Hiển thị các bài đăng có nhãn Tạ Tỵ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tạ Tỵ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2021

Ngô Thế Vinh : 100 Năm Sinh Hoạ Sĩ Tạ Tỵ Và Giấc Mộng Con Năm 2000 (Phần 1)

 Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà… Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Tạ Tỵ [thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 & 27.7.2000]

**

Hình 1: trái, Tạ Tỵ 31 tuổi, sau 4 năm theo kháng chiến chống Pháp và về thành (Hà Nội, 1952); giữa, Thiếu Tá Tạ Tỵ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà; phải, chân dung Tạ Tỵ năm 2000. Sau 1975, ông đã phải đi tù cải tạo 6 năm, hồi ký Đáy Địa Ngục ghi lại kinh nghiệm ông đã trải qua trong những năm tháng nghiệt ngã tù đày với lao động khổ sai “ăn không đủ no, đói không đủ chết”;  [nguồn: album gia đình Tạ Tỵ, photo by Phạm Phú Minh, Đáy Địa Ngục, Nxb Thằng Mõ 1985]


TIỂU SỬ

Tạ Tỵ là bút danh, Tạ Văn Tỵ là tên thật, sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội, nhưng trên giấy khai sinh lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn một năm. Ngay từ khi còn là một sinh viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương / École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm.


Năm 1941, ở tuổi 20,do đoạt một giải thưởng tranh của nhà trường, Tạ Tỵ được đến thăm kinh đô Huế.


Năm 1943, Tạ Tỵ tốt nghiệp khoa Sơn Mài tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương nhưng dấu ấn Hội hoạ của ông không phải là những tác phẩm Sơn Mài. Tạ Tỵ luôn luôn đi tìm cái mới, và được xem là người đi tiên phong vào lãnh vực Lập Thể / Cubisme và Trừu Tượng / Abstrait của hội hoạ Việt Nam.


Và cũng năm 1943, sau khi vừa tốt nghiệp,Tạ Tỵ đoạt ngay một giải thưởng với bức tranh“Mùa Hạ” (tân ấn tượng / néo-impressionnisme) được giải thưởng tại phòng Triển lãm Duy nhất (Salon Unique) “vì có một phương pháp diễn tả theo khuynh hướng mới, tuy chưa hẳn là lập thể, nhưng các hình thể đã được biến cải theo sở thích riêng.”[1]


Ngô Thế Vinh: 100 Năm Sinh Hoạ Sĩ Tạ Tỵ Và Giấc Mộng Con Năm 2000 (Phần 2)

 ĐÁY ĐỊA NGỤC: HỒI KÝ VIẾT TRÊN ĐẢO

Ngay từ ngày đặt chân lên đảo, Tạ Tỵ đã cầm bút ghi lại kinh nghiệm những năm tù đày kinh hoàng mà anh và các đồng đội vừa trải qua. Cuốn Hồi ký Đáy Địa Ngục, dày 678 trang được khởi viết ngày 25/9/1982 và viết xong ngày 15/12/1982 tại trại Tỵ Nạn chuyển tiếp Sungai Besi, Malaysia, được Nxb Thằng Mõ, California xuất bản năm 1985 và tái bản một năm sau đó. Ngay trang mở đầu cuốn Hồi ký, Tạ Tỵ viết: 


      Cuốn “Đáy Địa Ngục” được thực hiện trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, giữa những tiếng ồn ào, sinh động của một trại Tỵ Nạn trên vùng đất Mã Lai… Khoảng thời gian, từ ngày Cộng sản chiếm miền Nam, tính đến hôm nay, mới gần 8 năm. Quả thực không lâu so với cuộc luân hành miên viễn của thời gian, nhưng đích thực, đó là một chuỗi đau thương đan kết bằng máu và nước mắt của mỗi con người Việt Nam đã và đang sống trong một bối cảnh vô cùng khốn khổ trực diện với một chế độ mình không ưa thích, không muốn phục vụ, vẫn phải làm như nhiệt tình, thành khẩn!

      Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam là một nhà tù lớn, bên trong nó, có rất nhiều nhà tù nhỏ, được quây kín sau dãy Trường Sơn trùng điệp, sau những lũy tre dày đặc, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Không một ký giả nào thuộc Thế Giới Tự Do, kể cả các ký giả thuộc các nước Cộng sản anh em, được “tham quan” những vùng đất cấm đó. Đối với Cộng sản, cái gì cũng được giữ bí mật tối đa, cái gì cũng được che giấu bằng dối trá, lừa bịp!

      Tôi đã trải qua 8 trại Tập Trung Cải Tạo, từ Nam ra Bắc. Tôi đã sống và đã chứng kiến bao nhiêu trạng thái bi thương…

Người tù chính trị Việt Nam sau ngày 30-4-1975, quả thực, một vết nhơ trên “tấm thảm lương tri nhân loại”. Họ được đối xử như những con vật, đôi khi không bằng con vật. Họ luôn luôn sống trong lo âu, hồi hộp, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy đến với họ, buổi sớm mai khi thức dậy, sau một đêm trằn trọc với ác mộng và muỗi rệp! Họ “ăn không đủ no, đói không đủ chết”, nên lúc nào miếng ăn cũng ám ảnh, giày vò họ, làm khổ sở, ngày này qua ngày khác, mùa nắng cũng như mùa mưa, mùa hạ cũng như mùa đông, không mùa nào họ có thể tìm thấy chút gì để tạo nên nguồn hy vọng. Nếu ai đã trải qua một lần trong bất cứ Trại Tập Trung Cải Tạo nào của Cộng sản Việt Nam, người đó có quyền coi thường mọi nhà tù trên Thế Giới!

… “Nhưng trang sử đã lật. Cái gì qua, phải qua. Nó là bài học vô cùng quý giá, miễn rằng bài học này đừng bao giờ ôn / lặp lại trong ngày mai.” [1] [hết trích dẫn]


      Tạ Tỵ đã đặt chân tới Mỹ với tập bản thảo hồi ký Đáy Địa Ngục vừa được viết xong. 



Hình 12:Tạ Tỵ và các thân hữuở Little Saigon, hàng ngồi từ phải: Tạ Tỵ, Ngô Bảo; hàng đứng từ trái: Thanh Chương, Phan Diên, Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Văn Định. [photo by Phạm Phú Minh, do Phạm Quốc Bảo nhận diện]



RA MẮT TUYỂN TẬP VĂN – THƠ – HOẠ TẠ TỴ 2001

Trong khoảng thời gian 21 năm sống tại California Hoa Kỳ, khi thì San Diego, khi thành phố Garden Grove, Tạ Tỵ tiếp tục sáng tác vẽ và viết; ông hoàn tất được một số tranh với phong cách trừu tượng và một số tác phẩm viết và xuất bản ở hải ngoại. 


Tuyển Tập Văn – Thơ – Hoạ của Tạ Tỵ là cuốn sách cuối cùng được xuất bản và ra mắt tại Hoa Kỳ. Sách gồm bốn tập truyện: Những Viên Sỏi, Yêu và Thù, Bao Giờ, Xóm Cũ, và một tập thơ Mây Bay, đặc biệt có 12 phụ bản màu: gồm 6 bức tranh Sơn Dầu Trừu Tượng, tất cả được vẽ tại Hoa Kỳ và 6 Ký hoạ Bột màu / Gouache các Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ. 


Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

Du Tử Lê - Tạ Tỵ, người mở những cánh cửa lớn cho hội họa Việt Nam


Du Tử Lê

Theo ghi nhận riêng của tôi, thì trong sinh hoạt hội họa của 20 năm văn học nghệ thuật miền Nam, họa sĩ Tạ Tỵ là người có công du nhập vào Việt Nam hai trường phái hội họa lớn là Lập Thể và, Trừu Tượng.Tuy nhiên, ông lại không được nhắc tới nhiều, như những họa sĩ khác. (1)
   

Họa Sĩ Tạ Tỵ. (Hình: giaoduc.net.vn)  

Tôi không biết có phải sự nghiệp của ông được định hình quá sớm, ngay từ giữa thập niên (19)40, khi cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân Việt bùng nổ?

Trong một bài viết nhan đề “Tạ Tỵ - ông ‘tổ’ tranh trừu tượng Việt Nam,” tác giả Bội Trân ghi nhận:
“...Vào năm 1948, trong chiến khu, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái và Văn Cao đã tổ chức một cuộc triển lãm nhóm đầu tiên. Tạ Tỵ khi ấy trưng bày những bức tranh lập thể, trừu tượng, còn Bùi Xuân Phái bày những bức tranh ấn tượng với những khu phố cổ cũ và những hẻm ngõ buồn heo hắt. Sau lần triển lãm này, các họa sĩ ít nhiều đã gặp rắc rối.” (2)

Giải thích cho sự kiện họa sĩ Tạ Tỵ ít được truyền thông của 20 năm VHNT miền Nam nhắc đến, có người cho rằng vì họa sĩ Tạ Tỵ thành danh quá sớm; lại ở giai đoạn “bản lề” hay “gạch nối” giữa hai giai đoạn VHNT quan trọng là tiền chiến và kháng chiến. Chưa kể ông vào Nam trước 1954, nghĩa là không thuộc thành phần văn nghệ sĩ miền Bắc di cư vào Nam, nên giới này đã đặt ông qua một bên (?).

Dù vậy, vai trò, vị trí tiền phong của họa sĩ Tạ Tỵ trong những năm tháng gần đây, đã được đánh giá và, nhìn nhận một cách công bằng, khách quan hơn, bởi chính những tên tuổi lớn trong sinh hoạt hội họa của chúng ta. Như một việc làm cụ thể liều lĩnh, của họa sĩ Bùi Xuân Phái, sau biến cố 30 tháng 4, 1975, họ Bùi đã không chỉ nói lên tình bạn giữa hai tên tuổi mà, còn thể hiện tấm lòng trân trọng của ông trước tài năng và, những đóng góp to lớn, quý báu cho hội họa Việt của họa sĩ Tạ Tỵ, qua trích đoạn dưới đây, cũng của tác giả Bội Trân:
“Năm 1953, Bùi Xuân Phái đã từ chối khi Tạ Tỵ rủ ông cùng vào Nam định cư, Bùi Xuân Phái có kể lại chuyện này, và có những giai đoạn quá ngặt nghèo, ông cũng đã tỏ ra than tiếc và đổ lỗi cho số phận. Tuy tình bạn của họ phải xa cách trong thời kỳ hai miền Việt Nam chia cắt, nhưng Bùi Xuân Phái vẫn thường kể lại những kỷ niệm về tình bạn với Tạ Tỵ với các bạn hữu. Năm 1979, Bùi Xuân Phái vào thăm Saigon và yêu cầu Thái Tuấn đưa đến thăm gia đình Tạ Tỵ, một họa sĩ di cư vào Nam rồi trở thành trung tá trong quân dội Saigon, hành động của Bùi Xuân Phái lúc bấy giờ được xem là can đảm và cảm động.”


 “Lần cuối cùng tôi chứng kiến cảnh gặp lại của Tạ Tỵ với Bùi Xuân Phái, đó là lần Tạ Tỵ được ra khỏi trại cải tạo, trước khi trở lại Saigon đoàn tụ với gia đình, Tạ Tỵ đã tìm đến nhà Bùi Xuân Phái. Dáng người Tạ Tỵ cao lớn, ông đứng trước cửa nhà và gọi to khi vừa thấy Bùi Xuân Phái. Hai người bạn tay bắt mặt mừng khi gặp lại nhau sau hơn hai mươi năm xa cách. Nhưng chỉ sau những câu hỏi han ban đầu tiếp theo là sự im lặng của cả hai người. Tôi ấn tượng mãi về sự im lặng khó hiểu ấy, cả hai ông ngồi bên nhau hàng giờ đồng hồ mà chỉ im lặng thôi, nước mắt nhòe ướt đôi mắt họ.” (3)


Nói tới tài năng ngoại khổ của họa sĩ Tạ Tỵ mà, không nhắc tới biệt tài vẽ chân dung của họ Tạ, tôi cho là một thiếu sót, khó được tha thứ.

Như sự hiểu biết giới hạn của tôi thì, hầu hết các họa sĩ, dù theo đuổi trường phái nào, cũng thường tìm tới nghệ thuật vẽ chân dung. Chân dung chính họ, hay người khác.

Ở lãnh vực này, họa sĩ Tạ Tỵ cũng đã được ghi nhận như một trường hợp ngoại lệ. Phong cách vẽ chân dung của họ Tạ thường chỉ là vài nét phác. Nhưng chân dung với những nét tiêu biểu của người được ông phóng bút đã hiển lộ một cách sống động. Và, ngay cả khi ông không ký tên, người xem vẫn lập tức nhận ra, đó là nét vẽ (như khắc) của Tạ Tỵ.
   

Tranh sơn dầu “Cất cánh” của Tạ Tỵ  

Về những giờ phút cuối cùng của họa sĩ Tạ Tỵ, người có công mở những cánh cửa lớn cho lịch sử hội họa Việt Nam, tôi đã xúc động khi được đọc bài của nhà văn Văn Quang. Trong bài, có một chi tiết nhỏ, nhưng với cá nhân tôi, nó thật ý nghĩa! Tôi tin, ở thế giới bên kia, người họa sĩ ngoại khổ của chúng ta, chắc sẽ hài lòng. Ðó là:
“Trong số hàng trăm vòng hoa của thân hữu ở VN, tôi thấy có vòng hoa của anh Ðinh Cường từ Virginia đưa đến và một vòng hoa của Hội Nghệ Thuật thành phố Saigon.” (4)

Tôi biết, vòng hoa của họa sĩ Ðinh Cường ở Virginia, được gửi về từ tâm thái riêng của ông. Nhưng tôi muốn nhìn việc làm này như một đại diện và, hơn thế, một lời xin lỗi (dẫu muộn,) của những người làm hội họa miền Nam, 20 năm.

Du Tử Lê
(Tháng 7, 2012)

Chú thích:
(1) Họa sĩ Tạ Tỵ tên thật Tạ Văn Tỵ. Ông sinh ngày 24 tháng 9 năm 1921 tại Hà Nội. Nhưng khai sinh lại ghi sinh năm 1922. Ông tốt nghiệp trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Ðông Dương năm 1943. Cũng thời gian này, bức tranh “Mùa Hè” của ông được trao giải Salon Unique. Trước đó, khi còn là sinh viên Cao Ðẳng Mỹ Thuật, năm 1941, ông cũng đã được trao tặng một giải thưởng khác về hội họa. Từ giải thưởng này, ông được Quốc Trưởng Bảo Ðại mời viếng thăm Cố đô Huế. Và, ông được mời ngồi chung xe ngựa với Quốc Trưởng Bảo Ðại thưởng lãm toàn cảnh cố đô cổ kính này. Tạ Tỵ tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm 1946, là một trong vài giáo sư mỹ thuật đầu tiên ở Liên Khu 3. Năm 1950, họa sĩ Tạ Tỵ bỏ vùng kháng chiến về lại Hà Nội. Năm 1951, ông có cuộc triển lãm cá nhân tại Hà Nội, với 60 bức tranh gồm cả Lập Thể và Trừu Tượng. Năm 1953, ông rủ một trong 2 người bạn thân của ông là họa sĩ Bùi Xuân Phái, vào Saigon. Họ Bùi từ chối. (Bùi Xuân Phái bỏ chiến khu về lại Hà Nội năm 1952.) Tại Saigon, họa sĩ Tạ Tỵ có hai cuộc triển lãm cá nhân quan trọng vào những năm 1956, 1961. Năm 1982, sau nhiều năm tù cải tạo, ông cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ. Năm 2003, khi người bạn đời qua đời, ông quyết định trở về Saigon. Và, chỉ một năm sau, ông từ trần giữa quê nhà.
(2) Bội Trân, “Saigon xanh ký ức,” Hợp tuyển thơ, nhạc, họa Bến Tâm Hồn, trang 255, Nhà XB Thanh Niên, Saigon, 2012.
(3) Bội Trân, sđd. Trang 255, 256.
(4) Văn Quang, sđd. Trang 262.  


Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2011

Tạ Tỵ

Huỳnh Hữu Ủy


Tạ Tỵ - Phan Diễn vẽ

Tạ Tỵ sinh năm 1921 ở Hà Nội. Theo học Trường Mỹ Thuật Ðông Dương năm 1938, ra trường năm 1943, đỗ đầu khi tốt nghiệp.

Tạ Tỵ (1922-2004)

Ðặng Tiến

Ngày 24 tháng 8 là ngày giỗ họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ.

Họa sĩ Tạ Tỵ tại một sinh hoạt bày tranh ngoài trời Ông tên thật là Tạ Văn Tỵ, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1922 (hay 1921?), tại Hà Nội. Ông theo học hội họa trường Mỹ Thuật Ðông Dương tại Hà Nội, và rất sớm đã tiếp thu kỹ thuật trừu tượng (1943). Tại Việt Nam, ông là một trong vài ba người đầu tiên vẽ tranh trừu tượng, theo lối lập thể, và theo đuổi trường phái này lâu dài, có thể nói là người có công đầu trong việc đưa tranh lập thể vào nền hội họa Việt Nam hiện đại.

tại Little Saigon, California khoảng đầu thập niên 2000.