Hiển thị các bài đăng có nhãn Tự do báo chí. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tự do báo chí. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 6 tháng 8, 2015
Bùi Minh Quốc - Báo chí, truyền thông tự do - 'quyền lực thứ hai'
Gửi cho BBC từ Đà Lạt, Lâm Đồng
Nghe có vẻ ngược ngạo, nhưng sự thực đúng là như thế, bởi đây là
tôi nói ở Việt Nam, hiện nay, và chắc còn tương đối lâu nữa. Tôi không hề cường
điệu.
Tại các nước dân chủ, có tam quyền phân lập, thì
báo chí, truyền thông tự do tự nó đã xác lập và đương nhiên được coi là quyền
lực thứ tư.
Còn ở Việt Nam hiện nay không có tam quyền phân lập, tất cả quyền
lực thâu tóm trong tay “Vua tập thể” (cách gọi tên sự vật rất xác đáng của cựu
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An).
Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014
Vũ Ánh - Hà Nội vẫn chưa đủ niềm tin cởi trói báo chí
![]() |
Từ phải: Vũ Ánh, Lê Văn Khoa, Yến Tuyết, Becky Ngô, Phạm Phú Minh tại đài VNCR 1997. Thời điểm này ông Vũ Ánh là Giám Ðốc Chương Trình của VNCR. (Hình tư liệu) |
Có thể coi đây là bài viết cuối cùng của nhà báo Vũ Ánh. Và cũng là một "tình cờ định mệnh", chủ đề của bài là tự do báo chí, một vấn đề ông quan tâm hầu như suốt cuộc đời làm truyền thông của ông. Chúng tôi xin đăng lại bài này như một nén hương kính viếng ông, đồng thời bày tỏ, qua ngòi bút của ông, niềm ao ước sớm có tự do báo chí trên đất nước Việt Nam. DĐTK
Nếu mà ngày nay có người nào có đủ kiên nhẫn ngồi điểm lại những tác phẩm và các giáo trình chính yếu về tự do báo chí tại những trường đại học báo chí ở nước Pháp và ở Mỹ không thôi và bắt đầu từ một giai đoạn nhất định, chẳng hạn như kể từ khi Tổng Thống Thomas Jefferson (1743-1826) viết một lá thư cho James Curie vào ngày 28 tháng 1 năm 1786 cho đến nay, tôi nghĩ rằng ông ta sẽ bị dẫn vào một mê hồn trận và sẽ có thể không tìm được lối ra.
Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013
Lê Phan - Nghị định 72 và liên hệ với Hoa Kỳ
Lê Phan
Kể từ 1 tháng 9 tới đây chính quyền Hà Nội sẽ cho áp dụng Nghị định 72/2013 về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.”
Ðiều đã dấy lên những phản đối từ các tổ chức nhân quyền và gây hoang mang trong giới nhà báo tự do ở Việt Nam là điều khoản liên quan cái gọi là “trang thông tin tổng hợp” và tin tổng hợp. Về cái gọi là trang thông tin tổng hợp thì chính quyền định nghĩa như sau “Trang thông tin điện tử tổng hợp là trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp thông tin tổng hợp trên cơ sở trích dẫn nguyên văn, chính xác nguồn tin chính thức và ghi rõ tên tác giả hoặc tên cơ quan của nguồn tin chính thức, thời gian đã đăng, phát thông tin đó.”
Khoản 2 của điều 20 như vậy đã khẳng định là các trang thông tin điện tử chỉ có quyền loan truyền những “nguồn tin chính thức.” Cũng trong điều 20, khoản 4 xác định về quyền hạn của “trang thông tin điện tử cá nhân” như sau “Trang thông tin điện tử cá nhân là trang thông tin điện tử do cá nhân thiết lập hoặc thiết lập thông qua việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội để cung cấp, trao đổi thông tin của chính cá nhân đó, không đại diện cho tổ chức hoặc cá nhân khác và không cung cấp thông tin tổng hợp.”
Ngay lập tức chúng ta thấy là mục tiêu của nghị định này là những trang như Anh Ba Sàm, Bauxite Việt Nam, vốn là những trang mà mục đích chính là tổng hợp tin tức và cung cấp cho mọi người. Theo điều khoản trên thì họ sẽ không có quyền hoạt động nữa.
Dĩ nhiên các tổ chức bảo vệ quyền của nhà báo đã lên tiếng. Ở Pháp, Phóng Viên Không Biên Giới (RSF) đã lên án “Việc thi hành nghị định này sẽ dẫn đến việc các cơ quan chính quyền thường xuyên kiểm soát toàn diện và liên tục mạng Internet.” Nhắc lại là theo nghị định, các blog và các trang giao dịch xã hội sẽ chỉ có quyền “cung cấp và trao đổi các thông tin mang tính cá nhân,” RSF khẳng định là nghị định này sẽ tạo nên một “lỗ đen” thông tin ở Việt Nam. RSF kêu gọi “toàn thể cộng đồng quốc tế lên án một cách nghiêm khắc Việt Nam, nếu chính quyền Việt Nam thị hành Nghị định 72...”
RSF còn yêu cầu tính đến việc loại Việt Nam ra khỏi các đàm phán liên quan đến thỏa thuận mậu dịch xuyên Thái Bình Dương TPP vì trong thỏa ước này có điều khoản quốc gia tham gia phải bảo vệ nhân quyền.
Từ Bangkok, ký giả Shawn Crispin, đại diện Ðông Nam Á của Ủy Ban Bảo Vệ Nhà Báo (CPJ) đã lên án nghị định này là “Cố gắng mới nhất của Việt Nam để đàn áp blog chính trị và ngăn chặn mọi hình thức bình luận chỉ trích online. Các blogger độc lập đang thách thức độc quyền của đảng Cộng sản cầm quyền về báo chí và truyền thông và nghị định mới này là cố gắng mới nhất của chính quyền để đóng cửa một không gian mở.”
Bình luận trong nhật báo Christian Science Monitor, giáo sư chính trị học chuyên nghiên cứu về Việt Nam Zachary Abuza đã chỉ ra là Việt Nam đang tự tạo cho mình nguy cơ làm các nhà đầu tư ngoại quốc tức giận bỏ đi với những nghị định luật ngày càng thêm khắt khe về Internet. Ông Abuza chỉ ra là trong khi Trung Quốc có đủ khối lượng khổng lồ người sử dụng Internet để có thể vì lợi nhuận điều đình với các đại công ty như Google, để có những cấm cản trong việc truy cập. Việt Nam không có được cái thế mạnh đó.
Và có lẽ chính vì vậy một số các nhà bình luận chỉ ra là ở một khía cạnh nào đó chính quyền đã chùn tay. Nghị định 72 nguyên thủy được soạn thảo với điều khoản đòi hỏi tất cả các công ty cung cấp dịch vụ Internet ngoại quốc phải có các server tức là các máy chủ và văn phòng tại Việt Nam nếu muốn được cho phép hoạt động ở Việt Nam. Ðiều này có thể buộc các công ty này phải cung cấp các thông tin về thân chủ và hoạt động trên Internet cho chính quyền Hà Nội nếu bị yêu cầu.
Vì thế Liên Minh Internet Á Châu, một tổ chức của ngành kỹ nghệ tin học thành lập bởi eBay, Facebook, Google, Salesforce và Yahoo, đã đưa ra tuyên bố chống lại những điều khoản này, nói sẽ có thể làm hại đến đầu tư ngoại quốc. Và ngay sau khi có tuyên bố này, chính quyền Hà Nội đã lặng lẽ rút bỏ những điều khoản về việc buộc họ phải có máy chủ ở Việt Nam.
Hà Nội cũng đã lùi bước bỏ đề nghị cấm những người sử dụng Facebook và Twitter đưa các web-links lên trang của họ. Với 11 triệu trương mục từ Việt Nam, Facebook đã ngày càng thay thế blog trong thông tin chính trị thành ra nhượng bộ này quả là đáng kể.
Nhưng như ông David Brown, một nhà cựu ngoại giao chuyên nghiên cứu về Việt Nam, nghị định này chưa chắc đã tạo nên mấy thay đổi. Bởi theo ông Brown, “Họ viết ra những luật như thế này, nhưng họ đã không thi hành hay là thi hành quá chọn lọc thành ra không bị coi như là đe dọa cho cá nhân.”
Vả lại, những người sử dụng Internet ở Việt Nam bây giờ rành rõi luật lệ lắm. Họ cũng rất rành nghề “trèo tường lửa” để tìm đến những địa chỉ họ muốn. Và một số blog đã chuẩn bị với Anh Ba Sàm và Dân Làm Báo nay sử dụng những máy chủ ở ngoại quốc.
Như vậy là chưa chắc đã kiểm soát thêm được Internet chút nào không, nhưng chắc chắn là nghị định này đã làm Hoa Kỳ không hài lòng. Với Việt Nam có vẻ đang tiến tới trong việc cải thiện liên hệ với Hoa Kỳ qua cuộc viếng thăm dù vội vàng của Chủ tịch Trương Tấn Sang cũng như một số các công ty Hoa Kỳ như Starbucks và McDonald's tiếp tục tiến vào thị trường Việt Nam, Nghị định 72 đã làm Hoa Kỳ phản ứng mạnh.
Ðược biết là trước khi ông Sang đến Hoa Kỳ, trong chuyến công du của Tham mưu trưởng Quân Ðội Nhân Dân Tướng Ðỗ Bá Tỵ đã bày tỏ muốn được Hoa Kỳ hủy lệnh cấm bán vũ khí chiến tranh. Ðây là một việc mà Hà Nội coi như là một cách tăng cường thêm liên hệ giữa hai cựu thù và thúc đẩy hợp tác quân sự.
Nhưng hôm Thứ Tư, 7 tháng 8 vừa qua, Ðại sứ David Shear, trong một lời tuyên bố với báo chí trong nước, đã khẳng định “Phía Việt Nam đã bày tỏ muốn hủy bỏ giới hạn đó, và chúng tôi sẽ cứu xét việc này một cách nghiêm chỉnh. Nhưng chúng tôi cũng tin rằng để có tạo được ủng hộ chính trị cho việc hủy những giới hạn này... chúng tôi cần thấy có một số tiến bộ nào đó về nhân quyền về phía Việt Nam.” Ðiều ông đại sứ muốn nhắc khéo là luật cấm vận do Quốc Hội đưa ra và với tình hình nhân quyền hiện nay thì khó mà được Quốc Hội Hoa Kỳ chấp nhận cho hủy cấm vận vũ khí.
Cùng với chiến dịch bắt bớ blogger và những người chỉ trích chính quyền, nghị định mới này đã làm cho Việt Nam khó tăng cường liên hệ với Hoa Kỳ. Những giới hạn này cũng có tiềm năng gây phức tạp cho các liên hệ mậu dịch trong tương lai, kể cả cố gắng của Việt Nam tham gia Hiệp ước Ðối tác Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương TPP.
Một điều mà Giáo Sư Carl Thayer của Học Viện Quốc Phòng Úc đã chỉ ra cho ta thấy rõ là tuy Hà Nội đã có ký kết những hiệp ước đối tác chiến lược với Trung Quốc, Nga và cả Anh Quốc, chuyến công du của ông Sang đã không mang lại được một thỏa thuận đối tác chiến lược với Hoa Kỳ.
Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013
Đoan Trang - Tự do báo chí kiểu Việt Nam (kỳ 1)
Đoan Trang
Theo Báo cáo công tác báo chí năm 2012, do Thứ trưởng Thông tin và Truyền thông Đỗ Quý Doãn trình bày tại Hội nghị cán bộ báo chí toàn quốc triển khai nhiệm vụ năm 2013, “tính đến tháng 2/2013, số lượng cơ quan báo in trên cả nước là 812 với 1084 ấn phẩm. Trong đó, có 197 tờ báo in (84 báo Trung ương, ban, bộ, ngành, đoàn thể, 113 báo địa phương). Trong lĩnh vực thông tin điện tử, 336 mạng xã hội, 1174 trang thông tin điện tử tổng hợp. Cả nước hiện có 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 02 đài quốc gia là Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, 01 đài của ngành (Đài Truyền hình KTS VTC); 64 đài phát thanh và truyền hình địa phương với 172 kênh chương trình phát thanh và truyền hình (99 kênh truyền hình, 73 kênh phát thanh). Về đội ngũ cán bộ báo chí, cả nước hiện có gần 17000 người làm báo chuyên nghiệp được cấp thẻ, 19000 Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, sinh hoạt tại các chi hội, liên chi hội...”.
Nghe quen quen? Đó là bởi vì mẫu câu này về căn bản vẫn được giữ nguyên qua các năm, chỉ có con số thay đổi chút đỉnh. Ví dụ như năm 2012:
“Truyền thông đại chúng nói chung, báo chí nói riêng hiện nay ở nước ta chưa bao giờ phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, về số lượng, về loại hình như ngày nay. Tính đến tháng 3/2012 nước ta có 786 cơ quan báo chí in (184 báo in, trên 592 tạp chí) với 1016 ấn phẩm trong đó báo có 194 cơ quan gồm 81 báo Trung ương, 113 báo địa phương; tạp chí có 592 cơ quan (475 tạp chí Trung ương và 117 tạp chí địa phương; 1 hãng thông tấn quốc gia; 2 đài phát thanh, truyền hình quốc gia; 1 đài truyền hình ngành; 64 đài phát thanh, truyền hình thành phố, 47 đơn vị được cấp phép hoạt động truyền hình cáp, 9 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền dẫn tín hiệu truyền hình cáp. Trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước có 61 báo, tạp chí điện tử, 191 mạng xã hội, hơn 1.000 trang thông tin điện tử tổng hợp...”.
Và thống kê của năm 2011:
“Tính đến tháng 3/2011, trên lĩnh vực báo in, cả nước có 745 cơ quan báo chí với 1003 ấn phẩm. Ở lĩnh vực phát thanh và truyền hình, có 67 đài phát thanh, truyền hình gồm 3 đài phát thanh, truyền hình ở trung ương (VOV, VTV, VTC), và 64 đài phát thanh-truyền hình ở các địa phương với 200 kênh sản xuất trong nước và 67 kênh nước ngoài. Trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước có 46 báo điện tử và tạp chí điện tử, 287 trang tin điện tử của các cơ quan báo chí và hàng nghìn trang tin điện tử có nội dung thông tin của các cơ quan Đảng, Nhà nước và Chính phủ, các đoàn thể, hội, hiệp hội và các doanh nghiệp. Cũng tính đến tháng 3/2001, cả nước có gần 17.000 người đã được cấp thẻ nhà báo và trên 5.000 người đang hoạt động báo chí nhưng chưa có thẻ, trong đó nhiều phóng viên, biên tập viên có trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ khá”.
Đây là những thông tin thường được Đảng và Nhà nước Việt Nam, thông qua báo chí chính thống và mạng lưới dư luận viên, đưa ra mỗi khi cần dẫn bằng chứng cho tự do báo chí ở Việt Nam. Điều này có lẽ xuất phát từ một đặc điểm tâm lý chung của những người cộng sản là rất thích con số, thích sự “lượng hoá” để làm bằng chứng, kiểu như GDP mỗi năm tăng trưởng 7%, hay thu nhập đầu người ở Việt Nam tính trung bình là xyz USD/năm kể từ năm abc, hoặc lượng hoá một cách thô thiển nữa thì thành kiểu “ba phe, bốn mâu thuẫn”, “thanh niên ba sẵn sàng”, “phụ nữ ba đảm đang”…
Có vấn đề là Đảng và Nhà nước lại chỉ sử dụng con số cơ quan báo chí và số lượng nhà báo hoạt động như là bằng chứng rõ nhất và duy nhất cho tự do báo chí ở Việt Nam, còn các cơ quan và con người đó hoạt động như thế nào thì lại không nói đến.
Công khai chỉ đạo trong bí mật
Hàng tuần tại Hà Nội và TP.HCM, Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành uỷ, cùng đại diện Bộ Thông tin - Truyền thông và cơ quan an ninh, đều tổ chức một cuộc họp với tất cả tổng biên tập các tờ báo quan trọng (mức độ quan trọng là do Ban Tuyên giáo đánh giá). Ở các tỉnh, thành khác, cơ quan tuyên giáo địa phương cũng có hoạt động tương tự vào thời gian tuỳ họ ấn định.
Cuộc họp này được gọi một cách tế nhị là “giao ban báo chí hàng tuần”, còn thực chất nó là một buổi “định hướng thông tin tuyên truyền”, trong đó, đại diện Ban Tuyên giáo sẽ nhận xét các báo tuần qua làm gì tốt (thì biểu dương), làm gì chưa tốt hoặc sai phạm (thì xử phạt); tuần tới thì sẽ tập trung làm gì và chú ý đừng làm gì. Người được mời dự họp là các tổng biên tập hoặc đại diện có thẩm quyền của các báo, và tất nhiên, 100% phải là đảng viên.
Việc tiến hành những cuộc họp như thế thực sự là hành động xoa đầu, răn dạy, kết hợp đe dọa và trấn áp báo chí, và dĩ nhiên là chẳng theo một quy định pháp luật nào: Thật là chối tỉ khi toàn bộ hệ thống báo chí đều bị coi là “lực lượng tuyên truyền” và do một đảng chính trị đứng ra chỉ đạo, định hướng. Có lẽ Đảng cũng tự thấy rõ việc này là khó chấp nhận, là giẫm lên luật pháp và nguyên tắc báo chí, cho nên ở đây có một việc rất buồn cười là: Một mặt họ yêu cầu tất cả “các đồng chí lãnh đạo cơ quan báo chí” phải quán triệt các định hướng của họ đến anh chị em phóng viên ở toà soạn, nhưng mặt khác họ lại cũng yêu cầu các báo phải tuyệt đối giữ kín chuyện Đảng đứng ra chỉ đạo báo chí, tuyệt đối không bàn đến, không để rò rỉ thông tin ra bên ngoài, nhất là cho các thế lực thù địch, rằng “có một cuộc họp như thế” mỗi tuần ở Hà Nội và TP.HCM.
Biên bản ghi chép một cuộc họp giao ban báo chí như thế vào ngày 29/3/2011 đã bị rò rỉ ra lề trái, với một số chỉ đạo nổi bật như: Không đưa tin về việc diễn viên Hồng Ánh tham gia ứng cử Đại biểu Quốc hội; sắp tới sẽ xét xử vụ Cù Huy Hà Vũ, đề nghị khi nhắc về con người này thì không đưa danh vị tiến sĩ và chức danh luật sư; không nhắc đến vụ chìm tàu tại Hạ Long để tránh ảnh hưởng đến du lịch của đất nước; không đưa tin các vấn đề liên quan đến nhà máy điện nguyên tử của Việt Nam, v.v.
Vị lãnh đạo cơ quan báo chí đứng tên trên văn bản (Phó Giám đốc Truyền hình Kỹ thuật số VTC, ông Vũ Quang Huy) và vài nhân viên liên quan được một phen tá hoả vì sợ bị truy cứu trách nhiệm. Rút kinh nghiệm vụ này, sát trước phiên toà xử ông Cù Huy Hà Vũ, phóng viên nội chính của các tờ báo lớn đều nhận được một văn bản không tiêu đề, không tên người gửi, không cơ quan, không con dấu, chỉ thị rõ các báo đưa tin theo hướng phản ánh tính nghiêm minh của phiên toà và sự xác đáng của bản án, “không mở rộng bình luận”, “không gọi bị cáo là tiến sĩ vì có thể bị cáo lợi dụng”, v.v.
Tháng 12-2012, tại một cuộc họp giao ban báo chí định kỳ, ông Nguyễn Thế Kỷ, ban Tuyên giáo Trung ương, đã quở trách báo chí đưa tin “không đúng” về sự kiện tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 của Việt Nam. Theo ông Kỷ, phía Trung Quốc chỉ là “vô tình gây đứt cáp” chứ không có ý cắt cáp, phá hoại “ta”. (Trên thực tế, những người có chuyên môn, chẳng hạn một số kỹ sư ở Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Petrovietnam, đều khẳng định rằng không có chuyện Trung Quốc vô tình). Điều đáng chú ý là băng ghi âm ghi lại bài khiển trách của ông Kỷ đã bị tuồn lên mạng, sau đó tờ báo hải ngoại bị coi như “đài địch” là BBC Việt Ngữ liên hệ với ông Kỷ đề nghị phỏng vấn – ông bèn nói tránh rằng mình chỉ “trao đổi nghiệp vụ” với các báo mà thôi. Cả ông Kỷ và Ban Tuyên giáo đều không hài lòng trước việc bị lộ “hoạt động định hướng thông tin tuyên truyền”. Nghe nói (cũng chỉ là “nghe nói”) vào buổi họp giao ban tuần tiếp theo, họ tỏ ra rất cảnh giác trước nguy cơ bị ghi âm, có lẽ chỉ còn thiếu nước khám người tất cả các tổng biên tập và đại diện toà báo tham dự họp để kiểm tra xem có gài thiết bị ghi âm hay không.
Chỉ đạo qua điện thoại, tin nhắn
“Các báo chú ý: Ngày mai, 1/7, là ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các báo tuyệt đối không đưa tin về biểu tình, về tranh chấp chủ quyền Việt Nam-Trung Quốc”. Tin nhắn này, đề ngày 30/6/2012, chỉ là một trong vô số tin nhắn truyền đạt mệnh lệnh của cơ quan quản lý báo chí đến lãnh đạo (tổng biên tập) các báo. Bên cạnh đó là các cú điện thoại của “trên”, ra các chỉ đạo “miệng”: Không đưa tin về vụ này, không làm đậm vụ kia, hạn chế đề tài nọ v.v. Thật là một cách chỉ đạo tuyệt vời khôn ngoan vì nó hiệu quả mà lại rất kín, không để lại văn bản, con dấu, chữ ký… chẳng có bằng chứng gì cho thấy các báo đã được/bị định hướng. Bọn “thế lực thù địch” có muốn rêu rao các luận điệu bôi nhọ, bêu xấu ta cũng chẳng được – bằng chứng đâu? Tất cả chỉ là vu khống.
Hơn ai hết, Đảng – mà đại diện ở đây là bộ máy tuyên giáo và an ninh – ý thức được sức mạnh của sự bí mật. Công khai, minh bạch là tự làm mất mặt mình, tự giết mình. Cũng từ đây, nảy sinh nguy cơ mà Đảng rất không thích và luôn đề cao cảnh giác, đó là sự hợp tác, bắt tay nhau giữa “lề phải” và “lề trái”, hành động tuồn thông tin từ các nhà báo “chính thống” sang giới blogger để blogger tung lên mạng.
(Còn nữa)
Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013
Nguyễn Đắc Kiên - Bài viết khiến nhà báo Nguyễn Đắc Kiên bị thôi việc
Nguyễn Đắc Kiên
Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng
Nguyễn Đắc Kiên - ...Đầu tiên, cần phải xác định, ông đang nói với ai? Nếu ông nói với nhân dân cả nước thì xin khẳng định luôn là ông không có tư cách. Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu muốn dùng hai chữ “suy thoái” thì cùng lắm là ông chỉ có thể nói với những người đang là đảng viên cộng sản, ông không đủ tư cách để nói lời đó với nhân dân cả nước...
*
Chương trình Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2 đưa phát biểu tại Vĩnh Phúc của TBT ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng như sau: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức... Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”(*)
Bằng tất cả sự tôn trọng dành cho người đang đứng đầu một đảng chính trị của VN, tôi xin nói với ông Nguyễn Phú Trọng vài lời như sau:
Đầu tiên, cần phải xác định, ông đang nói với ai? Nếu ông nói với nhân dân cả nước thì xin khẳng định luôn là ông không có tư cách. Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu muốn dùng hai chữ “suy thoái” thì cùng lắm là ông chỉ có thể nói với những người đang là đảng viên cộng sản, ông không đủ tư cách để nói lời đó với nhân dân cả nước. Nếu ông và các đồng chí của ông muốn giữ Điều 4, muốn giữ vai trò lãnh đạo, muốn chính trị hóa quân đội, không muốn đa đảng, không muốn tam quyền phân lập, thì đó chỉ là ý muốn của riêng ông và ĐCS của ông. Ông không thể quy kết rằng đó là ý muốn của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, những ý muốn trên chỉ nên xem là của riêng ông TBT Trọng, chưa chắc đã là tâm nguyện của toàn bộ đảng viên cộng sản hiện nay.
Tiếp theo, xin đi vào nội dung, ông nói suy thoái về đạo đức. Tôi muốn hỏi ông, đạo đức của ông đang muốn nói là đạo đức nào? Đạo đức làm người? Đạo đức công dân? Đạo đức dân tộc VN?... Tôi tạm đoán là ông đang muốn nói đến đạo đức người cộng sản của các ông. Vậy, các ông cho rằng chỉ có đạo đức cộng sản của các ông là đạo đức đích thực? Thế ra, cha ông tổ tiên chúng ta, khi chưa có chủ nghĩa cộng sản vô đạo đức hết à? Thế ra, những người không theo đảng cộng sản trên thế giới là vô đạo đức hết à?
Tiếp theo, xin đi vào nội dung suy thoái chính trị, tư tưởng. Tôi muốn hỏi ông, chính trị, tư tưởng ông đang muốn nói là chính trị, tư tưởng nào? Có phải chính trị, tư tưởng của đảng cộng sản? Vậy ra chỉ có đảng cộng sản của các ông là duy nhất đúng à? Cá nhân tôi cho rằng, không một người có lương tri bình thường nào thừa nhận như thế. Cùng lắm ông chỉ có thể nói với các đảng viên cộng sản như vậy, nhưng ngay cả với các đảng viên cộng sản, ông cũng không thể quy kết tội suy thoái cho họ. Nếu không tin, ông thử đọc lại Cương lĩnh chính trị và Điều lệ đảng các ông ban hành xem. Không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái, muốn đa nguyên về chính trị là suy thoái, muốn phi chính trị hóa quân đội là suy thoái, chỉ có tham ô, tham nhũng... đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc là suy thoái. Ông đương kim Tổng bí thư ĐCS VN thử đọc lại và nghĩ lại chỗ này xem.
Bây giờ, tôi trân trọng tuyên bố những điều tôi muốn:
1. Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới thực sự là ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành.
2. Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước.
3. Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc.
4. Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào.
5. Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.
Nguyễn Đắc Kiên
Nhà báo, Báo Gia đình & Xã hội
Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012
Daniel Shchearf - Miến Ðiện chấm dứt chế độ kiểm duyệt báo chí
Daniel Shchearf
Miến Ðiện vừa loan báo chính thức chấm dứt việc kiểm duyệt báo chí sau nhiều thập niên kiểm soát gắt gao của chính phủ. Biện pháp cải cách mới nhất này được ký giả và những người ủng hộ báo giới haon nghênh nhưng họ cũng nêu ra rằng vẫn còn những khó khăn cho quyền tự do báo chí. Từ Bangkok, thông tín viên VOA Daniel Schearf gửi về bài tường thuật sau đây.
Giới hữu trách trong ngành báo chí Miến Ðiện hôm nay loan tin các cơ quan truyền thông địa phương không còn phải trình các bài viết lên một ủy ban kiểm duyệt trước khi đăng tải nữa.
Sự thay đổi chính sách được đưa ra sau nhiều thập niên nhà nước kiểm soát những tin tức được loan tải ở Miến Ðiện và lời lẽ các bài viết.
Giới ký giả ở Miến Ðiện hoan nghênh biện pháp cải tổ này.
Ông Ko Ko, phó chủ tịch Hiệp hội Ký giả Miến Ðiện, nói với đài VOA rằng đây là một khúc quanh quan trọng cho giới truyền thông trong nước. Nhưng ông cũng nói rằng cần phải có thêm các biện pháp cải cách khác, trong đó có việc duyệt lại một bộ luật về truyền thông năm 1962 đã lỗi thời hạn chế việc tường thuật.
Ông Ko Ko nói: “Việc bãi bỏ ủy ban kiểm duyệt là một bước đầu. Vì thế, điều thứ hai là việc phê chuẩn một bộ luật mới về truyền thông. Nhưng luật mới về truyền thông cũng phải phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và thể chế dân chủ.”
Bộ luật truyền thông năm 1962 của Miến Ðiện được quân đội thảo ra cùng năm lên nắm chính quyền từ tay một chính phủ dân cử. Bộ luật này buộc các nhà xuất bản phải đệ trình mọi tài liệu in ấn lên các ủy ban duyệt xét báo chí.
Miến Ðiện đã dần dà nới lỏng các biện pháp kiểm soát truyền thông kể từ sau cuộc bầu cử năm 2010 thay thế một chính phủ quân nhân chính thức bằng một chính phủ dân sự trên danh nghĩa.
Các nhà lập pháp Miến Ðiện, tuy vẫn còn bị quân đội chế ngự, đang soạn thảo một bộ luật mới về truyền thôn, và dự trù sẽ biểu quyết về bộ luật này trong nay mai.
Mặc dù các biện pháp hướng tới tự do báo chí nhiều hơn được ca ngợi, giới ủng hộ báo chí vẫn tỏ ra thận trọng.
Ông Johan Bihr là người phát ngôn của tổ chức Ký giả Không Biên giới có trụ sở ở Paris.
Ông Bihr cho biết: “Chúng ta ghi dấu bước quan trọng này, nhưng vẫn trông đợi nhiều hơn. Chúng ta trông đợi sẽ có những hướng dẫn rõ ràng được ghi thành luật lệ để các ký giả biết chính xác những gì họ chịu trách nhiệm, ranh giới là gì và các biện pháp trừng phạt nằm ở đâu. Tính đến giờ này, giới truyền thông địa phương vẫn còn ở trong một tình trạng mù mờ rằng chỉ có thể dựa vào việc tự kiểm duyệt.”
Ông Bihr nêu ra rằng cách đây nhiều tuần lễ, nhà chức trách Miến Ðiện đã đình bản hai vô thời hạn 2 tờ báo trước khi thoái bộ trước sự phản đối của công chúng.
Các cơ quan truyền thông nhà nước Miến Ðiện vốn đã nắm quyền kiểm soát tất cả các nhật báo và các kênh truyền hình.
Các cơ quan truyền thông tư nhân duy nhất là các tuần báo nhưng được nhiều người đọc vì tính sáng tạo và tìm cách xóa bỏ kiểm duyệt.
Nhưng giới phân tích Miến Ðiện nêu ra điểm các ký giả cũng nằm dưới sự tấn công của sự giả dạng bảo vệ an ninh quốc gia.
Ông Aung Thu Nyein làm việc cho Viện nghiên cứu Phát triển Miến Ðiện.
Ông Nyein nói: “Tôi khá chắc chắn rằng cho dù không có ban kiểm duyệt báo chí, nhiều cơ quan chính phủ vẫn tìm cách kiểm soát giới truyền thông.”
Hồi đầu tháng này, nhà chức trách Miến Ðiện bất thần loan báo việc thành lập một hội đồng báo chí mới để theo dõi và hướng dẫn giới truyền thông.
Sự kiện này đã lập tức bị các tổ chức truyền thông phản bác vì cho rằng họ không được tham khảo ý kiến. Họ nói rằng ủy ban không có tính cách độc lập và được ban cho quyền trừng phạt giới truyền thông.
Nhiều người được chỉ định vào hội đồng thậm chí còn không biết họ được chọn cho đến khi được loan báo.
Ông Ko Ko, Phó chủ tịch Hiệp hội Ký giả Miến Ðiện, nhận thấy mình được bổ nhiệm làm thư ký tạm thời cho cơ quan này, và ông đã từ chối.
Ông Ko Ko nói: “Chúng tôi không phải là một cơ quan theo dõi, chúng tôi không phải là một cơ quan độc tài .. Chúng tôi không phải là công an truyền thông.”
Nhiều thành viên khác được bổ nhiệm cũng bác bỏ hội đồng báo chí và chính phủ đã buộc phải đình chỉ việc thành lập. Hiện giờ thì chưa rõ liệu hội đồng có được tái thành lập hay không, và nếu có thì sẽ đóng vai trò nào trong việc theo dõi các cơ quan truyền thông Miến Ðiện.
Thứ Ba, 24 tháng 7, 2012
Phan Quang Tuệ - Tự do ngôn luận và tự do báo chí trong đời sống quốc gia và đời sống cộng đồng
Phan Quang Tuệ
LTS. Thẩm phán Toà án di trú San Francisco trong bài nói chuyện tại St.Paul, Minnesota, ngày 22 tháng 7, 2012 nhân dịp kỷ niệm một năm phát hành báo Người Việt Minnesota và Ngày Truyền Thông Báo Chí Việt Nam tại Minnesota đã nói rằng, "Không ai phủ nhận là cộng đồng người Việt được hưởng hoàn toàn và được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hoàn toàn trong việc xử dụng quyền tự do ngôn luận. Vấn đề là có những cá nhân và tổ chức trong cộng đồng muốn xử dụng tự do ngôn luận của họ để dập tắt tự do ngôn luận của những ai không đồng chính kiến với họ. Đăng một bài phỏng vấn hay một lá thư có thể gây phẫn nộ cho độc giả. Sự phẫn nộ có thể được chia xẻ bởi rất nhiều người, và được xem là một sự phẫn nộ chính đáng. Câu hỏi cần được đặt ra là đây có phải là lý do chính đáng để kêu gọi tẩy chay tờ báo, làm áp lực đóng cửa toà báo. Và chúng ta có muốn tiếp tục theo con đường và áp dụng những biện pháp tương tự cho đến khi tất cả chúng ta chỉ còn những tờ báo đồng một tiếng nói, một luận điệu, một ngôn ngữ với một lời cảnh cáo: ai nói khác sẽ bị tận diệt!
Và nếu như thế thì lợi ích và mục tiêu chính đáng của Tu Chính Án Thứ Nhất có còn cần thiết nữa hay không?
Ngày 3 tháng 5 năm 2012 vừa qua, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức mừng ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới. Ông Ban Ki-moon, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc và bà Irina Bokova, Giám Đốc UNESCO đã ra một tuyên bố chung có đoạn như sau: Freedom of Expression is one of our most precious rights. It underpins every other freedom and provides a foundation for human dignity. Free, pluralistic and independent media is essential for its exercise. Tự do ngôn luận là một trong những quyền quý báu nhất của chúng ta. Nó là căn bản cho các quyền tự do khác và đặt nền móng cho phẩm cách của con người. Tự do, đa dạng và độc lập của báo chí là điều tối cần thiết cho việc thực thi quyền tự do ngôn luận.”
Dưới đây là nguyên văn bài nói chuyện:
Kính thưa Quý Vị,
Khi chọn đề tài Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Báo Chí cho buổi nói chuyện hôm nay, tôi chỉ nhằm mục đích chọn một đề tài thích hợp với ý nghĩa nhân dịp kỷ niệm một năm phát hành báo Người Việt Minnesota và Ngày Truyền Thông Báo Chí Việt Nam tại Minnesota. Tôi không ngờ đã vô tình mở cánh cửa bước vào một vũ trụ bao la vô tận. Một biển cả mà càng đi tới, chân trời càng xa. Tôi xin giải thích tại sao tôi có cảm tưởng như vậy. 10 ngày trước đây tôi khởi sự ngồi xuống để soạn bài nói chuyện. Tôi vào Google và đánh hai chữ:”free speech”. Trên màn ảnh của máy computer hiện ra con số 63,100,000 tài liệu liên quan đến đề mục tôi muốn tìm hiểu. Con số tài liệu lớn lao này cho thấy tầm quan trọng của vấn đề tự do ngôn luận và tự do báo chí. Năm 1993, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã chọn ngày 3 tháng 5 hàng năm là ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới hầu cổ võ cho quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí trên toàn cầu. Thomas Jefferson, tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ công bố vào ngày 7 tháng 4, năm 1776 và là vị Tổng Thống thứ 3 của Hoa Kỳ, đã tuyên bố như sau:
“The basis of our government being the opinion of the people, the very first object should be to keep that right; and were it left to me to decide whether we should have a government without newspapers, or newspapers without a government, I should not hesitate a moment to prefer the latter. But I should mean that every man should receive these papers and capbable of reading them.” “Nền tảng của các chính quyền của chúng ta đặt trên lòng dân, vì thế quyền phát biểu phải là đối tượng được bảo vệ trên hết. Nếu phải chọn lựa giữa một chính quyền không có báo chí và một tình trạng báo chí không có chính quyền, tôi sẽ chọn tình trạng thứ hai. Nhưng tôi cần nói thêm là với điều kiện mọi người đều có cơ hội đọc báo và có đủ hiểu biết để đọc và hiểu các bài báo!” Và đó là lời phát biểu 236 năm trước đây của tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập!
Câu tuyên bố của Thomas Jefferson chỉ nhằm nhấn mạnh đến vai trò không thể thiếu trong một xã hội không có báo chí, không ngờ lại đã xảy ra trong thực tế hơn hai trăm năm sau, không phải tại Hoa Kỳ, mà là tại một quốc gia ở Âu Châu!! Đó là Vương Quốc Bỉ. Thực vậy, sau ngày bầu cử Quốc Hội Bỉ vào tháng 6, 2010 đã không có một đảng phái nào hội đủ túc số để thành lập nội các. Các cuộc thương thuyết nhằm thành lập nội các giữa 11 đảng phái đã kéo dài từ tháng 6, 2010 cho đến khi đạt được thỏa hiệp và một nội các đã được thành lập ngày 5 tháng 12, 2011. Tổng cộng nước Bỉ và dân tộc Bỉ đã có một đời sống quốc gia 540 ngày mà không có một chính quyền. Nhưng tất cả các cơ quan báo chí, truyền thông, hệ thống Internet tại quốc gia này vẫn tiếp tục trong suốt thời gian gần hai năm đó!! Đời sống quốc gia, sinh hoạt hằng ngày của người dân, các phương tiện giao thông, chuyên chở công cộng vẫn tiếp tục trong vòng trật tự cho thấy tầm quan trọng của dân trí và ý thức trách nhiệm của người công dân Vương Quốc Bỉ.
Tuy tự do ngôn luận và tự do báo chí có một vị thế quan trọng như vậy trong đời sống con người, quyền tự do này lại không phải là một quyền sở hữu, gắn liền với con người như con người có tay và chân cùng các bộ phận khác! Tự do ngôn luận quan trọng vì con người là một con vật xã hội. Khi chúng ta sống một mình cô quạnh như Robinson Crusoe trên một hoang đảo chơi vơi giữa biển cả mênh mông xung quanh không có gì khác hơn là một cây dừa lẻ loi thì quyền tự do ngôn luận không cần thiết phải đặt ra.
Theo cuộc kiểm kê dân số vào năm 2010 thì dân số Minnesota hơn 5,300,000 triệu người mà trong đó dân số người Việt có hơn 27,000 người, đứng hạng thứ 13 về dân số người Việt so với toàn quốc. Twin Cities, mà tôi thấy có quý vị địa phương dịch là Song Thành có dân số gần 2,500 người ở St.Paul và 2,000 người ở Minneapolis. Dẫu tỷ lệ dân số nhỏ so với dân số toàn tiểu bang, báo Việt ngữ vẫn là một nhu cầu cần thiết vừa để thông tin, vừa làm nhịp cầu liên lạc giữa cộng đồng người Việt, đồng thời nhằm nuôi dưỡng tiếng Việt, vốn là một nét đặc thù của văn hoá Việt Nam.
Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Báo Chí được xem là đệ tứ quyền trong hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, sau quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy gọi là đệ tứ quyền nhưng tự do ngôn luận, tự do báo chí lại không được quy định trong 7 điều khoản chính của Hiến Pháp. Thực vậy tự do ngôn luận, tự do báo chí được quy định trong nửa phần thứ hai của Tu Chính Án Thứ Nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ:
“Congress shall make no law…abridging the freedom of speech, or of the press…” “Quốc Hội sẽ không làm luật…hạn chế tự do ngôn luận, hay tự do báo chí”
Chúng ta cần lưu ý đến kỹ thuật thảo hiến điêu luyện của những nhà lập hiến Hoa Kỳ mà các tài liệu lịch sử đều nhắc đến họ như là: the Framers of the Constitution, những con người đã gầy dựng nên nền móng khuôn khổ của Hiến Pháp. Phần lớn các bản Hiến Pháp của các quốc gia trên thế giới đều viết đại loại như: Quốc Gia công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Hay: Công Dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin theo qui định của pháp luật như điều 70 trong Hiến Pháp 1992 của Cộng Sản Việt Nam. Tu Chính Án thứ nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ qui định một cách rõ ràng và vắn tắt: Quốc Hội sẽ không làm luật…hạn chế tự do ngôn luận, và tự do báo chí.
Kỹ thuật thảo hiến của các nhà lập hiến Hoa Kỳ 225 năm trước đây đưa đến hai hệ quả song hành: thứ nhất, xác nhận ý chí của nhà lập hiến không cho cơ quan lập pháp, nghĩa là Quốc Hội Liên Bang, quyền làm luật hạn chế tự do ngôn luận, tự do báo chí. Thứ hai, đặt nguyên tắc căn bản cho việc giải thích tính cách hợp hiến đối với những văn kiện luật pháp hay lập qui, cho dầu trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Hệ thống công quyền của Hoa Kỳ được đặt trên nguyên tắc căn bản checks and balances, kiểm soát và cân bằng. Cả ba ngành luật pháp, hành pháp, tư pháp đều có mối liên hệ hỗ tương, ngành này kiểm soát ngành kia. Thí dụ Lập Pháp có quyền làm luật, biểu quyết ngân sách, phê chuẩn các hiệp ước quốc tế.
Hành Pháp có quyền đề nghị các dự luật, phủ quyết các đạo luật do lập pháp biểu quyết. Tư Pháp có quyền giải thích Hiến Pháp, tuyên bố tính cách hợp hiến hay không của các đạo luật của ngành lập pháp.
Nhưng còn tự do ngôn luận, tự do báo chí vốn được xem như là đệ tứ quyền thì sao? Ngoài điều khoản công nhận tự do ngôn luận và tự do báo chí trong Tu Chính Án Thứ Nhất, không có một giới hạn hiến định nào khác được trù liệu để giới hạn hay kiểm soát quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Một sử gia Anh Quốc, Lord Acton, trong thế kỷ 19 đã từng nói:”Power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely”. Quyền hạn dễ đưa đến lạm dụng, và quyền hạn tuyệt đối sẽ đưa đến lạm dụng tuyệt đối.
Quyền lực, hay quyền hành, tự bản chất thực ra không hẳn đối ngịch với đời sống dân chủ. Vấn đề là làm sao để điều hành quyền lực như thế nào cho phù hợp với sinh hoạt dân chủ. Chúng ta đã thấy các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được giới hạn và kiểm soát hỗ tương như thế nào. Trong lãnh vực tư, chúng ta cũng thấy mối tương quan hỗ tương giữa các công ty sản xuất và nghiệp đoàn nhân công, và những giới hạn của cả hai bên bởi luật pháp và các cơ quan hành chánh. Nhưng còn tự do ngôn luận, tự do báo chí được công nhận trong Tu Chính Án Thứ Nhất thì sao?
Ai cũng đồng ý tự do báo chí là điều cần thiết cho tự do chính trị, và nơi đâu mà con người không được chuyển đạt, bày tỏ tư tưởng giữa con người với con người, nơi đó không có tự do. Nhưng nếu tự do này bị lạm dụng thì sao? Và phải chăng tự do bị lạm dụng sẽ đưa đến sự hủy diệt của tự do? Nhưng câu hỏi trên chính là vấn đề khó xử khi thảo luận về tự do ngôn luận, tự do báo chí. Và đâu là ranh giới phân biệt giữa những điều có thể chấp nhận và những điều không chấp nhận được mỗi khi hành xử quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Không ai có thể nghĩ rằng qua Tu Chính Án Thứ Nhất, những nhà thảo hiến có thể chủ trương rằng tất cả mọi người dân đều có quyền tự do phát biểu không giới hạn về bất cứ vấn đề gì theo ý muốn, bất cứ ở đâu và bất cứ vào lúc nào. Thí dụ, khai gian trước toà hay phổ biến tài liệu khích dục có được bảo vệ như là một phần của tự do ngôn luận hay không? Thí dụ viết bài đặt điều nói xấu người khác, phỉ báng (libel) hay phát biểu nói xấu gây thiệt hại cho người khác (mạ lỵ, slander) có phải là tự do ngôn luận được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hay không?
Khi giải thích những vấn đề liên quan đến tự do ngôn luận và tự do báo chí, án lệ Toà Án thường đối chiếu quyền tự do ngôn luận với những quyền khác cần được bảo vệ trong một xã hội tự do dân chủ. Đó là những quyền như quyền được sống an toàn, quyền được bảo vệ trong đời sống riêng tư, quyền của những người khác trong một xã hội mà mọi người đều có quyền được đối xử bình đẳng. Khi mang đối chiếu với các quyền lợi khác, Toà Án thường đặt quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí vào một điạ vị ưu tiên, preferred position vì đây là hai quyền tự do căn bản cho đời sống dân chủ. Đặc biệt toà án có khuynh hướng bảo vệ tự do ngôn luận trong lãnh vực các phát biểu về những vấn đề chính trị.
Trong lãnh vực này, phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ trong vụ án New York Times v. Sullivan (1964) là một án lệ căn bản trong lãnh vực tự do báo chí. Trong phán quyết này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã phán rằng giới chức chính quyền phải chứng minh là người chủ nhiệm hay chủ bút tờ báo đăng bài chỉ trích phải biết là điều chỉ trích không đúng với sự thật và người chủ nhiệm có ác ý (malice) khi đăng bài báo chỉ trích. Trách nhiệm dẫn chứng (burden of proof) này đặt một tiêu chuẩn quá cao khó cho các nguyên đơn có thể đạt được. Từ tiêu chuẩn áp dụng cho các giới chức chính quyền (government officials) lý luận của án lệ Sullivan đã dần dà nới rộng cho những người tuy không phải là giới chức chính quyền nhưng vì điạ vị và hoạt động của họ, được xem như là những khuôn mặt công cộng (public figures).
Ngoài tiêu chuẩn “preferred position”, vị trí ưu tiên, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ còn áp dụng 4 tiêu chuẩn khác cần phải chứng minh trước khi một đạo luật giới hạn tự do ngôn luận được công nhận là hợp hiến.
Tiêu chuẩn thứ nhất, luật giới hạn tự do ngôn luận phải không là một luật nhằm mục đích ngăn chận trước, prior restraint. Điều này nhằm tránh tình trạng kiểm duyệt và tiêu chuẩn này được xem như là trách nhiệm dẫn chứng khó khăn nhất trong phạm vi luật pháp.
Thứ hai, luật giới hạn tự do ngôn luận, tự do báo chí phải có nội dung vô tư, neutral. Thí dụ, nếu một thành phố ra quyết định cấm dán giấy quảng cáo trên các cột đèn, thì quyết định này phải nhằm cho tất cả các quảng cáo, không phải cho một loại quảng cáo nào đặc biệt.
Thứ ba, điều giới hạn phải không quá bao quát, too vague, khiến cho ai cũng ngần ngại. Một đạo luật như vậy sẽ có thể gây một tác dụng mà án lệ gọi là chilling effect sẽ làm tất cả mọi người ngần ngại, chùn bước không dám hành xử quyền tự do ngôn luận.
Tiêu chuẩn thứ tư là khi một đạo luật hay một nghị định đi quá xa trong mức giới hạn tự do ngôn luận thì đạo luật hay nghị định có thể bị xem là bất hợp hiến. Thí dụ tất cả mọi người đều có thể đồng ý là trật tự và an toàn lưu thông là cần thiết cho ích lợi chung. Nhưng khi một thành phố quyết định cấm hết tất cả mọi cuộc diễn hành hay biểu tình trên đường phố thì quyết định hành chánh này có thể bị xem là bất hợp pháp. Thành phố có thể giới hạn cuộc diễn hành vào một thời gian và trên một số đường phố thì giới hạn này có thể được xem là không vi phạm quyền tự do ngôn luận.
Những tiến bộ trong kỹ thuật thông tin ngày nay, đặc biệt là Internet, cho thấy những khó khăn mà Toà Án gặp phải khi phân biệt thế nào là tự do ngôn luận khả chấp và tự do ngôn luận bất khả chấp. Khi Tu Chính Án Thứ Nhất ra đời 221 năm trưoóc đây nào đâu đã có Internet!! Ngày nay qua Internet, hệ thống liên mạng, tất cả mọi công dân bình thường đều có thể nhận được vô vàn tin tức trong đủ mọi lãnh vực và liên lạc hầu như ngay tức khắc với một số người hầu như không giới hạn mà không cần phải rời nhà của mình. Trong số lượng những tin tức thông tin này có cả những tài liệu, hình ảnh khiêu dâm, bạo hành rất có hại cho trẻ em. Năm 1995, Quốc Hội liên bang đã biểu quyết đạo luật Communications Decency Act, gọi tắt là CDA, xem việc xử dụng Internet để chuyển các tài liệu “indecent material”, xúc phạm công sĩ, là tội hình sự có thể bị phạt 2 năm tù và phạt vạ $250,000 Mỹ kim cho mỗi vi phạm.
Đạo luật CDA đã bị Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tuyên bố bất hợp hiến trong phán quyết Reno v. ACLU (American Civil Liberties Union), 521 U.S.844 ((1997). Phán quyết này được biểu quyết thuận bởi tất cả 9 thẩm phán Tối Cao Pháp Viện, với thẩm phán John Paul Stevens là tác giả thảo ra phán quyết. Reno v. ACLU là phán quyết quan trọng đầu tiên của Tối Cao Pháp Viện đối với những luật lệ quy định cách thức và nội dung các tài liệu gửi qua trên hệ thống Internet. Trong phán quyết này, TCPV đã phán đạo luật CDA bất hợp hiến vì đã không tôn trọng các tiêu chuẩn quá mơ hồ (too vague), nội dung không khách quan (content not neutral), vì đã gộp chung tài liệu khiêu dâm với những tài liệu thuộc loại khác dưới một danh xưng quá rộng “indicent material”, và sau cùng đã không tìm những biện pháp ít cực đoan hơn nhằm bảo vệ các trẻ em không được xem các tài liệu khiêu dâm.
Mặc dầu có phán quyết Reno v. ACLU, án lệ về tự do ngôn luận trong lãnh vực Internet vẫn chưa rõ ràng và TCPV và các toà án còn nằm ở giai đoạn dò dẫm trong lãnh vực mới mẻ này.
Nói chung, luật lệ giới hạn quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí có thể được xếp vào 3 loại: giới hạn về nội dung, content restriction, giới hạn về nơi chốn, place restriction, và tự do ngôn luận có tính chất biểu tượng, symbolic speech. Cộng thêm vào đó là loại phát biểu gây nên mối nguy hiểm rõ ràng và tức khắc, clear and present danger. Thí dụ giới hạn về nội dung là những tài liệu khiêu dâm. Giới hạn vì lời phát biểu có thể gây nên mối nguy cơ rõ ràng và tức khắc là trường hợp trong một rạp hát đông nghẹt có một người đứng lên hô to “cháy, cháy” tạo nên hỗn loạn. Giới hạn về biểu tượng, symbolic speech, như khi chống chiến tranh bằng cách đốt thẻ động viên. US v. O’Brien, 391 U.S.367 (1968) là một phán quyết liên quan đến phong trào phản chiến. Trong phán quyết này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phán rằng hành vi đốt thẻ động viên không phải là một hành vi có tính cách tự do ngôn luận được bảo vệ bởi Tu Chính Án Thứ Nhất.
Các mục quảng cáo trên báo chí, truyền hình, đài phát thanh được xếp chung vào loại commercial speech. So với political speech được luật pháp bảo vệ nhiều thì commercial speech được bảo vệ ít hơn. Nói thế không có nghĩa là các mục quảng cáo không được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ. Nhưng nếu quảng cáo sai lạc, thổi phồng quá đáng, gây nên thiệt hại cho người tiêu thụ thì lại là vấn đề khác.
Bài nói chuyện của tôi sẽ thiếu sót nếu tôi không đề cập đến tự do ngôn luận trong công tư sở, hãng xưởng. Đa số chúng ta thường hay nói: tôi có quyền tự do của tôi khi phát biểu về vấn đề gì. Điều này đúng nhưng không đúng cho nơi làm việc, work place. Nguyên tắc chung là quyền tự do ngôn luận rất giới hạn tại nơi làm việc, nhất là khi nơi làm việc là một hãng xưởng hay công ty tư, không phải công sở. Mục đích của chủ nhân thâu nhận chúng ta vào làm việc là để làm việc, không phải để xử dụng tự do ngôn luận. Tu Chính Án Thứ Nhất quy định: Quốc Hội không làm luật … hạn chế tự do ngôn luận, tự do báo chí. Tu Chính Án này không hề quy định là chủ nhân không được sa thải một nhân viên khi nhân viên này nói quá nhiều, không chịu làm việc!
Tôi vừa trình bày cùng quý vị về tự do ngôn luận và tự do báo chí dưới khía cạnh hiến pháp, luật pháp, trong đời sống quốc gia. Bây giờ chúng ta thử xét vấn đề trong đời sống cộng đồng. Cộng đồng đây là Cộng Đồng người Việt tại Hoa Kỳ, không phải là cộng đồng người Việt tại Twin Cities Song Thành ở đây.
Theo cuộc kiểm tra dân số thực hiện năm 2010 vừa qua thì dân số người Việt tại Hoa Kỳ là 1,548,449 người, xếp hạng thứ tư trong dân số người Á Châu. Bốn thành phố có người Việt đông nhất là San Jose, Garden Grove, Westminster và Houston.
Tôi sẽ đơn cử 4 trường hợp liên quan đến quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí trong đời sống cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Bốn trường hợp này đều xảy ra tại 4 thành phố nói trên.
Trường hợp đầu tiên là trường hợp tờ Thời Báo xuất bản ở San Jose, California. Vào khoảng đầu năm 1984, tờ Viêtnam, nhật báo đầu tiên của người Việt tại hải ngoại ra đời. Sau đó, người chủ báo tách ra làm tờ Thời Báo, phát hành 5 số một tuần, số báo ra cuối tuần có trên 80 trang. Năm 1986, số Xuân Thời Báo đăng hai bài phỏng vấn xếp cạnh bên nhau, một bài phỏng vấn thẩm phán Phan Quang Tuệ, một người quốc gia, một bài phỏng vấn Nguyễn Xuân Phong, lãnh sự Cộng Sản tại San Francisco. Ngay lập tức có phản ứng chống đối tờ Thời Báo vì đã đăng bài phỏng vấn viên lãnh sự Cộng Sản. Các người chống đối tổ chức biểu tình 86 lần, kéo dài hơn 100 ngày. Ngày ngày họ kéo đến trước toà soạn tờ Thời Báo chửi rủa. Họ điện thoại đến toà báo chửi rủa. Họ làm áp lực với các thân chủ quảng cáo trên tờ Thời Báo chấm dứt quảng cáo. Họ đòi hỏi tờ báo phải công bố tên người ký giả đã phỏng vấn trực tiếp 2 nhân vật cho hai bài phỏng vấn. Tờ Thời Báo cho tới nay vẫn còn tồn tại nhưng không còn mạnh mẽ như trước.
Vụ thứ hai xảy ra gần đây tại Houston, Texas. Luật sư Hoàng Duy Hùng nộp đơn kiện cựu Đại Tá Trương Như Phùng đã phỉ báng ông qua những lời tố cáo LS Hùng đã thụt két công quỹ Fema, đã liên lạc với Toà Lãnh Sự Việt Nam tại Houston và đã làm ăn với Việt Cộng. Tin mới nhất cho biết vụ kiện đã được Toà Án bãi nại chiếu theo đạo luật Anti-Slap. Anti-Slap là một đạo luật ở Texas và ở 26 tiểu bang khác cộng với vùng Hoa Thịnh Đốn nhằm mục đích giảm thiểu các vụ kiện về phỉ báng, mạ lỵ giữa các người tố cáo và các nhân vật có khuôn mặt công chúng (public figure).
Trường hợp thứ ba lại cũng xảy ra ở San Jose. Tháng Sáu vừa qua một số người đứng ra tổ chức mời ông Bùi Tín, cựu Đại Tá Cộng Sản, đã ly khai đảng Cộng Sản và từ năm 1990 là một nhà báo sống tại Paris, đến nói chuyện. Một số người Việt tổ chức biểu tình phản đối. Xem cuộc biểu tình trên YouTube, còn thấy một người đi dự buổi nói chuyện bị một người biểu tình nhổ nước miếng vào mặt.
Trường hợp thứ tư là trường hợp mới nhất xẩy ra tại quận Cam vào đầu tháng 7 này. Báo Người Việt phát hành tại Westminster, đăng một lá thư của một độc giả đã viết “..ngày 30 tháng 4 là ngày vui mừng của dân tộc và Việt Nam Cộng Hoà là bè lũ tay sai của giặc Mỹ”! Lập tức có phản ứng ngay từ các cá nhân, hội đoàn, và ngay cả các báo khác. Chủ nhiệm của báo Người Việt quận Cam có thư xin lỗi ngay trên trang đầu, công nhận “đã phạm lỗi nặng nề nên xin lỗi toàn thể cộng đồng”. Thư xin lỗi cho biết tờ báo đã điều tra và cho nhân viên phụ trách chọn đăng bức thư độc giả nghỉ việc. Ban Điều Hành báo Người Việt Westminster đã tổ chức một cuộc tiếp xúc giữa Ban Điều Hành và đại diện cộng đồng để trình bày những biện pháp kỷ luật mà tờ bào đã áp dụng với những nhân viên trách nhiệm trong việc đăng lá thư nói trên.
Khi các nhà thảo hiến soạn thảo Tu Chính Án Thứ Nhất vào năm 1791, hơn 200 năm trước đây, họ nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của người công dân đối với với nhà cầm quyền. Tu Chính Án nhằm đến chính quyền và quy định: Quốc Hội sẽ không làm luật hạn chế tự do ngôn luận và tự do báo chí. Các nhà thảo hiến đã xem chính quyền là nguồn gốc chính đe dọa quyền tự do báo chí.
Trong 4 trường hợp đơn cử, không có một trường hợp nào có sự can thiệp của chính quyền, dẫu cho là cấp liên bang, tiểu bang, quận hạt, hay thị xã, để giới hạn tự do ngôn luận, tự do báo chí của cộng đồng người Việt. Không ai phủ nhận là cộng đồng người Việt được hưởng hoàn toàn và được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hoàn toàn trong việc xử dụng quyền tự do ngôn luận. Vấn đề là có những cá nhân và tổ chức trong cộng đồng muốn xử dụng tự do ngôn luận của họ để dập tắt tự do ngôn luận của những ai không đồng chính kiến với họ. Đăng một bài phỏng vấn hay một lá thư có thể gây phẫn nộ cho độc giả. Sự phẫn nộ có thể được chia xẻ bởi rất nhiều người, và được xem là một sự phẫn nộ chính đáng. Câu hỏi cần được đặt ra là đây có phải là lý do chính đáng để kêu gọi tẩy chay tờ báo, làm áp lực đóng cửa toà báo. Và chúng ta có muốn tiếp tục theo con đường và áp dụng những biện pháp tương tự cho đến khi tất cả chúng ta chỉ còn những tờ báo đồng một tiếng nói, một luận điệu, một ngôn ngữ với một lời cảnh cáo: ai nói khác sẽ bị tận diệt!
Và nếu như thế thì lợi ích và mục tiêu chính đáng của Tu Chính Án Thứ Nhất có còn cần thiết nữa hay không?
Ngày 3 tháng 5 năm 2012 vừa qua, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức mừng ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới. Ông Ban Ki-moon, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc và bà Irina Bokova, Giám Đốc UNESCO đã ra một tuyên bố chung có đoạn như sau: Freedom of Expression is one of our most precious rights. It underpins every other freedom and provides a foundation for human dignity. Free, pluralistic and independent media is essential for its exercise. Tự do ngôn luận là một trong những quyền quý báu nhất của chúng ta. Nó là căn bản cho các quyền tự do khác và đặt nền móng cho phẩm cách của con người. Tự do, đa dạng và độc lập của báo chí là điều tối cần thiết cho việc thực thi quyền tự do ngôn luận.
Tôi xin mượn đoạn trên trong bản tuyên bố chung làm kết luận cho bài nói chuyện hôm nay.
Xin cám ơn quý vị!
(Thẩm-phán Phan Quang Tuệ tốt nghiệp Trường Luật Sài Gòn năm 1965, lấy bằng Tiến-sĩ Luật-khoa tại Trường Luật Viện Đại-học Drake vào năm 1985.Trước đó, từ năm 1986 đến 1988, ông là Thẩm-phán về Luật Hành-chánh rồi Phụ-tá Bộ-trưởng Tư pháp Tiểu-bang Iowa ở thủ-phủ Des Moines, Iowa. Đến năm 1995 ông được bà Tổng-trưởng Tư pháp Janet Reno chỉ-định làm Thẩm-phán Di Dân. Ông là thẩm-phán gốc Việt đầu tiên được cử vào chức-vụ này. Thân phụ ông là Phó Thủ Tướng Phan Quang Đán; trước 1975 ông là Trung Úy của Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa. Ông có một người em phi công bị mất tích trong một phi vụ ở Cam Lộ miền trung VN.)
Trần Vinh Dự - Duy lý và bất duy lý của kiểm duyệt thông tin
Trần Vinh Dự (VOA)
Kiểm duyệt thông tin là một cụm từ luôn gây nhiều tranh luận. Phía người bị kiểm duyệt thường nhìn nhận đây là công cụ của chính quyền nhằm hạn chế quyền tiếp cận thông tin của họ. Vì thế, nó hay được mô tả như một thứ công cụ xấu xa được dùng để chống lại đám đông quần chúng.
Nhìn rộng ra, trong bất kỳ hình thái nhà nước nào, dưới bất kỳ chế độ nào, và bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, kiểm duyệt thông tin luôn tồn tại. Sự tồn tại của nó dựa trên những lý do rất hợp lý, và nhiều khi là từ cả hai phía. Trong nhiều trường hợp, kiểm duyệt ít nhiều mang lại những lợi ích nhất định cho người bị kiểm duyệt và trong hầu như tất cả các trường hợp nó đều mang lại lợi ích cho người thực hiện việc kiểm duyệt.
Bài viết này nhằm thử tìm hiểu các lý do biện minh cho việc kiểm duyệt thông tin, và sau đó phân tích việc kiểm duyệt thông tin dưới góc độ của kinh tế học.
Lợi ích đối với người bị kiểm duyệt
Thứ nhất, kiểm duyệt nhằm ngăn chặn thông tin có thể gây tổn thương đến người khác. Thí dụ không cho trẻ nhỏ xem các bộ phim kích động bạo lực, rùng rợn, hoặc có nội dung kích dục, không đăng các bức tranh hay hình ảnh quá ghê sợ trên báo chí hoặc trên truyền hình. Dạng kiểm duyệt này thường được gọi là kiểm duyệt đạo đức (moral censorhip). Loại kiểm duyệt này thì ở đâu cũng có, trong mọi quốc gia và mọi nền văn hóa. Lý do này áp dụng đối với con trẻ thì hiếm có ai phản đối được. Tuy nhiên, có nhiều mức độ xác định thông tin nào cần được kiểm duyệt, thông tin nào được phép phổ biến dựa trên các tiêu chí về văn hóa, tôn giáo, chính trị, luật pháp, và các giá trị truyền thống, tập quan khác nhau. Vì thế nhiều khi có những tiêu chí kiểm duyệt tưởng như có lợi cho người bị kiểm duyệt nhưng trên thực tế không hẳn như vậy.
Thứ hai, kiểm duyệt nhằm lọc bớt các thông tin không thích hợp để giảm chi phí tìm kiếm. Thí dụ các công cụ tìm kiếm trực tuyến (search engines) như google, yahoo hay msn đều làm việc này. Kiểu kiểm duyệt này chỉ có ý nghĩa khi người thực hiện biết rõ người bị kiểm duyệt đang muốn tìm kiếm gì, và qua khả năng lọc tin của mình để giúp người bị kiểm duyệt tìm đúng cái mà họ muốn tìm. Không thể dùng lý do này để giải thích các trường hợp kiểm duyệt như một số trường hợp các quốc gia đã gây áp lực và yêu cầu google, yahoo và msn ngăn chặn công chúng của họ tìm kiếm các thông tin về một số chủ đề mà họ cho là nhạy cảm. Trung Quốc là điển hình của trường hợp kiểm duyệt qua các search engines này.
Thứ ba, kiểm duyệt đôi khi được giải thích là nhằm bảo vệ công chúng khỏi các thông tin sai lệch. Thí dụ trong nhiều trường hợp các phe chống đối nhau và sử dụng công cụ chuyền thông để tuyên truyền. Vì thế, để bảo vệ công chúng của mình khỏi các thông tin tuyên truyền của phía bên kia, các thông tin đó phải bị kiểm duyệt. Lý do này không hẳn không đúng, tuy nhiên vấn đề ở chỗ liệu người kiểm duyệt có thực sự đại diện cho lợi ích của đám đông hay không. Và ngay cả nếu người kiểm duyệt thực sự đại diện cho lợi ích của đám đông, thì là làm thế nào người kiểm duyệt luôn biết được thông tin nào đúng thông tin nào sai để ngăn cản các thông tin sai?
Thứ tư, kiểm duyệt nhằm không truyền bá các thông tin có thể gây phẫn nộ cho một nhóm người. Thí dụ không đăng các bức tranh, cartoon hay phim ảnh đả kích các vấn đề dân tộc, tôn giáo hay giới tính. Có một nhánh trong khái niệm kiểm duyệt này thường được nhắc đến là kiểm duyệt tôn giáo (religious censorship). Ví dụ nổi bật về vụ này là trường hợp tờ Jyllands-Posten đăng bức hình cartoon về nhà tiên tri của người Hồi Giáo - Muhammad. Vụ này đã dẫn tới các cuộc biểu tình và động loạn ở khắp nơi trên thế giới với khoảng hơn trăm người bị bắn chết.
Thứ năm, kiểm duyệt nhằm Bảo vệ lợi ích quốc gia: Với một số thể chế độc đoán như Bắc Hàn hay trước đây là Myanmar, việc kiểm duyệt thông tin còn nhằm để bảo vệ chế độ đương quyền. Thí dụ trong thời căng thẳng cao điểm hồi tháng 9 năm 2007, chính quyền Than Shwe đã cắt internet và mạng điện thoại di động để người dân không còn công cụ thông tin cho nhau. Ở các nước khác, ngay cả Mỹ, người ta cũng hay viện lý do “national security” (an ninh quốc gia) để kiểm duyệt các tin bị cho là nhạy cảm – thí dụ như tin liên quan đến việc quân đội Mỹ đánh đập tù nhân hay những chuyện không mấy hay ho tương tự như vậy. Kiểm duyệt để bảo vệ lợi ích quốc gia đôi khi cũng là một việc làm chính đáng, tuy nhiên nó đôi khi không có cơ sở rõ ràng và dễ bị khai thác một cách tùy tiện bởi những người cầm quyền.
Đó là 5 lý do thông dụng nhất thường được dùng để biện minh cho hành vi kiểm duyệt. Thế nhưng việc kiểm duyệt thông tin có thực sự có lợi cho xã hội hay không? Có lẽ sẽ không có một câu trả lời triệt để, nhưng đứng dưới một góc nhìn cụ thể thì có thể sẽ có câu trả lời cho câu hỏi này.
Nếu dùng góc nhìn của kinh tế học chính thống để nhận định về kiểm duyệt thì hầu như không có gì nhiều để nói. Con người mà kinh tế học chính thống nghiên cứu là con người duy lý thuần túy. Người duy lý thuần túy không thể tức giận hay phẫn nộ vì thông tin, cũng không thể tổn thương vì thông tin. Chỉ có một hướng duy nhất để biện minh cho kiểm duyệt đứng dưới góc độ kinh tế học là nó nâng cao chất lượng thông tin. Nghiên cứu về chất lượng thông tin là một hướng nghiên cứu đang bùng nổ trong kinh tế và nhiều khả năng trong tương lai sẽ có người nhận giải Nobel từ các khám phá trong lĩnh vực này.
Một hướng khác của kinh tế học là không nhìn nhận con người như những chủ thể duy lý tuyệt đối. Người ta gọi những nghiên cứu này là kinh tế học hành vi (behavior economics). Nhánh behavior economics đã phát triển được một đoạn khá dài và đã động đến một số vấn đề thú vị trong cái bất duy lý của hành vi của con người như bounded rationality (duy lý hạn chế - chỉ suy nghĩ được ở mức độ nhất định chứ không thể quá phức tạp), bounded willpower (bản lĩnh kém – đôi khi làm những việc mà về lâu dài không có lợi cho mình) và bounded self-interest (vị kỷ hạn chế - không phải lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình). Tuy nhiên nếu muốn dùng behavior economics để giải thích lý do cần kiểm duyệt thì buộc phải thừa nhận là có những người duy lý hơn người khác, chính quyền duy lý hơn công chúng… và vì tôi coi giả định như vậy là tương đối vô căn cứ, tôi sẽ không bàn thêm theo hướng này nữa.
Bây giờ quay lại vấn đề chất lượng thông tin. Thông thường khi nói đến thông tin, người ta thường đặt câu hỏi “biết đến đâu? biết tới mức nào?” và mô hình hóa nó dưới dạng một hàm số xác suất. Với mô hình này, người ta có thể nói: “mặc dù tôi không biết chính xác chuyện gì sẽ diễn ra, tôi có thể biết khả năng xảy ra của một biến cố bất kỳ là bao nhiêu” dựa trên các thông tin mà tôi có. Thí dụ một chàng trai đi hỏi vợ thời xưa có khi không biết mặt vợ chưa cưới. Nhưng nếu chàng trai nghe nhiều người nói cô nàng xinh đẹp, tính tình dễ thương, thông minh… và những thông tin này không mâu thuẫn nhau, thì chàng có thể hình dung ở mức tương đối đại khái nàng sẽ như thế nào.
Mô hình này sẽ gặp phải vấn đề nếu trong mớ thông tin của người ra quyết định có các thông tin trái ngược, lẫn lộn với nhau. Trong trường hợp trên, giả như chàng trai gặp phải 2 luồng thông tin trái chiều, một số người thì cho biết nàng rất được, và trên cơ sở đó chàng trai tưởng tượng ra một khả năng tới 80% là nàng xinh đẹp, 20% là nàng cũng ưa nhìn, và 0% là nàng xấu. Trong khi một số người khác thì lại đưa ra những thông tin là 90% xấu, 10% trung bình, và 0% là đẹp.
Như vậy trong trường hợp này chàng có đến 2 hàm số phân phối xác suất khác nhau. Kinh tế học gọi là ambiguity[1] (- tạm dịch là nhiễu loạn- đây là một hướng nghiên cứu rất mới). Giả như thông tin quá nhiễu loạn và bạn có tới hàng trăm hàm phân phối xác suất khác nhau thì ngay như người ra quyết định là một người duy lý thì cũng rất khó để có thể thực hiện tối ưu hóa và chọn ra một quyết định tối ưu nhất.
Trong những trường hợp thông tin bị nhiễu loạn như vậy, giả như có một thể chế [nhà nước chẳng hạn] có khả năng “phá nhiễu”, và kiểm duyệt hết các thông tin sai lệch để chỉ còn lại những thông tin đúng thì việc ra quyết định của các cá nhân sẽ đơn giản hơn, và vì thế cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn. Việc kiểm duyệt này nhìn bề ngoài có vẻ hợp lý, vì nó giảm chi phí giao dịch trong các hoạt động của đời sống xã hội, làm cuộc sống đơn giản hơn. Thế nhưng, không phải là nó không có mặt trái.
Mặt trái rõ ràng nhất của nó là làm cách nào để phân định được thông tin nào “đúng” và thông tin nào là “sai”. Ai hoặc thể chế nào có năng lực để biết và quyền phán quyết đúng/sai trong mỗi trường hợp có các luồng thông tin mâu thuẫn nhau?
Mặc trái khác, quan trọng hơn, là khi người kiểm duyệt kiểm soát thông tin của người khác, cũng có nghĩa là người kiểm duyệt kiểm soát suy nghĩ và hành vi của người khác. Điều này rất dễ thấy qua ví dụ chàng trai đi hỏi vợ ở trên. Giả sử luồng thông tin “nàng xinh” bị kiểm duyệt đi và chàng là một người duy lý thì chàng sẽ không đi hỏi cưới cô gái kia. Đảo lại, nếu luồng thông tin “nàng xấu” bị kiểm duyệt đi thì chàng sẽ đi hỏi cưới. Biết được điều này, người kiểm duyệt có thể điều khiển hành vi của chàng như điều kiển một con rối thông qua việc quyết định cho chàng trai biết gì và không biết gì.
Tóm lại, đứng dưới góc nhìn của kinh tế học chính thống, hành vi kiểm duyệt là hành vi không thể biện minh, ngay cả khi nó dựa trên lập luận rất thuyết phục là giảm nhiễu thông tin. Tuy nhiên, kinh tế học phải dựa trên giả định là con người là tư duy không phụ thuộc vào cảm xúc, và có khả năng tư duy để tìm ra giải pháp tối ưu nhất dựa trên các nguồn thông tin mà họ có.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)