Hiển thị các bài đăng có nhãn Tưởng Năng Tiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tưởng Năng Tiến. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2020

Tưởng Năng Tiến: Cái mũ & cái búa

 Không dừng ở những phương cách “dầu nhớt, mắm tôm” như trước. Cuộc trấn áp các nhà bất đồng chính kiến và phong trào dân chủ Việt đã sang giai đoạn rất bạo tàn. Trương Duy Nhất.

 

Ghé thăm Myamar, giáo sư Nguyễn Đăng Hưng “phát hiện” ra đôi điều hơi khác lạ về xứ sở này:

 

“Té ra mắm tôm cũng là thức ăn gia vị thông thường của người Miến Điện. Tuy nhiên, trong những ngày chính quyền quân phiệt Miến Điện đàn áp khủng khiếp phe đối lập, tôi chưa bao giờ nghe nói công an Miến Điện liệng mắm tôm vào cửa nhà bà lãnh tụ phe đối lập Aung San Suu Kyi…”

 

Tuy bị rất nhiều tai tiếng, chính phủ Burma – ít ra – cũng còn có được một ưu điểm nhỏ: họ ngại những việc làm bẩn thỉu. Các đồng chí lãnh đạo ở nước ta lại khác, rất khác, không ngại ngùng chi cả. Tác giả Nguyễn Duy Vinh cho biết:

 

"Ngày Nhân Quyền ở Việt Nam từ nay sẽ được cả thế giới biết đến nhờ vào cách sống mới: văn hóa đàn áp và khủng bố dùng… mắm tôm. Mắm tôm đã được các ông công an không mặc đồng phục và một vài dân phòng thi nhau ném vào đám dân hiền hòa đang họp mặt để cùng nhau ôn lại Tuyên Ngôn về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc." (“Cách Dùng Mắm Tôm Trong Văn Hoá Đàn Áp Ở Việt Nam” Dân Luận – 10/12/ 2013).

 

Hàm huyết phun nhân. Tiên ô tự khẩu. Ngậm cứt phun người hay ném mắm tôm vào tha nhân cũng vậy. Bởi vậy, qua năm sau, đám công an Việt Nam đổi cách đàn áp. Gọn ghẽ và sạch sẽ hơn, chút xíu. Họ bạo hành bằng tuýp sắt – theo tường thuật của RFA, vào hôm 25/5/2014:

 

“Bà Trần Thị Nga, một người tham gia đấu tranh tích cực cho quyền con người tại Việt Nam, hôm qua bị đánh đập đến thương tích. Thủ phạm được cho là người của an ninh.”

 

Nạn nhân kế tiếp là nhà báo Phạm Đoan Trang. Cô cũng bị an ninh đánh gãy cả hai chân khi tham gia biểu tình ôn hoà bảo vệ cây xanh năm 2015.


Ảnh: FB


Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

Tùy Bút Võ Phiến – Rụp Rụp

Nhà văn Võ Phiến.
L.T.Đ: Từ California, nhà văn Phạm Xuân Đài vừa cho biết một tin buồn:
“Nhà văn Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi...Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.
Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...; về tùy bút, tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v... Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.
Để tưởng niệm một vì sao vừa khuất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một tuỳ bút tiêu biểu của ông. Bài viết này  được trích từ tập Đất Nước Quê Hương, do nhà Lửa Thiêng  xuất bản lần vào năm 1973.
Tưởng Năng Tiến

Ông Bình Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng trang phục, ngồi im không nói, ông cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.

Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Ðông, người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh khác.(1) 

Thứ Tư, 18 tháng 3, 2015

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến - Chơi Voi

Xây tượng đài hoành tráng cũng như nhà nghèo nuôi voi chơi. - Phạm Trung
Lúc nhỏ, tôi rất thích nuôi chim. Đến già tôi vẫn còn (hơi) thích nhưng lười nên chơi chim theo kiểu “thiên nhiên,” nghĩa là thưởng thức chim trời mà khỏi cần phải nuôi nấng gì ráo trọi.
Tất cả những vùng đất mà tôi đã đi qua đều có chim se sẻ. Có lẽ đây là giống chim gần gũi nhất với loài người. Cứ ngồi một lát ở một quán vỉa hè nào đó, tại bất cứ nơi đâu, cũng đều có thể thấy năm bẩy chú se sẻ đang loanh quanh kiếm ăn cạnh đó. Nhìn những bước chân chim quen thuộc, nhẩy nhót nhẹ nhàng (không dưng) cũng thấy lòng hơi thanh thoát, và cuộc sống bỗng hoá nhẹ nhàng.

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Ðảng và Ðảng Tính

  • “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên.”
  • “Đất nước đã mắc phải một giống vi trùng có tên gọi tính đảng nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.”
Từ Vọng Các, Mặc Lâm bay tuốt luốt qua Nam Vang rủ nhậu:
  • Ê, kiếm chỗ nào ngồi uống sương sương vài ly cho nó có chút hương vị đầu Xuân nha.
  • Tưởng gì chớ uống thì bất kể Xuân, Hạ, Thu, Đông ... gì tui cũng chịu liền.
Mặc Lâm đi cùng với Sơn Trung, thông tín viên mới nhất (và chắc cũng nhỏ tuổi nhất) của RFA đang cư trú tại Phnom Penh.
Tôi rất hài lòng với người bạn trẻ vừa quen: nhanh nhẹn, thông minh, và (xem chừng) đôn hậu. Ghé quán Ngon Restaurant, chúng tôi gọi “liều” một chai Johnnie Walker Black Label. Thấy cái gíá 40 MK mà gần muốn “đứt ruột” luôn nhưng rồi đành tặc lưỡi: “Thôi chả gì thì cũng mừng tân niên, mỗi năm chỉ có mật lần, và cũng là dịp mừng một tân đồng nghiệp.”

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dư Âm Của Một Ngày Lễ Lớn

Đi nước ngoài, mới biết mình mất những gì. - Bùi Ngọc Tấn
Mấy lúc gần đây, thỉnh thoảng, tôi vẫn có việc phải ghé qua Kampong Channang. Đây là một thành phổ nhỏ, nằm ở tả ngạn của dòng Tonlé Sap, cách thủ đô Nam Vang khoảng trăm cây số.
Tôi hay đi lơ ngơ qua những con phố ngập nắng (và ngập bụi) nhìn mấy bảng hiệu loằng ngoằng chữ Miên – đôi khi chữ Tầu – với ít nhiều lơ đãng. Riêng chiều qua, tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy một bảng gỗ nhỏ, trước một căn nhà, có ghi hàng chữ: KHMER KAMPUCHEA KROM HUMAN RIGHTS ASSOCIATION KG. CHANNANG.
Ảnh: Sovanrith
Thiệt không vậy cà? Tui đứng chết trân, nhìn chăm chăm vào tấm bảng mà không còn dám tin vào đôi mắt của mình nữa. Không lẽ ở một tỉnh lỵ xa xôi, và nhỏ bé (téo teo) đến thế này mà cũng có văn phòng Hiệp Hội Nhân Quyền Của Người Khmer Kampuchea Krom sao?

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

Tưởng Năng Tiến - Những cánh bèo trôi ở Geyleng


Ánh minh họa chụp tại Geyleng, Singapore. - Photo courtesy of VDF

Những Mảnh Đời Lang Bạt Ở Bình Dương

“Những Mảnh Đời Lang Bạt Ở Bình Dương” là tựa của một bài phóng sự, đọc được qua RFA, do nhóm phóng viên Việt Nam thực hiện:
“Họ là những người tứ xứ lang bạt về Bình Dương để kiếm sống. Có người làm thuê đủ các công việc để kiếm cơm độ nhật, có người đi buôn rau hành dạo, trái cây dạo, cũng có người đạp con ngựa sắt cũ kĩ dong ruổi khắp thị thành, ngoại ô để mua ve chai, đồng nát… Cuộc sống của họ khó khăn, bấp bênh, không có ngày mai. Và họ cũng chẳng biết bám víu vào đâu ngoài chút sức tàn lực kiệt lúc tuổi già.

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014

Tưởng Năng Tiến - Con Ốc, Cái Tăm & Cây Đũa

Bộ Trưởng Vũ Huy Hoàng
Trong tiếng Việt “con ốc” với “con vít ” là một, nếu chúng đều nằm trong thùng đồ nghề sửa xe. Còn trên bàn ăn thì hai con tuyệt nhiên không có liên hệ gì (ráo) với nhau.

Sở dĩ có chuyện hơi rắc rối như vậy bởi con ốc có nguồn gốc từ phương Tây. Khi mới đến Việt Nam, có người thấy mặt (liền) đặt tên nó là “con ốc” vì trông cũng hơi giông giống.

Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ðưa người ta không đưa qua sông

tang_le_vo_thi_thang

Ảnh:VOV


Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch. (Hạ Đình Nguyên)
Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay một lời ai điếu, tôi xin mượn một câu thơ của Thâm Tâm để đưa Võ Thị Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng. Hoa hoè, nhang khói, điếu văn này nọ (e) không thiếu trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:
“Vào lúc 7h30 sáng nay (25/8), tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thành phố Hồ Chí Minh, Lễ truy điệu bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đã được tổ chức trọng thể…”

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến - Dư Âm Của Những Đám Tang


han Châu Trinh - (9/9/1872 – 24/3/1926)
Nếu đoàn tàu Việt Nam thuở ấy rẽ vào đường rầy Phan Chu Trinh, nhằm hướng xã hội dân chủ như Na Uy, Thuỵ Điển bây giờ thì sao nhỉ?

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dư Âm Năm Cũ

Hình: internet
Tháng 9 năm 1975, Lý Chánh Trung được mời tham dự Hội Nghị Hiệp Thương Thống Nhất. Chuyến đi này đã được ghi lại, với rất nhiều hào hứng:
Ra Bắc, gặp một cô lái đò, cô hỏi: có phải là giáo sư Lý Chánh Trung không? Đúng là tôi. Trước 1975, cháu có đọc nhiều bài viết của chú, cháu thích lắm..."

Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2014

S.T.T.D Tưởng năng Tiến - Ghế Súp

Hình: internet
 Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa con ráy lắm! - Tôn Đức Thắng

Có lần, tôi nghe nhà văn Võ Hồng ví von: “Bụng to như bụng xe đò.” Nhận xét của ông, rõ ràng, không... trật!

Xe đò thường đầy khách mới chịu rời bến nhưng trên đường đi tài xế vẫn luôn dừng bánh “hốt” thêm mấy con nhạn là đà để kiếm thêm tiền. Khách lên sau thì ngồi ghế súp.

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Níu Áo Một Người

Hình: Anh Lế Trí Tuệ (trái vài phải) vàa  bài của Báo An Ninh Thế Giới Ngày 16/05/07 (gữa)

Hoa Kỳ ngày 30 tháng 1 năm 2014
Kính gửi Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải
314 Edifice Vitoria Building 
Ottawa, ON K1A 0A4
Canada
Email:ngoth@sen.parl.gc.ca

Thưa ông, qua tờ Thời Báo phát hành vào hôm 17 tháng Giêng năm 2014 (từ Canada)chúng tôi đã đọc được bản tin này:

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2014

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến - Hàng Quốc Cấm


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến - 
Người dân tiếp xúc với truyền thống định hướng một chiều lâu ngày sẽ vô tình tự triệt tiêu tư duy nhìn nhận vấn đề bằng con mắt đa chiều, đó là một vấn đề không thể phủ nhận được trong ý thức hệ của rất đông bộ phận người Việt hiện nay. Hương Vũ 
Mấy năm trước – khi ông Bùi Ngọc Tấn ghé qua Hoa Kỳ – chúng tôi có đi thăm thú vài nơi, hay nói theo ngôn ngữ “đương đại” là “tham quan” vài chỗ. Trong chuyến đi ngắn ngủi này, tôi nghe nhà văn của chúng ta nhắc đi lại (đến) đôi ba lần, với ít nhiều hãnh diện: “Tôi là bạn của ông Dương Tường.”

Tuy chúng tôi biết nhau khá lâu nhưng đây là lần đầu mới diện kiến nên tôi không tiện hỏi:

- Dương Tường là cha nội nào vậy cà?

Sau đó, tôi mới được biết thêm Dương Tường là một nhà thơ, và là một dịch giả (thế giá) ở Việt Nam. Tuy nhiên, ông được mến mộ không thuần vì chuyện sáng tạo thơ văn mà vì đã tìm ra phương cách giúp cho bạn bè thoát cơn bỉ cực:
 “ Đi bán máu ... Lấy xong máu, cầm biên nhận đến tài vụ lĩnh tiền, nhận phiếu bồi dưỡng. Tiền tính theo xê xê còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một ít máu nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu.

Cho nên những ngày đi bán máu rất vui. Con người mình bỗng nhiên tăng thêm giá trị trước gia đình và trước bao cặp mắt của cánh phe vé, bỗng nhiên mình được bao bọc quấn quít giữa những cái nhìn trìu mến...” (Bùi Ngọc Tấn. “Thời Gian Gấp Ruổi“. Viết Về  Bạn. Fallchurch, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2006).

Nghe đâu Dương Tường còn được thiên hạ (suýt xoa) nể phục vì quen biết lớn. Ông ấy có thể bán máu mà không cần qua cò, và cũng không bị xét nghiệm lôi thôi như bao kẻ khác. Tuy “thần thế” tới cỡ đó nhưng Dương Tường vẫn nhất định “ ... đứng về phe nước mắt!”

Ôi, tưởng gì chứ “nước mắt” thì tôi không hảo (lắm) và cũng hoàn toàn chả thấy hào hứng (tí nào) khi đi bán máu để nuôi thân, và ... nuôi cả gia đình. Tôi thực vô cùng kinh ngạc khi nghe Bùi Ngọc Tấn thốt lên là “những ngày đi bán máu rất vui, và ông ấy rất hãnh diện vì là bạn của ông Dương Tường.

 Sống với cộng sản mà lại làm bạn với một thằng cha chuyên môn “đứng về phe nước mắt” thì đời nếu không te tua (e) cũng bầm dập lắm. Qúi báu (mẹ) gì mà cứ khoe nhặng cả lên như thế, lạ thật!

Tuần rồi, tôi lại bị ngạc nhiên thêm “cú” nữa khi đọc mục hỏi đáp trên trang Thư Viện Pháp Luật của đất nước mình – xin ghi lại nguyên văn:

Hỏi: 
tôi có người thân tới chơi.nhưng chưa kiệp làm tạm trú tạm vắng thì bị công an tới lập biên bản phạt.nhưng thời gian người thân tôi lên là chiều ngày thứ sáu.qua thứ bảy và chủ nhật thì họ không làm.tôi nghĩ qua thứ hai rùi lên báo cáo.nhưng đã bị lập biên bản tối ngày chủ nhật.công an tạm giữ giấy chứng minh nhân dân của hai người thân tôi.họ cứ hẹn lên hẹn xuống rồi lại điều tra sơ yếu lý lịch nhân thân gia đình rùi từ nhỏ cho đến lớn....mời lên lấy lời khai liên tục.hơn một tháng nay vẫn chưa giải quyết  xong.họ cứ mời lên lấy lời khai hoài. không đi đâu làm được.vậy hỏi các cán bộ ấy đã làm việc vậy đúng với pháp luật chưa.
chân thành cảm on !
Trả lời:
Theo quy định tại điều 31 luật cư trú 2006, người nhà bạn phải thực hiện thông báo lưu trú theo quy định. Vì người nhà bạn đến vào buổi chiều nên phải thông báo trước 23h cùng ngày. Việc thoogn báo này có thể thực hiện trực tiếp hoặc qua điện thoại đối với công an khu vực. Do đó, bạn chưa thực hiện đăng ký thường trú là vi phạm pháp luật và theo quy định thì sẽ phải chịu mức phạt 1.000.000 - 2.000.000 đồng theo quy định tại điểm d khoản 2 điều 11 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của chính phủ. 

Ý quỷ thần, thiên địa ơi, có nơi nào trên hành tinh này mà đi thăm bạn lại bị công an “mời lên lấy lời khai liên tục cả tháng trời mà vẫn chưa giải quyết xong.” Còn người được thăm “bị công an tới lập biên bản phạt.” Đã thế, khi thắc mắc thì được trả lời rằng: “... bạn chưa thực hiện đăng ký thường trú là vi phạm pháp luật và theo quy định thì sẽ phải chịu mức phạt 1.000.000 - 2.000.000 đồng...”

Số tiền này bằng lương trung bình hàng tháng của một công nhân! Ở đâu ra cái thứ “chính phủ” và “nhà nước” khốn nạn như thế, hả Trời? Vậy mà nó đã tồn tại gần hai phần ba thế kỷ trên đất nước này, và được người dân chấp nhận một cách thản nhiên – cũng thản nhiên y như chuyện họ coi bán máu như  một phương cách  để mưu sinh vậy.

Thảo nào mà người lạc quan (đến) như  Phùng Quán cũng phải thốt lên đôi lời cay đắng:

Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ đắng cay như ở đây?
Chín người – mười cuộc đời rạn vỡ.
Bị ruồng bỏ và bị lưu đầy…

Tuy thế, vẫn theo lời Phùng Quán: Có nơi nào trên trái đất này/ Mật độ thương yêu như ở đây/Mỗi tấc đất có một người qùi gối/ Dâng trái tim và nước mắt ... cho đồng bào của mình –như tường thuật của Trọng Thành, nghe được qua RFI, vào hôm 07 tháng 12 năm 2013:

Ngày Quốc tế Nhân quyền 10/12 năm 2013 là một dịp đặc biệt đối với Việt Nam, sau khi Việt Nam lần đầu tiên được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Nhân dịp này, Mạng lưới blogger Việt Nam – một nhóm do hơn 100 blogger chủ trương, được thành lập hồi tháng 7/2013 – kêu gọi tổ chức một số hoạt động quảng bá các giá trị nhân quyền, độc lập với các hoạt động dưới sự điều hành của Nhà nước.

Hai hoạt động chủ yếu dự kiến sẽ diễn ra vào ngày mai 08/12 tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Riêng sáng nay, tại Nha Trang, một nhóm thành viên của Mạng lưới blogger Việt Nam đã tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế Nhân quyền bằng cách phân phát các tài liệu về nhân quyền trực tiếp đến người dân.”



Về hoạt động ngày mai 08/12 tại Sài Gòn, blogger Phạm Lê Vương Các cho biết :

Ngày mai tại Sài Gòn sẽ có một buổi tổ chức sinh hoạt để quảng bá và vinh danh các giá trị Nhân quyền, bằng các hình thức như thả bóng bay và các anh chị em sẽ ngồi lại với nhau, để trao đổi, tìm hiểu bản Tuyên ngôn phổ quát Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Tất cả những hoạt động đó đều nhằm hướng đến việc xây dựng cho mỗi cá nhân, công dân có được ý thức về quyền con người. Thông qua việc tìm hiểu về Nhân quyền, họ sẽ có được các kiến thức bổ ích, để có thể ngăn chặn được các hành vi vi phạm Nhân quyền đối với mỗi người dân.
  

Một người tham gia phát tặng TNQTNQ đang giải thích cho một người dân 
ở bến xe Mỹ Đình hiểu về quyền con người được ghi trong bản tuyên ngôn.
Ảnh và chú thích: Dân Làm Báo.

Công việc xem chừng có vẻ giản dị nhưng “không hề đơn giản.” Họ bị đánh đập dã man một cách vô cớ, theo ghi nhận của biên tập viên Gia Minh (RFA) nghe được vào hôm 10 tháng 12 năm 2013:

Nhóm các bloggers Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh), An Đỗ Nguyễn (Nguyễn Hoàng Vi) và Con đường Việt Nam (Hoàng Văn Dũng) chiều nay tại Sài Gòn bị hành hung một cách vô cớBlogger Hoàng Vi bị đánh rất tàn bạo và Hoàng Dũng cũng bị đánh chảy máu.”

Cùng với bạo lực, những kẻ “qùi gối, dâng trái tim và nước mắt” còn phải đối diện với sự xa lánh do sợ hãi của đồng bào – theo như kinh nghiệm (“Tôi Đi Tiếp Thị Sản Phẩm Quyền Con Người”) của blogger Phạm Văn Hải:

Có 3 mẩu chuyện nhỏ tôi muốn chia sẻ trong buổi phát tài liệu này. Nguyên tắc của chúng tôi là không ép buộc, không để tài liệu bị vứt bỏ thành rác thải như các loại tờ rơi ở ngã tư, cột điện... Thăm dò và nói vắn tắt nội dung tài liệu, nếu người nhận không cần thì sẽ không phát.

* Câu chuyện thứ nhất: Có một nhà sư lên xe. Ban đầu tôi nghĩ đã xuất gia thì chắc không cần đến tài liệu này. Nhưng nghĩ lại, Nhân quyền là phổ quát cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, tôn giáo... mà. Và cũng nảy ra một ý, dạo này nghe nói sư dỏm nhiều quá, trong tài liệu có phần nói về việc chống tra tấn hành hạ ngược đãi... rất gần với tâm thiện của nhà Phật. Mình chịu khó quan sát thái độ của vị này khi xem tài liệu có thể đoán được thật, giả chăng? Sau khi hỏi thăm xã giao thầy hiện đang tu ở chùa nào, đi công việc ở đâu... mình nói thưa thầy đây là tài liệu viết về Quyền Con Người, trang sau còn có Công ước chống tra tấn... nếu thầy muốn tham khảo thì giữ để xem, nếu không cần thì đọc xong cứ gửi trả lại ạ (phòng khi ông ta không muốn cầm mà ngại nên thấy khó xử). Rất vui là nhà sư đã xem và không gửi lại. A-Di-Đà-Phật!

* Câu chuyện thứ hai: Tôi và Võ Trường Thiện đến một quán nước. Vừa chào hỏi, tự giới thiệu và mới nói đây là tài liệu... thì hai người ngồi bàn ngoài cùng xua tay:

- Thôi, thôi có biết chữ đâu mà đọc...

Họ “không dám” chứ không phải là “không biết.”  Hơn hai phần ba thế kỷ qua, người dân Việt đã “nhập tâm” rằng quyền làm người là một thứ taboo, hay một mặt hàng quốc cấm, ở đất nước này. Tuy thế, khi trả lời phỏng vấn báo Lao Động, phát hành hôm ngày 24 tháng 12, đại sứ Việt Nam tại Bắc Triều Tiên – ông Lê Quảng Ba – vẫn cứ băn khoăn: “Bao giờ ta có thể làm được như được họ?”

Với khuynh hướng xử dụng bạo lực và khủng bố, cùng với chính sách ngu dân, hiện nay của chế độ hiện hành – có lẽ – cái ngày mà Việt Nam “đuổi kịp” Bắc Hàn (chắc) cũng không còn xa nữa.



Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2013

Tưởng Năng Tiến - Một Lời Xin Lỗi


Tưởng Năng Tiến - 

Trong hơn nửa thế kỷ qua, có lẽ, đây là lần đầu tiên công luận mới được biết đến một điểm son (hiếm hoi) trong hệ thống lao tù ở Việt Nam – theo như tường thuật của phóng viên Trọng Thịnh, trên Tiền phong Online:
Ngày 28/6, tại Trại giam Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai), Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (Tổng cục VIII) sơ kết đợt phát động phạm nhân viết thư với chủ đề “Gửi lời xin lỗi”. Sau hơn nửa năm, đã có gần 600 bức thư… 

Ảnh: Phạm nhân Nguyễn Minh Quang và bà Nguyễn Kim Oanh. Ảnh:Trọng Thịnh

Ông Nguyễn Văn Quý (Xã Phú An, Nhơn Trạnh, Đồng Nai), cha của nạn nhân Nguyễn Văn Lợi đã rất ngạc nhiên khi nhận được lá thư xin lỗi của phạm nhân Từ Khánh Thiện – người đang thụ án về tội giết con ông…

 Bà Nguyễn Kim Oanh (Hố Nai, Trảng Bom, Đồng Nai), mẹ của nạn nhân Lê Văn Vũ thì không tin rằng kẻ trong băng nhóm giết con mình là Nguyễn Minh Quang lại gửi thư cho bà. Dù còn nguyên đó nỗi đau mất con nhưng dòng chữ chân thành của kẻ giết người đã khiến bà cảm động: “Hôm nay con muốn viết lên hai từ xin lỗi dù đã quá muộn màng và con biết rằng không thể nào làm cho bác quên hết buồn đau của những chuyện đã qua”. 

Bà Oanh kể: “Tôi đã suy nghĩ nhiều lắm. Tội của thằng Quang thì pháp luật đã xử nó, mình giữ lại thù oán cũng chẳng được gì. Tuổi của nó còn trẻ, còn tương lai ở phía trước. Vì thế tôi muốn đích thân lên trại để nói tôi tha thứ cho cháu.” 

Cũng trên Tiền phong Online, vào ngày 21 tháng 10 năm 2013 vừa qua, lại có thêm một bài báo nữa (Trào lưu tự thú về cách mạng văn hoá ở Trung Quốc) cũng cảm động không kém – do ký giả Sơn Duân lược dịch:
Với tư cách Chủ tịch Hội Cựu học sinh giai đoạn 1966 -1968 tại Trường trung học Bắc Kinh số 8, Trần Tiểu Lỗ (67 tuổi) đứng dậy, cúi đầu và đại diện cho các học sinh nói lời xin lỗi vì làm nhục và đánh đập thầy cô giáo trong thời Cách mạng Văn hóa. Các cựu học sinh khác cũng làm theo Trần. Những lời nói hối hận hòa lẫn với ngôn từ an ủi và nước mắt tuôn tràn trên các khuôn mặt. Theo tờ China Daily, trước khi tổ chức cuộc gặp, Trần đã đăng tải lời xin lỗi trên trang blog của nhóm cựu học sinh vì “trách nhiệm trực tiếp trong việc lên án và đưa nhiều người đến trại cải tạo”. Theo ông Trần, lời xin lỗi tận đáy lòng của ông với các thầy cô và bạn cũ “dù muộn nhưng cần thiết”.

Cuối bài viết này, sau khi đăng lại trên trang Đàn Chim Việt, có vị độc giả đã gửi đến phản hồi như sau:
Tudo.com says: Vậy khi nào CSVN sám hối về Cải cách Ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm miền Bắc ?

Câu hỏi (khá) bất ngờ này khiến tôi chợt nhớ đến một đoạn văn của blogger Cu Làng Cát:
Gia đình tôi, bị quy địa chủ trong những năm tháng Cải cách Ruộng đất. Đó là điều vô lý, thật là vô lý. Đến bây giờ bố tôi và tôi vẫn không hiểu vì sao một gia đình nghèo đói như thế này, bỏ tất cả theo kháng chiến, không một mảnh đất cắm dùi thời kỳ đó mà vẫn bị quy là địa chủ… Bố tôi kể, đợt Cải cách Ruộng đất oan sai nhiều lắm.

Người oan toàn người giỏi, người tài và rất nhiều đảng viên bị giết… Tôi đã nhiều lần ngồi nhậu với nhà thơ Ngô Minh, ông cũng mang trong mình nổi đau của oan sai Cải cách Ruộng đất. Khi rượu vào mềm môi, tôi hỏi: “Chuyện gia đình chú bị quy sai địa chủ chú có đau không?” Ông cười nhưng từng thớ thịt trên mặt giật liên tục, như đang cố nuốt một nỗi đau mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu nổi…”

Nỗi đau này (chắc chắn) sẽ giảm bớt ít nhiều – nếu trong lần nhậu tới – vào lúc rượu vừa mềm môi thì bưu tá viên xuất hiện và đưa cho nhà thơ Ngô Minh một bức thư gửi từ Văn phòng Thủ tướng Chính phủ của nước CHXHCNV, với nội dung (đại khái) như sau:

Ngày… tháng… năm …Kính gửi…. ông/bà…Thay mặt Chính phủ nước CHXHCNV, chúng tôi xin trân trọng gửi đến ông/bà lời xin lỗi chân thành nhất về những mất mát, thiệt hại cũng như đau buồn đã xảy ra cho gia đình và thân quyến do nhiều sai lầm (vô cùng đáng tiếc, và đáng trách) đã khiến cho cụ ông Ngô Văn Thắng bị oan mạng trong cuộc Cải cách Ruộng đất vào năm 1956. Chúng tôi kính mong được ông/bà bao dung chấp nhận lời xin lỗi muộn màng này. 
Ký tên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Thử tưởng tượng xem hai vị nhà thơ và nhà báo của chúng ta sẽ ngạc nhiên cỡ nào khi đọc những dòng chữ ngắn ngủi và giản dị trên? Bữa đó, hai chả – không chừng – dám uống tới sáng luôn vì xúc động!

Hãy tưởng tượng tiếp: có chiều, khi ngày đã đi dần vào tối, một bưu tá viên (khác) sùm sụp áo mưa len lách vào đến căn nhà số 24 ngõ 267 2/16 đường Hoàng Hoa Thám, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà Nội để giao cho bà Ngô Thị Kim Thoa một bức thư khác – cũng gửi từ Văn phòng Thủ tướng Chính Phủ:

Ngày… tháng… năm …Kính gửi…Thay mặt Chính phủ nước CHXHCNV, chúng tôi xin trân trọng gửi đến bà lời xin lỗi chân thành nhất về những mất mát, thiệt hại cũng như đau buồn đã xảy ra cho gia đình và thân quyến do nhiều sai lầm, vô cùng đáng tiếc, đã khiến ông nhà (thi sĩ Phùng Cung) vô cớ bị bắt đi biệt tích và giam giữ rất nhiều năm – sau vụ án Nhân văn Giai phẩm – vào đầu thập niên 1950. Chúng tôi kính mong được bà bao dung chấp nhận lời xin lỗi muộn màng này… Ký tên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Cũng vào buổi chiều mưa này, một bức thư khác nữa – với nội dung gần tương tự – đã được gửi đến bà Lê Hồng Ngọc ở ngõ số 26 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nộị… Đêm hôm ấy ngọn đèn dầu trên bàn thờ của Phùng Cung và Hoàng Minh Chính có thể sẽ được khêu sáng hơn một tí, chỉ tí xíu thôi nhưng chắc cũng đủ làm cho những gian nhà quạnh quẽ của những bà quả phụ (đang bước vào tuổi tám mươi) được đỡ phần lạnh lẽo.

Có những bức thư khó chuyển hơn vì người nhận sinh sống ở những nơi xa xôi, và hẻo lánh hơn nhiều:
Trên bản đồ quân sự cũng như bản đồ của Nha Địa dư không bao giờ có địa danh “Đèo Bá Thở”. Bởi vì đặt cái tên cho ngọn đèo này chính là tôi và một vài người bạn… Ngọn đồi nằm không xa trại giam chúng tôi trong tỉnh Yên Bái. Ngày ngày đội chúng tôi có mười anh em phải băng qua bên kia cái đèo khốn nạn này, tới một khu rừng toàn thị là tre, nứa, giang…

Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.

Một hôm cả bọn chúng tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ lại bên kia dốc một lát trước khi “bá thở”. Chúng tôi nghe lục đục trong cái chòi bỏ hoang, và phát giác đuợc một cụ già thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo hệt như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán nhiều ngày. Bà già có một cặp mắt nâu đục, lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc một cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây là cái áo vá trên những miếng vá. Nó nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi. Chúng tôi gạ chuyện, song tất nhiên bà già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên không hé răng một nửa lời.

Hôm sau trong lúc đốn tre chúng tôi hội ý. Chúng tôi lấy dư ra mỗi ngày vài cây về giấu ở gần căn lều của bà cụ. Được vài ngày đủ tre để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại sửa còn tám người vào rừng đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi cũng cắt tranh về để dậm lại những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để chui ra chui vào. Bà già khi đó tự động nói chuyện với tụi tôi:
- Lão có ba đứa con, một đứa đã có giấy tử sĩ, hai đưa kia thì hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề nhận được một chữ của chúng từ ngày chúng đi… (Hoàng Khởi Phong. “Bên kia Đèo Bá Thở”. Cây tùng trước bão. Thời Văn: Westminster, CA 2001)

Tôi hy vọng (mỏng manh) rằng có thể vẫn còn đủ thời gian để thêm một bức thư khác nữa, cũng từ Văn phòng Thủ tướng Chính phủ, đến kịp Bên kia Đèo Bá Thở. Dù đây chỉ là một bức thư chung, gửi đến hàng vạn người, với chữ ký đã in sẵn chăng nữa – chắc chắn – nó vẫn được người nhận trang trọng cất giữ mãi cho đến khi nhắm mắt.

- Cứ thư từ linh tinh khắp nơi như thế (e) nhiêu khê, phiền phức, và tốn giấy mực quá không?

- Dạ, không đâu. Tôi tin rằng số tiền hơn bốn trăm tỉ đồng (để xây Tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng) không chỉ đủ để gửi thư xin lỗi mà còn có thể gửi thêm cả hài cốt (thật) của rất nhiều người lính đến (vô số) những bà mẹ đang thoi thóp – Bên kia Đèo Bá Thở.

Còn với hàng trăm ngàn tỉ đã chi cho Vinashin thì (ôi thôi) cả nước – từ Nam ra Bắc – chắc ai cũng có thể nhận được một lá thư xin lỗi về những chuyện đáng tiếc đã qua vì gia đình có người bị chôn sống trong hồi Tết Mậu Thân, có người bị vùi thây trong trại cải tạo, có người bị chìm nghỉm trong lòng đại dương, hay cả dòng họ tan nát và tứ tán vì những cuộc cải tạo công thương nghiệp…

Những bức thư xin lỗi kể trên, nếu được viết bằng thiện ý và lòng thành – chắc chắn – sẽ tạo dựng lại được ít nhiều niềm tin đã mất (từ lâu) trong lòng người, và làm mờ bớt (phần nào) nào cái nét bất nhân của chế độ hiện hành. Điều đáng tiếc là “thiện ý” cũng như “lòng thành” vốn không hề có trong thâm tâm của những người cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, bất kể thế hệ nào.




Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

Tưởng Năng Tiến - Ăn mặc & Ăn nói


Tưởng Năng Tiến

Có lần, bên bàn nhậu, tôi nghe một cha nói (y như thiệt) rằng hồi năm 1941 nhà nước thuộc địa đã trao tặng giải thưởng và cấp bằng tưởng lục cho một người dân Việt vì đã chế ra cái đèn dầu Hoa Kỳ – hiện vẫn còn được lưu dụng, ở nhiều nơi.


Cùng thời điểm này, chính xác là vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, xẩy ra trận Trân Châu Cảng. Theo Wikipedia:
“Cuộc tấn công bao gồm hai đợt không kích với tổng cộng 353 máy bay xuất phát từ 6 tàu sân bay Nhật Bản. Trận tấn công đã đánh chìm 4 thiết giáp hạm Hoa Kỳ (2 chiếc trong số đó sau này được vớt lên và đưa trở lại hoạt động), và gây hư hỏng cho 4 chiếc khác. Quân Nhật còn đánh chìm hoặc phá hoại 3 tàu tuần dương, 3 tàu khu trục và 1 tàu thả mìn, phá hủy 188 máy bay...”

So như thế (nghĩ) đã buồn nhưng sự thật còn buồn hơn thế nữa. Cha đẻ cái đèn dầu Hoa Kỳ – thực ra – là một người Ba Lan, Ignacy Łukasiewicz. Ông làm ra nó vào năm 1853.

Một trăm năm mươi hai năm sau, báo Tiền Phong – số ra ngày 7 tháng 10 năm 2005 – còn (chua chát) thêm rằng: “Chúng ta chưa tự làm được cái đinh vít!”

Dân Việt, rõ ràng, không có “năng khiếu” cao về khoa học và kỹ thuật. Ít nhất thì cũng không “cao” bằng dân Nhật. Nói cách khác (và nói một cách hơi hoa mỹ) Việt Nam là một xứ sở trọng nông hoặc thuần nông, chỉ chuyên về việc sản xuất lúa gạo thôi.

Đã có một thời mà mọi thứ ở đất nước này đều có thể có thể qui ra gạo, và gạo còn được dùng như một loại hoá tệ cho sinh hoạt mua bán thường ngày, kể cả việc… mua dâm – theo như lời kể của một nhà văn:
“Ga Vinh một buổi tối trời mưa. Một túp nhà lá nằm nép bên vệ đường, phía sau là khoảng nước dở ao dở rãnh, muỗi và cỏ nhiều. Một ngọn đèn dầu run rẩy vì gió, cháy leo lét được treo trước cửa sổ. Một con chó già còm cõi bê bết bùn đất và lạnh, nằm in bóng đèn dầu dưới cửa sổ, tru ư ử trong họng mà không dám vào nhà vì sợ đòn. Gió hú rít xoáy quanh cửa tranh nhau luồn vào nhà. Có tiếng mái tranh cọ nhau xào xạc như van xin. Tiếng chẫu chuộc gọi cái làm nhịp cho mưa rơi…

Có tiếng chân rẽ nước đi tới, rồi một cái đầu đàn ông thò vào cửa sổ, nhễu nước lã chã xuống con chó.
“Bao nhiêu?”

Bên này:
“Năm chục.”

“Ðắt thế, gái Sài Gòn còn chả tới nữa là…”

“Thế muốn bao nhiêu?”

“Hai chục…?”

“Thanh toán trước đi!”

“Gì mà vội thế, chả ‘tình’ tí nào cả.”

“Sao? Có tiền không?”

“Lấy gạo nhé?”

“Gạo gì? Mậu dịch hay gạo mới?”

“Mới chia tiêu chuẩn tháng ở cơ quan về, chưa xem.”

“Gạo mậu dịch rồi, tính bao nhiêu?”

“Hai chục.”

“Ðắt quá, mà cũng không có cân nữa.”

“Mười tám đồng vậy, đong đại bằng ống sữa bò đi…”


“Ừ, thế cho tiện, cân mất công, gạo đi mua nặng ký… mà này, có trộn đá dăm vào không đấy?”

“Mang đèn ra mà soi.”

“Gạo này chỉ mười lăm đồng.”

”Ðong vun tay thế kia thành hai cân của người ta chứ còn gì…”

Một thằng nhóc chừng chín tuổi thình lình hiện ra như chui từ dưới đất lên, đứng mút tay nhìn cảnh đong gạo. Người đàn ông còn đang loay hoay cột lại cái bao của mình thì nó giật túi gạo nơi tay người đàn bà, chạy vụt ra cửa.

“Nấu cơm nhé, đừng nấu cháo… Nhớ để phần cho chị đấy.”

(Thế Giang. “Chỗ nước đọng”. Thằng người có đuôi. Costa Mesa: Người Việt, 1987. 99-104)

Câu chuyện trên, tất nhiên, đã cũ. Thời sổ gạo và tem phiếu đã qua. Ngày 27 tháng 9 năm nay, tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, Thủ tướng Việt Nam – ông Nguyễn Tấn Dũng – đã long trọng thông báo cho toàn thể nhân loại biết rằng:
“Từ một nước thiếu đói, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Chúng tôi không chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho riêng mình mà còn góp phần tích cực bảo đảm an ninh lương thực thế giới.”

Hai năm trước, báo Công an Nhân dân (số ra ngày 20 tháng 7 năm 2011) cũng đã khẳng định tương tự: “Cái đói bị đẩy lùi xa tít tắp”.

Nói như vậy chắc là xa dữ lắm. Theo như tường trình của phóng viên Uyên Nguyên, RFA, hôm 22 tháng 5 năm 2013, cái đói đã bị đẩy tuốt luốt lên tới… những huyện miền núi ở tỉnh Thanh Hoá:
“Nhìn bữa ăn của gia đình người Thái Trắng này, nó cũng giống như nhiều bữa ăn khác của những gia đình Thái Trắng khác mà chúng tôi gặp ở Mường Lát, Quan Hóa, Ngọc Lặc, Lang Chánh… Một nồi cơm độn sắn lát, một bát cà rừng và một chén mắm chuột để chấm cà, chúng tôi chỉ biết ứa nước mắt nhìn đồng loại nuốt cơm!”

Hoặc còn xa hơn nữa, “tít tắp” mãi đến tỉnh Hà Giang, như tâm sự (nghe được vào ngày 25 tháng 9 năm 2012) của cô phó hiệu trưởng Trần Thị Phúc:
“Học sinh ở đây nghèo lắm, nếu không xuống tận địa bàn chắc khó có thể hình dung hoàn cảnh của từng cháu. Có những em quanh năm chỉ mặc duy nhất một bộ quần áo, chưa từng biết đến đôi tất và thường xuyên phải ăn mèn mén thay cơm.”

Cái đói và chuyện ăn độn, bây giờ, chỉ còn quanh quẩn (quanh năm suốt tháng) ở những vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng thôi. Chứ còn ở miền xuôi nói chung thì ngay tại nông thôn người dân vẫn được ăn cơm, và ăn no.

Riêng tại Hà Nội hôm nay còn có những tách cà phê hay những tô phở trị giá (cỡ)… nửa triệu đồng! Câu thơ ngày xưa (Đảng còn kia bát phở hoá thành mơ) của Nguyễn Chí Thiện đã bị thời thế bỏ lại phía sau xa lơ, xa lắc. Uớc mơ của người dân Việt hôm nay, rõ ràng, đã vượt mức ăn/ mặc. Đã đến thời người dân đòi ăn/nói – như họ vừa dõng dạc Tuyên bố về thực thi Quyền Dân sự và Chính trị:
“Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền.

Ý kiến khác nhau cần được tranh luận thẳng thắn để tìm chân lý; còn dựa vào quyền lực để cản trở việc công bố, không đối thoại mà chỉ đơn phương phê phán, quy kết, thậm chí dùng nhiều cách ngăn cấm và trấn áp thì không những vi hiến và trái với Công ước quốc tế mà còn không đúng với tư cách chính đáng của một nhà cầm quyền.

………..

Thực tế ở nước ta cho thấy rõ: thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng; một “bộ phận không nhỏ” trong bộ máy lợi dụng quyền lực (cả quyền cai trị và quyền sử dụng, định đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản công) cấu kết với một số nhà kinh doanh làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất minh (cả trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân), hình thành các nhóm lợi ích bất chính, xâm phạm quyền lợi của nhân dân, dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo quá bất công ở nước ta. Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, có phần do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhưng phần quan trọng hơn, phổ biến hơn là do muốn bảo vệ và giành thêm lợi ích riêng bất chấp lợi ích chung của đất nước, của dân tộc…

Để vượt qua những thách thức hiểm nghèo đối với đất nước và dân tộc, giải pháp cơ bản là phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ…”

Điều đáng tiếc là những đòi hỏi thượng dẫn, xem ra, đều quá sức “chịu đựng” của chế độ hiện hành. Mâu thuẫn này khiến cho tình trạng xã hội Việt Nam xem ra có vẻ lôi thôi lắm, và e là sẽ còn lôi thôi lâu, cũng như (chắc chắn) sẽ lôi thôi lớn – trong tương lai gần.

Ông Trần Huỳnh Duy Thức, trước khi trở thành một tù nhân lương tâm, đã bàn luận về tình huống lưỡng nan hiện tại như sau:
“Trung Quốc và Việt Nam… không thể tiêu hóa nổi kết quả đương nhiên của sự tiến hóa do vận động của nền kinh tế thị trường vốn bắt buộc đòi hỏi một thể chế chính trị ngày càng dân chủ … Mặc dù hai nước này đã chấp nhận kinh tế thị trường và nhận hưởng công trạng của nó, nhưng họ dường như không thấy được quy luật này diễn biến không thể đảo ngược như thế nào và nó sẽ đẩy tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị đến đâu. Nên họ kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này…”

Ông Trần Duy Thức bị bắt vào ngày 24 tháng 5 năm 2009. Hơn ba năm đã trôi qua. Từ đó đến nay, cả đống nước sông (cùng nước suối, nước mưa, và nước mắt) đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống. Nhiều sự kiện đã xẩy ra khiến cho thái độ “kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này” của Hà Nội – chắc chắn – sẽ không thể kéo dài lâu nữa, ít nhất thì nó cũng không thể lâu bằng bản án 16 năm tù mà chế độ này đã dành cho ông.

Câu hỏi đặt ra người Việt sẽ làm gì sau đó, sau khi những kẻ cầm quyền hiện tại buộc phải buông tay hay thay đổi? Tương lai thường không tốt đẹp, hay sáng sủa gì cho lắm, đối với những ai không sẵn sàng để chờ đón nó.

© 2013 Tưởng Năng Tiến & pro&contra


Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Tưởng Năng Tiến - 6 năm 4 tháng – Em còn sống, hay em đã đi?


Tưởng Năng Tiến 

Khi buộc phải rời xa Cựu Kim Sơn, nhiều người đã nghêu ngao (nghe) buồn thảm thiết: I left my heart in San Francisco! Tôi, may mắn, không dở hơi đến thế.


Tôi có thể bỏ lại (vĩnh viễn) quả tim mình ở Quảng Bình, Vĩnh Bình, Ninh Bình, Hoà Bình hay Thái Bình… gì đó – những nơi tôi chưa được đặt chân đến bao giờ – nhưng Cựu Kim Sơn thì không, nhất định là không. Bụt chùa nhà không thiêng. Tôi ở ngay cạnh San Francisco nên tôi ớn nó muốn chết luôn.

Những năm gần đây, tôi lại càng thêm ớn (chè đậu) cái thành phố mắc dịch này. Từ khi nhà nước Việt Nam mở cửa, cho người dân được phép đi ra đi vô thoải mái – hàng tháng, có khi mỗi tuần – tôi đều phải đưa vài vị đồng hương “đi San Francisco chơi cho biết”.

Chơi cái con mẹ gì ở đó, hả Trời?

Thế nào cũng phải ghé Chinatown. Một nơi ồn ào, đông đúc, và chật chội nhất trên hành tinh này. Vì thiếu đất nên S.F phải phát triển theo chiều cao. Cái lối kiến trúc dọc này, cùng với cái tính hay bày biện lộn xộn và hay chưng hoa kết đèn (đỏ loè đỏ loẹt) của người Trung Hoa khiến cho đôi mắt của du khách phải điều tiết thường trực tới chóng mặt luôn.

Đã thế, trong phạm vi chỉ có hai mươi bốn lốc đường mà phố Tầu chứa lúc nhúc đến bốn chục ngàn người – mật độ cao nhất thế giới – lúc nào cũng lớn tiếng xí xa xí xồ (cứ y như là họ đang cãi nhau, và sắp sửa ẩu đả đến nơi) khiến cho ai lạc vào cái đám đông này cũng phải cảm thấy rất nhức đầu.

Sau đó, tất nhiên, là đến mục “tham quan” Golden Gate. Bất kể điều kiện thời tiết ra sao, tôi vẫn được nhắc nhở một cách rất nhẹ nhàng nhưng vô cùng cương quyết:
- Chụp cho vợ chồng em mấy tấm ảnh nhá.
- Sương mù dầy đặc thế này có thấy gì đâu mà…
- Hình nhoà cũng được bác ạ, chứ chả nhẽ đã đến được tận đây mà lại không có cái hình mình đứng (xớ rớ) trên cầu Golden Gate thì nói ai tin.

Khổ thật chứ chả bỡn đâu, Giời ạ! Nghe tôi cứ than thở hoài mấy đứa con cũng trở nên nổi cáu:
- Bố không thích thì cứ từ chối thẳng. Nói với họ là tôi có thể đưa quý vị đến chân trời góc biển nào cũng được nhưng S.F thì miễn. Mất lòng trước được lòng sau. Như thế có phải đỡ phiền hơn không?

Lũ trẻ sinh ra và trưởng thành ở Cali. Chúng đâu biết là khách của bố đều đến từ bên trong bức màn sắt. Họ đã bị giam hãm suốt đời nay mới vừa được xổ lồng. Ai mà lại nỡ chối từ một yêu cầu (nhỏ nhoi) như thế: được chụp một cái hình đứng trước cảnh trí nổi tiếng ở nước ngoài.

Bởi thế, dù với ít nhiều miễn cưỡng, tôi vẫn luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ hướng dẫn viên (bất đắc dĩ) của mình. Đây cũng là một cách để tôi (thầm) biểu dương và biểu lộ thiện cảm của mình đối với chính sách thông thoáng, cởi mở của giới lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay.

Mối thiện cảm (chứa chan) này, tiếc thay, mới vừa bị vuột mất – sau khi tôi tình cờ nghe được “tâm sự” của thạc sĩ Trần Kiên:
“Tôi đã từng rất ngạc nhiên khi được biết quyền tự do đi lại và cư trú, đặc biệt là quyền tự do xuất nhập cảnh dành cho chính công dân Việt là điều kiện tiên quyết mà Chính phủ Việt Nam phải chấp nhận để nhận được các khoản vay từ World Bank. Luật doanh nghiệp thống nhất với việc tạo một sân chơi bình đẳng giữa nhà nước và tư nhân mà nhà nước thiết lập cũng là một điều kiện khác do tư bản áp đặt. Nên cũng không có gì ngạc nhiên khi tham gia TPP Việt Nam sẽ phải hiện thực hóa quyền lập hội cho chính dân Việt vốn chết lâm sàng từ năm 1957.”

Về sự kiện (rất) đáng phàn nàn này blogger Nguyễn Vạn Phú cũng đã có đôi lời (mai mỉa) rằng: “… điều mỉa mai là Việt Nam phải trông chờ vào một hiệp định ký với các nước tư bản để các nước tư bản này gây sức ép buộc Việt Nam phải bảo vệ công nhân của mình, không để giới chủ bóc lột quá đáng!”

Cái gì chớ “mỉa mai” hay “chì chiết” hoặc “đay nghiến” thì bữa nay tôi không dám đâu nha. Đúng vào hôm ăn chay nên tôi không chỉ kiêng cữ cá thịt mà còn kiêng cả những lời lẽ “đắng cay” hay “chua chát” có thể gây ra khẩu nghiệp hay bút nghiệp.

Tôi hứa (danh dự) sẽ không nói nặng nói nhẹ gì ai mà chỉ xin nhắc lại tên tuổi cũng như những hoạt động (liên quan đến quyền lập hội) của vài ba người bạn trẻ thôi:
 Cách đây chưa lâu, vào ngày 20 tháng 10 năm 2006, một công dân Việt Nam, công nhân Đoàn Huy Chương aka Nguyễn Tấn Hoành – cùng với vài người bạn đồng nghiệp – đã gửi đến Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam “nỗi niềm khóc hận thương tâm” của họ với “8 điểm đề nghị”. Xin trích dẫn một đoạn, ngăn ngắn thôi:
“Chúng tôi có quyền hội họp riêng tư, có quyền lập hội, gây quỹ, có quyền đấu tranh, có quyền đình công đòi hỏi các quyền lợi chính đáng, phù hợp mức lương, tương xứng với công sức lao động…”

Kết quả, hay hậu quả, của những đề nghị “thương tâm” này có thể tìm thấy trên báo Công an Nhân dân:
“Sáng 26/10/2010, TAND tỉnh Trà Vinh đã mở phiên xét xử Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh với tội danh ‘phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân’ theo Điều 89 Bộ Luật Hình sự…

Trước vành móng ngựa, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh đã thành khẩn nhìn nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình, đồng thời xin được khoan hồng. 

Cuối giờ chiều cùng ngày, tòa đã tuyên phạt Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm tù giam, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương, mỗi người 7 năm tù giam.”

Tổng cộng là hai mươi ba năm tù. Một thời gian rất dài nhưng vẫn không đáng sợ, ít nhất thì cũng chưa đáng sợ bằng trường hợp rất khuất tất (và mờ ám) của một công dân Việt Nam khác, ông Lê Trí Tuệ.

Vào ngày 20 tháng 11 năm 2006, nhân vật này đã gửi đến tất cả những cơ quan, cũng như mọi giới chức có thẩm quyển ở Việt Nam một lá đơn (Tường trình và tố cáo) dài 1438 chữ. Phần đầu – và cũng là phần chính, gồm 444 chữ – xin được trích dẫn nguyên văn:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 
Đơn tường trình và tố cáo

V/v Công an TP. Hồ Chí Minh, liên tục đàn áp, thẩm vấn, tạm giữ người tại cơ quan công an Quận 4, TP. Hồ Chí Minh chỉ vì tôi thực thi những nhân quyền cơ bản của mình.

Tôi tên là: Lê Trí Tuệ.
Sinh ngày 26/07/1979 Tại Hải Phòng.
Đăng ký hộ khẩu thường trú: 942 Tôn Đức Thắng – Sở Dầu – Hồng Bàng – TP. Hải Phòng.
Điện thoại: 0982.152.619, 0912.530.615

Chức vụ:
Hội viên Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Trí Tuệ
Phó Chủ tịch Công đoàn Độc lập Việt Nam.

Kính thưa các quý vị lãnh đạo Nhà nước CHXHCN Việt Nam và các cơ quan truyền thông, báo chí trong và ngoài nước,
Căn cứ vào Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948;
Căn cứ vào Tuyên ngôn Nguyên tắc Tổng Liên đoàn Lao công Thế giới [Tuyên ngôn này đã được chấp thuận chung, trong Đại hội kỳ thứ 16 của Tổng Liên đoàn Lao động Thế giới ILO (International Labor Organizations), họp tại Luxembourg, từ ngày 1 đến 04 tháng 10 năm 1968];
Căn cứ vào Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992. Điều 53 và điều 69

Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) nêu rõ:
“Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý.”

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”

Căn cứ vào những viện dẫn trên đây, làm cơ sở pháp lý dẫn tới sự ra đời và cơ sở thành lập Công đoàn Độc lập Việt Nam, tuyên bố thành lập vào ngày 20/10/2006 tại Hà Nội.

Hiện nay chúng tôi đang làm thủ tục đăng ký, để từng bước hợp hiến và hợp pháp theo quy định. Nhưng đáng tiếc thay tôi thường xuyên phải bị triệu tập lên cơ quan công an Quận 4, TP. Hồ Chí Minh để làm việc, bị cản trở quyền tự do đi lại của công dân, cản trở hoạt động khiếu nại tố cáo, ngăn cấm hoạt động xã hội, bảo vệ quyền con người cho nhân dân Việt Nam.

Hai ngày sau, sau khi đơn tường trình được gửi đi, Lê Trí Tuệ đã bị công an Việt Nam bắt giữ (từ 22/10/2006 đến 26/10/2006) để tra hỏi về việc ông đã tham gia Ban Vận động Thành lập Công đoàn Tự do ở Việt Nam.

Đến ngày 07/12/2006, trong khi Lê Trí Tuệ còn đang bị lưu giữ tại trụ sở công an quận IV (Sài Gòn) nhân viên an ninh đã lục lọi đồ đạc, và kiểm tra máy vi tính của ông tại nhà trọ.

Sau đó – vào ngày 14/03/2007 – ông Lê Trí Tuệ đã bị một số công an mặc thường phục đánh đập dã man, ngoài đường phố.

Cuối cùng, trong hai ngày ngày 29 và 30 tháng 03 năm 2007, ông Lê Trí Tuệ lại bị bắt giữ và ép buộc tuyên bố công khai giải tán Công đoàn Độc lập, và làm một bản cam kết sẽ từ bỏ tất cả những hoạt động bị nhà đương cuộc Việt Nam cáo buộc là phản động…

Cuối cùng – sau nhiều lần bị giam giữ, tra vấn, hành hung và khủng bố – Lê Trí Tuệ đã trốn khỏi Việt Nam – theo như tin loan của BBC, nghe được hôm 13 tháng 4 năm 2007: “Một nhà bất đồng chính kiến Việt Nam vừa lánh nạn sang Campuchia… ông cho biết ông bị nhà chức trách tại TP HCM chuẩn bị đưa ra xét xử.”

Cũng như hàng nhiều triệu người dân khác – trong suốt thập niên 1980 – Lê Trí Tuệ đã trốn chạy ra khỏi Việt Nam, sau khi đã bị dồn đến bước đường cùng! Vào thời điểm đó, những kẻ đi lánh nạn đều bị nhà nước CHXHCNVN tới tấp ném theo nhiều điều vu cáo (rất) hàm hồ cùng những lời rủa xả (vô cùng) tàn tệ. Trường hợp của Lê Trí Tuệ, tất nhiên, cũng không thể khác.

Báo Công an Nhân dân – số ra ngày 16 tháng 5 năm 2007 – mô tả Lê Trí Tuệ là “kẻ đang bị truy nã “ vì “có hành vi lừa đảo,” và “làm tay sai cho một số đối tượng chống đối Nhà nước.” Cùng lúc, gần như tất cả những cơ quan truyền thông khác ở Việt Nam cũng đều có những bài viết với nội dung (đáng tởm) tương tự.
 Câu chuyện của Lê Trí Tuệ, nếu chấm dứt ở đây, cũng đã đủ não lòng. Sự việc, tiếc thay, đã tiếp tục diễn ra một cách tồi tệ hơn như thế. Chỉ vài tháng sau, ông đột nhiên biến mất. Bản tin của VOA, phát đi ngày ngày 17 tháng 5 năm 2007, có đoạn: ”Một giới chức của Cơ quan Tị nạn Liên Hiệp Quốc cho biết một nhân vật bất đồng chính kiến Việt Nam đang được Liên Hiệp Quốc bảo trợ ở Campuchia, ông Lê Trí Tuệ, đã bị mất tích… Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn đã đề nghị chính phủ Campuchia tìm kiếm ông Tuệ và họ vô cùng quan tâm đến vấn đề này. Người phát ngôn Bộ Nội vụ Campuchia, Thượng tướng Khieu Sopheak nói rằng ông có biết về vụ việc nhưng ông không thể cung cấp thêm thông tin về vụ mất tích hay liệu Bộ Nội vụ có tiến hành điều tra hay không. Đại sứ Việt Nam tại Campuchia, ông Trịnh Bá Cầm, cũng nói rằng ông không có thông tin gì về ông Lê Trí Tuệ.”

Theo bản tin của HRW, gửi đi vào ngày 4 tháng 5 năm 2009: “Người ta nghĩ rằng công an Việt Nam đã bắt cóc ông Lê Trí Tuệ, một trong những sáng lập viên của Công đoàn Độc Lập Việt Nam. Ông Lê Trí Tuệ mất tích vào tháng Năm năm 2007 sau khi đào thoát sang Căm-Bốt để xin tị nạn. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã long trọng ghi nhận trong bản báo cáo 2008 về tình trạng nhân quyền Việt Nam rằng: ‘ông Lê Trí Tuệ hiện vẫn biệt tích… và theo một số lời đồn mật vụ của chính quyền Việt Nam đã giết ông ta.”

 Báo An ninh Thế giới, số ra ngày 16 tháng 5 năm 2007, đã có bài viết tựa là “Lê Trí Tuệ đã lừa đảo người lao động như thế nào?” Hôm nay, nhân chuyện “Việt Nam sẽ phải hiện thực hóa quyền lập hội nếu muốn tham gia TPT” tôi xin được ghi lại câu hỏi này để rộng đường dư luận.

© 2013 Tưởng Năng Tiến & pro&contra