá ít. Và lực lượng đông đảo ủng hộ họ để
khi cần có thể trở thành sức mạnh vật chất trong cuộc
đấu tranh là ai, hàng ngàn, hàng vạn hay hàng triệu
người, trên những địa bàn chiến lược nào? Chưa ai có
hiểu biết cặn kẽ hoặc có thẩm quyền, ngoài những
phỏng đoán mà phần lớn là chủ quan duy ý chí như đã
từng được thực tiễn trắc nghiệm, để có thể khẳng
định điều này. Chính vì thế cuộc đấu tranh hiện nay
vẫn là một cuộc đấu chưa cân sức.
Tình hình như thế
đòi hỏi một cuộc tổng duyệt và tập họp mọi thành
phần có khả năng ủng hộ dân chủ để chuyển hóa chế
độ độc tài toàn trị. Các thành phần này có quá khứ
khác nhau, lợi ích cục bộ khác nhau, cách suy nghĩ và ứng
xử khác nhau nhưng có cùng chung khát vọng tự do dân chủ
và ước mơ đất nước hòa bình, phát triển. Tất cả
sẽ tập hợp thành lực lượng, sức mạnh đích thực
của dân tộc.
Thành phần, cá nhân
nào cũng có nhược điểm nhất định. Nếu cứ vì nhược
điểm mà tấn công lẫn nhau thay vì tấn công đối
phương, chưa kể đến một số người chỉ chuyên “chưởi
cho sướng miệng” bất chấp lợi ích chung hoặc với
mục đích gây chia rẽ, thì chuyện thành công chỉ là
“nhiệm vụ bất khả thi”. Nếu ta đặt mình vào vị
trí của người khác ta sẽ hành xử như thế nào trong
tình huống đó hay cũng chỉ như thế và có khi còn tệ
hơn. Một chút thiện vẫn hơn một chút ác, dĩ nhiên hơn
toàn ác.
Cuộc tranh đấu hiện
nay rõ ràng là chưa cân sức trong toàn cảnh mâu thuẫn
lớn nhất của thời đại giữa nhân dân bị trị và chế
độ độc tài toàn trị. Trong ngắn hạn và trung hạn,
lực lượng dân chủ có thể vẫn còn ở trong thế yếu
nhưng dài hạn, nếu biết dựa vào và khơi dậy sức mạnh
của dân tộc, chắc chắn lực lượng dân chủ sẽ chiếm
thượng phong và giành chiến thắng vì nhân dân không thể
chấp nhận mãi sự đày đọa của một thiểu số độc
tài. Trong viễn cảnh đó, sự đoàn kết hiệp đồng
chiến đấu giữa các thế hệ để đấu tranh hiện nay
nhất định cần một cương lĩnh có tầm chiến lược,
trong đó có chỗ và cơ hội hành động cho mọi người
khao khát tự do dân chủ, kể cả lối thoát cho những
người cộng sản và đảng cộng sản để tránh một bi
kịch lịch sử tiếp theo, chắc chắn sẽ có rất nhiều
hận thù, máu và nước mắt.
28/3/2013
Tiêu Dao Bảo Cự
Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013
Tiêu Dao Bảo Cự - Suy nghĩ về việc kiến tạo sức mạnh dân tộc để dân chủ hóa đất nước
Tiêu Dao Bảo Cự
(Từ hiện tượng Nguyễn Đắc Kiên và Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do)
Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Đắc Kiên có thể được xem như một hiện tượng. Bài viết ngắn gọn của anh thẳng như một mũi lao phóng trúng đích. Rõ ràng, chính xác, cương quyết, không ai có thể hiểu lầm hay diễn giải khác. Nó cũng thể hiện phẩm chất của một con người sáng suốt, rạch ròi, dũng cảm, biết và dám phản kháng. Bài viết như đúc kết ước mong, khát vọng của rất nhiều người mà từ trước đến nay chưa ai có thể diễn đạt rõ ràng hơn.
Đây là thế mạnh của một người trẻ tuổi, dù anh đã 30, không còn trẻ lắm. Lịch sử Việt Nam nếu kể từ truyền thuyết Thánh Gióng “lên ba chưa biết nói biết cười” trở thành dũng sĩ phá giặc, đến Trần Quốc Toản 16 tuổi “bóp nát quả cam lúc nào không biết”, cho đến các chàng trai, cô gái 18-20 các giai đoạn sau này, không ít người đã làm những chuyện “kinh thiên động địa” ngay từ khi còn rất trẻ. Tuy nhiên nhìn vào phong trào vận động dân chủ hóa đất nước hiện nay mà phần lớn những người tham gia đều ở độ tuổi trung niên, sắp già hay thậm chí rất già thì Nguyễn Đắc Kiên vẫn còn khá trẻ. Và ở độ tuổi này anh đã có sự chín chắn cần thiết khi tung ra một ngón đòn ngoạn mục cùng với những cách ứng xử, quan điểm được bộc lộ tiếp theo sau đó.
Đề nghị của anh về việc bỏ cụm từ “sát cánh bên nhà báo Nguyễn Đắc Kiên” trong Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do là một sự tế nhị, khiêm tốn và khôn ngoan. Các ý kiến tiếp theo trong lá thư ngỏ và bài viết của anh về tha thứ và hòa giải, phản động, chưa kể những gì thể hiện trong tập thơ “Những số không vòng trắng” với cách cảm nhận đau đớn về dân tộc và phận người của một tâm hồn thi sĩ, cho thấy anh đã dành nhiều thời gian suy niệm về những vấn đề lớn của đất nước.
![]() |
Nguyễn Đắc Kiên |
Hầu như ngay lập tức sau khi bài viết của anh được tung ra, một số blogger trẻ đã hình thành Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do, dùng ngay chính nội dung bài viết của anh để tập hợp những người ủng hộ. Trong thời gian vài ngày đã có vài ngàn người hưởng ứng. Bản thân tôi cũng đã ký tên vào Lời Tuyên Bố. Có thể nó sẽ theo kịp hoặc vượt qua con số hưởng ứng cũng rất nhanh chóng đối với Kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992 (gọi tắt là Kiến Nghị 72 vì có 72 người ký đầu tiên) cũng mới được tung ra không lâu do các trí thức, văn nghệ sĩ và cựu quan chức chủ xướng.
Lời Tuyên Bố có nội dung mạnh mẽ hơn, người ký vào có thể “gặp nguy hiểm” nhiều hơn, vì nó công khai bác bỏ toàn bộ nền tảng của chế độ chính trị hiện hành và tốc độ gia tăng của số người hưởng ứng cho thấy một khía cạnh mới của tình hình. Ấy là sự chán ngán và thất vọng cùng cực đối với chế độ toàn trị lâu nay và thái độ dứt khoát muốn thay đổi từ cơ bản, gốc rễ. Điều này là một bằng chứng hiển nhiên, một sự mô tả bằng giấy trắng mực đen không ai có thể chối bỏ.
Đây là một hiện tượng bất ngờ, xuất hiện ngay sau ý kiến của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi nói về việc góp ý sửa đổi Hiến pháp. Sự hớ hênh hay hoảng hốt (?!) của Tổng bí thư, cùng với sự chỉ đạo tuyên truyền rập khuôn cho toàn hệ thống, là cái cớ, cơ hội ngàn vàng cho sự phản ứng bùng phát. Có thể về sau, khi lịch sử trải qua nhiều đổi thay, người ta sẽ phải nghiền ngẫm trở lại “cú đột phá” này. Nó không giống cách mạng màu, cách mạng nhung hay cách mạng hoa hồng, hoa lài… mà nó là “đặc thù Việt Nam”. Còn quá sớm để nói đến những gì tiếp theo nhưng nhất định sự việc này sẽ trở thành một dấu mốc.
Quan điểm của Nguyễn Đắc Kiên và những người ủng hộ có thể xem là tiên phong nhất trong các quan điểm về vấn đề dân chủ hóa đất nước, nhưng chắc chắn chỉ lực lượng này không thể làm nên sự thay đổi mà cần phải có sức mạnh của toàn dân tộc. Bởi so với các chế độ độc tài toàn trị đã có ở các nước trên thế giới, dù là quân chủ, quân phiệt, phát xít, phân biệt chủng tộc hay cộng sản, thì có lẽ chưa có chế độ toàn trị nào khôn ngoan đáo để và thích ứng nhanh nhạy như chế độ cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, dân tộc Việt Nam đã trải qua hai cuộc chiến tranh, với tâm lý cầu sinh, cầu an, cam phận, nếu không nói là khiếp nhược và tâm lý hưởng thụ, đã làm cho phong trào dân chủ hóa đất nước gặp vô vàn khó khăn sau gần bốn thập niên từ khi đất nước thống nhất.
Muốn thay đổi chế độ toàn trị này nhất định phải có sức mạnh tiên tiến và tổng hợp của toàn dân tộc, bao gồm tất cả mọi lực lượng, bất kể quá khứ như thế nào, trong hay ngoài nước, nhất là trong nước, phải có sự đoàn kết và thống nhất về mục tiêu chung trước mắt và lâu dài.
Một số lực lượng lâu nay đã từng bước lộ diện: trí thức, văn nghệ sĩ, blogger, sinh viên, đảng viên, nông dân (đặc biệt là dân oan), công nhân, các tôn giáo… Trong từng thành phần mới chỉ có một bộ phận nhỏ tiên phong nhưng cũng đã bộc lộ những khác biệt về quan điểm và bị chia cắt nên chưa tạo nên sức mạnh.
Đặc biệt đối với các đảng viên, họ phải hứng chịu nhiều lời phê phán: nào hưởng thụ đầy đủ mọi quyền lợi rồi, bây giờ về hưu mới nói; nào bản chất cộng sản không thể nào thay đổi, làm gì có người cộng sản chân chính… Có thể những phê phán này đúng trong một chừng mực nào đó nhưng không phải vì thế mà không thấy được vai trò rất tích cực của các đảng viên này trong cuộc đại đoàn kết trên tiến trình dân chủ hóa.
Có “người cộng sản chân chính” hay không chỉ là một cách nói, một vấn đề ngôn từ dù có phân tích chi ly đến cùng. Nếu trong thực tế có những người như thế (do người khác nói hay họ tự nhận), nghĩa là có một số phẩm chất tốt, dù hiểu theo nghĩa phẩm chất con người hay phẩm chất cộng sản, và họ đóng góp cho công cuộc chuyển hóa đất nước thì cớ sao lại không hoan nghênh? Chưa kể ngay đối với những người cộng sản không phải là “cộng sản chân chính” cũng phải có phương cách hóa giải, nếu không, 4 triệu đảng viên cộng sản và hàng chục triệu người liên quan, gắn bó với họ sẽ ở đâu trong tiến trình này? Đặt họ vào vị trí đối địch trong một cuộc nội chiến và khi thắng lợi sẽ tiêu diệt, bỏ tù, hay buộc họ vượt biên… để lại lặp lại cái vòng lẩn quẩn của dân tộc trong mấy chục năm qua?! Chỉ mường tượng ra như vậy để thấy rằng không thể cực đoan một chiều.
Cũng không nên dồn ai vào chân tường bằng thuần lý thuyết, rằng anh phải trả thẻ đảng, phải ăn năn hối hận, phải từ bỏ mọi bổng lộc đang được hưởng mới xứng đáng đứng vào hàng ngũ dân chủ (!). Cần quan niệm như thế nào để đừng làm yếu đi thế lực của dân tộc và tăng thêm sức mạnh cho quyền lực độc tài, khi quyền lực này còn viện tới cả “cái sổ hưu” để củng cố lực lượng. Vả lại ngay đối với những người phê phán, ở trong nước có ai đã và đang không dính líu ít nhiều đến guồng máy toàn trị vì guồng máy này đang bao trùm toàn xã hội? Cho nên tôi rất tán đồng việc Nguyễn Đắc Kiên nói về tha thứ và hòa giải. Theo tôi, trước đó còn cần có sự bao dung, không cực đoan, khắc nghiệt hay hận thù. Bao dung trong quan điểm về những vấn đề lịch sử, bao dung khi xử lý những vấn đề hiện tại và tương lai, bao dung với con người đã từng có lỗi lầm.
Tiến trình dân chủ hóa đất nước không cho phép độc quyền chân lý. Hô hào đa nguyên thì đừng bao giờ nói theo kiểu “ai không theo ta là sai lầm, chống ta”. Về những sự kiện lịch sử đã kết thúc mà vẫn còn tranh cãi, bất đồng, làm sao trong tiến trình mò mẫm tìm đường lại có thể độc quyền chân lý hay kích bác nhau?! Lời Tuyên Bố Công Dân Tự Do phủ định việc sửa chữa Hiến pháp nhưng không phải vì thế mà đối nghịch với Kiến nghị 72 về góp ý sửa đổi Hiến pháp hay các loại ý kiến tìm đường khác. Mỗi cách làm có tác dụng riêng, tập hợp lực lượng riêng và góp phần nâng cao dân trí, đóng góp vào chuyển động chung gây sức ép lên chế độ toàn trị, ngoại trừ những hình thức giả mà mục đích là để củng cố chứ không phải chuyển hóa chế độ này.
Cũng như không nên chỉ lớn tiếng chê trách thanh niên sinh viên hiện nay là ích kỷ, thờ ơ, vô cảm, vô trách nhiệm đối với vận nước. Có thể có tình hình này so với các thế hệ dấn thân trước đây, nhưng thanh niên chính là sản phẩm của xã hội, của chế độ, của truyền thống, của nền giáo dục, trong đó có trách nhiệm của những người đi trước. Thế hệ nào cũng có những anh hùng, những người đi tiên phong và thế hệ trẻ hiện nay cũng đã có những người như thế xuất hiện.
Cuộc dấn thân hôm nay là sự đồng hành của nhiều thế hệ, thế hệ trẻ hiện nay và những thế hệ dấn thân trước đây còn tồn tại, cùng thức tỉnh và hỗ trợ nhau bằng thế mạnh riêng của mình, trong một giai đoạn đầy khó khăn gai góc. Các phẩm chất yêu nước, trong sáng, nồng nhiệt, phản kháng, khao khát tự do dân chủ và hòa bình là phẩm chất tinh hoa của nhiều thế hệ cần được khôi phục và phát huy hơn bao giờ hết để kiến tạo sức mạnh mới của dân tộc trên con đường dân chủ hóa đất nước.
Đà Lạt 3/3/2013
T.D.B.C.
Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013
Tiêu Dao Bảo Cự - Đọc “Bên thắng cuộc” để tìm sự đồng thuận cho hiện tại và tương lai
Tiêu Dao Bảo Cự
Cuốn sách Bên thắng cuộc của tác giả Huy Đức vừa mới ra đời đã tạo thành một hiện tượng, nhiều người tìm đọc, giới thiệu cho nhau, ngợi ca và phê phán. Một cơn sốt trong dư luận như thế này là điều hiếm có từ một cuốn sách khá khô khan.
Về bản thân cuốn sách Bên thắng cuộc
Nội dung của Bên thắng cuộc không phải là vấn đề mới. Lịch sử Việt Nam sau 1975, ai đã từng trưởng thành trong giai đoạn này mà không sống trải, chiêm nghiệm hay nghe, biết ít nhiều về những gì đang trào sôi trên đất nước và ảnh hưởng đến từng số phận con người. Cái mới ở chỗ tác giả đã tập trung vào một số chủ đề nổi cộm với cách trình bày sáng sủa, đầy ắp tư liệu để cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể, sinh động và liên tục.
Có người nói cuốn sách không trình bày được toàn bộ sự thật về giai đoạn lịch sử này. Điều ấy tất nhiên và đòi hỏi đó là một yêu cầu vô lý. Ai, cuốn sách nào có thể trình bày được như thế? Không ai cả, nếu không phải là hàng trăm cuốn sách và một độ lùi lịch sử vài ba chục năm nếu tình hình thuận lợi, không còn độc đảng toàn trị, độc quyền viết lịch sử.
Có người ở ngành lịch sử trong nước than: ước gì chúng tôi có thể có tư liệu và tự do để viết như Huy Đức, một người làm báo. Người viết sử chính thức trong hệ thống chỉ được phép sử dụng tư liệu chính thống và viết theo quan điểm chính thống. Làm sao có sự thật lịch sử.
Có người còn nói về thể loại, cho rằng Bên thắng cuộc không phải là sách lịch sử, không có giá trị. Sao lại phải gọt chân cho vừa giày? Thiếu gì sách lịch sử “đúng kiểu” mà lại chẳng có bao nhiêu lịch sử trong đó. Tác phẩm làm ra các thể loại chứ không phải thể loại làm ra tác phẩm. Điều này đúng không phải chỉ cho lịch sử mà còn trong văn học nghệ thuật. Thí dụ có nên tranh cãi tiểu thuyết và truyện ngắn cần phải có cốt truyện hay không. Đơn giản là cuốn Bên thắng cuộc viết về đất nước thời kỳ sau 1975 và giá trị của nó ở chỗ mang lại điều gì có ích cho người đọc.
Bên thắng cuộc có nhiều điều mới và không mới, đúng và không đúng, đối với người này người khác. Chuyện “tuẫn tiết”, tù cải tạo, vượt biên, không thể nào Huy Đức biết được nhiều, đầy đủ và thấm thía bằng những người trong cuộc, nhất là khi nhiều người trong số họ sau khi ra nước ngoài đã viết bút ký, hồi ký về chuyện của mình và những người đồng cảnh. Cũng những chuyện đó và nhiều chuyện khác, thế mạnh của Huy Đức là người có hiểu biết, có tư liệu đặc biệt của bên thắng cuộc mà nhiều vấn đề đến nay vẫn chưa được phổ biến công khai. Những cuộc phỏng vấn, chuyện trò cá nhân, các hoàn cảnh và tâm tình riêng tư của giới lãnh đạo được đưa vào không phải là những “chuyện vặt vãnh” mà chính là giúp soi rọi thêm tình hình, vì lịch sử không chỉ là những sự kiện khô khan, những con số, ngày tháng, chủ trương chính sách mà do con người cụ thể tác động, nhất là những người nắm quyền lực.
Có những vấn đề tuy đã chú ý tập trung nhưng Huy Đức cũng không thể nào giới thiệu đầy đủ như chuyện “cởi” và trói” thời Nguyễn Văn Linh, chỉ riêng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật và báo chí. Tác giả đã không đề cập cơn sóng phản kháng đòi tự do dân chủ cuồn cuộn trong giới văn nghệ và báo chí ở nhiều tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên, Miền Nam, kể cả trong một số báo Đảng và những hệ lụy sau đó. Đây chỉ là một nhận xét, dĩ nhiên không thể đòi hỏi quá nhiều ở tác giả trong một cuốn sách viết toàn diện về một thời kỳ dài phức tạp như thế.
Giá trị nội dung của bản thân Bên thắng cuộc, chính là lịch sử, hay hoàn cảnh đất nước từ sau 1975, được tái hiện một cách công phu, tập trung, với tư liệu phong phú, có thể tin cậy, một cách tương đối khách quan, bằng bút pháp trong sáng của một nhà báo có tâm, có nghề, được chuẩn bị một cách có ý thức và khoa học qua nhiều năm tháng, với ý chí và ý định rõ rệt muốn mang lại sự thực cho một giai đoạn lịch sử hiện tại, đáng lý rõ rệt thì lại quá mù mờ.
Các nguồn tư liệu riêng và chung phong phú, với hàng nghìn chú thích nghiêm túc (cuốn I có 608 chú thích, cuốn II có 654 chú thích), không chỉ về những vấn đề sau 1975 mà còn ngược về quá khứ nhiều năm trong những sự kiện liên quan, cho thấy sự làm việc cẩn trọng, cần mẫn của tác giả. Có thể đã có những sai sót đây đó nhưng có lẽ do vô tình chứ không phải cố ý của tác giả.
Vì mục đích nói về bên thắng cuộc nên những tư liệu đưa ra cũng chủ yếu của bên này. Có những tư liệu chứng tỏ sự dối trá rõ rệt và đó là dối trá của nhà cầm quyền chứ không phải là dối trá của người trích dẫn, như ta có thể thấy khi tác giả đưa ra những tư liệu trái ngược chung quanh chuyện cải tạo. Thí dụ một trích dẫn trên báo Tin Sáng mô tả “không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại hè” trước khi giới thiệu một lá thư của người chồng là sĩ quan đang cải tạo gởi cho vợ. Người đọc có thể thấy dụng ý mỉa mai của tác giả chứ không phải đồng tình khi cố ý đưa ra trích dẫn đó một cách khách quan và đặt trong bối cảnh bi đát của toàn bộ chuyện cải tạo.
Những cách đọc Bên thắng cuộc
Bên thắng cuộc chắc chắn là một cuốn sách đáng để đọc, nội dung của nó không tranh luận, tranh cãi với ai nhưng vừa mới ra mắt đã tạo nên nhiều dư luận ngược chiều, tranh luận, tranh cãi đến mức cực đoan và chắc chắn chuyện này còn tiếp diễn. Đây là hiệu ứng thành công và đáng mừng của một tác phẩm.
Trừ một số bài viết dù ở bên này hay bên kia, có nhận định một cách khách quan, phần lớn các bài viết chống cuốn sách ở cả hai phía thắng và thua cuộc (kể cả việc biểu tình chống dù chưa đọc sách), đều chứng tỏ “hội chứng chính nghĩa” của cuộc chiến trước đây đến nay vẫn chưa chấm dứt mà còn tiếp diễn một cách gay gắt khi sự ra đời của cuốn sách kích động lên.
Dĩ nhiên có một số sự kiện lịch sử trước và sau 1975 vẫn chưa được soi sáng đầy đủ và chưa có nhận định thống nhất từ nhiều phía do tính chất mù mờ phức tạp của lịch sử và quan điểm, chính kiến của người trong cuộc. Tuy nhiên tâm trạng rõ rệt của những người chống cuốn sách vẫn là phe ta, đường lối chính sách của phe ta có chính nghĩa, ai nói khác đi đều là thứ phản bội, tội đồ của dân tộc. Chính điều này đã góp phần làm lịch sử “giẫm chân tại chỗ” khi đáng lý phải vùng vẫy thoát ra khỏi vũng bùn của máu và nước mắt.
Về tựa đề Bên thắng cuộc và tên hai phần của cuốn sách (Giải phóng và Quyền bính), có lẽ tác giả Huy Đức đã nghiền ngẫm sâu xa và sự lựa chọn có sức gợi nhiều ý nghĩa.
Bên thắng cuộc vì sau 1975 đất nước thuộc về bên thắng cuộc, bên phải chịu tránh nhiệm trước dân tộc và lịch sử, hiện tại và mai sau. Tác giả là người đã trưởng thành, làm việc và chiêm nghiệm trong bộ máy cai trị, có cái nhìn cận cảnh từ bên trong, hi vọng có thể đưa ra một tiếng nói về sự thật, khác với tiếng loa đồng ca một chiều đinh tai nhức óc như hình chụp dùng làm bìa cho tác phẩm.
Giải phóng nhưng những điều diễn ra sau đó với cải tạo, vượt biên, đánh tư sản, ngăn sông cấm chợ… lại không hề mang ý nghĩa giải phóng. Ngược lại thực tế đã chứng minh nhân dân Miền Nam và cả nước lại đi vào vòng trói buộc, vào cảnh trì trệ thay vì cất cánh như đáng ra phải có sau khi đã “thống nhất đất nước, quy giang sơn về một mối”. Chưa kể đến gợi ý trong lời mở đầu của tác giả, đây là Miền Bắc giải phóng Miền Nam hay ngược lại.
Quyền bính bộc lộ bản chất của một tập đoàn khi đã nắm được quyền lực cai trị. Trình độ kém cỏi trong xây dựng đất nước thời bình, bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí và kiêu ngạo cộng sản; sự quyết đoán của những cá nhân lãnh đạo không đủ tầm và tâm; các cuộc đấu đá nội bộ để tranh giành quyền lực; “lỗi hệ thống” mang tính bao trùm mà những cá nhân dù có thiện chí và ý chí cũng không sao xoay chuyển…
Trong Quyền bính không phải không có những điều tích cực nói về những người lãnh đạo và những người cộng sản. Sinh ra và trưởng thành trong nô lệ và chiến tranh, nhiều người không được học hành. Họ thường xuất thân là nông dân nghèo, làm thuê, ở đợ rồi “tham gia cách mạng”. Không được học hành không phải lỗi ở họ. Tuy nhiên sau đó họ đã học trong trường đời và đấu tranh cách mạng, với ý chí kiên cường, chịu đựng gian khổ và chấp nhận hi sinh lớn lao. Khi ở vai trò lãnh đạo, nhiều người cũng đã hết sức ưu tư về tình hình đất nước, khiêm tốn học hỏi, lắng nghe các trí thức chuyên gia để tìm ra những quyết sách đúng. Tác giả cũng đã không giấu thiện cảm đối với một số người, đặc biệt đối với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Đội ngũ các chuyên gia và các trí thức tham mưu cũng đã ra sức tìm tòi cái mới của thời đại, học hỏi các nước láng giềng và phương Tây, tham mưu cho lãnh đạo thoát khỏi bế tắc. Nổi bật là vấn đề kinh tế thị trường, cho dù vẫn còn “cái đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa”, sử dụng công nghệ thông tin tiên tiến, đa phương hóa, từng bước đi vào hội nhập toàn cầu. Kết quả dù quá chậm nhưng đất nước đã không rơi vào vực thẳm.
Tuy nhiên mọi cố gắng đó đều chỉ đạt thành tựu rất thấp, không tương xứng với năng lực của một dân tộc không kém cần cù và thông minh so với bất cứ dân tộc nào khác, sau khi đất nước đã thống nhất. Nguyên nhân chính là “lỗi hệ thống”, bắt nguồn từ sự độc tài đảng trị, bám chặt giáo điều cổ hủ vì sợ “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và sự vận hành của guồng máy đã đè bẹp mọi cá nhân có ý muốn cưỡng lại, cho dù họ ở cấp cao nhất như Võ Văn Kiệt, Trần Xuân Bách, Trần Độ…
Bên cạnh đó, vì liên minh ý thức hệ và muốn có chỗ dựa để giữ vững độc quyền lãnh đạo, những người cộng sản cầm quyền đã lọt vào gọng kềm của Trung Quốc, trở thành một mối họa lớn cho dân tộc. Đảng Cộng sản rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, loay hoay giữa hai nguy cơ “mất nước hay mất Đảng”.
Tác giả Bên thắng cuộc không minh nhiên nói ra những điều trên nhưng qua những gì được trình bày một cách khách quan, chi tiết, cả chiều rộng và chiều sâu, người đọc có thể cảm nhận rất rõ thông điệp nào đã được gởi đi từ cuốn sách.
Cho dù những điều trên là đúng như thế, tác giả có phải là một kẻ nói xấu Đảng, phản bội đất nước như một số báo chí trong nước quy chụp, hay là một tên cộng sản tay sai tuyên truyền cho Nghị quyết 36 như một số người ở hải ngoại quy kết? Thật nực cười khi có hai kết luận trái ngược nhau như thế về cùng một cuốn sách và một tác giả.
Lịch sử đã qua và đang đi qua từng ngày. Phải nhận rõ quá khứ nhưng càng phải thấy rõ hơn bước đi cho hiện tại và tương lai. Hận thù hay kiêu căng về quá khứ để tranh phần chính nghĩa không ích lợi gì cho số phận và tương lai dân tộc. Thực tế lịch sử, những người cộng sản đã là bên thắng cuộc và cũng thực tế họ đang đưa đất nước vào nguy cơ. Vấn đề là phải làm gì có hiệu quả để giải quyết nguy cơ trước mắt và kiến tạo tương lai chứ không phải nguyền rủa nhau. Đọc Bên thắng cuộc chính là cơ hội để mọi người nhìn lại toàn bộ tình hình một cách tỉnh táo.
Trong những ngày tháng gần đây không ít người thuộc nhiều thành phần, trước hết là trí thức và đảng viên có lương tri thực sự lo cho dân tộc đã đặt ra những vấn đề cấp thiết, đặc biệt mới nhất trong Lời kêu gọi thực thi quyền con người và Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992: Dân chủ hóa đất nước, chống độc tài đảng trị, giải quyết nguyên nhân của mọi nguyên nhân đưa đến tham nhũng, kinh tế suy thoái, văn hóa, đạo đức xã hội trên đà băng hoại, trước mắt cấp bách là chống Trung Quốc xâm lược.
Đây là nhiệm vụ của toàn dân tộc không trừ bất kỳ ai, kể cả Đảng Cộng sản cầm quyền nếu Đảng muốn còn tồn tại dù có cầm quyền hay không. Ai phá hoại nhiệm vụ này mới là kẻ phản bội tổ quốc.
Đà Lạt 31/1/2013
Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2012
Tiêu Dao Bảo Cự - Những hoài niệm và niềm hứng khởi của tự do
(Trích từ cuốn Mảnh Trời Xanh Trên Thung Lũng)
Tiêu Dao Bảo Cự
(Tiếp theo)
10* Tin ở con người
Mẹ Đan Tâm đang ở với các em của Đan Tâm bị bệnh nặng. Đan Tâm đi thăm và đánh điện cho người anh, Phạm Ngọc Lân, đang ở nước ngoài về thăm. Anh Lân lập tức đi làm thủ tục mua vé máy bay và điện hẹn ngày về. Đan Tâm thu xếp đi Sài gòn để đón anh. Đây là một biến cố trong cuộc sống tình cảm của Đan Tâm vì giữa Đan Tâm và anh Lân có sự gắn bó đặc biệt hơn đối với các anh em khác trong gia đình.
Đan Tâm có rất nhiều anh chị em. Lân là anh đầu, Đan Tâm thứ nhì và sau đó là một lô lốc em út. Anh Lân thông minh, học giỏi, từ nhỏ đã được học trường Tây, lớn lên về Sài Gòn học đại học Dược khoa. Anh làm việc gì cũng say mê và đạt đến trình độ cao. Anh chơi bóng bàn, bóng chuyền thuộc loại xuất sắc và đặc biệt say mê âm nhạc. Anh đã từng đi trình diễn guitar cổ điển ở nhiều nơi và chơi được nhiều loại nhạc cụ dân tộc. Tốt nghiệp Dược khoa, anh bị động viên đi làm dược sĩ quân y. Sau đó giảng dạy tại Đại học Dược khoa. Sau 75 anh bị đi cải tạo một thời gian rồi được về dạy lại ở Đại học Y dược Sài gòn. Vài năm sau, bằng con đường chính thức, anh xuất ngoại đi Pháp cùng vợ con, cho đến nay đã hơn 10 năm.
Đan Tâm thân với anh Lân vì hai anh em gần tuổi nhau và là con lớn trong gia đình nên thường gần gũi chuyện trò. Thửơ nhỏ Đan Tâm rất khổ vì là chị gái đầu phải lo chăm sóc cho một lũ em út lóc nhóc sinh năm một. Thương em khổ nên khi anh Lân về Sài gòn học đại học đã xin bố mẹ cho Đan Tâm cùng đi, đưa Đan Tâm vào học và ở nội trú một trường của các bà xơ. Anh Lân vừa đi học vừa đi làm để nuôi em, hàng tuần vào ký túc xá đón em ra đi chơi nên tình cảm hai anh em rất thân thiết. Trong quyết định Đan Tâm bỏ lại Sài gòn tất cả để đi cùng tôi có phần do anh Lân lấy vợ nên Đan Tâm càng cảm thấy cô đơn vì trong gia đình chỉ có hai anh em hiểu nhau.
Tôi biết anh Lân từ hồi mới quen Đan Tâm nhưng không có tình cảm hay quan hệ đặc biệt gì đối với anh vì chúng tôi khác nhau quá nhiều, lại ít gặp gỡ vì ở hai nơi khác nhau. Hình như hồi đó anh không quan tâm gì đến chính trị. Lúc anh cùng gia đình xuất ngoại, tôi đang là một cán bộ đảng viên Cộng sản nên tôi có ý nghĩ không tốt về anh. Tôi cho rằng đáng ra anh nên ở lại xây dựng đất nước Tôi không hiểu được hoàn cảnh sống, làm việc và suy nghĩ của anh lúc đó. Như đối với nhiều người khác đã ra đi, tôi cho họ không phải là những người yêu nước và đã không chịu đựng được gian khổ. Tôi không hiểu hết họ đã bị đày đọa như thế nào và họ không thấy được tương lai của bản thân và gia đình trong một chế độ mà họ đã là kẻ chiến bại và mọi chuyện đều căn cứ trên lý lịch.
Ngày anh Lân đi tôi không muốn Đan Tâm đưa tiễn và khuyên Đan Tâm sau đó không nên quan hệ thư từ gì với anh. Đan Tâm rất buồn về việc này. Trong hơn 10 năm, dù anh Lân vẫn có liên lạc với bố mẹ nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt của chúng tôi, Đan Tâm không trực tiếp liên lạc tuy vẫn biết tin tức về anh .
Mấy năm gần đây, do một dịp tình cờ, Đan Tâm bắt đầu thư từ với anh và tôi không ngăn cản nữa. Tuy nhiên việc liên lạc chỉ thuần túy tình cảm anh em và chúng tôi vẫn không hiểu rõ anh đã làm gì trong thời gian sống ở nước ngoài. Mới đây trong hoạt động giao lưu bài viết và các tài liệu, thông tin giữa những người bất đồng chính kiến trong nước, tôi nhận được vài tờ báo Việt ngữ ở nước ngoài, trong đó có tờ Thông Luận do anh Lân làm chủ nhiệm. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là anh Lân viết nhiều bài khá sắc sảo dù trước đây anh không hề viết văn viết báo. Quan điểm của anh và nhóm bạn bè làm tờ báo là chống cộng nhưng không cực đoan và chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc, muốn góp phần xây dựng đất nước trong một thể chế dân chủ. Tôi bắt đầu có nhìn nhận đánh gía về anh khác hơn trước.
Thời gian này, do nhiều nguồn, nhóm chúng tôi ở Đà Lạt cũng đọc nhiều báo chí Việt ngữ của Việt kiều ở các nước. Chúng tôi dần dần có hiểu biết về sinh hoạt chính trị và quan điểm tư tưởng của người Việt ở hải ngoại mà trước đây chúng tôi không biết và cũng không hề quan tâm. Chúng tôi hiểu thêm những khổ đau và oán hận mà họ đã sống trải khi chịu sự đày đọa của người chiến bại, lúc vượt biển muôn trùng hiểm nguy khổ nhục và những ngày tháng đầu chông chênh sống ở xứ lạ quê người. Chúng tôi hiểu dù sao đi nữa, lòng họ vẫn hướng vọng về tổ quốc. Tuy nhiên sinh hoạt chính trị và quan điểm của họ rất phức tạp. Họ có nhiều tổ chức và xu hướng khác nhau, đối lập nhau, từ chống cộng cực đoan cho đến hòa giải hòa hợp, dân chủ đa nguyên và cả cộng tác với chính quyền trong nước . Lực lượng của họ bị phân tán, chia rẽ nhưng điều quan trọng là họ được tự do làm báo chí, hoạt động chính trị và công khai bày tỏ lập trường quan điểm của mình. Chúng tôi có thể tán thành hay không tán thành quan điểm của họ nhưng tôi nghĩ nếu có được sự đối thoại giữa họ với chúng tôi và cả những người cầm quyền hiện nay có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề, vơi bớt đi lòng thù hận, định kiến và có thể cùng nhau góp sức xây dựng đất nước. Tuy nhiên hiện nay, đối với nhà cầm quyền, tất cả báo chí hải ngoại đều là tài liệu phản động, các tổ chức chính trị Việt kiều đều có mưu đồ lật đổ chế độ. Ngay cả các bài viết của chúng tôi cũng bị coi là nằm trong âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch.
Đan Tâm về đón anh tại sân bay Tân Sơn Nhất. Lần đầu gặp lại sau hơn 10 năm xa cách, hai anh em đều khóc. Anh Lân kể khi máy bay mới vào không phận Việt Nam, nhìn xuống mảnh đất quê hương, tự dưng anh trào nước mắt. Tôi không ngờ anh cũng đa cảm như thế.
Sau khi hai anh em thăm mẹ xong và bệnh mẹ cũng đã thuyên giảm, Đan Tâm đưa anh Lân lên Đà Lạt thăm tôi. Tôi thấy anh vẫn giản dị như xưa và phong cách không có vẻ gì là Việt kiều như một số người khác. Anh ở lại nhà tôi hai ngày và chúng tôi đã nói chuyện nhiều. Ở bên đó anh cũng đã nghe về vụ tôi bị kỷ luật cách chức, khai trừ đảng nhưng không rõ lắm. Anh muốn đọc các tác phẩm, bài viết của tôi. Tôi đưa và anh chỉ kịp xem lướt qua vì thời gian ở đây quá ít.
Anh cũng muốn gặp các bạn bè đồng quan điểm của tôi ở Đà Lạt. Chúng tôi tổ chức một bữa ăn thân mật ở nhà tôi để mọi người gặp gỡ nói chuyện. Anh Lân trình bày rõ hơn về các tổ chức và hoạt động của người Việt ở hải ngoại và lập trường của nhóm bạn anh đang làm tờ báo. Về chuyện xung đột giữa các phe nhóm, tổ chức ở nước ngoài anh nói mấy năm trước rất gay gắt, ngay chính bản thân anh và một số người trong nhóm cũng bị nhóm khác hành hung bằng vũ lực vì bị cho là thân cộng. Tuy nhiên theo anh hiện nay các tổ chức đã bớt phân biệt kình chống nhau và xu hướng chung là đoàn kết, hòa giải với nhau trước khi đặt vấn đề đấu tranh cho dân chủ và hòa giải hòa hợp với các lực lượng và chính quyền trong nước. Đó là một hiện tượng đáng mừng.
Anh Lân cũng chăm chú lắng nghe chúng tôi nói về tình hình trong nước. Có nhiều việc anh cho khác hẳn với nhận định của người ở ngoài vì họ thiếu thông tin nên nhận định không chính xác. Mọi người đều cởi mở trong buổi nói chuyện dù đây là buổi đầu gặp mặt. Chẳng ai có thành kiến gì và đều là những người tự do tư tưởng. Hơn nữa buổi nói chuyện chỉ có tính cách trao đổi thông tin.
Anh Lân nói tuy anh là chủ nhiệm của tờ báo nhưng anh không phải là người chủ chốt của nhóm vì thực ra anh không phải là người hoạt động chính trị chuyên nghiệp mà chỉ là người có điều kiện tương đối thuận lợi trong việc thực hiện tờ báo. Chức vụ chủ nhiệm cũng sẽ được thay đổi luân phiên trong nhóm. Ra nước ngoài anh không hành nghề y khoa nữa mà chuyển sang học và làm vi tính cho một công ty thương mại. Nhóm của anh gồm hầu hết là trí thức đồng quan điểm đã tập hợp nhau lại để làm một cái gì cho đất nước và việc đầu tiên họ chọn làm là thực hiện tờ báo, trước hết để thông tin và thống nhất nhận thức trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Họ làm việc hoàn toàn tự nguyện, không những không có lợi ích kinh tế mà còn phải đóng góp tiền bạc để duy trì tờ báo. Người chủ chốt của nhóm là Nguyễn Gia Kiểng, một lý thuyết gia và là một cây bút chính luận sắc sảo.
Anh về đây mới biết chuyện tiểu luận "Dắt tay nhau..." của Hà Sĩ Phu được lưu hành và phê phán nặng nề từ mấy năm qua. Anh cũng đề nghị mang đi tác phẩm tiểu thuyết mới hoàn tất của tôi và một số bài viết khác để nếu thuận lợi anh sẽ giúp công bố ở hải ngoại.
Trước khi trở lại Pháp, anh Lân về Sài Gòn một thời gian ngắn để thăm một số bạn bè và nơi chốn cũ của mình ngày trước. Đan Tâm bận dạy học nên tôi cùng đi với anh. Chúng tôi ở nhà của một người bạn của tôi vì anh Lân không muốn ở khách sạn vừa tốn kém vừa có vẻ xa lạ. Chúng tôi mượn hai chiếc xe đạp và đi khắp Sài gòn. Anh Lân tìm thăm lại nhà cũ ở xa lộ, quang cảnh đổi khác nhiều nhưng một vài người hàng xóm ngày trước vẫn còn nhớ anh. Trường Đại học Y khoa còn thay đổi nhiều hơn, anh hỏi mãi mới gặp được một vài đồng nghiệp cùng thời ngày xưa. Ký túc xá anh ở thời sinh viên do một nhà dòng của các cha tổ chức đã trở thành tòa soạn của một tờ báo. Chúng tôi cũng đi ăn những món ăn bình dân mang hương vị quê hương. Sau thời gian mở cửa mấy năm, quán xá loại này mở ra rất nhiều, đủ mọi loại đặc sản của các miền trên đất nước. Thăm thú thành phố, anh Lân thừa nhận thành phố đã thay đổi và tiến bộ nhiều so với thời kỳ anh ra đi tuy nhiên còn nhiều mặt vẫn còn trì trệ như các vấn đề an sinh xã hội và đặc biệt là quyền tự do dân chủ của người dân. Anh ghi nhận tất cả một cách trung thực và dự định sẽ viết một bút ký về chuyến trở về quê hương này.
Anh cũng đi thăm giáo sư Nguyễn Ngọc Lan là người mấy năm nay rất nổi tiếng ở hải ngoại về chuyện ông bị quản thúc và mấy tập nhật ký của ông được xuất bản. Anh Lân cũng đã từng viết bài giới thiệu cuốn sách của ông. Hai người nói chuyện với nhau rất tương đắc. Vì chuyến anh về nước này bất ngờ, anh chỉ xin nghỉ được hai tuần, không có nhiều thời gian đi thăm viếng gặp gỡ nhiều người, anh rất tiếc nhưng đành phải ra đi. Anh hi vọng lại có nhiều dịp khác trở về vì thấy tình hình chung hiện nay có vẻ thuận lợi.
Anh Lân đi rồi. Đan Tâm và tôi lại nói chuyện nhiều về anh. Đan Tâm nhắc lại kỷ niệm cũ và vui mừng thấy anh vẫn như xưa và tình cảm anh em lại càng thêm thân thiết sau thời gian dài xa cách. Từ khi biết anh Lân có tham gia hoạt động chính trị, báo chí ở hải ngoại, đọc một số bài viết của anh và qua trực tiếp chuyện trò, tôi thấy anh có quan điểm chính trị rõ ràng và rất muốn góp phần xây dựng đất nước.
Tôi nghĩ trước tiên phải tin ở điều thiện của con người, kế đến là đối thoại, cảm thông, hòa giải. Nếu có mâu thuẫn, cần thiết phải đấu tranh nhưng đấu tranh bằng những phương tiện hòa bình, tuyệt đối không gây thêm thù hận và đổ máu. Oán thù và máu xương đã quá đủ cho một dân tộc Việt Nam trong nửa thế kỷ tương tranh khốc liệt và đến nay dân tộc vẫn còn chịu hậu quả trong từng ngày.
12* Đà Lạt 100 năm , tản mạn về cái đẹp và nỗi đau
Thời gian gần đây, dân Đà Lạt xôn xao vì mấy chuyện mới xảy ra.
Đầu tiên là chuyện mà nhóm bạn của tôi gọi là chuyện "con chim Lâm Cẩu". Lâm Cẩu là tên một đại gia người Hoa ở Sài Gòn mới nổi lên. Ông ta có lối làm ăn ma mãnh đã thu hút được số tiền gởi tiết kiệm khá lớn của nhiều người nhờ cho lãi suất cao. Sau một thời gian thấy ở Sài Gòn khó phát triển, ông ta mò lên Đà Lạt. Ông đã tiếp cận những người lãnh đạo ở đây một cách khá nhanh chóng và dễ dàng bởi nhiều mánh lới có lợi cho cả đôi nên. Ông muốn được ưu tiên mua một số nhà đất ở xứ du lịch này để kinh doanh, bù lại ngoài quà cáp cho những người có trách nhiệm, ông tự nguyện bỏ tiền túi ra làm lại một đoạn vỉa hè quanh hồ Xuân Hương và xây dựng một tượng đài ở bùng binh trước chợ Hòa Bình để kỷ niệm.
Từ xưa, giữa bùng binh này đơn giản chỉ là một hồ nước hình tròn có vòi phun. Tuy vậy nó rất hài hòa với cảnh quan chung quanh bởi vì nó tiếp liền với mặt hồ và ở cuối dốc của con đường chạy lên khu Hòa Bình là khu thương mại trên cao. Vị trí này không thể xây một cái gì cao được.
Thế nhưng đại gia Lâm Cẩu nghĩ khác. Ông muốn để lại một dấu ấn văn hóa trên mảnh đất thơ mộng này để người ta còn nhớ mãi đến ông. Ông thuê một nhà điêu khắc thiết kế mẫu tượng đài. Chỉ trong một tuần lễ trước Tết, người ta đã đập phá hồ nước cũ và cấp tốc xây lên một cái gọi là tượng đài nghệ thuật mới. Dân Đà Lạt và du khách ngỡ ngàng trước công trình chào mừng Tết Nguyên đán này. Đó là một cái gì hình như bắt chước tháp Eiffel, thấp lè tè với chân như chân lư hương, trên đỉnh có một quả địa cầu với con chim bồ câu tung cánh nhưng nặng nề bay lên không muốn nổi.
Có lẽ ý tưởng sáng tạo của nhà điêu khắc không phải tồi. Đà Lạt được xưng tụng là Petit Paris. Bồ câu và địa cầu tượng trưng cho khát vọng hòa bình. Nhưng vấn đề là cách thể hiện. Tôi cũng như nhiều người dân bình thường, không có trình độ thẩm mỹ cao và hiểu biết nhiều về điêu khắc và kiến trúc nhưng với cảm nhận đơn giản nhất cũng thấy rằng công trình này không có chi là thẩm mỹ. Người ta ồn ào lên bàn tán. Mai Thái Lĩnh cho rằng một công trình như thế này đáng ra phải có trong kế hoạch của Hội Đồng Nhân Dân Thành phố và mẫu tượng đài phải được tổ chức thi và đưa ra cho công chúng tham khảo góp ý kiến trước khi quyết định. Làm tượng đài nghệ thuật tiêu biểu cho một thành phố nhất là thành phố du lịch nổi tiếng như Đà Lạt không phải là chuyện đùa. Có người tức giận còn bảo cần phải đập ngay vì nếu để lâu sẽ xấu mặt cho Đà Lạt và sau này khó đập.
Đang lúc dư luận bàn tán thì đại gia Lâm Cẩu vỡ nợ ở Sài Gòn. Ông ta bị phá sản, nợ của dân một số tiền lớn nên bị bắt giữ để điều tra chờ ngày ra tòa. Trong một phiên tòa khi bị thẩm vấn, ông ta tuyên bố một câu xanh rờn "Bà con yên chí, còn một cái quần đùi tôi cũng trả cho bà con". Thật ngán ngẫm. Dân Sài Gòn không ai muốn lấy quần đùi của ông làm gì nhưng dân Đà Lạt vẫn còn được hưởng "Con chim Lâm Cẩu" treo lủng lẳng trước bùng binh.
Chuyện "Con chim Lâm Cẩu" vừa lắng xuống, lại nổi lên chuyện bán đồi Cù. Ai cũng biết đồi Cù và hồ Xuân Hương nằm ngay giữa trung tâm của thành phố đã làm nên một nửa vẻ đẹp của Đà Lạt. Đó là ba dãy đồi thoai thoải tiếp nối song song với hồ. Trên đồi, thông còn lại thành từng cụm xanh mát xen kẽ với những vùng không cây thoáng đãng. Mặt đồi phủ một lớp cỏ tự nhiên mượt mà, chỗ màu xanh, nơi tim tím. Không có gì tuyệt vời bằng một ngày nắng ấm đi dạo trên đồi rồi ngả mình trên thảm cỏ, nheo mắt nhìn nắng lấp lánh sau tàn cây và nghe gío thổi vi vu trong không gian lồng lộng. Về mùa khô, Đà Lạt cũng khá nắng, nhưng dưới bầu trời xanh biếc và tàn lá nhỏ reo vui này, tất cả đều dịu lại, cho ta một sự bình an và thư giãn tuyệt vời.
Gọi là đồi Cù vì đây là sân chơi cù được xây dựng từ thời Pháp thuộc nhưng không biết từ bao lâu, cách đây gần 30 năm lần đầu tôi đến Đà Lạt, không thấy người ta chơi cù nữa. Đồi Cù mặc nhiên trở thành một công viên gần như tự nhiên giữa lòng thành phố. Dân Đà Lạt và du khách đã từng đến đây có lẽ hiếm ai không lên đồi Cù chơi một lần. Bởi vì nó gần và quyến rũ quá. Từ chợ Hòa Bình, chỉ ba bước là đã đặt chân lên đồi, hưởng một không khí trong lành và dịu mát hoàn toàn khác. Ba ngọn đồi quá rộng nên dù có lúc đông người cũng không ai quấy nhiễu ai. Bạn có thể ngồi dựa gốc cây đọc sách trong khi một nhóm du khách đi bộ hay vài người khác ngồi trên lưng ngựa lửng thửng dạo qua. Ngay cả mấy đàn bò thỉnh thoảng đi ngang tìm cỏ cũng không quấy nhiễu bạn lắm.
Đây là một tặng phẩm vô gía trời ban cho, nơi mà bác sĩ Yersin, người phát hiện ra Đà Lạt đã sửng sốt khi vượt qua ngọn núi cao, nhìn thấy mấy dẫy đồi xanh biếc rập rờn như sóng biển, ông đã chạy ào xuống như một cậu bé học sinh. Đối với tôi và chắc cũng như nhiều người khác, đồi Cù là nơi có biết bao kỷ niệm. Đã ở đây, đã tới đây, làm sao ta lại bỏ lỡ cơ hội cầm tay người yêu dạo trên bãi cỏ non mênh mông để nói những lời tình tự. Dù không nói, thì cây cỏ, gió nắng, nhạc thông cũng đã nói hộ ta rồi. Và những đứa bé chạy tung tăng ngã nhoài trên thảm cỏ êm không chút e ngại trước đôi mắt hạnh phúc và bình an của bố mẹ, lớn lên chắc không thể nào quên được nơi chốn này.
Tôi gọi đồi Cù là một mảnh thiên đường tự do. Nhưng nay mảnh thiên đường đó đã bị đem bán cho nước ngoài. Tôi và người dân chỉ đơn giản nói đồi Cù bị đem bán chứ không cần biết nói theo ngôn ngữ kinh tế chính danh của nhà nước là liên doanh khai thác hay cho thuê dài hạn gì gì đó. Bởi sau khi bị đem bán, đồi Cù đã bị máy đến san ủi tanh bành lở lói và sau đó được rào lại để trồng cỏ mới. Việc rào đồi Cù đã gây nên một cú sốc trong dư luận bởi nơi chốn thơ mộng tự do cho mọi người đã trở thành vùng cấm. Dư luận của người dân và báo chí nhiều nơi khác lên tiếng phê phán kịch liệt việc này vì đây là một sự xâm phạm quá trắng trợn gây nên thương tổn nặng nề trong lòng người. Nhà nước ra sức tuyên truyền đồi Cù sẽ được xây dựng lại đẹp hơn, văn minh hơn, là một niềm tự hào của thành phố vì sẽ trở thành một trong những sân golf hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế đẹp nhất Đông Nam Á. Dĩ nhiên với hàng triệu đô la của công ty nước ngoài, người ta có thể xây dựng sân golf này "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" nhưng tiếc thay đó không còn là đồi Cù cũ, là công viên thơ mộng, là mảnh thiên đường tự do cho mọi người. Sắp tới, sau khi hoàn thành, những người như tôi và đại đa số nhân dân Đà Lạt, nhân dân Việt Nam trong vòng mấy mươi năm nữa chắc sẽ không được đặt chân đến sân golf này vì làm sao chúng tôi có được mấy chục ngàn đôla để gia nhập làm hội viên câu lạc bộ golf tầm cỡ quốc tế này.
Tôi và nhiều người khác không phản đối việc xây dựng sân golf dù suốt đời chúng tôi không hề nghĩ đến trò chơi trưởng gỉa này. Nhưng Đà Lạt thiếu gì đất, đồi ở ngoại ô để xây dựng sân golf khi người ta bỏ ra hàng triệu đô la, việc gì phải bán "mảnh đất hương hỏa " quý gía do cha ông để lại, như nhiều người đã nói. Khách chơi golf đều là những kẻ giàu có đi xe hơi và máy bay thì việc đi xa vài cây số để chơi có thành vấn đề gì. Thời gian này, dân Đà Lạt càng căm phẫn khi người ta ủi đất làm lấp một phần hồ Xuân Hương, đường sá quanh hồ dơ bẩn, phần lớn các đường khác trong thành phố đều đầy ổ gà ổ voi. Không biết tiền thu được do việc bán đồi Cù chính quyền đã dùng vào việc gì mà người dân không thấy mình được hưởng chút nào như vẫn nghe ra rả tuyên truyền. Ấy thế mà một gã phóng viên bồi bút nào đó khi làm một thiên phóng sự trên truyền hình ca ngợi sân golf dám viết chẳng bao lâu trẻ con Việt Nam sẽ chơi golf như chơi bi, chơi đáo. Tôi đã không nhịn được chửi thề khi nghe lời tuyên truyền sống sượng ngu dốt hết cỡ này.
Dù sao thời kỳ đổi mới mở cửa cũng mang lại một cái gì mới mẻ. Trong dịp kỷ niệm 100 năm thành phố Đà Lạt, người ta tổ chức nhiều hoạt động hội hè rầm rộ. "Ông Tây thực dân" Yersin, người đã có công phát hiện ra Đà Lạt, làm nó trở thành một thành phố du lịch nghỉ dưỡng, được dè dặt ca ngợi. Con đường mang tên ông ngày xưa đã bị bỏ nay được khôi phục. Trong bầu không khí đó, tôi hoàn chỉnh và bổ sung bài bút ký tựa đề "Đà Lạt 100 năm, tản mạn về cái đẹp và nỗi đau" mà tôi đã thai ngén rất lâu. Trong phần kết, tôi đưa ra hình ảnh những viền xi măng chung quanh các cây dọc hồ Xuân Hương đã nứt vỡ để nói rằng đó là quy luật tất yếu và đất nước cần những người lãnh đạo ngang tầm với nhân dân và thời đại. Tôi cũng nói rằng đất nước và nhân dân cần thêm một cuộc cách mạng, nhiều cuộc cách mạng nữa chứ không phải " đấu tranh này là trận cuối cùng" như lời bài Quốc tế ca.
14* " Dắt tay nhau đi..."
Bài tiểu luận "Dắt tay nhau đi..." của Hà Sĩ Phu lần đầu tiên được công bố ở một tờ báo nước ngoài sau 5 năm xuất hiện và bị phê phán kịch liệt ở trong nước dù thời gian đất nước mở cửa cũng đã khá lâu.
Mở cửa là một cách tự cứu vì trong nhà bưng bít đã quá ngột ngạt làm chính người chủ trương đóng cửa cũng muốn tắt thở nhưng mở toang ra gió mạnh ập vào, ánh sáng chói chang làm người ta hoảng sợ, lại còn ngại "gió độc" nên vội vàng khép lại, chỉ mở he hé . Đó là tâm trạng và cách làm của những người đang cầm quyền.
Đối với văn nghệ sĩ, trí thức khi bắt đầu chủ trương đổi mới, lãnh tụ hô hào "cởi trói", một cách nói rất hình tượng và cũng hết sức dũng cảm vì như thế mặc nhiên thừa nhận văn nghệ sĩ trước đây bị trói. Ngay văn nghệ sĩ cũng có người thú nhận là khi mới được cởi trói, lóng ngóng không biết làm gì vì như gà công nghiệp quen ở mãi trong chuồng, bây giờ được ra cũng không biết đi đâu. Những câu nói hình tượng trên đây quả đã thể hiện được nỗi đau, nỗi nhục của một tầng lớp được mệnh danh là tinh hoa của dân tộc sống trong một chế độ tự cho là dân chủ gấp triệu lần chế độ tư bản. Ấy thế mà "cởi trói" chưa được bao lâu, các con gà quen dần với tự do, không những không muốn ở trong chuồng mà còn muốn phá rào ra cả bên ngoài. Người ra lệnh cởi trói lại ra lệnh trói lại. Thật đáng buồn cho những người lãnh đạo và tội nghiệp cho văn nghệ sĩ trí thức.
Tuy nhiên, không phải mọi văn nghệ sĩ, trí thức đều là gà công nghiệp. Một số người không bị điều kiện hóa dù cũng ở trong chuồng và đối với họ tự do tư tưởng quý như mạng sống. Mấy người bạn của tôi ở đây như Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Mai Thái Lĩnh là vài người trong số những người đó. Tôi may mắn được kết bạn với họ. Và tuy ở một xứ sương mù lạnh lẽo, mỗi lần gặp nhau nói chuyện, chúng tôi đều cảm thấy ấm áp vì ngọn lửa hừng hực trong mỗi người và trong câu chuyện luôn nồng nàn khát vọng tự do.
Hà Sĩ Phu lớn hơn tôi 5 tuổi nhưng trông anh già hơn tôi nhiều mặc dù tôi có vẻ ốm yếu. Tôi cao gầy trong khi anh thấp lùn, người đầy đặn. Anh để râu dài lơ thơ kiểu ông lão Việt Nam, tóc và râu ria đều điểm bạc. Bàn tay anh nhỏ nhắn mềm mại đặc trưng của thư sinh hay dân phòng thí nghiệm. Tay anh thường hơi run có lẽ là một triệu chứng bệnh nhưng anh viết chữ Hán rất bay bướm. Hà Sĩ Phu nói năng nhỏ nhẹ, cử chỉ từ tốn hoàn toàn trái ngược với phong cách quyết liệt và triệt để trong các bài viết của anh.
Khi lần đầu cầm tờ báo nước ngoài đăng bài " Dắt tay nhau đi..." anh rất cảm động, tay run run lật tới lật lui mấy trang viết và lẩm bẩm : "Chỉ có những người thật tâm huyết mới làm được việc này". Anh cũng rất phấn khởi khi biết bài viết của anh có tiếng vang rất lớn ở hải ngoại. Nhiều báo đã đăng lại bài viết đó và thư của các độc gỉa từ nhiều nước gởi về cho các tòa soạn để bày tỏ sự tán thành và ngưỡng mộ đối với tác gỉa ngày càng nhiều. Độc gỉa cũng đã trực tiếp gởi thư cho anh vì dưới bài viết anh có ghi rõ tên thật và địa chỉ.
Bài viết ngắn ngủi của Hà Sĩ Phu đã gây tiếng vang và dư luận mạnh mẽ trong và ngoài nước vì anh đã phân tích một cách khoa học, rạch ròi thực tiễn lịch sử của một đất nước và cả hệ thống xã hội chủ nghĩa chiếm phân nửa thế giới, điều nhiều người đã nhận ra nhưng chưa ai nói một cách rõ ràng và triệt để như anh, hơn nữa anh nói với tư cách công dân của một đất nước đã trải nghiệm đau thương thời kỳ lịch sử đó. Sự lên tiếng của anh chắc chắn sẽ bắt anh phải trả gía đắt vì nó chống lại hệ tư tưởng chính thống và có thể làm chao đảo vai trò thống trị của những người cầm quyền hiện nay.
Anh đặt vấn đề rất đơn giản khi trước tiên nêu ra nghịch lý về những gía trị mà chế độ xã hội chủ nghĩa muốn xây dựng và đã thu được kết quả ngược lại như dân chủ và phản dân chủ, sự thật và dối trá, duy vật và duy ý chí, giải phóng con người và xâm phạm nhân quyền, tính tập thể và sùng bái cá nhân, vai trò của trí thức và sự thui chột tiềm năng sáng tạo, so sánh năng suất lao động giữa các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản...
Anh cho rằng nguồn gốc của mọi nghịch lý trên đây bắt nguồn trước hết từ quan điểm đấu tranh giai cấp. "Sự phân chia con người thành giai cấp tuy có những ý nghĩa nhất định nhưng không phải là sự phân chia duy nhất có ý nghĩa, không hoàn toàn đầy đủ, không bao hàm được hết xã hội." "Cái lỏi bên trong của dòng tiến hóa là dòng phát triển của trí thức nhân loại, còn sự đấu tranh giữa tập đoàn người này với tập đoàn người khác, tức sự đấu tranh giai cấp, chỉ là cái vỏ, là những hiện tượng xã hội kèm theo mà thôi".
Hà Sĩ Phu khẳng định "mỗi cuộc biến đổi được gọi là cách mạng xã hội bao giờ cũng là sự cạnh tranh của hai thế lực lãnh đạo xã hội, tiêu biểu cho hai bậc thang về trình độ tổ chức xã hội, ứng với hai trình độ khác nhau của khoa học, của tri thức con người thời ấy". Anh chỉ ra rằng những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội đề cao trí thức nhưng trong thực tế lịch sử các đảng Cộng sản lại không thực hiện và không thuận chiều với trí thức.
Thực tế đó đã đưa đến những kết quả rõ ràng không thể chối cãi. "Tính kém hiệu quả của tổ chức xã hội đã gây nên cái điều rất "vô lý" [thực ra chẳng có gì là vô lý cả] là muốn xây dựng một hệ thống phát triển nhất trong lịch sử loài người thì lại thu được một hệ thống không phát triển, thậm chí chống lại sự phát triển". "Có ham muốn, có quyết tâm mà thiếu tri thức thì ắt là sa vào vòng duy ý chí. Người chỉ huy sẽ trở thành kẻ độc tài dù tự giác hay không tự giác. Vì thế mà xuất hiện cái điều tưởng như rất vô lý là muốn xây dựng một hệ thống đầy đủ tính con người nhất thì lại thu được một hệ thống mâu thuẫn với quyền con người", "muốn xây dựng một hệ thống đặc trưng bởi tính tập thể, tính thế giới đại đồng, tính toàn nhân loại, lại thu được một hệ thống rất dễ nảy sinh chủ nghĩa cá nhân cực đoan, mâu thuẫn với tính Nhân loại".
Hà Sĩ Phu đã vẽ hẳn một sơ đồ phân tích về quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng tiêu cực xã hội và chỉ ra điều mấu chốt là dùng phương tiện không thích đáng thì không tới được mục đích. "Khi cái phương tiện đã thành cái mục đích thì lẽ dĩ nhiên cái mục đích [ở đây là dân tộc] đổi chỗ để trở thành cái phương tiện [!]"
Cuối cùng Hà Sĩ Phu dẫn lời của Alexandr Bovin, nhà phân tích chính trị của tờ IZVESTRA [Liên Xô] sau khi nói rõ quan điểm "kiên quyết chối bỏ loại xã hội chủ nghĩa quan liêu, thiếu thốn triền miên, xuống cấp những gía trị đạo đức, thay tự do bằng sự trấn áp dốt nát..." đã nêu ý kiến về cách sửa chữa là "Tất cả các đoạn trên con dấu toán học cần phải đổi ngược lại !" Từ ý đó anh kết thúc bài viết của mình:
"Và nếu như trên trang giấy đã đổi ngược các dấu toán học thì trên đường đi lý nào không phải quay ngược các tấm biển chỉ đường.
Nhân loại như lịch sử đã từng chứng minh, rốt cuộc vẫn dắt tay nhau, đi cùng trên một con đường, con đường tiến hóa, thênh thang, dưới những tấm biển chỉ đường của Trí Tuệ"
Trong vòng ba năm kể từ khi bài "Dắt tay nhau đi..." xuất hiện, mặc dù chỉ được đánh máy, photocopy chuyền tay nhưng đã có hơn 30 bài của các tờ báo trung ương và địa phương tập trung phê phán, có cả một cuốn sách của Ban Văn Hóa Tư tưởng Trung ương và được đề cập trong cuốn giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh của Đại hội Đảng. Hà Sĩ Phu gọi đây là một cuộc tranh luận kỳ lạ. Anh hóm hỉnh ví von : "Mấy chục võ sĩ ra sân khấu, đấu rất sôi nổi với một "địch thủ" chỉ được phép ở bên trong hậu trường." Tôi thì muốn dùng kiểu chơi chữ của dân miền Nam, gọi đây là một cuộc "bề hội đồng" với một người đã bị trói quặt hai tay ra đằng sau lưng.
Sự việc không phải chỉ dừng ở đó. Người ta còn nghi ngờ bút hiệu Hà Sĩ Phu không phải là của một người mà là của một tập thể trí thức chống đảng. Có người đòi phải đối xử với Hà Sĩ Phu một cách đúng mực theo đúng quy luật của đấu tranh giai cấp. Có lần anh ra Hà Nội, trước khi về đến chào nhà văn nữ Dương Thu Hương là người quen, đúng lúc Dương Thu Hương đang bị khám nhà, Hà Sĩ Phu cũng bị bắt giữ. Thật là một cơ hội bằng vàng. Anh bị thẩm vấn suốt 10 ngày về bài "Dắt tay nhau đi..." và các bài viết khác cũng như các mối quan hệ của anh khi công an biết rằng cái ông thấp lùn nho nhã tự dưng đưa đầu vào miệng cọp này lại chính là tác gỉa của bài tiểu luận nổi tiếng. Vậy là lần đầu anh có dịp "làm việc" với các đồng chí công an. Khi nghe anh kể lại chuyện này, chúng tôi đoan chắc thế nào anh cũng được các đồng chí công an chiếu cố nữa, nhất là khi bài "Dắt tay nhau đi..." được công bố ở hải ngoại và gây tiếng vang lớn.
Tuy thế Hà Sĩ Phu không nao núng, thời gian này anh tập trung viết một bài tiểu luận dài hơn, đào sâu những vấn đề mới nêu ra trong bài "Dắt tay nhau đi..." Chúng tôi khích lệ và thi đua với anh. Mỗi người chúng tôi đều cảm thấy có nợ lớn đối với ngòi bút của mình.
(Còn tiếp)
Thứ Bảy, 18 tháng 8, 2012
Tiêu Dao Bảo Cự - Những hoài niệm và niềm hứng khởi mới của Tự do
Tiêu Dao Bảo Cự
(Tiếp theo)
6* Con đường nhỏ từ đỉnh Himalaya huyền bí
Một anh bạn thân, Nguyễn Hữu Cầu, rủ tôi đi học Yoga. Cầu ở gần nhà tôi. Một hôm tự dưng có người đến gởi cho anh thư mời tham dự lớp Yoga do một tổ chức Yoga quốc tế phối hợp với viện Y học Dân tộc ở đây mở.
Đối với tôi Yoga không phải là điều mới lạ. Hồi tôi còn trẻ tôi đã đọc một số sách về Yoga và tập một vài tư thế để chữa trị bệnh mũi dị ứng và đau lưng. Bệnh tuy không khỏi hẳn nhưng không phát triển nữa và tôi vẫn tập hằng ngày cho đến tận ngày nay. Tôi đồng ý đi với C để xem có gì mới không.
Chúng tôi đến viện Y học Dân tộc và được chỉ đến một phòng nhỏ ở phía sau các phòng của bệnh nhân. Chỉ có khoảng hơn 10 học viên đến dự, ngồi trên những tấm chiếu nhỏ trải trên sàn nhà. Người dạy là một người nước ngoài còn trẻ, được giới thiệu là Dada H quốc tịch Guatemala. Người ta giải thích Dada, tiếng Ấn Độ, có nghĩa là ông thầy dạy Yoga. Dada giảng bằng tiếng Anh, có người phiên dịch.
Lần đầu tiên tôi gặp một người đến từ Guatemala, một nước nhỏ ở Trung Mỹ, mà tôi chỉ biết tên và vị trí ở gần nước có kênh đào Panama nổi tiếng. Dada H cao lớn và rất đẹp trai, da ngăm đen, mũi cao, mắt to và sáng, tóc đen gợn sóng, có nụ cười tươi cởi mở và hồn nhiên. Dada giới thiệu tổng quát về lịch sử và đặc điểm của Yoga, một phương pháp cổ truyền của Ấn Độ để tăng cường sức khỏe, ngăn ngừa và chữa bệnh tật, đồng thời nâng cao đời sống tâm linh. Dada nói rất giản dị, ngắn gọn và có một sức thuyết phục kỳ lạ không phải do lời nói mà do nội dung hàm súc và niềm tin mãnh liệt của người truyền đạt, người không chỉ nói lý thuyết mà đã thể nghiệm sâu sắc bằng chính cuộc đời mình. Dada nhấn mạnh ý Yoga không phải chỉ là một phương pháp thể dục dưỡng sinh như nhiều người lầm tưởng. Nghĩa đen của Yoga là hợp nhất với Đấng Tối cao. Yoga là một di sản quý giá cổ truyền của người phương đông nhưng lại tự do và miễn phí như khí trời, ai cũng có thể thực hành và thụ hưởng.
Sau khi nghe giới thiệu tổng quát về Yoga, chúng tôi được hướng dẫn tập khởi động, và tư thế Asana đầu tiên "chào Yoga". Sau đó là cách xoa bóp và thư giãn để kết thúc buổi tập. Tất cả mất khoảng hai tiếng đồng hồ.
Buổi tập đầu tiên gây cho tôi ấn tượng mạnh nên buổi kế tiếp tôi rủ Đan Tâm cùng đi. Mỗi tuần chúng tôi được học hai buổi, khóa cơ bản kéo dài ba tháng và hoàn toàn miễn phí. Học viên muốn mời thêm bạn bè đi học càng đông càng tốt. Đan Tâm ban đầu ngần ngại do bận rộn nhưng tôi và C thuyết phục nên cuối cùng cũng chịu đi. Dada đã đặt vấn đề với học viên rằng mỗi ngày đêm người ta có 24 tiếng để làm việc, ăn ngủ, tạo sao không dành nửa giờ để lo cho sức khỏe thể xác, tinh thần và tâm linh. Điều này chúng tôi thấy có lý. Sau một buổi học, Đan Tâm cũng thích thú như tôi và chúng tôi đã chuyên cần học hết hóa cơ bản, không vắng buổi nào.
Mỗi buổi tập, có hai phần lý thuyết và thực hành, theo một giáo trình ngắn gọn nhưng khoa học và có sức thuyết phục vì học viên thấy ngay hiệu quả. Hầu như đối với các phương pháp luyện tập khác, nhất là thể dục thể thao, cần dùng đến sức mạnh của cơ bắp, sau buổi tập thường mệt mỏi, nhưng trái lại đối với Yoga, tập xong thấy vô cùng sảng khoái và sinh lực tăng lên rõ rệt.
Về mặt lý thuyết, thực ra Dada H không nói điều gì cao siêu thâm trầm lắm nhưng chúng tôi vẫn thấy có một sức hấp dẫn kỳ lạ. Điều này toát ra từ khuôn mặt và con người của ông. Ông chỉ là một thanh niên trẻ trung, ăn mặc giản dị, tràn đầy sinh lực và nụ cười hồn nhiên thánh thiện đang hiến mình cho một lý tưởng cao đẹp. Qua các buổi tiếp xúc, chúng tôi biết thêm Dada xuất thân từ một gia đình nghèo khổ xứ Guatemala, có duyên đến với Yoga khi tổ chức Yoga cử người hoạt động ở đây và đã được đưa sang Ấn Độ để học tập và huấn luyện. Sau năm năm tu trì theo phương pháp cổ truyền với kỷ luật nghiêm nhặt, Dada đủ điều kiện đi truyền bá Yoga trên khắp các quốc gia theo sự phân công của tổ chức.
Chúng tôi cảm động khi được biết Dada sống cuộc đời tu sĩ độc thân, đến đâu cũng phải tự làm việc mưu sinh và truyền dạy Yoga miễn phí cho bất cứ ai muốn học. Thời gian này hàng tuần Dada phải đi ba thành phố để giảng dạy. Một người ở xứ Trung Mỹ xa xôi đến Việt Nam, hàng tuần phải bó gối trên những chuyến xe đò chật chội, hít mùi xăng và khói thuốc lá là những thứ rất kỵ đối với người luyện Yoga, đi về hàng ngàn cây số để truyền bá Yoga. Đã thế Dada còn ăn chay trường, mỗi tháng nhịn ăn bốn ngày, mỗi ngày ngồi thiền ít nhất 4 lần trong 4 giờ. Những điều này quả có sức thuyết phục đối với người học. Yoga không phải là tôn giáo nhưng ông thầy dạy Yoga này khắc khổ và nhiệt tâm không thua kém bất cứ tu sĩ của tôn giáo nào.
Có lúc Dada H bận công việc ở Sài Gòn và Didi S lên dạy thay (Didi là người thầy nữ dạy yoga. Thực ra theo tiếng Ấn Độ, nghĩa đen của Dada, Didi là người anh em, chị em). Didi S là một cô gái người Đài Loan, nhỏ nhắn, trắng trẻo và khá xinh. Didi nói tiếng Anh nhanh như gió với âm sắc của người Hoa. Didi đã tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế nhưng vì một nhu cầu tâm linh đã bỏ mọi cơ hội làm ăn, đến với Yoga và trở thành sứ gỉa của pháp môn cổ truyền Ấn Độ này. Cũng như Dada, Didi luôn giản dị, nhiệt tình và không hề tiếc sức với học viên. Dù là nữ, Didi cũng chỉ có hai bộ quần áo thay đổi, không hề có đòi hỏi gì cho riêng mình ngoài việc hết sức làm cho Yoga phát triển.
Qua các buổi học, chúng tôi được biết thêm Yoga đã có lịch sử lâu đời hàng mấy ngàn năm, có thời gian bị thất truyền, mai một nhưng sau đó lại phục hưng và hiện nay đang trên đường chinh phục thế giới. Yoga có nhiều chi phái với đặc trưng khác nhau nhưng phương pháp chúng tôi đang học là phương pháp cổ truyền đã được tổng hợp, hiện đại hóa, thu tóm được những gì tinh túy nhất của pháp môn này. Trong khóa cơ bản ngoài một số phần lý thuyết và vài chục tư thế Asana, chúng tôi còn được học hai điệu múa tâm linh Kaoshiki, Tandava, phương pháp tập trung tư tưởng theo BNK và 10 nguyên tắc Yama-Niyama.
BNK là viết tắt của " Baba Nam Kevalam", nghĩa đen là "Chỉ có tên gọi của Đấng Tối cao" nhưng được giải thích là "Tình thương ở khắp mọi nơi". Chúng tôi ngồi xếp bằng theo tư thế hoa sen, tưởng tượng mình đang ngồi trên đỉnh núi cao hay cạnh khe suối ở một nơi hoang vắng, hít vào thở ra nhẹ và sâu, loại bỏ các tạp niệm và lắng nghe trong tâm thức mình ngân vang câu Baba Nam Kevalam không ngừng. Quả là một phương pháp tập trung tư tưởng tốt, làm phát sinh lòng yêu thương và sự bình an cho tâm hồn. Đây cũng là cách chuẩn bị cho việc học thiền định sau này.
Tôi cũng cảm thấy gần gũi với 10 nguyên tắc Yama - Niyama. Yama là cân bằng xã hội với 5 nguyên tắc: Ahimsa [không làm hại]. Satya [chân thật có từ tâm], Asteya [không trộm cắp], Aparigraha [không phóng túng], Bramacarya [công nhận sự liên hệ với Đấng Tối cao]. Niyama hay Hội nhập cá nhân, cũng gồm 5 nguyên tắc: Shaoca [trong sạch] ,Tapah [khổ hạnh] , Svadhyaya [nghiên cứu các kinh sách] và Iishvara Prandhana [Tìm nơi thường trụ của Đấng Tối cao]. Trừ 2 nguyên tắc liên quan đến Đấng Tối cao mà đối với tôi, một kẻ vô thần gần như bẩm sinh, còn là một dấu hỏi mơ hồ nhưng tôi không phản đối, các nguyên tắc khác rất phù hợp với quan niệm sống của tôi.
Do đó, đối với tôi và cả Đan Tâm, việc chúng tôi đi học Yoga không phải chỉ để học phương pháp dưỡng sinh hay chữa bệnh như đối với nhiều người khác mà là một cơ duyên. Chúng tôi biết mình sẽ dấn thân và gắn bó với con đường lạ lùng này. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo chạy từ đỉnh Himalaya huyền bí đi vào giữa nhân gian thời hiện đại sẽ đẫn tôi đi bình an qua mọi nẻo đầy khổ lụy của cuộc sống chông gai này.
*7 Những bài chính luận trữ tình đi về đâu ?
Song song với việc viết nốt phần cuối của cuốn tiểu thuyết dang dở từ mấy năm trước, tôi cũng bắt đầu viết một số bài chính luận.
Tôi nghĩ có thể tự nhận xét ưu khuyết điểm của mình trong việc viết lách. Thời trung học và cả ở đại học, tôi thường có điểm cao trong lớp về các bài luận văn. Tuy nhiên tôi không muốn đi vào con đường nghiên cứu vì tôi học sinh ngữ và các cổ ngữ khá lơ mơ. Tôi biết rõ muốn nghiên cứu, ở đây là nghiên cứu văn học, ngoài khả năng phân tích, tổng hợp, lý luận và sáng tạo, phải thông thạo ít nhất vài ngoại ngữ và cổ ngữ mới có thể đọc được những tác phẩm cần thiết cho việc nghiên cứu. Tôi không thể đi theo con đường này. Tôi muốn theo đuổi việc sáng tác và tuy biết rằng tôi hơi thiên về lý trí, có thể làm cho tác phẩm khô khan nhưng tôi nghĩ mình có thể khắc phục được. Ngoài ra đối với những vấn đề thời sự chính trị, xã hội hay văn học, tôi thấy mình có thể nắm bắt vấn đề một cách nhạy bén, có cách lý giải độc đáo và viết với phong cách của người sáng tác nên thỉnh thoảng rôi cũng viết một số bài chính luận loại này. Bùi Minh Quốc và tôi gọi là chính luận trữ tình, Quốc làm thơ và tôi viết văn xuôi.
Sau bài nhận định về cuốn nhật ký của giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, tôi nung nấu để viết hai bài, một bài về thành phố Đà Lạt và một bài viết về chính trị, văn nghệ và sám hối nhân đọc tập thơ của Đông Trình, một người bạn cũ. Tôi có thể viết nhanh, ít sửa chữa nhưng trước đó suy nghĩ rất lâu.
Bài viết về Đà Lạt có thể nói tôi suy nghĩ hàng năm trời. Mỗi lần từ nhà ra phố, đi dọc theo hồ Xuân Hương là khoảng đường yên tĩnh tôi thường suy nghĩ về vấn đề, mỗi lúc lại phát hiện ra một ý mới hay triển khai thêm các ý cũ. Tôi nghiệm thấy sáng tác về vẻ đẹp của Đà Lạt rất khó, dù là văn học, âm nhạc hay hội họa, nhiếp ảnh. Đã có bao nhiêu tác phẩm ca ngợi Đà Lạt nhưng phần nhiều hời hợt sáo mòn. Cũng ngàn thông, ngàn hoa, sương mù, hồ thác, phố núi... nhưng làm sao lột tả được vẻ đẹp đích thực và lạ lùng của xứ sở này thật không dễ dàng. Các văn nghệ sĩ dù ở Đà Lạt lâu hay chỉ đi qua một vài ngày đều có thể rung cảm để có được một bài thơ, một truyện ngắn, một bức tranh, một bản nhạc, một bức ảnh nhưng đã có mấy tác phẩm tồn tại với thời gian và trong lòng công chúng.
Đà Lạt không chỉ là vẻ đẹp mà còn là nỗi đau. Đà Lạt không chỉ dịu dàng mơn trớn mà còn khắc nghiệt phũ phàng. Tôi nghĩ nhiều đến không những chỉ nắng vàng giữa trời biếc xanh gío vi vu ca hát mà còn sự lạnh gía và những cơn mưa cuồng gío giật. Tôi thấy mặt hồ Xuân Hương không chỉ êm đềm tĩnh lặng mà còn đục ngầu cuộn sóng hung dữ. Bên cạnh những cô gái má hồng tràn đầy sinh lực là những bệnh nhân rên siết vì chứng phong thấp và hen suyễn. Trên những chiếc áo len trăm sắc tuyệt vời tài hoa tôi thấy hình ảnh những phụ nữ gò lưng mười bốn giờ một ngày trên máy đan hay hầu như không rời tay khỏi đôi kim. Nơi những bắp sú, su lơ và các loại rau quả xanh mướt, căng tròn mời gọi du khách tôi nhớ đến những ngày tháng dài người nông dân đẫm mình trong bùn lầy, phân hóa học và thuốc trừ sâu. Giữa những chiếc xe hơi đời mới bóng lộn, những bàn tiệc ê hề sang trọng, các buổi họp quanh năm suốt tháng của đủ loại quan chức với hàng trăm nghị quyết, kế hoạch, chính sách, văn bản, hô hào, tôi thấy thấp thoáng những người ăn mày nằm lăn giữa bùn lầy trong chợ, những người phu khuân vác chỉ có công cụ lao động là chiếc đòn gánh và sợi dây thừng, những người bán rau quằn mình dưới gánh nặng từ ngoại thành lên đường ra chợ khi trời chưa mờ sáng còn lạnh buốt xương da. Đằng sau khách sạn sang trọng, mang bảng hiệu tư nhân hay nhà nước, bên trong những quán café, karaoke đèn mờ tưởng như thanh lịch tương xứng với thành phố ngàn hoa thơ mộng lại ẩn nấp những ổ mại dâm trá hình mà người bán dâm là những cô gái cùng khổ bị bóc lột tận cùng...Tôi muốn đưa tất cả những điều này vào bài viết của mình.
Bài "Đọc thơ Đông Trình, suy nghĩ về văn nghệ, chính trị và sám hối" có một dạng khác. Từ thời sinh viên, chúng tôi có thành lập một nhóm hoạt động văn nghệ, đúng hơn là văn học, sau này phát triển thành một nhóm khá lớn hoạt động ở Miền Nam trước ngày thống nhất và được coi là có xu hướng yêu nước tiến bộ. Đông Trình là một nhà thơ khá nổi tiếng, thành viên của nhóm này. Anh đã in nhiều tập thơ và lần nào anh cũng gởi tặng tôi cũng như nhiều bạn bè khác.
Một tuyển tập mới của anh có in lại nhiều bài viết từ thời cũ, thời kỳ bừng bừng hào khí đấu tranh trước những bất công, áp bức và nỗi nhục của người dân nghèo đói nhược tiểu cũng như niềm đau trước cuộc chiến tranh bi thảm tàn phá đất nước. Tôi tự hỏi tại sao những người đầy lòng phản kháng chính trực như Đông Trình và nhiều người viết khác bây giờ lại không tiếp tục lên tiếng khi những cái xấu cái ác đang phục hồi, thậm chí còn phát triển mạnh hơn ngày trước. Nguyên nhân nào đã làm họ im tiếng hay ngoảnh mặt?
Trong tình hình này tôi liên tưởng đến những hiện tượng tương tự khác trong văn học và trong chính trị. Tôi đã thử phân tích về một số nhân vật nổi tiếng quan trọng không chút dè dặt và đi tìm những nguyên nhân ngoài bản thân họ. Đó chính là guồng máy, tổ chức. Chế độ mà họ góp phần tạo dựng nên đã quay lại khống chế chi phối họ.
Tôi đi đến kết luận trong văn nghệ hay chính trị cần phải thường xuyên có tinh thần sám hối, nhất là sau khi đã có một độ lùi lịch sử để nhìn nhận lại.
Tôi đánh máy các bài viết này thành nhiều bản và gởi cho một số bạn bè. Tôi nhận được phản hồi rất ít nhưng cũng hiểu rằng có người đồng tình có người phản đối. Dĩ nhiên mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tôi tôn trọng ý kiến của người khác và mong rằng người khác cũng tôn trọng ý kiến của tôi. Ý kiến của tôi có thể đúng có thể sai nhưng vấn đề là cần có trao đổi và đối thoại. Trong những chuyện như thế không thể có thái độ vô ngôn. Tiếc thay hoàn cảnh hiện nay là một tình hình khá lạ lùng. Người ta không tiện hay không muốn nói đến những vấn đề gai góc vì sợ sẽ gặp phiền phức.
Những bài chính luận như thế của tôi hay những bài thơ chính luận trữ tình của Bùi Minh Quốc, những tiểu luận chính trị của Hà Sĩ Phu đừng hòng có báo nào đăng. Chúng chỉ được chuyền tay trong một số người và bị xem chẳng khác gì hàng quốc cấm.
8* Về một loài hoa trắng
Theo lời khuyên của mấy người bạn, tôi bắt đầu trồng hoa Arum, ở đây gọi là hoa loa kèn. Hoa mầu trắng tinh khiết và cắm khá lâu mới tàn, có thể đến cả tuần. Gần đây một số người bắt đầu trồng loại hoa này. Nghe nói gía cũng khá vì không những chỉ tiêu thụ tại địa phương mà còn có thể xuất đi Sài Gòn, Hà Nội và cả xuất ngoại.
Đà Lạt là xứ hoa nên người ta đã trồng rất nhiều loại. Các loại phổ biến vẫn được trồng từ xưa là hồng, lan, huệ, lay dơn, vạn thọ, gần đây một số giống hoa ngoại cũng mới được nhập trồng thí nghiệm. Trong thời kinh tế thị trường và mở cửa này, một bộ phận nhân dân ở các đô thị giàu lên nhanh chóng, các nhà hàng khách sạn ngày càng sang trọng nên hoa đã trở thành một nhu cầu hằng ngày. Đây cũng là nét mới đa sắc đáng mừng của cuộc sống so với thời kỳ trước đây mọi thứ đều đồng phục và hoa bị coi là xa xỉ phẩm.
Tôi chọn trồng loại Arum vì đây là một giống dễ trồng, có củ phát triển nhanh như môn, ít phải chăm bón và không đòi hỏi kỹ thuật cao như một số giống hoa khác, lại không phải đầu tư gì nhiều. Ban đầu tôi xin một vài bụi làm giống ở nhà những người quen và ở những vườn người ta đào bỏ đi trồng lại vì cây cũ quá cỗi. Chỉ cần một tép nhỏ ương xuống đất, tưới nước một thời gian ngắn đã ra rễ, phát triển và sau đó nẩy thêm nhiều tép mới, chỉ ba tháng là đã ra hoa và hoa ra liên tục nếu được chăm bón tốt.
Ban đầu tôi tưởng hoa này dễ trồng, không tốn công sức nhưng sau một thời gian thấy không phải như thế. Từ trước chúng tôi vốn thích hoa nhưng trồng chỉ để ngắm và cắm chơi trong nhà. Hoa trồng để bán đòi hỏi những yêu cầu cao hơn.
Hoa Arum muốn bán được phải thật lớn và trắng, không ngả vàng hay bị chấm đen, cọng dài từ bốn, năm tấc trở lên, đối với hoa xuất ngoại, cọng phải dài cả thước. Muốn được như thế, công chăm bón không ít. Phải bón nhiều phân và tưới nước liên tục để giữ độ ẩm thường xuyên. Mùa khô ở đây nắng cũng gay gắt nên tưới nước cũng là cả một vấn đề . Ban đầu tôi dùng xô xách nước từ dưới suối lên tưới, sau đó một người học trò cũ cho một cái máy bơm nhỏ nhưng dùng bơm phải mua dây điện, ống nước, lại tốn tiền điện. Hàng ngày phải bỏ thời gian tỉa lá vì lá ra nhiều cây ít ra hoa . Lại còn một vài loại sâu bệnh làm thủng hoa lỗ chỗ hay thối rễ hư cả cây. Đã thế gía cả cũng không ra sao vì người ta bắt đầu trồng nhiều. Cứ ba, bốn ngày tôi cắt hoa mang ra chợ một lần được vài chục cái.
Vào những ngày lễ, tết có khi gía lên được năm đến bảy trăm đồng một hoa, bình thường ba đến bốn trăm đồng. Mất công hái, rửa, bó, đạp xe vài cây số chở ra chợ mà chỉ thu được vài ngàn đồng thật không bõ công. Tuy cô bán hoa thường mua của chúng tôi để bán lại khá xinh đẹp, mỗi lần mua bán nói chuyện vài câu cũng vui vui, nhưng đôi lúc cô không chịu trả tiền ngay mà hẹn bán xong mới trả vì chưa biết gía cả chợ thay đổi ra sao. Cô đưa bao nhiêu tôi cũng đồng ý vì không lẽ kỳ kèo mấy đồng bạc dù nhiều khi thấy công mình quá rẻ, lại còn bị chê hoa nhỏ, hoa xấu.
Trồng hoa tôi mới thông cảm phần nào nổi khổ của người nông dân Đà Lạt. Ở trong xóm tôi cũng có một số người trồng rau. Họ không để đất nghỉ một ngày nào và dĩ nhiên họ cũng không nghỉ. Thu hoạch xong hôm nay ngày mai cày xới ngay chuẩn bị cho vụ mới. Trồng rau phải tưới nước liên tục bất kể mưa hay nắng. Ngày tưới hai lần, sáng sớm, phải tưới trước khi mặt trời mọc để rửa sương muối, những ngày lễ, tết cũng không hề nghỉ. Việc bón phân và xịt thuốc sâu phải làm định kỳ đều đặn nếu không rau củ sẽ bị hư hại hay phát triển không tốt.
Những năm sau này, thu nhập của người trồng rau không ổn định vì thị trường bị thu hẹp và phụ thuộc nhiều yếu tố. Nhiều tỉnh khác đã trồng được rau không nhập nhiều rau của Đà Lạt dù rau của Đà Lạt tốt hơn. Gía cả lên xuống thất thường tùy thuộc vào con buôn và mấy công ty của nhà nước có thu mua hay không. Đến vụ thu hoạch dù gía hạ bao nhiêu cũng phải bán, có khi phải chặt bỏ vì không có người mua.
Việc trồng hoa của tôi tính hết chi phí và công sức chẳng lời lãi gì, chỉ là có việc để làm. Đan Tâm cũng đã bỏ không ít công sức vào việc này. Bù lại chúng tôi tha hồ ngắm hoa, cắm hoa và tặng hoa. Có tuần bận rộn không hái kịp hoa nở trắng vườn thơm ngát. Những chiếc nhụy vàng đầy đặn lấm tấm mật và phấn hoa thu hút đến bao nhiêu chú ong. Hàng tuần Đan Tâm đều thay hoa mới cắm trong nhà và mỗi chiều thứ bảy chọn một bó đẹp nhất mang lên dâng tượng Đức Mẹ. Bạn bè đến chơi ai thích chúng tôi tặng hoa thoải mái.
Những bông hoa trắng mướt hình kèn trên đám lá màu xanh lục đã nở trắng vườn tôi một dạo lưu giữ trong lòng chúng tôi một hình ảnh tinh khiết nhưng tôi không thể duy trì mãi. Nhiều luống đã cỗi héo tàn tôi không muốn trồng lại, chỉ giữ vài luống để làm kỷ niệm và lấy hoa cắm trong nhà. Tôi không hề thực dụng nhưng hoa không nuôi được tôi và tôi cũng không thể tốn bao công sức trồng hoa để chơi. Tôi là một người đang bị vây hãm và tôi phải tìm cách vô hiệu hóa sự bủa vây này.
(Còn tiếp)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)