Hiển thị các bài đăng có nhãn Thuỵ Khuê. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thuỵ Khuê. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020
Văn học miền Nam 54-75 trong cách nhìn của Vương Trí Nhàn hôm nay (Vương Trí Nhàn trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê (RFI)
Thụy Khuê: Thưa anh Vương Trí Nhàn, xin cảm ơn anh lại một lần nữa vui lòng đóng góp tiếng nói trên đài RFI. Trước hết xin hỏi anh là hiện nay có dấu hiệu nào cho chúng ta thấy là văn học miền Nam đã bắt đầu hiện diện lại trên địa bàn văn học ở trong nước hay chưa?
Vương Trí Nhàn: Lâu nay, Văn học miền Nam như cứ tồn tại một cách lấp lửng ở Hà Nội, lúc thì xuất hiện, lúc có vấn đề nổi lên, tuy không thành vấn đề lớn, vấn đề liên tục. Thời gian gần đây vì có chuyện một số sách của Dương Nghiễm Mậu được in lại, sau đó lại bị phê phán, thành ra có người nghĩ rằng nó đang bị đẩy lùi đi. Tôi thấy không phải, mà thực chất khoảng mùa thu năm ngoái, năm 2007, báo Văn Nghệ mở ra mục giới thiệu một số tác phẩm của văn học Sàigòn trước 75 và đã in một số truyện ngắn. Và đúng kỳ 30 tháng tư năm 2008 này, báo Văn Nghệ có ra số đặc biệt, lần đầu tiên đưa vào sưu tập mười truyện ngắn in ở Sàigòn trước năm 75, đấy là một điều đáng chú ý. Theo tôi, trong xã hội đang có nhu cầu muốn nhìn lại, tiếp cận lại bộ phận văn học này, tôi thấy đây là điều cần thiết và cũng muốn góp sức vào đó.
T.K.: Truớc khi đi xa hơn nữa, xin hỏi anh về tình hình trước năm 1975, ở Hà Nội thời ấy đã có ai đọc một vài tác phẩm của Văn học miền Nam hay không, và nếu có, chuyện đó đã xẩy ra như thế nào?
V.T.N.: Văn học miền Nam hồi đó về Hà Nội ít ỏi lắm, muốn đọc khó lắm, nhiều khi phải mò mẫm đi tìm, tìm thấy rồi, đọc thấy hay rồi muốn kêu lên với mọi người cũng phải tự nén lại. Song, một cách tự nhiên, một số người chúng tôi biết rằng có nó , đinh ninh tin rằng một người muốn làm văn học một cách đứng đắn phải tìm tới nó -- các nhà văn từ Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, rồi Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu... hay lớp trẻ bọn tôi như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Trúc Thông hay một số bạn khác đã nghĩ như vậy. Không bồng bột không sôi nổi ào ạt, nhưng chúng tôi đã liên tục tìm kiếm, không bỏ qua một trường hợp nào mà không tìm kiếm. Có thể là chẳng ai hiểu văn học miền Nam cho đến đầu đến đũa, có thể sự hiểu chỉ loanh quanh ở những mảnh vụn, nhưng làm sao khác được, vừa đọc vừa đoán thêm tưởng tượng thêm cũng là quý lắm rồi. Và đã có một sự chia sẻ thậm chí như là giữa hai bên hình như vẫn có một cuộc đối thoại ngầm nữa. Vả chăng cái sự xa lạ là mãi về sau này mớí xuất hiện chứ ban đầu chính thức đâu có phải vậy. Có lần tôi đã tìm thấy một văn bản năm 56, ông Nguyễn Tuân, thay mặt cho giới văn nghệ Hà Nội, đã viết thư cho những người viết văn ở miền Nam, nói rằng chúng ta sẽ cùng lập một đoàn đại biểu để đi dự hội nghị nhà văn ở Tân Đề Ly, bên Ấn Độ và chúng ta sẽ chờ cơ hội sáng tác để góp phần vào nền văn hóa dân tộc. Đây là chuyện ít người biết cả người ở Hà Nội cũng không biết tôi cho rằng chúng ta nên tìm cách nhắc lại với nhau kẻo hiểu lầm mãi, hiểu lầm và tự mình bó buộc mình một cách phi lý.
Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2020
Thụy Khuê: Thái Thanh, tiếng hát lên trời
![]() |
Thái Thanh - họa sĩ Đinh Trường Chinh |
Trong những phút giây thiếu vắng trống trải nhất hay những nhớ nhung tha thiết nhất của cuộc đời, mọi hiện diện hữu hình đều vô nghĩa; ta chờ đợi một đổi trao, khát khao một giao cảm thì bỗng đâu, một hiện diện vô hình lóe lên tựa nguồn sáng, tựa tri âm: sự hiện diện của tiếng hát.
Nếu thơ là một ngôn ngữ riêng trong ngôn ngữ chung, theo Valéry, hay thi ca là tiếng nói của nội tâm không giống một thứ tiếng nói nào của con người, theo Croce, thì âm nhạc hẳn là tiếng nói của những trạng thái tâm hồn và nhạc công hay ca sĩ là nguồn chuyển tiếp, truyền đạt những rung động từ hồn nhạc sĩ đến tâm người nghe.
Thị giác giúp chúng ta đọc một bài văn, nghiền ngẫm một bài thơ, nhưng chẳng mấy ai có thể thưởng thức một bản nhạc bằng thị quan của riêng mình mà phải nhờ đến người trình diễn, đến ca công, ca kỹ. Ngàn xưa nếu người kỹ nữ bến Tầm Dương chẳng gieo "tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây" chắc gì ngàn sau còn lưu dấu vết Tỳ Bà Hành?
Sự biểu đạt tác phẩm nghệ thuật hay sự truyền thông cảm xúc từ nhạc bản đến thính giả, nơi một vài nghệ sĩ kỳ tài, không chỉ ngưng ở mực độ trình diễn mà còn đi xa hơn nữa, cao hơn nữa, tới một tầm mức nào đó, ca nhân đã sáng tạo, đã đi vào lãnh vực nghệ thuật: nghệ thuật vô hình của sự truyền cảm, nghệ thuật huyền diệu sai khiến con người tìm nhau trong bom lửa, tìm nhau trong mưa bão, nghệ thuật dị kỳ tái tạo bối cảnh quê hương đã nghìn trùng xa cách, nghệ thuật mời gọi những tâm hồn đơn lạc xích lại gần nhau dìu nhau đưa nhau vào ngàn thu, nghệ thuật không tưởng đừng cho không gian đụng thời gian khi ca nương cất tiếng hát, tiếng hát của bầu trời, giao hưởng niềm đau và hạnh phúc: Thái Thanh.
Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2020
Thụy Khuê: Hồ Trường An, giọng Nam, hồn Việt
Tháng 11 năm 2008, Hồ Trường An bị đứt mạch máu não, bị liệt nửa người, phải ngừng sáng tác nhưng ông vẫn tập đánh máy lại và tiếp tục viết biên khảo.Tháng 11 năm 2019, Hồ Trường An bị nhiễm trùng phổi, phải nằm bệnh viện gần hai tháng. Đầu tháng giêng 2020, mới được về nhà, nhưng không còn sức để bình phục trở lại.Cho đến những ngày cuối, Hồ Trường An vẫn thiết tha, không ngừng suy tư và bàn bạc về các tác giả trong văn học miền Nam và hải ngoại, ông vẫn mong một ngày đất nước sẽ thống nhất trong văn học và trong lòng người.TK
![]() |
Hồ Trường An |
Hồ Trường An là một trong những nhà văn nền móng của văn học hải ngoại, cùng với Nguyễn Mộng Giác, Du Tử Lê, Võ Đình, Kiệt Tấn; trẻ hơn có Đỗ Kh. và Trần Vũ.
Nhưng Hồ Trường An đã không được đánh giá đúng mức, thậm chí còn bị coi thường, với những biệt hiệu như nhà văn miệt vườn, bà già trầu... mới nghe tưởng là tôn vinh, thực ra, ẩn dấu một sự kỳ thị ngầm có ý chê bai tiếng Nam quê mùa, lại được Hồ Trường An kể lể dài dòng như đàn bà con gái.
Tên thật là Nguyễn Viết Quang, Hồ Trường An là bút hiệu chính, ông còn ký những tên khác: Đào Huy Đán, Đinh Xuân Thu, Đông Phương Bảo Ngọc, Hồ Bảo Ngọc, Người Sông Tiền, Nguyễn Thị Cỏ May, Đoàn Hồng Yến và Đặng Thị Thanh Nguyệt.
Hồ Trường An có nghiã là họ Hồ ở chợ Trường An (gần chợ Vĩnh Long). Và họ Hồ này "phải là" con cháu Hồ Biểu Chánh.
Hồ Trường An sinh ngày 11/11/1938 tại xóm Thiềng Đức, làng Long Đức Đông, tỉnh Vĩnh Long, trong một gia đình có truyền thống văn học.
Cha là nhà thơ Mặc Khải (tên thật là Nguyễn Viết Khải), tác giả hai tập thơ nổi tiếng Sông Nước Cổ Chiên và Phấn Nội Hương Đồng. Cô là thi sĩ Phương Đài, tác giả hai tập thơ Đất mẹ và Hiến lễ mùa thơ. Cả hai đều hoạt động cho cách mạng Việt minh. Mẹ là bà Hà Thị Cang.
Gia đình chỉ có hai chị em, cách nhau một tuổi. Chị, Nguyễn Thị Băng Lĩnh tức Nguyễn Thị Thụy Vũ, là một trong ba nhà văn nữ có giá trị hàng đầu của văn học miền Nam, cùng với Nguyễn Thị Hoàng và Túy Hồng.
Thủa nhỏ, Hồ Trường An học trường tiểu học Thiềng Đức; trung học cấp một, trường Tống Phước Hiệp (Vĩnh Long); cấp hai, trường Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), rồi Chu Văn An (Sài Gòn). Lên đại học, theo ngành dược.
Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2019
Thụy Khuê: Khái Hưng (Phần 2)
Trống Mái
Eric Tabarly, người thủy thủ xuyên đại dương số một của Pháp trong thế kỷ XX khi bị biển cuốn đi, để lại chúc ngôn: "Biển không dữ dội, biển cũng không chỉ là những bãi cát để nghỉ hè, phơi nắng mà biển còn là nguồn sống cho con người". Khái Hưng viết trong Trống Mái: "Biển là của con nhà nghề, của những người đánh cá, bắt ngao, nuôi sống chứ không phải của bọn khuê các, công tử thừa tiền, thừa thì giờ ra đó chơi bời thỏa thích." Một người suốt đời sống chết với sóng nước và một nhà văn chỉ là khách vãng lai của biển, đều nhìn biển tương tự như nhau. Phải chăng Tabarly đã sống đời Khái Hưng trong tiền kiếp, hay mỗi nhà văn thường có mấy kiếp trong một con người? Rilke viết: "Muốn làm một câu thơ phải xem nhiều thành phố, gặp bao nhiêu người, phải biết rõ đời sống sinh vật, phải cảm thấy chim bay, hoa nở như thế nào". Rilke muốn nói đến kinh nghiệm sáng tạo. Và nếu muốn có một kinh nghiệm sáng tạo như thế, thì nhà thơ phải già hơn người thường đến vài mươi kiếp.
Vọi, nhân vật chính trong Trống Mái của Khái Hưng là một hồn thơ giàu kinh nghiệm biển. Trống Mái tích lũy những nghiệm sinh, nghiệm sống, những nhìn, ngắm, cảm... của nhiều đời Khái Hưng trong một. Trống Mái là phần cửa biển của Khái Hưng, mở từ Sầm Sơn, bối cảnh một tình yêu trái mùa giữa Hercule Vọi có tâm hồn Ulysse, với cô Hiền Sirène tân thời, vô tâm, vô tình mà tàn nhẫn. Một cô Hiền có mãnh lực quyến rũ của người cá nhưng lại không mang cánh cá.
Hiền, ngư tiên Sầm Sơn 1936, tự do, muốn thử một quan niệm sống mới, muốn đạt tới thế quyền phụ nữ trong một xã hội phụ quyền từ A đến Z. Ngay từ 1936, Hiền đã dám nghĩ đến cuộc sống độc thân, Hiền bảo mẹ: "Con chả muốn lấy chồng, con chỉ theo chủ nghĩa độc thân." Đi trước Simone de Beauvoir mười ba năm, Hiền cho rằng sự bình đẳng nam nữ phải dựa trên tương quan đồng đẳng: Cái gì người ta làm được thì mình cũng làm được. Hiền muốn gạch chữ yếu trong phái yếu. Hiền đẹp, con nhà giàu, có một thân hình cường tráng. Hiền bơi giỏi, đánh đàn hay, Hiền trí thức. Nàng có đủ hành trang cần thiết để đánh bại lũ cậu ấm rởm, theo nàng như ruồi nhặng. Hiền nghĩ: "Muốn bình đẳng phải đồng đẳng. Mà trước hết cần phải đồng đẳng về thân thể tráng kiện."
Gặp Vọi thuyền chài, đẹp như tượng cổ Hy Lạp. Hiền nghĩ đến một thứ tình yêu không vụ lợi mà "vụ đẹp", "vụ át-lét", "vụ thân thể cường tráng". Tình yêu không phân giai cấp giầu nghèo, không phân biệt trí thức và vô học. Hiền muốn một cuộc đời mở cửa ra thiên nhiên, núi, nước, để phản kháng lại quan niệm trưởng giả đô thị của xã hội quan liêu «vụ bằng cấp» mà nàng đang sống. Ở Hiền, đã manh nha đầu óc phi đẳng cấp, đã khát vọng một đời sống tự do, độc lập và bình đẳng, và một thế giới... cộng đồng.
Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2019
Thụy Khuê: Khái Hưng (Phần 1)
Tiểu sử Khái HưngKhái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, bút hiệu khác Nhị Linh, sinh năm 1896 tại làng Cổ Am, phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương. Con trai Tuần phủ Trần Thế Mỹ, và là anh ruột Trần Tiêu. Thuở nhỏ học chữ nho, rồi theo Tây học (lycée Albert Sarraut, có nơi ghi Paul Bert). Sau khi đậu tú tài Pháp, ban triết, Khái Hưng dậy ở tư thục Thăng Long, ở đây ông gặp Nhất Linh. Khái Hưng kết hôn với bà Lê Thị Hoà (con tổng đốc Lê Văn Đính) bút hiệu Nhã Khanh. Gia đình Khái Hưng không có con, Nhất Linh cho con trai là Nguyễn Tường Triệu làm con nuôi từ nhỏ: Trần Khánh Triệu.
Khái Hưng viết cho Phong hoá, từ khi tờ báo còn do Phạm Hữu Ninh, hiệu trưởng trường Thăng Long chủ trương. Năm 1932, Nhất Linh mua lại Phong hoá. 1933, thành lập Tự Lực văn đoàn. 1933, xuất bản Hồn bướm mơ tiên. 1936, Phong Hoá bị đóng cửa. Ngày Nay, đã ra từ trước, tiếp tục.
1939, Tự Lực văn đoàn nghiêng sang đấu tranh chính trị. Nhất Linh lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt dân chính. 1940, Khái Hưng và Hoàng Đạo sang Tàu liên lạc với các đảng cách mệnh khác, cuối năm trở về nước. 1941, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt tại Hà Nội, bị đưa lên trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay. Cuối năm 1941, Ngày Nay bị đóng cửa.
Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2019
Thụy Khuê : Phan Khôi và sự chôn vùi Phan Khôi
![]() |
Phan Khôi |
Phan Khôi là khuôn mặt học giả phản biện duy nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX. Là lãnh đạo tinh thần của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Phan Khôi đã bị bôi nhọ trong "sử sách", qua từ điển, qua những bài của các học giả, nhà văn, nhà báo lão thành như Hồng Quảng, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Công Hoan, Phùng Bảo Thạch.
Sau Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Phan Khôi tiếp tục xây dựng những nền móng mới cho Việt học, bằng phương pháp độc đáo: phân tích, phê bình và phản biện, mà những người trước và sau ông cho tới nay chưa mấy ai đạt được: Phải viết lịch sử cho đúng, kể cả các chi tiết nhỏ. Phải viết tiếng Việt cho đúng từng câu, từng chữ, từng chữ cái, từng chấm, phẩy. Phải dùng từ Việt và từ Hán Việt cho thích hợp. Phải hiểu Khổng học cho đúng. Sự tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ và triết học Tây phương đi từ Thánh Kinh. Nữ quyền bắt đầu với Võ Tắc Thiên. Phan Khôi luôn luôn tìm đến nguồn cội để giải thích vấn đề. Là một nhà báo, nhưng không phải nhà báo bình thường. Là một học giả, nhưng không phải học giả cổ điển chỉ biết nghiên cứu. Phan Khôi là khuôn mặt học giả phản biện duy nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX.
Tạ Trọng Hiệp là người đầu tiên, tại hải ngoại, đặt vấn đề nghiên cứu lại Phan Khôi trong buổi trả lời phỏng vấn RFI năm 1996. Chỉ vào tập ronéo cao vài thước, ông nói: "Tôi đã xin được của Thanh Lãng, lúc đó còn là giáo sư đại học văn khoa Sài Gòn đã sưu tầm những bài viết trên báo xưa, bỏ tiền thuê người đánh máy, cho sinh viên học, trong đó có khoảng 5, 6 trăm trang của Phan Khôi viết trên Phụ Nữ Tân Văn. Thế nào chúng ta cũng phải đọc và giới thiệu Phan Khôi với giới trẻ ngày nay trong nước, vì họ chẳng biết gì về ông này cả!". Về tiểu sử Phan Khôi, Tạ Trọng Hiệp xác nhận: Bản đầy đủ nhất về tiểu sử Phan Khôi là bản của Hoàng Văn Chí viết trong Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc. Đó là tình trạng năm 1996.
Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2019
Thụy Khuê: Nói Chuyện với Tạ Trọng Hiệp - Phan Khôi, người xa lạ (Tiếp theo và hết)
TK: Trong khi chờ đợi những nguồn tư liệu như thế, anh là người có thể cho độc giả biết những điều sơ khởi về Phan Khôi?
TTH: Bài tiểu sử của ông Hoàng Văn Chí cũng nói một vài điểm rất rõ là khoảng Đông Kinh Nghĩa Thục đang hoạt động, thì cụ Phan Khôi có liên lạc với cụ Phan Chu Trinh và có nhận công tác gì đó, ra Bắc. Lúc đó Phan Khôi còn trẻ lắm, vì các bạn nhớ là ông Phan Khôi sinh năm 1887. 1907 là ông mới 20 tuổi. Lúc đó hình như ông mới đậu tú tài rồi bị bắt giam cho đến năm 1911. Sau đó được thả ra. Kiếm ăn bằng nghề làm báo. Bắt đầu với Nam Phong.
Nhưng mà một người có cá tính gai góc như Phan Khôi thì khó mà hợp với cái ông ôn hòa chủ nghĩa là ông Phạm Quỳnh. Đó là không nói đến vấn đề quan điểm chính trị, Phan Khôi có những người bạn tiền bối hoặc cùng tuổi với mình, toàn là những nhà hoạt động duy tân, cách mạng cả.
Những bài bôi nhọ Phan Khôi những năm 56-57, nói cụ là người phản động từ đầu, là nói bậy. Qua những bài báo cũ còn giữ được, thì ta thấy rằng Phan Khôi suốt đời là một người tranh đấu cho duy tân, cho nhân quyền, cho phụ nữ bình đẳng, cho nhiều thứ lắm. Cụ không phải là một người an phận để chạy chọt một chỗ có công ăn việc làm cho ngon, cho béo bổ, vinh thân phì gia đâu. Cụ long đong suốt đời cũng vì con đường lập thân của cụ những năm đó. Bây giờ, ít nhất chúng ta cũng nên biết rằng trong suốt thời gian từ 1918-20 đến 40-45, cái nôi hoạt động, cái địa bàn hoạt động, cái espace sociale Phan Khôi đó là báo. Báo miền Bắc, báo miền Trung, báo miền Nam. Trong đó có tờ Phụ Nữ Tân Văn. Phan Khôi viết nhiều trong đó. Bây giờ làm sao có cách nào mà in lại một tuyển tập hàng trăm hàng nghìn bài mà Phan Khôi đã viết trong 50 năm như thế, thì ta mới có cơ sở để khám phá ra một vài nét cơ bản trong văn tài Phan Khôi.
TK: Anh có thể lược kể nội dung những văn bản mà anh hiện có về Phan Khôi?
TTH: Hiện bây giờ, tôi chỉ có trong tay một tài liệu, mà với thời gian trôi qua từ 20 năm nay, tôi thấy càng ngày nó càng quý, chứ hồi đó... Vì cái tính ưa sưu tầm của tôi, tôi đã xin tác giả là ông Thanh Lãng, hồi Thanh Lãng còn là giáo sư đại học Văn Khoa Sài Gòn. Ông ấy đứng trước vấn đề như mình đang nói chuyện đây, là muốn cho sinh viên hiểu về những tác giả mà mình nói, không thể chỉ ngồi mà bình luận với họ về cái nhân vật ấy một cách trừu tượng, ông này hay, ông kia dở, ông này yêu nước, ông kia phản bội, câu văn ông này du dương, ông kia chán ngắt. Phải đưa cho họ cái đương sự bị phê bình. Thế thì Thanh Lãng đã thử giải quyết vấn đề đó bằng cách bỏ tiền ra, thuê người ta đánh máy lại rất nhiều số báo, trong đó rất may cho chúng mình là có tờ Phụ Nữ Tân Văn mà ở đấy có gần 5, 6 trăm trang dành cho các bài của Phan Khôi. Bên cạnh cái mớ đó còn một vài xấp khác nữa. Thỉnh thoảng cũng có lạc bài của Phan Khôi vào. Hôm nay, chưa phải là lúc để tìm hiểu xem Phan Khôi, với tư cách nhà báo, đã có tài năng và tung tích gì không? Hôm nay việc đầu tiên là Thụy Khuê phải ngồi mà đọc Phan Khôi nhà báo để xem ông ấy đã có những đặc tính gì? Hôm nọ tôi đã thử đọc lướt qua rồi, đọc hết 5, 6 trăm trang của Phan Khôi. Vừa thú vị. Vừa hơi mệt. Bởi vì ông này, ông cãi nhiều khi cũng gàn, cũng bướng lắm. Giống cụ Phan Chu Trinh hay cãi. Đấy là một việc.
Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2019
Thụy Khuê: Nói Chuyện với Tạ Trọng Hiệp - Phan Khôi, người xa lạ
Thụy Khuê: Hợp Lưu có ý định ra một số báo chủ đề Phan Khôi. Người đầu tiên Hợp Lưu cần hỏi ở hải ngoại là anh, bởi vì anh giữ tương đối đầy đủ tài liệu về Phan Khôi và anh cũng đã đọc, đã suy nghĩ nhiều về Phan Khôi. Việc đầu tiên khi nhắc đến Phan Khôi, theo ý anh, là việc gì?
Tạ Trọng Hiệp: Xin cảm ơn Thụy Khuê đã nghĩ đến tôi. Thật ra những gì Thụy Khuê vừa nói là do tình cảm quen biết nhau trong văn hóa cho nên Thụy Khuê khen thế thôi, chứ tôi thấy không đúng đâu. Nếu có ai am tường về Phan Khôi thì chắc không phải là tôi. Nếu tôi có chú ý đến Phan Khôi là vì cố gắng cá nhân, bên cạnh công việc chính là nghiên cứu Hán Nôm cổ. Theo tổ chức trong sở tôi thì không có chỗ cho sự nghiên cứu Phan Khôi. Và tôi xin tiếp tục cải chính, tôi nghĩ là trong nước hình như còn có người biết hơn chúng ta nhiều lắm về thân thế và sự nghiệp Phan Khôi. Rất tiếc vì ở xa nên không liên lạc được. Tôi đã nghĩ đến một người, người này -ông Nguyễn Văn Xuân- là nhà văn kỳ cựu ở Quảng Nam, Đà Nẵng. Ông đã bước vào làng văn từ những năm đầu của chiến tranh thế giới thứ hai. Ông viết cả truyện ngắn và biên khảo về văn học và môi trường văn học ở miền Trung và miền Nam. Đặc biệt cuốn sách Khi Những Lưu Dân Trở Lại đã khiến tôi chú ý rất sớm về ông Nguyễn Văn Xuân. Và ông ấy lại sinh hoạt ở một vùng không xa lắm, vùng quê hương đã sản xuất ra những người như cụ Phan Chu Trinh hay là gia đình cụ Phan Khôi. Tôi đọc thêm cuốn Phong Trào Duy Tân của ông Nguyễn Văn Xuân, đó mới chỉ là tập đầu của một bộ ba quyển. Cho nên tôi vẫn hy vọng phập phồng rằng trong tập 2 và tập 3, có khi ông nói đến hiện tượng Phan Khôi chăng? Một hiện tượng rất lớn đối với địa phương ấy.
Bây gìờ trở lại vào đề. Ngày hôm nay tôi xin được nói một hai ý kiến vụn vặt về Phan Khôi. Nếu tôi có can đảm viết, có thì giờ, và tôi không đau ốm quá, thì tôi sẽ viết về Phan Khôi, và sẽ đặt nhan đề là Phan Khôi: Người Xa Lạ.
TK: Tại sao anh lại chọn nhan đề như vậy?
TTH: Đây là một nhận định rất bình thường. Nếu Thụy Khuê có dịp phỏng vấn thanh niên trong và ngoài nước, những người chưa đến tuổi 40, 45, thì tôi sợ là sẽ đi đến một kết quả rất buồn là người ta không biết tên Phan Khôi là ai, chứ đừng nói đến chuyện đánh giá Phan Khôi cao hay thấp, khen hay chê, chửi hay bênh. Mà như vậy là một tình hình đã kéo dài nhiều năm rồi.
Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2019
Thuỵ Khuê: Quê Hương Ngày Trở Lại, X - Về quê Bắc
Tôi là người Bắc thì miền Bắc nhật định là quê hương tôi rồi, nhưng tại sao, ngoài tên làng Hành Thiện nơi mẹ tôi sinh ra và làng Doanh Châu quê thầy tôi, là hai cái tên tôi thân lắm, như có thể mày tao với chúng được, tôi còn chơi thân cả với nhiều tên khác, như Gia Bình, Bất Bạt, Bạch Hạc, Tiêu Sơn, Long Giáng, Châu Mộc, Vụ Bản... chúng cũng làm tôi "rung động" không phải rung động kiểu tuyết thuyết diễm tình, mà khi nghe những tên này, tôi cảm thấy như ai gọi tên mình, một tý tên mình thôi, không phải tất cả, vì nào có phải tên mình. Tôi tìm hiểu mãi vụ này mà không ra manh mối. Chỉ biết đích xác rằng tôi ở Pháp đã hơn nửa thế kỷ, mà ai gọi tên Lyon, Marseille, ngay cả Versailles huy hoàng như thế, tôi cũng tỉnh bơ như không dính dáng gì đến mình. Nhưng chưa về đến Phú Thọ, tôi đã nghe bụng dạ báo động: sắp tới Đoan Hùng rồi đấy! Hơn hai mươi năm trước, khi cả nước còn luỹ tre xanh, xe còn đi đường quốc lộ, thường ghé Đoan Hùng. Bây giờ nước đã thành thị hoá, xe đi xa lộ cao tốc, tôi mất cả tre xanh, mất cả Đoan Hùng, mất cả đồi chè Phú Thọ vì chè đã dọn sang Thái Nguyên, nhưng tim tôi vẫn nhớ những địa chỉ cũ, dù có nơi tôi chưa đến bao giờ, bởi chúng là địa chỉ của những Thế Lữ, Khái Hưng, Hoàng Cầm, Quang Dũng... truyền lại cho tôi. Như Đoan Hùng là nơi Mai Hương và Lê Phong đặt phòng thám tử, hồi nhỏ đọc sách trinh thám Thế Lữ thích lắm, bây giờ đọc lại thấy hết hay, nhưng vẫn cứ nhớ. Như Long Giáng của Khái Hưng trong tưởng tượng. Như Vụ Bản nơi giam cầm Gia Trí, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Như Châu Mộc, nơi đoàn quân không mọc tóc của Quang Dũng đã đi qua... những điạ chỉ ấy nó dính vào mình, nó nhỏ vào tim những vệt son một lần, là không tẩy đi được.
Rạp hát Chuông Vàng |
Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2019
Thuỵ Khuê: Quê Hương Ngày Trở Lại, IX - Trên đường ra Bắc
Rời Huế chúng tôi lên đường ra Bắc, nhưng hồn Huế vẫn còn đọng lại trong tôi suốt quãng đường dài. Bữa cơm Âm phủ tối qua, có món canh dưa chua và nhiều thứ bánh Huế tôi không nhớ hết tên, bánh nào cũng ngon, vừa ăn vừa tưởng đến Gia Long, ông vua hay nói tục, hàng ngày ra công binh xưởng kiểm soát, tự lái thuyền đi thăm xuởng đóng tầu ở Thị Nghè, trưa ăn cơm cá kho dưa muối với thợ. Nhớ chuyện Barisy (một người lính Pháp theo vua) kể lại: ngày đầu tiên quân tiến vào kinh đô, tối đó vua về thuyền ngủ và ra lệnh cho quân sĩ cũng phải ngủ trên thuyền không được nhiễu dân. Sáng hôm sau, tám giờ ngày 15/6/1801, vua chính thức lên Tử cấm thành, ông cũng không đi thẳng vào cung điện mà đứng ở phòng ngoài (nơi dân chúng tụ họp để chờ xem mặt vua những ngày thiết triều), ông đứng đó "đấu láo" với quân lính. Tôi chắc khi đã lên ngôi tôn, thế nào cũng có lúc vua lẻn ra quán Âm phủ ăn cơm canh dưa chua cá khô tộ. Tâm hồn Gia Long gắn liền với hai thứ Huế: Huế cung đình và Huế dân dã, và cũng chính là tâm hồn Huế mà tôi cảm nhận được. Nhiều lần tự hỏi không biết mình yêu nước là yêu cái gì và tôi không nhận ra cái gì chính xác cả.
Hôm đó, tôi yêu lắm cái quán ăn trong thành nội, có nhiều món ngon tuyệt, kể cả "nem công chả phượng" trước đây chỉ được đọc trong sách; chúng tôi lại được tiếp đãi như những người "hoàng phái". (Hồi đi học, tôi có con bạn người Huế, phong cách rất sang, một hôm có đứa hỏi nó: trước tau ở Vỹ Dạ, mi ở đâu? Nó vênh váo: ta hoàng phái ở trong thành nội chớ đâu có chung đụng với bọn bây). Chừ bây giờ về Huế, tôi cũng được ăn "nem công chả phượng" trong "thành nội" y như... hoàng phái, cũng được ngồi ghế bành, được nghe các cô chiêu đãi Huế ngọt lịm thưa bẩm, chao ôi là thú vị. Tôi lại nhớ một hôm khác, tại Institut Franco-Vietnamien ở khu La Tinh (nơi sinh viên Việt chúng tôi thường ở trọ hoặc thuê phòng nghỉ hè) vẫn con bạn hoàng phái đó, nó ở chung với mạ nó, bà là mệ, mới ở Huế sang chơi. Tôi phục lăn vì thấy nó một điều bẩm mệ, hai điều bẩm mệ (tôi con nhà dân làm chi biết lễ phép như thế). Một hôm đi ngang qua phòng nó, không biết hai mẹ con cãi nhau cái gì, tiếng Huế người ngoài nghe không thể hiểu, bỗng phắt cái nó dơ tay tát mệ nó ngã chúi xuống đất, tôi giật bắn mình, từ đó tôi đề phòng cái bẩm của nó. Nhưng mà tôi vẫn mê tiếng Huế và tôi hiểu ra rằng mình yêu nước là yêu cả cái hay lẫn cái dở.
Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2019
Thụy Khuê: Quê Hương Ngày Trở Lại, VIII - Huế
Huế vô cùng quyến rũ về nhiều mặt, bởi vì Huế là kinh đô cuối cùng của thời đại tự chủ. Huế còn giữ được phong độ, qua nếp sống, kiến trúc, văn hoá và ẩm thực. Huế không bị ngộp thở vì nhà cao tầng. Huế vẫn lác đác những nhà cổ trên đường phố ngoại ô, như lời chào của quá khứ đón ta về Huế. Đi sâu vào thành nội, ta gặp muôn vàn quyến rũ khác, như thể tất cả vàng son và uy quyền của một thời còn đọng lại trong không gian, trong cỏ cây, trong sự đài các của cô gái Huế, của các món ăn Huế, trong cách trang trí Huế, từ vườn rau, cây kiểng, cái gì cũng nhuốm chất hoàng gia, sang trọng, lịch lãm.
Lăng Tự Đức |
Về cái chết của vua Minh Mạng, tác giả Đạo Giáo ở nước Nam (La Cochinchine Religieuse) cuốn sách nổi tiếng nhất của Pháp về thời kỳ truyền giáo, linh mục Louvet viết:
"Vài tuần sau đó, kẻ tàn sát cũng lên hầu toà án Thượng Đế: Ngày 20 tháng Giêng năm 1841, Minh Mạng bị ngã ngựa, chết bất thình lình và đạo Thiên chúa mà y quyết tâm tận diệt vẫn sống, sống mạnh mẽ hơn, qua 10 năm chiến đấu, tự hào với hàng ngàn linh mục và hàng trăm người tử tội. Vì tự mình làm kẻ tàn sát đạo, tên bạo chúa đã bị thần dân của y kinh tởm và có biệt hiệu là bạo chúa Néron Việt Nam. Thay vì lùi, đạo Chúa đã tăng trưởng trong cuộc tranh đấu bền bỉ và đã chiến thắng vinh quang. Kẻ nào không tin hãy nhìn thống kê sau đây: Năm 1830, có một Khâm sứ Giáo Hoàng [Pháp] tám giáo sĩ [Pháp] hai mươi linh mục bản xứ và sáu mươi ngàn giáo dân. Năm 1841, một Khâm sứ Giáo Hoàng, bẩy giáo sĩ, ba mươi linh mục bản xứ và bẩy mươi lăm ngàn giáo dân"(Louis-Eugène Louvet, Đạo Giáo ở nước Nam (La Cochinchine Religieuse),1885, tập II, t. 115).
Không chỉ mình vua Minh Mạng có biệt hiệu Néron Việt Nam, cả chúa Nguyễn Phước Tần thời trước cũng "được" các giáo sĩ gọi như thế.
Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2019
Thụy Khuê: Quê Hương Ngày Trở Lại, VII - Trận Đà Nẵng 1847 và 1858
Đà Nẵng, là thành phố lớn thứ tư của Việt Nam, có những khu dành cho khách du lịch khá vĩ đại, kiểu Mỹ. Về mặt văn hoá, bảo tàng Nghệ Thuật Điêu Khắc Chăm Đà Nẵng là một công trình đáng phục, so với hơn 20 năm trước, khi tôi đến nơi này, những bức tượng mất đầu nằm lăn lóc như một pháp trường mỹ thuật. Bảo tàng Nghệ Thuật Điêu Khắc Chăm Đà Nẵng và Trung Tâm Nghệ Thuật Lê Bá Đảng ở Huế, chứng tỏ phần nào sự thay đổi lối quản lý di sản nghệ thuật của một số bảo tàng ở trong nước, khiến người xem tin tưởng hơn, và người muốn tặng tác phẩm nghệ thuật cho Việt Nam, bớt hoài nghi hơn.
![]() |
Bảo tàng nghệ thuật Chàm |
Đà Nẵng là thủ phủ của Quảng Nam liên tục trong nhiều thế kỷ từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hoá năm 1558,Đà Nẵng luôn luôn có nhiệm vụ bảo trợ và che chở cho kinh đô Huế.
Nhưng Đà Nẵng có một lịch sử cận đại ít được biết đến mà hôm nay chúng ta cùng nhìn lại. Khi chúng tôi đến đây đang có vấn đề bàn cãi: vì một phần Bảo tàng Đà Nẵng xây trên nền thành Điện Hải mà thành phố Đà Nẵng đang tìm cách khôi phục lại.
Điện Hải và An Hải (đã bị phó Đề đốc Page phá huỷ) là hai thành do vua Minh Mạng xây để trấn giữ cửa biển Đà Nẵng, nằm trong hệ thống phòng thủ bao gồm cả các đồn trên đèo Hải Vân, để chặn quân Tây Dương có thể chiếm Đà Nẵng, rồi leo đèo tiến đánh kinh đô. Nhờ sự nhìn rộng và tính xa của vua Minh Mạng, cho nên năm 1858, dưới thời vua Tự Đức, liên quân Pháp-Y Pha Nho, đánh Đà Nẵng, nhưng đã không tiến được về Huế được, mà phải bỏ để vào đánh Sài Gòn.
Nhưng trước khi liên quân Pháp-Y tấn công Đà Nẵng năm 1858, mười năm trước đã có biến cố vịnh Đà Nẵng ngày 15/4/1847, gây ra cái chết của vua Thiệu Trị.
*
Jean-Louis de Lanessan, học giả, dân biểu, toàn quyền Đông Dương (1891-1894), Bộ trưởng hải quân Pháp (1899-1902), phản ảnh biến cố vịnh Đà Nẵng 1847, qua vài dòng ngắn ngủi, nhưng là nền tảng của quan niệm thuộc địa:
"Năm 1847, dưới triều Thiệu Trị, xẩy ra cuộc xung đột đầu tiên giữa Annam và Pháp; năm chiến thuyền An Nam đe dọa tấn công hai tầu chiến la Gloire và la Victorieuse của Pháp, do Lapierre và Rigault de Genouilly điều khiển, bị tiêu diệt ở vịnh Đà Nẵng. Thiệu Trị chết vì phiền muộn". (J.L de Lanessan, L'Indochine française (Đông Dương Pháp), Félix Alcan, Paris, 1889, t. 626)
Biến cố Đà Nẵng 1847, tóm tắt như sau:
Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2019
Thuỵ Khuê: Quê Hương Ngày Trở Lại, VI - Dòng họ Nguyễn Tường ở Hội An
Hội An |
Hội An nay đã khác xa hơn hai mươi năm về trước, khi tôi đến lần đầu. Lúc đó, Hội An chỉ là một phố thị nhỏ, bên bờ sông Thu Bồn, với một con phố chính, lác đác nhà cổ và dăm ba cửa hàng bán đồ tơ lụa, kỷ niệm, nhưng rất thơ mộng vì những chiếc đèn lồng Nhật Bản treo trước cửa hàng, dư âm của một thời xa xưa còn đọng lại.
Hội An nay đã trở thành nơi đô hội mà khách lịch phải "đắm say", nhờ sự pha trộn khéo léo giữa cảnh quan và văn hoá: những "phố cổ mới" (mới được trùng tu hay mới xây dựng thêm) phát triển khá nghệ thuật. Hội An bây giờ chen lẫn những quán cà-phê mô-đéc vận áo tứ thân lồng trong khung cảnh tân cổ giao duyên cùng những hàng quán thơ mộng, lạc lõng giấu mình trong những ngõ quanh co bên bờ nước.
Hội An là thành phố của du khách, người Nhật đa số, về đây như đi trẩy hội. Người Nhật có văn hoá cao, họ biết rõ lịch sử, họ về đây, không chỉ để du lịch mà còn để tìm lại dĩ vãng ngày xưa, thế kỷ XVII, tổ tiên họ, một số sang đây buôn bán, một số khác là giáo dân hay giáo sĩ tránh sự thanh trừng của Mạc Phủ. Người Nhật thích đi xích lô. Đến chiều, tối, bao nhiêu xích lô của phố cổ Hội An đều chở Nhật.
Ban quản trị phố cổ Hội An tổ chức những buổi nghe nhạc cổ truyền, xem múa hát cung đình không tốn tiền cho khách du lịch. Tóm lại những hình thức quyến rũ khách du lịch ở Hội An đều ít nhiều có bề dầy văn hoá. Đêm dần xuống, Hội An rơi vào một khung cảnh khác hẳn: những đèn lồng Nhật Bản bật lên như hội hoa đăng, tạo không khí ấm cúng, thơ mộng đến gần như sensuelcủa những đêm mầu hồng, mầu tím năm xưa ở các vũ trường Sài Gòn, vang tiếng hát Thái Thanh, Thanh Thúy; lại có vẻ cao sang quyền quý của những đêm hội ở kinh kỳ thời chúa Trịnh say mê Đặng Thị Huệ được Nguyễn Huy Tưởng mô tả trong Đêm hội Long Trì và sau này các giáo sĩ Tây phương đến vẫn còn say mê khâm phục.
Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2019
Thuỵ Khuê: Quê Hương Ngày Trở Lại, V - Quy Nhơn
Vịnh Quy Nhơn, cửa vào Đầm Thị Nại ở tận cùng phía trái |
Quy Nhơn có bề dầy trọng đại của lịch sử.
Đến Quy Nhơn, chúng tôi ở khách sạn M.T. trên bờ biển. M.T. là tên một chuỗi khách sạn mọc trên toàn thể đất nước, ông chủ có lẽ là người gốc dân tộc (ngày trước gọi là người thiểu số) hay ông sinh ra ở miền núi rừng M.T. Bây giờ ông trở thành triệu phú. Ở nước ngoài thì người ta ca tụng ông tay trắng làm nên sự nghiệp (như bin-ghết) còn ông ở VN, nên ông bị coi là tư bản đỏ, nhờ "đút lót" bọn "tham nhũng" mà nên. Du khách đến miền duyên hải nước ta gần như đương nhiên được ở khách sạn trên bờ biển, nhưng khách sạn M.T. thường có địa điểm tốt, thức ăn ngon và nhân viên tiếp đón lịch sự, vì thế mà thành công.
Khách sạn của chúng tôi nhìn chéo vào cửa đầm Thị Nại. Điều thật bất ngờ. Bởi đầm Thị Nại là nơi tôi ao ước được đến ít nhất một lần trong đời, để xem bề thế của nó, nơi đã xẩy ra bao nhiêu cuộc chiến ác liệt trong lịch sử, từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX do vị trí chiến lược hiểm yếu nhất vùng Bình Định. Và Bình Định, tức Quy Nhơn hay Đồ Bàn là cột trụ của cuộc di dân mở nước từ Bắc xuống Nam của dân tộc ta.
Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2019
Thuỵ Khuê: Quê Hương Ngày Trở Lại, IV - Phú Yên 2
Alexandre de Rhodes
Alexandre de Rhodes sinh ngày 15/3/1591 tại Avignon, mất ngày 5/11/1660 tại Ispahan (Perse, tức Iran). 18 tuổi ông đến Roma, gia nhập dòng Tên ngày 14/4/1612, và tha thiết mong được đi Nhật Bản giảng đạo. Được Giáo Hoàng Paul V cho phép, rời Roma tháng 10/1618 để đi Lisbonne. Lúc đó Bồ Đào Nha là "con trưởng" của Giáo Hội, nên các giáo sĩ muốn đi giảng đạo ở đâu phải xin vua Bồ cho phép mới đi được. Ngày 4/4/1619, de Rhodes lên tầu đi Goa (Ấn Độ) là một trong những trung tâm công giáo lớn nhất ở Á châu. Ông đến Goa ngày 9/10/1619, nhưng Nhật đã bế quan tỏa cảng từ năm 1612, đã ban hành luật cấm đạo rất nghiêm ngặt từ tháng 1/1614, không thể lọt vào. Bề trên quyết định cho ông đi Đàng Trong. Tháng 12/1624, de Rhodes đáp tầu từ Macao đến Cửa Hàn (Đà Nẵng), 19 ngày sau tới Dinh Chàm, thủ phủ Quang Nam. Đến đây ông gặp ngay linh mục de Pina người thông bác tiếng Việt một thứ tiếng hoàn toàn khác tiếng Tầu, mới nghe như chim hót líu lo.(Trích Du Hành và Truyền giáo).Và ông đã ráo riết học tiếng Việt, trong bốn tháng ông nghe được xưng tội và trong sáu tháng ông giảng đạo được bằng tiếng Việt. Có một thằng bé giúp tôi phân biệt được dấu để nói cho trúng. De Rhodes ở lại Đà Nẵng 18 tháng.
Tháng 7/1626, De Rhodes và Pedro Marques trở về Macao. Ngày12/3/1627, de Rhodes và Marques khởi hành từ Macao để đi Đàng Ngoài. Ngày 19/3/1627 họ đến Thanh Hóa. De Rhodes giảng đạo ở Đàng Ngoài đến tháng 5/1630, thì bị trục xuất. Trở về Macao, ông ở lại 10 năm bên Tầu. Sau đó ông trở lại Đàng Trong bốn lần từ 1640 đến 1644: (1/1640- 9/1640) (12/1640-7/1641) (1/1642-9/1643) (1/1644-7/1645). Lần cuối cùng, ông bị bắt, bị kết án tử hình, chúa ân xá nhưng trục xuất vĩnh viễn.
![]() |
Bìa sách Du Hành và Truyền Giáo |
Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2019
Thuỵ Khuê: Quê Hương Ngày Trở Lại, IV - Phú Yên
![]() |
Bãi biển Đại Lãnh |
Cristoforo Borri
Từ Nha Trang chúng tôi đi dọc bờ biển Phú Yên lên Quy Nhơn, qua Vạn Giã, Đại Lãnh, Tuy Hòa... cảnh đẹp vô cùng, bao ghềnh đá, đầm, vịnh, mỏm, bãi... không bút nào tả hết được.
Phú Yên là vùng đất địa đầu phía Nam mà chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1600-1613) đã chinh phục đầu thế kỷ XVII. Biên giới phía Nam lúc bấy giờ tới Đèo Cả. Năm 1611, Nguyễn Hoàng mới đặt phủ Phú Yên, cho Văn Phong (không rõ họ) làm Lưu thủ. Năm 1629, dưới thời Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), Văn Phong làm phản, bị Nguyễn Phước Vinh (con trai Mạc Cảnh Huống và con rể Chúa Sãi, vì có công nên được đổi thành họ Nguyễn Phước) dẹp tan. Chúa Sãi lập thêm Trấn Biên (Khánh Hòa ngày nay). Nhà thờ Hà Dừa ở Nha Trang, có phong cách của những nhà thờ đầu tiên trên đất Việt (theo sự mô tả của giáo sĩ CristoforoBorri) vì có những cột toàn bằng gỗ lim, thổ sản vùng này.
Gành Đá Điã ở Phú Yên là một thắng cảnh rất lạ, đó là một quần đá, có đến hàng vạn điã đá chồng chất lên nhau, với những hình thù kỳ dị ngoạn mục.
Nhưng về di tích tôn giáo, đáng kể là nhà thờ Mằng Lăng.
Nhà thờ Mằng Lăng ở Phú Yên, không phải là nhà thờ cổ như Hà Dừa, nhưng bên cạnh nhà thờ có một cái hang là nơi thờ phụng á thánh André Phú Yên và lưu trữ một bản cuốn sách song ngữ Việt-La Cathechismus (Phép giảng tám ngày) của Alexandre de Rhodes, xuất bản tại La Mã năm 1651. Tinh Việt in lại tại Sài Gòn năm 1961. Bản lưu trữ ở đây là bản in ở Sài Gòn, những chữ quốc ngữ cổ đã bị sửa, không viết theo bản gốc, nên đối với việc nghiên cứu ngữ học, không có nhiều giá trị.
Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2019
Thụy Khuê: Quê Hương Ngày Trở Lại, III - Nha Trang
Máy bay từ Sài Gòn ra Nha Trang đỗ tại phi trường Cam Ranh. Đường từ phi trường về Nha Trang là một xa lộ rất đẹp, không kém gì những đại lộ nổi danh trên thế giới mà tôi đã đi qua.
Trước khi về nước, tôi đã được đọc những bài báo mạng vô cùng khẩn cấp báo động việc người Tầu đang chiếm miền Nam, họ đã chiếm hết Nha Trang rồi, có một "phóng viên tại chỗ" chụp hình những cửa hàng trên bờ biển Nha Trang 100% là Tầu, y hệt như ở Hồng Kông hay Thượng Hải, vị "phóng viên" này còn cho biết, Nha Trang hiện đã cho tiêu tiền Trung Cộng. Ngoài những thông tin giật gân này lại còn có bài báo (vẫn trên mạng) mô tả chuyện người Hoa ăn thịt người, với chứng cớ đầy đủ: chụp hình mâm cỗ thịt người có món xào, món rán, món nấu ninh rựa mận, kèm bên cạnh là ảnh cô kiểu mẫu chân dài tóc mượt, mắt bồ câu, trước khi bị chặt làm cơm.
Chúng tôi đến Nha Trang không phải để kiểm tra những "sự kiện" này, vì khi về Sài Gòn và xuống miền Tây đã tìm chả ra mống Tầu nào, muốn ăn cơm Tầu, cũng khó kiếm, còn chuyện cô tốp mô đen mắt bồ câu bị cắt ra xào nấu, thì tôi chắc vị nào có cao kiến đem vụ việc lên internet phải là người trí thức có đọc Thủy Hử và Lỗ Tấn, mới biết chuyện "người Trung Hoa ăn thịt người" mà minh chứng bằng hình ảnh. Nhưng ông (hay bà) này lại không coi chừng tụi nhà văn, họ nói vậy mà không phải vậy. Cụ Thị Nại Am kể chuyện hồi đó (tức là hồi 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc phất cờ khởi nghiã, nước Trung Hoa loạn lạc, cướp bóc, tham ô, giặc giã nổi lên khắp nơi, đi tới chỗ hẻo lánh nào cũng có quán rượu thịt người. Là cụ ấy cường điệu, muốn nói nước Tầu hồi ấy đầy dẫy trộm cướp giết người. Còn ông Lỗ Tấn nói đồng bào của ông ta ăn thịt người thì được, chứ kẻ nào không phải người Tầu dám nói như thế, vô phúc ông ấy biết được là ông ấy hiện về bóp cổ lè lưỡi ngay. Bởi ông Lỗ Tấn cũng dùng hình ảnh người Tầu ăn thịt người để chỉ một xã hội Trung Hoa hiện đại xuống dốc, người xâu xé người, chỉ muốn "ăn thịt" lẫn nhau; chuyện này áp dụng vào dân tộc Việt Nam hiện nay cũng không sai mấy đâu, tôi sẽ nói thêm ở dưới.
Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2019
Thuỵ Khuê: Quê hương ngày trở lại, II - Côn Đảo
Từ Sài Gòn, chúng tôi lấy máy bay ra Côn Đảo.
Chiếc máy bay nhỏ chở đầy hành khách, không một chỗ hở. Mọi người cười nói ồn ào, dường như quen nhau cả. Tôi để ý: hầu như không có người Nam, máy bay chở toàn người Bắc. Có lẽ đây là một đoàn du lịch có tổ chức, mà chúng tôi là hai người lạ duy nhất lạc vào, lại ăn mặc lôi thôi, không giống ai. Tôi đã chú ý đến đám này ngay từ lúc đứng xếp hàng ở Tân Sơn Nhất, vì ông già nhà tôi (kẻ hay than phiền nhất thế giới) lầu bầu rằng mình đến trước mà bị người đến sau lấn chỗ, lời qua tiếng lại với một người đàn ông cao lớn như Tây, áng chừng là trưởng đoàn; thế là ông Tây ta tay dứ nắm đấm định đánh: "Thằng già điên, liệu hồn, muốn chết hử?". Tôi vội vàng líu ríu xin lỗi, vì sợ ông lỡ tay đánh thật thì ông già nhà tôi ra ma ngay.
Từ lúc ấy tôi mới quan sát phái đoàn kỹ hơn: Các ông bà đều mặc quần áo đắt tiền, cười nói oang oang như chỗ không người (y hệt bọn Tây đi du lịch các nước nhược tiểu cách đây mấy năm về trước) giọng en-nờ, e-lờ lẫn lộn. Các bà vận áo đầm đúng mốt, phấn son sặc sỡ, ví vuy-tonloại mới, tôi chắc ví thật. Thứ ví đầm này chúng tôi ở bên Pháp đã ba đời, không đời nào dám mua, vì giá nó đắt bằng một tháng lương người trung lưu, nhưng hai con cháu ngoại tôi lại chê xấu, chúng bảo chỉ tuyền một mầu nâu xỉn và in toàn chữ LV viết móc vào nhau, không có gì sáng tạo. Bây giờ nhà vuy-toncũng thấy nhược điểm ấy rồi, họ tân trang mầu sắc rực rỡ chẳng kém gì các mác khác. Điểm lạ ở đây là các phu nhân ăn mặc sang trọng như vậy nhưng tay họ lại vác đầy đồ: Các bà cầm những bó hoa thượng hạng, hoặc lệ khệ ôm đồ lễ, vàng mã, đèn nhang. Hoa cũng sang, thứ huệ trắng như tranh Tô Ngọc Vân.Hoa này bên Tây gọi là lys, mỗi bông cũng phải gần chục Euros, tôi chẳng dám mua bao giờ, trừ khi con cháu cho. Tôi không hiểu họ đi Côn Đảo làm gì mà lễ mễ mang theo những thứ lỉnh kỉnh này, chẳng lẽ tất cả mọi người đều có thân nhân chết trong tù, nhưng không dám hỏi, một phần vì vẫn còn sợ ông Tây ta, một phần vì thấy các bà cũng không có vẻ bình dân lắm. Ra khỏi sân bay, hai chúng tôi đi cùng xe ca lớn với họ về khách sạn, trên con đường duy nhất, dọc bờ biển, quanh co đồi núi, phong cảnh tuyệt vời. Xe vừa ra khỏi phi trường chừng cây số, đã thấy một bức tường cổ, tôi đoán chừng là tường thành Catchpoole.
Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2019
Thụy Khuê: Quê hương ngày trở lại
Về Sài Gòn tôi bị lạc. Tình trạng lạc hướng kéo dài trên taxi, xe ôm, đi một mình hay cùng gia đình, bè bạn, tôi thường lẩm nhẩm trong đầu: đường này Gia Long, Tự Do đây, chắc là Lê Văn Duyệt...Nhưng khi ra đến Hà Nội, lại tịnh không có sự lẩm nhẩm nào.
Hôm tới Lê Văn Hưu ăn phở, dù phố này nay đã hoàn toàn khác với trí nhớ, tôi vẫn nhận ra: đây là Lê Văn Hưu, đi tới chút nữa rẽ ngang là phố Huế. Đèn phố Huế bẩy mươi năm qua chưa bao giờ tắt trong tôi. Những tối gần Noël, một đứa nhỏ năm, sáu tuổi dí sát mũi vào cửa kính hàng bán đồ chơi, thèm thuồng nhìn mấy con búp bê Pháp, tóc vàng, mắt xanh mà mơ đến ngày nó sẽ được ôm một con búp bê như thế, nó sẽ chải tóc, thắt nơ cho nó như thế nào, nó chưa từng dám mơ đến một ngày sang Pháp.
Hôm nay, từ phố Huế, đứa nhỏ bẩy mươi ba, bước trở lại Lê Văn Hưu, đi thêm chút nữa sẽ tới phố nhà nó: Thi Sách, số bẩy. Chợ Hôm mặc dù chỉ nuôi nó có 5 năm, từ 5 đến 10 tuổi, đã trở thành người vú chưa từng rời nó bao giờ. Sài Gòn, hồi ấy tôi sống ở đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) từ 10 đến 18 tuổi, đã lớn, ngoài giờ học, đạp xe đi chơi suốt, thuộc lòng hầu hết các con đường, thế mà sao bây giờ lại lạc? Từ khi rời nước năm 1962, tôi về lại cả thảy bốn lần: 74, 84, 93 và 97. Trừ lần 74 không lạc, còn ba lần sau, lần nào cũng lạc. Điều nhỏ nhặt này cứ luẩn quẩn trong đầu bao nhiêu năm, bây giờ ra Hà Nội tôi mới hiểu: tại việc đổi tên đường. Hà Nội và Sài Gòn đều của tôi, chúng đã tham dự vào mảnh đời thời thơ ấu và niên thiếu, vậy mà tôi không lạc Hà Nội thời bé, lại lạc Sài Gòn thời lớn, bởi vì đường phố Hà Nội không hề bị đổi tên: phố Huế vẫn là phố Huế, Hàng Bài, Trần Hưng Đạo vẫn là Hàng Bài, Trần Hưng Đạo. Những nhân vật có công với cách mạng, không có chỗ đứng trong quận Hoàn Kiếm, trung tâm Hà Nội, mà nhã nhặn trụ vòng ngoài, trên những đường phố mới xây sau này, họ biết lịch sự sắp hàng theo đúng trật tự thời gian của lịch sử. Nhờ vậy, những ai trở lại Hà Nội, dù bẩy, tám mươi năm sau, vẫn nhận diện được ba
Hôm tới Lê Văn Hưu ăn phở, dù phố này nay đã hoàn toàn khác với trí nhớ, tôi vẫn nhận ra: đây là Lê Văn Hưu, đi tới chút nữa rẽ ngang là phố Huế. Đèn phố Huế bẩy mươi năm qua chưa bao giờ tắt trong tôi. Những tối gần Noël, một đứa nhỏ năm, sáu tuổi dí sát mũi vào cửa kính hàng bán đồ chơi, thèm thuồng nhìn mấy con búp bê Pháp, tóc vàng, mắt xanh mà mơ đến ngày nó sẽ được ôm một con búp bê như thế, nó sẽ chải tóc, thắt nơ cho nó như thế nào, nó chưa từng dám mơ đến một ngày sang Pháp.
Hôm nay, từ phố Huế, đứa nhỏ bẩy mươi ba, bước trở lại Lê Văn Hưu, đi thêm chút nữa sẽ tới phố nhà nó: Thi Sách, số bẩy. Chợ Hôm mặc dù chỉ nuôi nó có 5 năm, từ 5 đến 10 tuổi, đã trở thành người vú chưa từng rời nó bao giờ. Sài Gòn, hồi ấy tôi sống ở đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) từ 10 đến 18 tuổi, đã lớn, ngoài giờ học, đạp xe đi chơi suốt, thuộc lòng hầu hết các con đường, thế mà sao bây giờ lại lạc? Từ khi rời nước năm 1962, tôi về lại cả thảy bốn lần: 74, 84, 93 và 97. Trừ lần 74 không lạc, còn ba lần sau, lần nào cũng lạc. Điều nhỏ nhặt này cứ luẩn quẩn trong đầu bao nhiêu năm, bây giờ ra Hà Nội tôi mới hiểu: tại việc đổi tên đường. Hà Nội và Sài Gòn đều của tôi, chúng đã tham dự vào mảnh đời thời thơ ấu và niên thiếu, vậy mà tôi không lạc Hà Nội thời bé, lại lạc Sài Gòn thời lớn, bởi vì đường phố Hà Nội không hề bị đổi tên: phố Huế vẫn là phố Huế, Hàng Bài, Trần Hưng Đạo vẫn là Hàng Bài, Trần Hưng Đạo. Những nhân vật có công với cách mạng, không có chỗ đứng trong quận Hoàn Kiếm, trung tâm Hà Nội, mà nhã nhặn trụ vòng ngoài, trên những đường phố mới xây sau này, họ biết lịch sự sắp hàng theo đúng trật tự thời gian của lịch sử. Nhờ vậy, những ai trở lại Hà Nội, dù bẩy, tám mươi năm sau, vẫn nhận diện được ba
Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013
Thụy Khuê - Nguyễn Chí Thiện (1939-2012) và Hoa địa ngục
Thụy Khuê
Năm 1979, một tập
thơ từ Hà Nội được chuyển ra nước ngoài. 1980, được
in ra. Những ấn bản đầu tiên không đề tên tác giả,
chỉ biết đó là một người tù, một kẻ mạo hiểm đã
đem tác phẩm của mình "ném vào" toà đại sứ
Anh. Tác giả lập tức bị bắt. Bị tù. Đó là Hoa địa
ngục của Nguyễn Chí Thiện.
Từ trái: kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, tác giả Hoa địa ngục - nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
nhà văn Thụy Khuê và nhà văn Phạm Phú Minh tại Người Việt's studio
Hoa địa ngục,
khi mới in, mang những tên như Tiếng vọng từ đáy
vực1
(1), Quê hương tù ngục2
(2), v.v... Nhiều năm sau mới trở lại với tên Hoa
địa ngục do tác giả chọn.
Hoa địa ngục
hay những đoá hoa nẩy sinh từ địa ngục -chắc
hẳn đã cảm hứng từ Fleurs du mal (Ác hoa), những
đoá hoa nảy sinh từ nỗi đau, từ cõi ác của
Baudelaire- chiếu vào cuộc đời tù ngục và con người
dưới chế độ toàn trị, theo truyền thống Đỗ Phủ.
Nguyễn Chí Thiện nổi
tiếng ngay, được nhiều giải thưởng quốc tế của các
cơ quan tranh đấu cho nhân quyền, song thơ ông có lẽ chưa
bao giờ được đánh giá đúng mức khi ông còn sống.
Bởi nhiều lý do,
nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là điểm cộng đồng
người Việt hải ngoại chia nhiều phe phái: Phái tả
thiên cộng không chấp nhận những câu thơ chạm đến
"bác" trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phái hữu,
phần lớn không chú ý tới thi ca và tranh đấu; phần nhỏ
cực hữu, sử dụng ông như một vũ khí, một viên đạn
trực tuyến chống cộng. Phái "văn học" xếp thơ
ông vào loại chính trị "phi nghệ thuật". Cuối
cùng chỉ còn lại một số ít người trung thành với thi
ca và tự do, đã bảo vệ ông trong suốt hành trình lâm
nạn và số đông quần chúng vô danh, vô nhãn, đọc thơ
ông trong im lặng.
Những thành kiến cả
yêu lẫn ghét, thường dựa vào mấy câu thơ ông kịch
kiệt chửi cộng sản làm nền. Chính những câu thơ này
đã tạo ra cliché một Nguyễn Chí Thiện chống cộng cực
đoan, quá khích, đi ra ngoài thế giới thi ca Nguyễn Chí
Thiện.
Nguyễn Chí Thiện,
trong sâu thẳm của thi ca, hình hài, và ngôn ngữ, trong
tác phong, trong cách diễn đạt, là một nhân cách thật,
một con người thật. Chỉ vì nói thật
mà mắc vòng tù tội. Một con người ngây thơ, thành
thật, ngơ ngác, vấp ngã trước bao giả trá, tàn ác của
chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong lời
nói, trong câu văn, không hoa mỹ, không vòng vo. Chất thật
ấy bao trùm không gian, bọc lấy người nghe, như một
điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê
hương mà gian dối đã thở thành sự thật.
Năm 1960, ở tuổi 21,
vì trót giảng cho học trò đúng sự thật về một
đoạn lịch sử thế chiến thứ hai, Nguyễn Chí Thiện
phạm tội "phản tuyên truyền", bị kết án
2 năm, nhưng phải tù 3 năm rưỡi, cho đến 1964.
Năm 1966, bị tình
nghi làm thơ chống chế độ, lại bị bắt, bị tù 11
năm, 1977 được thả.
Năm 1979, "ném"
tập thơ Hoa địa ngục vào toà đại sứ Anh, bị
bắt tức khắc. Bị tù 12 năm, đến 1991.
Trước sau tổng cộng
27 năm.
Ngày 28/10/1991, Nguyễn
Chí Thiện được thả. Tháng 1/1995, được sang Hoa Kỳ.
Nguyễn Chí Thiện,
trong sâu thẳm của lời nói, lời thơ, chính là sự
thành thật đã qua đời dưới một thế quyền mà sự
giả trá đã trở thành quốc sách.
Sự thành thật nguyên
thuỷ toát ra từ giọng nói và thi ca của ông, làm cho
người nghe, người đọc ở xã hội "tân tiến"
phải ngạc nhiên vì chất men "quê mùa" còn sót
lại trong con "người rừng" đã trải gần ba mươi
năm tù hãm, đói khát, bệnh tật. Đối với thế giới
"văn minh", Nguyễn Chí Thiện là người tiền sử.
Làm thơ khi bắt gặp
một cảnh huống, một ý nghĩ, một tâm sự, một chạnh
lòng,... Ông là nhà thơ trần thuật, một người kể
chuyện bằng thơ.
Thơ ông gần với
lời, thơ ông chính là lời nói vội chưa kịp tu từ
thành thi ca, còn nguyên chất ròng khổ đau tù ngục.
Hoa địa ngục
là thiên hồi ký về cuộc đời tù tội trong những
căn ngục riêng, dưới mái giam chung là cuộc đời
trong xã hội cộng sản.
Người ta trách thơ
ông thiếu nghệ thuật, cũng phải. Ở địa vị ông, có
nhà thơ nào còn kịp nghĩ đến nghệ thuật làm thơ? Còn
kịp nghĩ đến việc gọt giũa một chữ đẹp cho thơ?
Hay tất cả cũng sẽ như ông: chớp nhoáng, ghi lại những
đớn đau gào thét trong thịt da tâm não.
Bản thảo Hoa địa
ngục tập hợp những bài thơ viết tay, dưới đề
năm, chắc là những trang giấy rời, cho nên khi in ra, mỗi
người sắp xếp theo một lối, hầu như vô trật tự,
không theo thời gian, mà cũng không theo chủ đề, các bản
in thường có rất nhiều chữ đánh máy sai, nhưng tạm
gọi là đầy đủ, chỉ hơn kém nhau một vài bài.
Lối in vội, in tất
cả này, chỉ có ích lợi nhất thời; nhưng về lâu về
dài, sẽ gây rối loạn cho độc giả: những bài thơ dở
làm giảm giá trị những bài thơ hay, nhụt chí người
đọc. Bởi thơ cần hay không cần nhiều. Biết bao nhà
thơ đã làm giảm giá trị của mình bằng những bài thơ
dở hoặc những lời thơ lập đi lập lại nhiều lần.
Nguyễn Chí Thiện cũng không ngoại lệ.
Vậy điểm đầu
tiên, khi in hoặc in lại thơ Nguyễn Chí Thiện, có lẽ
nhà xuất bản nên tuyển, lược những bài dở hoặc lập
lại; rồi xếp theo chủ đề, hoặc theo thứ tự thời
gian, để làm sáng tỏ vũ trụ thơ Nguyễn Chí Thiện:
Thân phận con người trong xã hội toàn trị.
Nguyễn Chí Thiện là
nhân chứng không thể loại trừ về một guồng máy kiểm
soát con người từ trí óc đến hành động, từ tay chân
đến tư tưởng.
Hoa địa ngục
vừa là một hành trình thơ, vừa là một hành trình sống.
Hoa địa ngục
là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh:
chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ
toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc.
Văn bản xuất hiện
năm 1979, cũng sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân
cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở
miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 của
Bùi Ngọc Tấn.
Hoa địa ngục
là câu chuyện một thanh niên bước vào đời tràn đầy
hy vọng: 1954, miền Bắc bắt đầu cuộc sống hoà bình,
độc lập, sau chín năm chiến tranh. Ba năm sau, 1957, chàng
sáng tác bài Mắt em, thơ tình, có lẽ là bài thơ
đầu tiên được lưu lại, mang nét lãng mạn của cái
"thủa ban đầu lưu luyến ấy", lần đầu
rung động trước đôi mắt thuyền3
(3). Mắt em thời chưa đi tù, là một hợp âm ca
dao, Lưu Trọng Lư và TTKH trong tình yêu thứ nhất:
Mắt em mềm mại
con đò
Anh nhìn chẳng thấy
hẹn hò một câu
Mắt em
trong mát giòng sâu
Anh nhìn
chẳng thấy nhịp cầu bắc qua
Mắt em là một
vườn hoa
Vắng anh, thắm nở
chói loà sắc hương
Vườn hoa ấy, cảnh
thiên đường
Anh nhìn chỉ thấy
cửa thường đóng nghiêm (Mắt em, 1957)
Người thanh niên 18
tuổi của một Hà Thành đã tiếp thu cách mạng được
ba năm, nhưng chưa "lột xác": vẫn còn mộng đôi
mắt thuyền Lưu Trong Lư, vẫn còn mơ giai nhân đài
các "đóng nghiêm" trong khung cửa Thâm Tâm TTKH.
Một năm sau, 1958, thơ
đã buồn hơn, đã nhuốm màu hoang sơ Hà Nội sau bốn năm
"giải phóng". Thơ luyến nhớ dĩ vãng. Hà Nội
bây giờ nằm im, lo sợ, chờ đợi bản án Nhân Văn:
Quanh hồ liễu rủ
Giữa hồ tháp đứng
âm u
Đền Ngọc Sơn
không hương khói lạnh lùng
Cầu Thê Húc nằm
nghe lá rụng...
Đâu những bác
thầy tầu, thầy cúng
Những bà già đi
lễ năm xưa?
Cảnh hồ gươm mưa
nắng bốn mùa
Lẩn quất bóng
rùa, lặng lẽ... (Quanh hồ liễu rủ, 1958)
Lại một năm nữa
trôi qua, 1959, lịch sử miền Bắc xuyên dần vào thơ. Cái
sợ của người dân thấm dần vào không gian, cỏ lá.
Không khí âm u vượt biên Hà Nội, trải rộng, trải dài,
lan tới núi rừng, tới thượng du, tới những bản xa nơi
địa đầu hoang dã:
Vài cánh dơi chập
chờn quanh cổ miếu
Rừng ngả dần mầu
hiểm bí, âm u
Gió đìu hiu thoang
thoảng lạnh hơi chiều
Sương ẩm ướt
bắt đầu rơi phủ
Trong lặng vắng
vút ngân dài tiếng hú
Vài cánh chim lạc
lõng vội bay về
Lời tối tăm vang
dậy bốn bề
Tiếng ếch nhái
côn trùng trong cỏ nước
Người lữ khách
giật mình chân rảo bước
Bản mường xa có
kịp tới qua đêm? (Vài cánh dơi, 1959)
Nhưng 1959 cũng là năm
người thanh niên hai mươi tuổi ngước mắt nhìn xã hội,
nhìn con người và cuộc sống. Niềm vui đánh đuổi được
thực dân Pháp đã qua lâu rồi, chỉ còn lại mầu đỏ
búa liềm, liệm dần cuộc đời thực tại trong bốn bức
tường độc tài của một người, một đảng.
Nguyễn Chí Thiện bắt
đầu vẽ chân dung. Bức tranh đầu, ông vẽ một người
mù, một xẩm tân thời sống trong chế độ mới; đồng
thời cũng là ý thức của chính mình, lần đầu tiên
tỉnh dậy, nhìn thấy sự thực nằm sau những bức bình
phong giả, bài trí ánh sáng, ấm no tân tạo:
Tôi thường đi qua
phố
Có anh chàng mù,
mắt như hai cái lỗ
Kính chẳng đeo,
mồm thời xệch méo
Ngậm vào tiêu, cổ
nổi gân lên
Dốc hơi tàn thổi
đứt đoạn như rên
Mấy bài hát lăng
nhăng ca ngợi Đảng
Đã mang lại ấm
no và ánh sáng!
Một buổi sớm anh
như choáng váng
Gục xuống đường,
tiêu rớt sang bên
Tôi vội vàng chạy
lại đỡ anh lên
Anh chỉ khẽ rên:
Trời, đói quá! (Tôi thường đi qua, 1959)
Năm 1959 đối với
Nguyễn Chí Thiện đánh dấu ngõ quặt của nhận thức.
Ngày Thiện đỡ người mù dậy, cũng là ngày anh đỡ
chính anh, mang tâm thức anh từ vùng tối ra vùng sáng.
Nhưng đó cũng là ngày đại hoạ cho anh: từ nay, anh sẽ
thay người mù bước vào bóng tối của lao tù cho đến
hết tuổi trẻ.
Năm 1960, lại một
bước nữa dấn thân vào định mệnh: Nguyễn Chí Thiện
nhận dạy thay một người bạn ốm vài giờ lịch sử
cho lớp học bổ túc văn hóa ở Hải Phòng. Bài giảng về
đại chiến thứ hai, thấy sách giáo khoa viết Nhật đầu
hàng là do Hồng Quân Liên Xô đánh bại quân Nhật ở Mãn
Châu, Thiện bèn đính chính: Nhật đầu hàng vì Mỹ bỏ
hai quả bom nguyên tử. Chuyện vu vơ, chẳng dính líu gì
đến chính trị Việt Nam, thế mà anh bị đưa ra toà,
lãnh án 2 năm tù vì tội "phản tuyên truyền".
Người con trai 20 tuổi, bị giam vì trót dậy học trò sự
thực, chưa tiên đoán được những gì sẽ đến trong
tương lai:
Nửa đời thân thế
long đong
Nhà thương tù ngục
xoay vòng tuổi xuân
Một năm thổ huyết
hai lần
Mười năm cấm cố
tiêu dần thịt da
Rừng hoang biên
giới mưa sa
Hoẵng kêu nấc
gịong xa xa trên ngàn
Chăn đơn khôn ấm
nỗi hàn
Co lên đất tấm
thân tàn bỏ đi... (Đêm nằm nghe, 1974)
1961, nẩy sinh một
Nguyễn Chí Thiện khác, một nhà thơ lột xác, đã
thôi lãng mạn, giã từ yêu đương, miễn tiếc nhớ, để
bước vào thực chất lao tù, bước vào định mệnh:
Có những chiều
mưa buồn lạnh cóng
Giữa bùn trơn tê
tím xương da
Chống cuốc nhìn
rừng núi bao la
Trong bụi nước mờ
mờ lẩn bóng...
Có những chiều
mặt trời như lửa bỏng
Giọt mồ hôi mờ
xót con ngươi
Đặt gánh phân
nhìn bốn phía đất trời
Rừng núi đứng im
lìm trong nắng loá
Có những chiều
thịt gân rời rã
... (Có những chiều,
1961)
Nguyễn Chí Thiện,
nhà thơ nhân chứng
Từ đây, Nguyễn Chí
Thiện trở thành nhà thơ nhân chứng, trở thành Đỗ Phủ
của địa ngục trần gian, của thiên đường cộng sản.
Tia mắt ánh xanh lạ lùng ở một người châu Á ấy đã
quắc lên.
Ở tuổi 23, ông viết
bài thơ đầu tiên mô tả thực chất đời tù. Ở người
thanh niên lãng mạn mơ mộng hiền lành mấy năm về
trước, nay đã có sự đổi thay toàn diện từ lực tâm
đến lực bút, những chữ dữ dội, khốc liệt, vung lên:
Chúng tôi sống
giữa lòng thung lũng
Bốn bên là rừng
núi bọc vây quanh
Ở rúc chui trong
mấy dẫy nhà tranh
Đầy rệp muỗi,
đầy mồ hôi, bóng tối
Bệnh tật cho nhau,
đời ôi hết lối
Tuyệt vọng ngấm
dần, hồn xác tả tơi
Bảo đây là kiếp
sống của con người
Của trâu, chó? So
làm sao, quá khó!
Làm kiệt lực, nếu
không giây trói đó
Ốm ngồi rên, báng
súng thúc vào lưng
Bướng lại ư? Hãy
cứ coi chừng
Xà lim tối, chân
cùm dập nát!
Lũ chúng tôi triền
miên đói khát
Đánh liều xơi tất
cả củ cây rừng
Bữa cơm xong mà cứ
tưởng chừng
Chưa có một thứ
gì trong ruột cả!
Đêm nằm mơ, mơ
toàn mơ thịt cá
Ngày lắm người
vơ cả vỏ khoai lang
Có ai ngờ thăm
thẳm chốn rừng hoang
Đảng cất giấu
dân lành hàng chục vạn
Và sát hại bằng
muôn ngàn thủ đoạn
Vừa bạo tàn vừa
khốn nạn, gian ngoa
Biết bao người
chết thảm chết oan
Chết kiết lỵ,
chết thương hàn, sốt rét
Chết vì nuốt cả
những loài bọ rết
Vì thuốc
men, trò bịp khôi hài
Chế độ
tù bóc lột một không hai
Biết
bao cảnh, bao tình quằn quại
Có những
kẻ thân hình thảm hại
Phổi ho
lao thổ huyết vẫn đi làm
Lời kêu
xin phân giải chỉ thêm nhàm
Phòng y
tế dữ hơn phòng mật thám!
Những
con bệnh bủng vàng hay nhợt xám
Bước
khật khừ như bóng quỷ hồn ma
...
Có những
buổi mưa rơi tầm tã
Vác áo
quần ra đứng cả ngoài sân
Lũ công
an lục soát toàn thân
Thu đốt
cả vật tối cần- miếng dẻ!
Cụ Mác
ơi, cụ là đồ chó đẻ
Thiên
đường cụ hứa như thế kia a?
... (Chúng
tôi sống, 1962)
Chúng
tôi sống, 1962, là một bản cáo
trạng, một bản hùng văn, một bức tranh cô đọng và
chi tiết về cuộc sống hàng ngày của những tù nhân
chính trị trên đất Bắc, chưa bao giờ được viết,
chưa bao giờ được công bố.
Chúng
tôi sống là
bức tranh hiện thực rỏ máu. Sự
thật này, năm 1962 không ai tin được, bởi mọi người
còn chưa hết say chiến thắng Điện Biên, còn đang hướng
về một thiên đường tuyệt đối sau khi dẹp xong bọn
"phản động" Nhân Văn Giai Phẩm.
Phải
40 năm sau, Bùi Ngọc Tấn mới viết những sự thật này
thành tiểu thuyết.
Nguyễn
Chí Thiện đi sớm hơn thế hệ ông bốn mươi năm, vì
vậy mà ông đã không được đánh giá đúng mức, bởi
trong số những người ca tụng Bùi Ngọc Tấn sau này, rất
nhiều đã từng đào thải Nguyễn Chí Thiện.
Chúng
tôi sống nói lên sức sống mãnh
liệt của người thanh niên tên Chí Thiện, hiểu tại sao
có sự trở mình của một ngòi bút bẩm sinh vốn nhu mì,
nay đã lột xác trở thành đanh thép; giải thích tại sao
một thanh niên ốm o ho lao, có thể sống còn và tồn tại
sau 27 năm tù.
Trong
số những chàng trai bị tù vì tư tưởng, Chí Thiện hiện
rõ nét, bởi anh là một nhà thơ, dám nghĩ, dám ghi lại
ngoại cảnh và tâm cảnh của mình. Anh bắt đầu đầu
đặt câu hỏi, về trời, về đất, về nước, về thân
phận. Nguyễn Chí Thiện suy nghĩ lao lung:
Trời
u ám, cây hay là sương xám?
Mây đục
mờ, hay vải liệm mầu tang?
Gió đìu
hiu lạnh buốt can tràng
Hay hơi
thở nơi dương tàn âm thịnh?
Lòng
thung vắng mịt mù hoang lạnh
Hay mồ
ma huyệt địa rấp xương khô?
Từng
đoàn đi thiểu não toán tội đồ
Hay quỷ
đói nơi trần gian địa ngục?
Những
chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhục
Mắt
lạnh lùng, ngời sáng lửa âm u
Họ
ngước trông non nước mịt mù
Và
cúi xuống, nặng nề suy nghĩ...
(Trời u ám, 1962)
Kể
từ đêm trừ tịch 1961, Chí Thiện nhận thức được vai
trò nhân chứng của mình. Kể từ nay, anh quyết tâm ghi
lại trong đầu từng cảnh sắc, từng hình ảnh, từng
chi tiết nhỏ nhoi:
Đêm
rừng, rả rích mưa, phòng dột
Ôm gối
ngồi run lạnh nhìn nhau
Chấm
lửa mờ xanh một ngọn đèn dầu
Thùng
nước giải, thùng phân, sàn rệp đốt
Đêm
trừ tịch tù năm sáu mốt. (Đêm
rừng rả rích, 1962)
Mỗi
trạng huống, mỗi âm thanh, có thể trở thành một bài
thơ khủng khiếp. Chưa nơi nào, chưa thơ nào mà kiếp
người kinh hoàng đến thế:
Trời
mưa tầm tã đêm qua
Sáng nay
lạc rỡ còn pha trộn bùn
Sá gì
bệnh sán, bệnh giun!
Dịp may
hiếm có, tùn tùn nuốt nhai
Tôi nghe
rào rạo bên tai
Một
nhân lạc phải trộn hai nhân bùn
(Trời mưa tầm tã, 1962)
Cái
đói ở đây không còn nguyên chất sinh học nữa nữa,
không còn trọn khối nữa, mà nó đã hoá thân, hóa chất,
nhập vào mỗi âm thanh: tùn tùn
nuốt nhai, rào rạo
bên tai, một nhân lạc trộn
hai nhân
bùn. Nó
đánh động lương thức người đọc như một thứ bom nổ
chậm mà chắc.
Vẫn
chuyện rỡ lạc, năm sau, cái đói mở ra một trận tuyến
khác: nó dẫn đến sự trừng trị, nó là cái cớ để
cái ác có cơ hội ra tay, như nhân với quả:
Toán tôi
rỡ lạc ngoài đồng
Có ông
quản giáo ngồi trông đàng hoàng
Thừa cơ
quản giáo trông ngang
Một anh
tranh thủ vội vàng nuốt nhai
Vài nhân
lạc cả vỏ ngoài
Quả
tang! Báng súng nện hoài không thôi!
Mồm
anh toé máu, vều môi. (Toán tôi
rỡ lạc, 1963)
Chưa
có một thế giới nào dã man đến thế: vừa chết đói
vừa bị đánh.
Nhưng
sự kinh hoàng đến từ chỗ khác: Sự
thản nhiên của người kể, nhẹ nhàng như thuật một
chuyện vui hàng ngày. Những chữ thừa
cơ, tranh thủ hàm ý khôi hài,
càng làm tăng tốc ác, làm dầy cái bạo tàn, làm tê liệt
hệ thần kinh người đọc.
Thơ
Nguyễn Chí Thiện không gọt giũa mỗi chữ mỗi lời,
cũng không cao siêu tư tưởng, mà chỉ là những lời lẽ
bình thường, thậm chí tầm thường nữa, nhưng chúng làm
ta giật mình bởi chất dã man, tàn bạo ẩn trong những
con chữ nhu mì hiền hậu, lừa ta vào ổ phục kích bất
ngờ.
Cũng
năm 1963 này, Nguyễn Chí Thiện sáng tạo những câu thơ
lãng mạn pha máu và nước mắt. Sự tuyệt vọng lên
ngôi, người thanh niên 24 tuổi, sau ba năm tù tội, đã
nghiền tan cái lãng mạng của thời mình trong những dòng
thơ tuyệt vọng, những câu thơ tím bầm mình mẩy, những
vần thơ run sợ thất thần trên đường lên máy chém:
Khi ta
tới mặt trời đã nguội
Gió mùa
thu trở gió may cào
Những
mầm non khô cứng tế bào
Mau thay
sắc mang mầu xanh rớt
Và mặt
đất hoá thành mặt thớt
Và con
người con cá thiu ươn
Khắp
nơi nơi nhung nhúc loài lươn
Loài
giun đất không quằn khi dẫm
Tình
mộng đã vùi chôn một nấm
Hận thù
trơ trọi sống mồ côi
Những
vần thơ lãng mạn câm rồi
Còn
rỏ xuống một dòng đỏ sẫm
(Khi ta tới, 1963)
Những
vần thơ lãng mạn câm rồi
-chính là thơ bị trảm tấu, thơ bị tử hình- là đỉnh
cao của tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng trở thành độc
dược, ngấm dần vào cơ thể thanh niên, hủy hoại hệ
thần kinh, rút dần xương tuỷ:
Mầu
thời gian đã chuyển về sắc xám
Vị thời
gian đã ngả tới mùi thiu
Nửa
trang đời dập, xoá, tẩy còn lưu
Và còn
đó nửa trang dài lạnh trắng...
Tim trúng
độc hóa ra bầu mật đắng
Hệ thần
kinh một mớ chỉ xù lông
Nửa
trang đời không một chữ nào trông
Thành
nét chữ, nửa trang đời lạnh trắng...
...
Dông gió
hết bơ phờ trong quạnh vắng
Cảnh
hoang tàn cây đổ mái nhà xiêu
Nửa
trang đời thâm tím với bầm biêu
Lòng
dột nát, nửa trang đành bỏ trắng?
(Mầu thời gian, 1963)
Đã
xa rồi cái buổi "mầu thời
gian xanh xanh" của Đoàn Phú
Tứ. Mầu thời gian, ở Nguyễn Chí Thiện, nó sắc xám,
nó đã ngả mùi thiu, nó là trái tim trúng đạn, nó là
hệ thần kinh rối bét như mớ chỉ xù, nó là nửa trang
đời bỏ trắng, nó là chưa sống mà đã chết... nó là
mầu tuyệt vọng của thời gian. Bên cạnh sự tuyệt vọng
của thời gian, là sự hấp hối của một người em tập
kết:
Những
manh áo vải
Tả tơi
Vật vã
Vào thịt
da...
Em có
lạnh lắm không?
Mưa gió
mênh mông
Thung
lũng sũng nước bùn
Bệnh xá
mối đùn, ẩm mốc
Những
khuôn mặt xanh vàng gầy rộc
Nhìn
nhau, đờ đẫn không lời
Nhát
nhát em ho
Từng
miếng phổi tung rời
Bọt
sùi, đỏ thắm!
Em chắc
oán đời em nhiều lắm
Oán con
tầu tập kết Ba Lan
Trên
sóng năm nào
Đảo
chao
Đưa em
rời miền Nam chói nắng...
...
Sáng nay
em không trống không kèn
Giã từ
cuộc sống
Xác
em rấp trên đồi cao gió lộng (Anh
gặp em, 1965)
Toàn
bộ thời gian, không gian, người, vật, đều sống trong
mùi tử khí, đều là những chân dung xác chết, nối tiếp
nhau trong vườn hoa địa ngục. Người đọc lạc vào cửa
tử trong trận đồ bát quái không tìm được lối ra. Bên
cạnh xác người em tập kết là xác chết một thân trâu:
Trông
trâu mà khiếp cho trâu
Lở
loang, tanh loét, sắc mầu nhở nham
Lệnh
ban giám thị nhà giam
Mừng
ngày quốc khánh cho làm thịt ăn
Tù nhân
tính toán băn khoăn
Bốn
mươi cân thịt, người ăn một nghìn!
(Trông trâu mà, 1967)
Trong
bữa tiệc mừng quốc khánh, mỗi
người tù được hưởng 40g thịt trâu chết bệnh. Chưa
có cao lương nào đạt vị khôi hài chua chát cay độc đến
vậy. Nhưng chưa hết, bên cạnh xác trâu lở loang, tanh
loét; bên cạnh một nghìn xác tù hom hem; bên cạnh bữa
tiệc quốc khánh quái đản, lại là một chân dung người:
Bác nằm
liền sát cầu tiêu
Mùi phân
nước giải sớm chiều nồng hôi
Bác ơi,
bác sắp chết rồi
Bác
không còn sức để ngồi được lên
Bác nằm
thoi thóp khẽ rên
Bát cơm
ngô, bát rau dền đặt bên
Bác thèm
một miếng đường phèn
Nhà giam
Cộng sản bác quên bác tù
Trưa nay
cái chết lù lù
Tới
khiêng bác - Khối hận thù ngàn thu!
(Ốm đau không thuốc, 1968)
Cuối
cùng, sống chết giao lưu trong một cuộc gặp gỡ lạ
lùng. Người hấp hối và thần chết trò chuyện với
nhau trong không gian âm dương giao kết, buốt lạnh:
Nhìn
thần chết hiện lên dần từng bước
Thân tù
cao không có lực xô lùi
Anh chết
oan, chết thảm, chết dập vùi
Hồn khổ
não không thể nào siêu thoát
Đêm đêm
hiện về đây lạnh toát
Bộ đồ
đen, bụng phù trướng, bước đi
Anh ngước
nhìn tôi, ra hiệu, chẳng nói gì
Mặt
bủng xám, mắt ngời lên sáng quắc
...
Thế đủ
rồi, tôi hiểu, hãy nên lui
Thể xác
anh chuột khoét đã chôn vùi
Hồn anh
hãy về vui nơi cực lạc
Lưu
luyến chi đời tù lao đói rạc
Sống
đọa đầy thoi thóp, sống ngựa trâu
Chết
như anh, hết khổ có chi sầu
... (Nhìn
thần chết, 1968)
Trong
nhiều năm, Nguyễn Chí Thiện ngồi vẽ chân dung như thế,
bức nọ để cạnh bức kia, thành cuộc triển lãm một
quần hội nửa người, nửa thú, đang sống mà đã chết.
Một thế giới người, vật, âm, dương, không phân chia
giai cấp, không phân liệt đấu tranh. Một vùng ngoại
biên, trên sông lú, người và vật cùng bị giam trong một
không gian kín, chết sống giao thoa. Cái đói là bát cháo
lú khiến người tù quên mình khi trước đã từng là một
con người:
Suất
cơm tôi một hôm đánh đổ
Tôi còn
đương đau khổ nhìn theo
Thì
nhanh như một đàn heo
Bốn,
năm đầu bạc dẫm trèo lên nhau
Bốc ăn
một lúc sạch làu
Miếng
cơm, miếng đất, lầu bầu chửi nhau!
(Suất cơm tôi, 1966)
Trên
bờ sông nghĩa địa ấy, người thanh niên Chí Thiện tồn
tại như một vong hồn:
Tôi
đương sống, nhưng từ lâu đã chết
Chết
trong tim, trong óc, chết tâm hồn
Cố đào
lên bao thứ sớm vùi chôn
Song
chúng đã xông mùi, tan rữa hết (Đoản
thơ, 2)
Kẻ
nhận định thơ mình đúng nhất cũng lại là tác giả.
Mười năm sau khi vào tù lần thứ nhất, Nguyễn Chí Thiện
"nhận định" thơ mình:
Thơ của
tôi không phải là thơ
Mà là
tiếng cuộc đời nức nở
Tiếng
của nhà giam ngòm đen khép mở
Tiếng
khò khè hai lá phổi hang sơ
Tiếng
đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ
Tiếng
khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ
Tiếng
răng lạnh đập vào nhau khổ sở
Tiếng
dạ dầy đói lả bóp bâng quơ
Tiếng
tim buồn thoi thóp đập bơ vơ
Tiếng
bất lực trước muôn ngàn xụp lở
Toàn
tiếng của cuộc đời sống dở
Và
chết thời cũng dở, phải đâu thơ!
(Thơ của tôi, 1970)
Năm năm
sau, 1975, ông làm bài thơ thứ nhì định nghiã thơ mình,
khốc liệt hơn:
Thơ của
tôi không có gì là đẹp
Như cướp
vồ, cùm kẹp, máu ho lao
Thơ của
tôi không có gì cao
Như chết
chóc, mồ hôi, báng súng
Thơ của
tôi là những gì kinh khủng
Như
Đảng, Đoàn, như lãnh tụ, như trung ương
Thơ của
tôi kém phần tưởng tượng
Nó thực
như tù, như đói, như đau thương
Thơ của
tôi chỉ để đám dân thường
Nhìn
thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ
(Thơ của tôi, 1975)
Không
còn gì để bàn trước những lời thơ như thế. Quá
khích ư? Đúng là quá khích. Nhưng có gì quá khích hơn bị
tù vì tội nói thực? Có gì quá khích hơn sự đọa đầy
đến chết vì tư tưởng? Không có gì để khen chê trước
những lời thơ như thế. Không có gì liên quan tới nghệ
thuật trước những lời thơ như thế. Không có gì hàm
súc, không có gì ngụ ẩn trong những lời thơ như thế.
Phê bình đành chịu. Phê bình đành gác bút. Có lần J.P.
Sartre nói: Trước một em bé chết đói, cuốn Buồn
nôn của tôi không có nghiã lý
gì. Chúng ta bảo: trước những dòng thơ tù như thế, mọi
khen chê, mọi nghệ thuật, đều trở nên vô nghiã. Phê
bình đành á khẩu.
Trước
mắt tôi, mặt trời hấp hối
Sau lưng
tôi, bóng tối mịt mùng
Bên phải
tôi, tù ngục chập chùng
Còn
bên trái, súng nhằm tim chắn lối!
(Đoản thơ, 152)
Nguyễn
Chí Thiện, nhà thơ trào phúng
Nhưng thơ
Nguyễn Chí Thiện không chỉ có ngục tù, không chỉ có
đớn đau và xác chết, ông còn có những bài thơ trào
phúng vẽ chân dung lãnh tụ rất có duyên:
- Về bác
Mao:
Bác Mao
cân nặng tạ hai
Thịt ùn
lên mặt, mặt hai ba cằm
Người
dân Trung Quốc thì thầm:
"Nó
là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều!" (Đoản
thơ, 126)
- Về bác
Hồ:
Bác Hồ
rồi lại bác Tôn!
Cả hai
đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước
da hai bác mầu hồng
Nước
da các cháu nhi đồng mầu xanh...
(Bác Hồ rồi lại)
- Lại về
bác Hồ:
Bác Hồ
tới thăm thiếu nhi
Bác cười
bác hỏi chi li ngọn ngành
Việc ăn
ở, việc học hành
Lao động
bác dặn chấp hành tốt, nhanh
Kẹo
bánh bác hứa để dành
Chủ
nghiã xã hội hoàn thành sẽ cho!
Thiếu
nhi khăn đỏ cổ cò
Vỗ
tay suông chúc bác Hồ sống lâu... (Bác
Hồ tới thăm, 1967)
- Về học
thuyết Mác:
Học
thuyết Mác, này đây sọt rác
Xét lại
làm gì, tốt nhất vất nó đi
Sử sách
sau này đỡ mất công ghi
Thêm
quá nhiều trang xám xì tội ác
(Đoản thơ, 169)
- Về thiên
đường Mác:
Thiên
đường cụ Mác dân mơ
Tỉnh ra
tài sản bị vơ nhẵn rồi
Chỉ còn
lại chút mồ hôi
Đổ
ra vì sợ, vì nuôi Đảng rồ!
(Đoản thơ, 180)
Vẽ
chân dung các đại lãnh tụ như thế không phải dễ. Đó
là lối thơ dân gian, lối thơ bút tre của những cụ đồ
hóm hỉnh. Tính chất hóm này những ai đã từng nghe
Nguyễn Chí Thiện nói chuyện thường bắt gặp: trong cái
bi thảm tột đỉnh, tâm hồn ông bao giờ cũng hướng về
một lối thoát, dù rất bé, về phiá mặt trời: ông là
người của niềm vui, của lạc quan. Ông thích cười
nhưng cuộc đời đã làm môi ông chụm lại che kín hàm
răng. Nhưng mắt ông thường lộ một ánh lửa trêu ngươi,
nhạo báng, thách thức, chơi khăm, những thế quyền,
những bạo lực.
Bị
tuyệt vọng đè nát cuộc đời, nhưng ông không chết vì
tuyệt vọng.
Bên
cạnh tiếng cười, thơ ông là một cõi mênh mông lệ,
cõi nước mắt trong vắt như thủy tinh:
Trong
muôn dòng trái đất tuôn đi
Dòng
trong nhất là dòng nước mắt
(Lệ, 1971)
Nguyễn
Chí Thiện, nhà thơ thời thế
Trong
tù, không gian chật lại, bốn mùa co lại, thời gian không
gian cùng chui chung một kiếp với tù nhân. Và mùa xuân,
mùa hy vọng cũng chịu cực hình như người tù phạm:
Bốn bức
rào nứa
Cứa vào
mùa xuân
Một
cách bất nhân
Mùa
xuân máu ứa! (Đoản thơ, 48)
Không
gian và thời tiết trong tù cũng là không gian và thời
tiết của đất nước. Nhưng người tù không được biết
gì về thời thế, về chiến tranh, về tình cảnh dân
tộc. Người tù cũng giống như người nhà nông xưa, phải
xem trời để biết nắng, xem mây đoán mưa. Người tù
cảm nhận thời thế gián tiếp qua thiên nhiên, vũ trụ.
Khi đất nước bị suy vong, khi con người bị trấn áp,
cơn thịnh nộ của đất trời giáng xuống núi rừng như
một lời cảnh giác:
Đêm bão
giật, lửa loè muôn tiếng sét
Nổ đùng
đùng như đánh phá sơn lâm
Nước
từ trời cao đổ xuống ầm ầm
Cả
rừng núi lồng lên gầm quát thét
(Đoản thơ, 95)
Trước
cơn thịnh nộ của đất trời, người tù Nguyễn Chí
Thiện đã hiểu tất cả. Ông phẫn nộ và hờn oán chính
mình, người mình, về chuyện nước non tan tác:
Giận
thân rồi lại giận đời
Giận
thời chuyên chính, giận người hèn ngu
Giận
trời, giận đất âm u
Giận
sông, giận núi quân thù dọc ngang
(Đoản thơ, 140)
Nguyễn
Chí Thiện sống trong tù trong suốt thời gian chiến tranh,
nhưng chắc ông đã hy vọng miền Nam sẽ thắng. Những
câu thơ sau đây đánh dấu sự tuyệt vọng của nhà thơ
khi miền Nam thua trận, cả nước quy về một mối cộng
sản:
Miền
Nam ơi, từ buổi tiêu tan
Ta
sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn
(Vì ấu trĩ, 1975)
Và
trong con người ốm o, tù tội ấy, luôn luôn có sẵn ý
định lật đổ định mệnh của mình và của dân tộc.
Ý chí sắt đá ấy toát thành những lời thơ vũ bão, đặc
dị, khác thường:
Trong
bóng đêm đè nghẹt
Phục
sẵn một mặt trời
Trong đau
khổ không lời
Phục
sẵn toàn sấm sét
Trong lớp
người đói rét
Phục
sẵn những đoàn quân
Khi vận
nước xoay vần
Tất
cả thành nguyên tử (Trong bóng
đêm, 1976)
Sau
này, khi chế độ toàn trị chỉ còn là quá khứ, những
Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Kiều Duy Vĩnh,
Nguyễn Chí Thiện, Bùi Ngọc Tấn... sẽ trở thành chứng
nhân của lịch sử; một lịch sử sống động, trực
tiếp, thành thực về vùng đồng
lầy, viết bằng những từ trần
trụi, không khoan nhượng, mô tả chính sách triệt hạ
nhân quyền ở Việt Nam, trong hậu bán thế kỷ XX:
Đạo lý
tối cao ở xứ đồng lầy
Là lừa
thầy, phản bạn
Và tuyệt
đối trung thành vô hạn
Với
Đảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng
Hạt
thóc, hạt ngô phút hoá xích xiềng
Hoạ,
phúc toàn quyền của đảng (Đồng
lầy, 1972)
Không ai
kêu nổi một lời
Mồm
dân Đảng khoá đã mười mấy năm
(Gửi Bertrand Russell, 1968)
Lời
thơ tuy như nói, nhưng có tác dụng bằng trăm lời nói
thường, bởi nó có cấu trúc nội tâm là sự
thật.
Bài
Đồng lầy
là một bản trường ca về thời đại Nguyễn Chí Thiện
đã sống, một cõi đồng lầy
với những kiếp người như những con giun, với bọn ếch
nhái lên làm chủ và lũ sậy lau co đầu cúi rạp. Cõi
mộng chỉ đến trong giây lát, rồi nhà thơ lại phải
quay về với thực tại, của đêm đen, của dân tộc đẫm
trong ám khí đồng lầy:
Trời
cao biển rộng có cũng như không!
Một
tiếng quạ đêm ảo não rỏ xuống đồng
Tôi tỉnh
hẳn, trở về cơn ác mộng
Muỗi
nhơn nhơn từng đàn vang động
Những
con cưng của ngừng đọng tối tăm
Chúng
trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm
Nên
chúng tưởng màn đen là ánh sáng!
Ếch
nhái vẫn đồng thanh đểu cáng
Chửi
bới mặt trời, ca ngợi đêm đen
Lũ sậy
lau còm cõi đứng chen
Hơi có
gió là cúi đầu rạp hết
Bát
ngát xung quanh một mầu khô chết
(Đồng lầy)
Cả
đoạn thơ trên bị một tiếng
quạ đêm rỏ xuống đồng làm
tan nát. Đúng ra, chỉ một chữ rỏ
thần tình, chua xót, một chữ rỏ
xác định phong cách thơ.
Đồng
lầy làm năm 1972, tóm tắt cuộc
đời Nguyễn Chí Thiện, từ tuổi hai mươi, đầy tin
tưởng vào tương lai, vào ánh sáng cách mạng mùa thu:
"Mơ
ước
Đợi
chờ
Vĩ
đại...
Nhưng
rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại
Tuổi
hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ
sao rực rỡ,
Tô thắm
mầu xứ sở yêu thương
Có ngờ
đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo
phá bờ kim cổ
Tiếng
mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt
trời sự sống
Thổ
ra từng vũng máu hồng (Đồng
lầy)
Lời
thơ cổ điển theo lối kể các truyện nôm xưa: Rằng
năm Gia Tĩnh triều Minh, lại mang
sắc hiện đại của Một mùa thu
năm qua cách mạng tiến ra đất Việt.
Nhưng cơn mộng cách mạng của Nguyễn Chí Thiện -chậm
hơn các bậc đàn anh, vì ông ra đời sau, và cũng chấm
dứt sớm hơn nhiều người khác, bởi ông đã nhìn thấy
trước sự thật: Có ngờ đâu
giáo giở đã lên đường- kéo
theo một chuỗi dài rùng rợn:
Hung bạo
phá bờ kim cổ
Tiếng
mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt
trời sự sống
Thổ ra
từng vũng máu hồng
Lời
thơ mạnh mẽ. Chí khí vẫy vùng.
Thơ
mang bạo lực như cách mạng, nhưng một bạo lực phản
cách mạng.
Phùng
Cung và Nguyễn Chí Thiện là hai nhà
thơ miền Bắc chối bỏ rất sớm Cách
mạng mùa thu. Ông đã nhận ra
trách nhiệm lớn nhất của cuộc cách mạng này là du
nhập chính sách đấu tranh giai
cấp (của Mác, qua lăng kính Mao,
vào đất Việt) là một dòng lũ, bùn, cuốn trôi tổ
quốc:
Một mùa
thu nước lũ
Trở
thành bùn nước mênh mông
Lớp lớp
sóng hồng man dại
Chìm
trôi quá khứ tương lai
Máu, lệ,
mồ hôi, rớt rãi
Đi về ai nhận ra
ai!
Khiếp sợ, sững
sờ, tê dại!
Lịch sử quay tít
vòng ngược lại
Thời hùm beo rắn
rết công khai
Ngàn vạn đấu
trường mọc dậy giữa ban mai (Đồng lầy)
Chỉ có Phùng Cung và
Nguyễn Chí Thiện dám mô tả cách mạng mùa thu như thế.
Nguyễn Chí Thiện bị bắt năm 1960.
Phùng Cung, 1961. Nguyễn kể năm 1970
gặp Phùng trong trại tù Phong Quang, Yên Bái. Tình cờ
chăng? Phùng và Nguyễn cùng tố cáo chiến tranh Nam Bắc?
Súng ống
từng đoàn run run, nhớn nhác
Đảng
lùa đi, tan tác, thương vong
Mái
ngói, mái gianh, lệ thảm ròng ròng
Nhỏ
xuống bốc hơi trong lòng vạc bỏng
Đảng
dữ thét gào, hóc xương ngang họng
Giọng
thều thào, gượng gạo hung hăng
Lưới
thép nền chuyên chính tung quăng
Khốc
liệt, bậy xằng, ức oan, cay đắng
Dân đen
tay trắng cam đành
Từ núi
rừng hoang vu tới phố xá thị thành
Từ hải
đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngát
Mầu áo
vàng cảnh sát
Tràn
lan, nhợt nhạt cả mầu xanh!
Cuộc
sống đồng lầy rộp rát, nhoét tanh
Bom đạn
chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm hại
Cái
cảnh mười đi, hai ba trở lại. (Đồng
lầy, 1972)
Đồng
lầy là một bài thơ thời thế,
bài thơ dấn thân, bài thơ tranh đấu, luận tội cộng
sản và kết án chiến tranh. Đồng
lầy cũng là một bài diễn ca
trong phong cách Hà Thành chính khí
ca, Đại
Nam quốc sử diễn ca... Sau này,
khi mọi chuyện lắng xuống, người ta mới có thể đánh
giá bản trường ca này một cách công bình hơn. Nhưng
chắc chắn nó sẽ là một bài thơ cần phải đọc để
tìm hiểu thời đại này.
Bài
Con tầu rêu,
là một thành công khác, một giá trị nghệ thuật và tư
tưởng.
Dùng
Con tầu rêu
Nguyễn Chí Thiện muốn mượn hình ảnh con
tầu say (bateau ivre) của Rimbaud,
để chỉ những con tầu tự do,
hay sự tự do
của chính mình. Thơ buồn bã như một lời tâm sự:
Con tầu
say như ních chật không gian
Giữa
mùa điên không biết lực điêu tàn
Xô vỡ
vụn nơi ngời băng tuyết loá
Trong
trắng xoá những ngày mưa tầm tã
Con tầu
đau vật vã trước bờ xanh
Phiá mờ
xa thôn xóm đứng yên lành
Thân tầu
đã tan tành trên mũi đá.
Cay đắng
quá những bến nghèo tàn tạ
Đón
trông tầu lui tới, đứng buồn thiu
Khi tầu
tôi men đến cũng dập dìu
Gây sóng
gió đắm dìm cho nhục nhã
Ôi tiếp
tới nước triều dâng vật vã
Con tầu
run chưa tiến đã chờn lui
Đành
một mai nơi đáy nước rêu vùi
Làm chỗ
ở cho tôm, sò, ốc, cá
Tôi đã
biết những đêm dài dòng dã
Con tầu
câm trôi giữa đám trăng sao
Biết
dừng đâu, không bóng hải cảng nào
Ra tín
hiệu đón con tầu buồn bã
Tôi đã
biết những bình minh đói lả
Biến
sang mầu loang tím của chiều hoang
Con tầu
đi, sức kiệt, lệ dòng hàng
Thương
xót những mảnh tầu trôi vạn ngả...
(Con tầu rêu, 1965)
Niềm
tuyệt vọng của Nguyễn Chí Thiện về tự
do đã dấy lên rất sớm, từ
thời thanh niên, tù tội, Từ năm 1965.
Con
tầu tự do trong tim người tù
trẻ phóng đi tìm một bến bờ, tìm sự đồng thanh tương
ứng. Nhưng con tầu của chàng đơn độc một mình. Nó đã
mắc nạn. Không ai cứu giúp. Không ai cho cập bến, đến
cả các bến nghèo, họ cũng đuổi tầu đi. Họ cũng dìm
cho tầu chìm, dường như trên mảnh đất này, tự
do là yếu tố đã bị yểm, bị
mọi người bỏ qua, bị sa thải như một vật phù phiếm,
người ta không cần dùng đến.
Tất
cả những đắng cay của con tầu
rêu, chìm dưới đáy biển, vận
vào thơ, làm nên linh hồn tập Hoa
địa ngục.
Không
ai hiểu hơn tác giả, không ai có thể định nghiã
đúng thơ ông bằng vài đoản thơ sau đây mà chúng tôi
chép lại như lời kết của chính tác giả về đời
mình, về tự do và về thân phận dân tộc:
Hoa địa
ngục tưới bằng xương máu thịt
Trộn mồ
hôi chó ngựa, lệ ly tan
Hoa
trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hàn
Hương
ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt.
Toàn bộ
thơ tôi nặng nề cay cực
Không
một sắc mầu mang khí lực xanh tươi
Vần
điệu nghe như quỷ khóc ma cười
Do
sáng tạo tận cùng sâu đáy vực
(Đoản thơ, 112, 113)
Nguyễn
Chí Thiện đã chết. Một cái chết đột ngột, không ai
ngờ, trừ "tác giả". Một cái chết nhanh, trần
trụi, phanh phui sự thực như thơ ông: Cái chết đứng
của Từ Hải trước trận tiền, bằng những cơn ho xé
phổi, bằng lục phủ ngũ tạng tan tành như trái phá,
trong một ngoại hình gần như vô bệnh.
Cái
chết làm câm đi những lời ngụy biện trong các chiến
dịch "Nguyễn Chí Thiện thật giả, giả thật"
nối tiếp nhau bôi nhọ ông trong vòng nhiều năm, dường
muốn chôn ông lần nữa, bắn ông bằng thứ ám khí tàn
ác không kém gì 27 năm tù cộng sản, của những kẻ sống
dưới xã hội tự do, những kẻ tạm gọi là "đồng
hội, đồng thuyền".
Khi Hồ
Thích bị các đồng chí trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa
đánh, Phan Khôi viết: "Thà
chịu cái độc thủ của kẻ cường quyền, của bọn
tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng
chí, của người quân tử".
Đấy
là Phan Khôi nói về cái chó má của người quân tử, còn
trường hợp Nguyễn Chí Thiện, lại là cái chó má của
bọn tiểu nhân, phỏng có đáng nhắc đến chăng?
Sự
lựa chọn, luôn luôn sự lựa chọn làm nên con người.
Trong muôn vàn lời tiếng ném ra, con người có khả năng
lựa chọn tiếng nào hữu tình, hữu lý; tiếng nào phản,
ngụy, trắc, gian.
Trong
muôn ngàn tiếng muốn tìm ra
Tiếng
nào thiết tha
Tiếng
nào trung thực
Hãy
lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực
(Đoản thơ, 114)
Chúc
thư Nguyễn Chí Thiện để lại là chúc thư ngôn ngữ và
tư tưởng: Mặc kệ ngục tù, mặc kệ xác thân rữa nát,
tư tưởng và ngôn ngữ vẫn sống, sống lâu, sống
dài, sống mãi:
Song ngôn ngữ ngày
đêm vẫn sống
Âm thầm đưa tư
tưởng sang sông
Qua muôn trùng hệ
thống xiềng gông
Đang ra sức dựng
thay cầu cống
Thoát khỏi đầu
là tư tưởng sống (Từ tư tưởng, 1971)
Thụy Khuê
Paris tháng 6-8/2013
Chú thích:
1. Do
Ủy Ban Tranh Đấu Cho Tù Nhân Chính
Trị Tại Việt Nam, nhóm Nguyễn Hữu Hiệu, Viên Linh in
tại Washington DC, 1980.
2. Do Phong trào thanh niên hành
động, in ronéo tại Pháp, không đề năm.
3. Mắt thuyền: chữ của
Lưu Trọng Lư.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)