Hiển thị các bài đăng có nhãn Tường thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tường thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 15 tháng 9, 2023
Trùng Dương: Việt Film Fest 2023 tái xuất hiện, kỷ niệm 20 năm thành lập
Đầu tháng 10 năm nay cộng đồng người Việt tại Nam Cali có dịp thưởng ngoạn một sinh hoạt điện ảnh đặc sắc, đó là Đại Hội Điện Ảnh Việt Nam Quốc Tế (Viet Film Fest) do Hội Văn học Nghệ thuật Việt Mỹ (VAALA) tổ chức, đồng thời kỷ niệm 20 năm thành lập đại hội điện ảnh này.
Thứ Ba, 5 tháng 9, 2023
Robyn Dixon & Natalia Abbakumova: Trở lại trường học, học sinh Nga được Giáo sư Putin giảng bài, The Washington Post, Cù Tuấn biên dịch
Phát biểu với trẻ em vào ngày đầu tiên năm học mới ở Nga, Tổng thống Vladimir Putin hôm thứ Sáu 1/9 đã nhắc lại một cách hoài niệm về thời kỳ Xô viết, khi “chúng ta sống trên một quốc gia duy nhất” và “hoàn toàn bất khả chiến bại”, khi Matxcơva áp đặt một số biện pháp mới để định hình một thế hệ mới sẵn sàng cho chiến tranh.
“Tôi đã nhận ra lý do tại sao chúng ta giành chiến thắng trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại,” ông nói với các em học sinh, sử dụng tên Nga dùng cho Thế chiến thứ hai. “Không thể đánh bại một quốc gia có tinh thần như vậy. Chúng ta hoàn toàn bất khả chiến bại. Và bây giờ chúng ta cũng như vậy.”
“Tôi đã nhận ra lý do tại sao chúng ta giành chiến thắng trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại,” ông nói với các em học sinh, sử dụng tên Nga dùng cho Thế chiến thứ hai. “Không thể đánh bại một quốc gia có tinh thần như vậy. Chúng ta hoàn toàn bất khả chiến bại. Và bây giờ chúng ta cũng như vậy.”
Thứ Sáu, 1 tháng 9, 2023
Hoàng Sa: Vì sao nhiều quốc gia phản đối bản đồ mới của Trung Quốc?
Trung Quốc công bố một bản đồ mới
Báo chí Trung Quốc mới đây công bố: “Bản đồ tiêu chuẩn năm 2023 của Trung Quốc đã chính thức được phát hành vào ngày 28/8 và ra mắt trên trang web của dịch vụ bản đồ tiêu chuẩn do Bộ Tài nguyên (Trung Quốc) quản lý. Bản đồ này được biên soạn dựa trên phương pháp vẽ đường biên giới quốc gia của Trung Quốc và các nước khác nhau trên thế giới” (1).
Thứ Sáu, 21 tháng 7, 2023
Ngô Nhân Dụng: Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tiếp tục hoằng pháp
![]() |
Hòa Thượng Thích Như Điển, phương trượng chùa Viên Giác tại Hannover, trao tặng 24 tập Thanh Văn Tạng cho Học viện Á Phi thuộc Đại học Hamburg. (Hình: Văn Công Tuấn) |
Tin tức từ nước Đức cho biết Hòa Thượng Thích Như Điển, phương trượng chùa Viên Giác tại Hannover, đã trao tặng 24 tập Thanh Văn Tạng cho Học viện Á Phi thuộc Đại học Hamburg. Báo chí tiếng Việt ở các nước khác coi đây chỉ là một “tin địa phương,” truyền thông chính thức ở trong nước không loan tin.
Thứ Ba, 18 tháng 7, 2023
David Hutt: Rò rỉ đỉnh cao đội hình thế hệ mới hậu bầu cử Campuchia, Asia Times, GaD biên dịch
![]() |
Hun Manet, con trai cả thủ tướng Hun Sen,là người tiếp theo sẽ lãnh đạo đất nước sau cuộc bầu cử ngày 23 tháng Bảy. Hình Wikipedia |
Campuchia sẽ trải qua “sự kế thừa thế hệ” hoành tráng sau cuộc tổng tuyển cử vào cuối tuần tới, với việc Thủ tướng Hun Sen sẽ từ chức sau gần 4 thập kỷ cầm quyền và được thay thế bởi con trai cả Hun Manet, theo các tài liệu chính thức bị rò rỉ mà Asia Times có được.
Ngoài sự kế vị của chính Hun Sen, Hun Manet, 45 tuổi, sẽ đảm nhận chức vụ thủ tướng, các con trai của Bộ trưởng Nội vụ đầy quyền lực Sar Kheng và Bộ trưởng Quốc phòng Tea Banh cũng sẽ kế thừa công việc của cha họ, theo các danh sách bị rò rỉ.
Trong số 30 vị trí trong nội các, sẽ có 23 bộ trưởng mới khi nội các tiếp theo được thành lập, mà Hun Sen đã nói sẽ diễn ra vào cuối tháng 8. Tất cả trừ một trong số mười phó thủ tướng đương nhiệm sẽ nghỉ hưu, theo cùng một danh sách bị rò rỉ.
Thứ Tư, 11 tháng 7, 2012
Chân Văn - Nói chuyện Khoa học và Phật giáo tại Làng Mai
Chân Văn
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã
thuyết trình trong khóa tu tại Làng Mai về Khoa học và
Phật giáo vào đầu tháng Sáu năm 2012; và sau đó, với
tư cách một nhà khoa học ông đã đặt một số câu hỏi
với Thiền sư Nhất Hạnh về cách nhìn của đạo Phật
đối với một số vấn đề căn bản trong khoa học hiện
đại. Khóa tu tại Làng Mai, ở vùng tây nam nước Pháp
gần thành phố Bordeaux, diễn ra trong 21 ngày, kể từ ngày
1 tháng Sáu năm 2012, quy tụ hơn 900 thiền sinh đến từ
gần 30 quốc gia khác nhau. Ngôn ngữ chính được sử dụng
là tiếng Anh, với tám nhóm thông dịch đồng thời sang
tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, tiếng Ý, tiếng Thái,
tiếng Nhật; tiếng Trung Hoa dịch cho nhiều người đến
từ Singapore, Hồng Kong, Mã Lai, Đài Loan, vân vân; nhóm
đông nhất là những người nghe tiếng Việt và tiếng
Pháp.
Trong bài thuyết trình vào ngày
Chủ Nhật 3 tháng Sáu 2012 tại Xóm Hạ, Làng Mai, ông
Trịnh Xuân Thuận đã nêu lên một số lý thuyết trong
môn vật lý học hiện tại để so sánh với những quan
điểm trong truyền thống Phật giáo. Là một nhà chuyên
khảo về vũ trụ học, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết
Vật lý học đã nhận thấy một số điểm tương đồng
giữa Phật giáo và khoa học. Những điểm “hội tụ”
(convergence) mà ông nhìn ra là tính tương quan và tùy thuộc
vào nhau của mọi hiện tượng vật lý (interdependence);
tính trống rỗng (vacuity, emptiness) của vạn pháp; và tính
vô thường (impermanence). Nhiều khám phá trong khoa học
trong một thế kỷ gần đây đã đưa tới những cách
nhìn giống như quan điểm của đạo Phật từ nhiều ngàn
năm qua. Thí dụ, tính bất khả phân (non-seperability) của
mọi vật; mối liên quan không thể tránh giữa chủ thể
quan sát và đối tượng được khảo sát (tương tức,
tương nhập); vân vân.
Trong khi các bộ môn khoa học sử
dụng lý trí với các phương pháp phân tích toán học và
thí nghiệm để gia tăng hiểu biết có tính chất khách
quan và định lượng của con người về vũ trụ chung
quanh mình, thì Phật giáo là một truyền thống tu tập
với cách nhìn toàn diện theo đuổi mục tiêu trị liệu,
đưa tới giác ngộ toàn diện (enlightenment) chứ không
nhằm hiểu biết thuần túy. Phật giáo không nhìn thế
giới theo lối lưỡng nguyên (tâm và vật) nhưng cũng
không cố chấp vào cách nhìn phi lưỡng nguyên. Từ nhận
định về tính tương lập (interdependence) của mọi vật
và mọi người, Phật giáo đã dẫn tới đức từ bi như
là một cách biểu hiện khác của trí tuệ.
Một ngày sau cuộc thuyết trình
trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã đặt với Thiền sư
Thích Nhất Hạnh một số thắc mắc của một nhà khoa
học để tìm hiểu cách giải đáp của Phật Giáo. Thứ
nhất là Phật giáo yêu cầu phải vượt qua những chướng
ngại do sự hiểu biết gây ra, một điều khác với khảo
hướng của khoa học là luôn luôn dựa trên những hiểu
biết đã có để đi tìm các hiểu biết mới. Thứ hai là
quan điểm Phật giáo về trình độ ý thức (consciousness)
của loài người so sánh với các sinh vật khác, với vật
chất vô sinh, cho tới các hạt nhân. Khoa học, kể từ
Einstein, đã nhìn ra thời gian chỉ là một kích thước
mới của không gian, điều này tư tưởng đạo Phật đã
nhận định ra sao. Điểm sau cùng là theo quan điểm Phật
giáo, mọi vật đều là do biểu hiện của tâm thức, thì
như vậy có một thế giới hoàn toàn vật chất ở ngoài
hay không? Thiền sư Nhất Hạnh đã trình bầy cách nhìn
của Phật giáo trước các vấn đề trên, dựa trên sự
phân biệt “sự thật tương đối” (tục đế) và “sự
thật tuyệt đối” (chân đế) trong truyền thống Phật
giáo. Các độc giả quan tâm có thể tìm trong website của
Làng Mai (langmai.org hoặc plumvillage.org).
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận là tác
giả nhiều cuốn sách được phổ biến rất rộng khắp
thế giới về đề tài vũ trụ học. Ông cũng viết chung
với Matthieu Ricard, một tăng sĩ người Pháp tu theo truyền
thống Tây Tạng, cuốn L'Infini dans la paume de la main
(Vũ trụ trong lòng bàn tay), về tương quan giữa
khoa học và đạo Phật. Matthieu Ricard vốn là một nhà
nghiên cứu về thần kinh học tại Trung Tâm Quốc gia
Nghiên cứu Khoa học nước Pháp (CNRS, Centre National de
Recherches Scientifiques) trước khi đi tu.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận (áo xanh, thứ hai từ phải) tiếp xúc với thính chúng sau bài thuyết trình về Khoa học và Phật Giáo tại Làng Mai (Hình của Như Trang)
Hội tụ giữa Khoa học và Đạo Phật
Tựa đề cuốn sách trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết, là do câu thơ thứ ba trong đoạn đầu bài thơ Auguries of Innocence của William Blake:
To see a world in a grain of sand,
And a heaven in a wild flower,
Hold infinity in the palm of your hand,
And eternity in an hour.
Khi cuốn sách này được dịch sang tiếng Anh, ấn hành năm 2001, nhà xuất bản đã đề nghị đổi tựa: Lượng Tử và Hoa Sen, The Quantum and the Lotus cho dễ phổ biến hơn.
Bài thuyết trình của Giáo sư
Trịnh Xuân Thuận đối chiếu giữa quan điểm Phật Giáo
về vũ trụ và nhân sinh với các hiểu biết khoa học để
nêu ra những tương đồng giữa hai bên; ông đặt tựa
là, Science and Buddhism: A Meeting of the Mind (Khoa học
và Phật Giáo: Cuộc Gặp gỡ tại Tâm).
Tương
Tức
Một điểm được nêu lên đầu
tiên là tính chất tương tức, tương lập (interdependence)
của “vạn pháp,” tức là sự liên quan chằng chịt
giữa mọi hiện tượng vật lý và tâm lý, theo lối nhìn
của Phật Giáo. Trong khoa học, Trịnh Xuân Thuận nhắc
đến một hiện tượng được nêu lên trong một bài do
Boris Podolsky viết được in năm 1935 ký tên
Einstein-Podolsky-Rosen (EPR), để thách thức Vật lý học
Lượng tử (Quantum Physics). Vấn đề được nêu lên liên
hệ tới hiện tượng vật lý trong phạm vi cực nhỏ bên
trong các nguyên tử, gọi là những “hạt dính líu”
(entangled particles).
Nhiều nguyên tử bị kích thích
phát ra hai hạt pho ton (photons) đi về hai phía khác nhau.
Những pho ton này có đặc tính nếu một cái bị kích
thích để xoay thì cái thứ hai cũng xoay theo một chiều
thẳng góc với cái thứ nhất, dù ở cách xa hàng ngàn
dặm cũng vậy. Một cách giải thích hiện tượng này
theo Cơ học Lượng tử, coi như hai hạt pho ton đã “thông
tin” được với nhau, sẽ trái nghịch với Thuyết Tương
Đối của Einstein vì không có thông tin nào có thể đi
nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Do đó Einstein kết luận Cơ
học Lượng tử không giải thích được đầy đủ các
hiện tượng vật lý và đề nghị một lối giải thích
khác. Các cuộc nghiên cứu và thí nghiệm sau này cho thấy
lối giải thích của EPR cũng không đứng vững; thí dụ,
cuộc thí nghiệm của Alain Aspect năm 1982 về những cặp
pho ton cho thấy Einstein không đúng. Hiệu ứng “Hạt Dính
Líu” đã được dùng trong kỹ thuật thông tin và trong
máy vi tính dựa trên hiện tượng này, khi kích thích một
pho ton có thể gây phản ứng của một pho ton khác dù
cách nhau vạn dậm, giúp cho máy vi tính lượng tử chạy
nhanh hơn các máy vi tính bình thường.
Khám phá “mọi hiện tượng
dính líu với nhau” như trên tương đồng với quan niệm
Phật Giáo trong các kinh điển Đại Thừa, như kinh Hoa
Nghiêm đã diễn tả tính tương tức, tương nhập của
vạn pháp. Một đoạn trong Đệ Nhất Nghĩa Không Kinh
(The Discourse on the Emptiness in its Ultimate Meaning) được
thuyết giảng trong khóa tu tại Làng Mai lần này, viết:
“thử hữu cố bỉ hữu; thử khởi cố bỉ khởi, …”
(có cái này nên mới có cái kia, cái này dấy lên nên cái
kia dấy lên).
Theo Phật Giáo thì mỗi vật đều
do các “nhân duyên” khác nó tạo thành, tất cả mọi
vật, mọi hiện tượng là nhân duyên lẫn của nhau
(mutual causation). Hệ luận của quan niệm này là tính
tương lập của “vạn pháp,” không có cái gì tự làm
nguyên nhân duy nhất của chính nó. Một hệ luận khác là
thực tại (reality) trong vũ trụ có tính toàn thể không
thể phân chia được. Vật lý học hiện đại cũng tiến
tới một quan điểm tương tự. Như ông Trịnh Xuân Thuận
nói một cách văn vẻ: Vũ trụ Vật lý học hiện đại
(Astrophysics) cho thấy là tất cả chúng ta chỉ là những
hạt bụi của các vì sao; chúng ta có cùng một lịch sử
trong vũ trụ giống như các loài hoa cỏ, các sinh vật
khác. Trong thời gian và không gian, tất cả chúng ta tương
lập với nhau. Thông điệp chính yếu của khoa học, đặc
biệt của cơ học lượng tử, là có một thực tại sâu
xa hơn những gì mà giác quan của chúng ta nhận thấy, một
thực tại ẩn tàng.
Khoa học đã gặp Phật Giáo
trong lối nhìn này; nhưng sử dụng các khảo hướng khác
nhau. Khoa học dùng “ngôn ngữ” toán học và dùng thí
nghiệm thực tế để kiểm chứng. Phật Giáo dùng trực
giác và kinh nghiệm tâm linh. Nếu không có khoa học thì
Phật Giáo vẫn tồn tại; mà nếu không có Phật Giáo thì
khoa học vẫn được phát triển. Người ta không cần
phải ràng buộc cả hai lại bằng bất cứ giá nào. Điều
chúng ta muốn hiểu là thấy được tính tương đồng
nhất quán của hai bên. Cả hai đều nói về một đối
tượng là thực tại, và mỗi bên đều có tính chất
nhất quán (coherent) trong phạm vi của mình; thế nào cũng
có thể so sánh để thấy những điểm hội tụ giữa
khoa học và Phật Giáo.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cũng
phân biệt: Mục đích của Phật Giáo có tính chất trị
liệu (therapeutic): Làm sao để sống tốt đẹp hơn, mục
tiêu sau cùng là giác ngộ. Trong khi đó khoa học nhằm tìm
hiểu thế giới, khám phá các định luật chi phối cả
vũ trụ, những luật coi là bất biến trong vũ trụ, khiến
người ta thấy vũ trụ có một thứ trật tự, một hòa
điệu và vẻ đẹp trong vũ trụ; chứ không phải chỉ là
một mớ hỗn độn (chaos). Trịnh Xuân Thuận là tác giả
các cuốn sách mang tên Giai điệu huyền bí (La Mélodie
Secrète), Hỗn mang và Hòa điệu (Le Chaos et
l'Harmonie).
Einstein, cũng như nhiều nhà khoa học khác, trong đó có những người khám phá cơ học lượng tử, đều nói rằng Phật Giáo là một tôn giáo có khả năng phù hợp với khoa học nhất. Thí dụ, trong khoa học người ta biết là ánh sáng vừa là những hạt nhân, vừa là sóng. Làm sao một thứ có thể là hai dạng hoàn toàn khác nhau như vậy? Trong truyền thống tư tưởng Tây phương, lối nhìn này không thể nào hiểu được. Nhưng Phật Giáo có thể chấp nhận lối nhìn đó; bởi vì theo Phật Giáo thì mọi vật đều không có tự tánh, cho nên có thể là cái này mà cũng là cái khác hẳn.
Tính Không
Einstein, cũng như nhiều nhà khoa học khác, trong đó có những người khám phá cơ học lượng tử, đều nói rằng Phật Giáo là một tôn giáo có khả năng phù hợp với khoa học nhất. Thí dụ, trong khoa học người ta biết là ánh sáng vừa là những hạt nhân, vừa là sóng. Làm sao một thứ có thể là hai dạng hoàn toàn khác nhau như vậy? Trong truyền thống tư tưởng Tây phương, lối nhìn này không thể nào hiểu được. Nhưng Phật Giáo có thể chấp nhận lối nhìn đó; bởi vì theo Phật Giáo thì mọi vật đều không có tự tánh, cho nên có thể là cái này mà cũng là cái khác hẳn.
Tính Không
Vật lý học hiện đại cũng
chia sẻ với Phật Giáo trong cách nhìn thấy tính chất
trỗng rỗng của vạn vật, gọi là Tính Không. Vật chất
do các nguyên tử tạo thành, mà trong các nguyên tử có
thể nói là trống rỗng, với những hạt vận chuyển.
Thuyết Cơ học Lượng tử cho biết: Những hạt này, căn
bản của mọi vật chất, có hai đặc tính; một là hạt
và hai là sóng. Trước khi đem các dụng cụ để quan sát,
mỗi hạt chỉ có thể được mô tả bằng một xác suất.
Điều duy nhất mà chúng ta có thể biết và nói về một
hạt là nó có một xác suất sẽ hiện ra ở một chỗ
này hay chỗ khác. Khi chúng ta dùng khí cụ để đo lường,
sẽ thấy mỗi hạt có một vị trí và một tốc độ,
nhưng bị giới hạn bởi Nguyên lý Bất định của
Heisenberg: Không thể thấy cả hai đặc tính đó cùng một
lúc một cách chắc chắn. Trong phạm vi nghiên cứu nhỏ
bên trong các nguyên tử, hành động của người quan sát
sẽ ảnh hưởng ngay đến vật được quan sát.
Khoa học hiện đại còn chưa
biết thật sự vật chất trong vũ trụ này nó thế nào,
chúng ta chỉ biết được khoảng 4% về vũ trụ, còn 96%
không biết. Những gì chúng ta nhìn thấy trên các giải
ngân hà sáng trong bầu trời chỉ là nửa phần trăm của
vũ trụ. Tất cả còn là một “giai điệu huyền bí. Các
nhà vật lý học đã nói đến giả thuyết có một “năng
lượng tối” gây ra sự thành hình của vũ trụ, trong đó
một phần là một chất có trọng lực rất mạnh nhưng
không phát ra một “ánh sáng” nào có thể trông thấy
được, mà người ta gọi là “vật chất tối.” Chúng
ta chưa biết gì về vật chất đen cũng như năng lượng
đen (hay tối) cả; chỉ biết là nếu không có nó thì khó
giải thích sự phát sinh và tồn tại của vũ trụ.
Các nhà khoa học chưa biết đâu
là biên giới nơi vũ trụ lớn gặp vũ trụ vi tiểu trong
đó các hạt và sóng lượng tử do nguyên lý bất định
ngự trị, mà ra đến vũ trụ vĩ đại thì nguyên lý đó
không còn hiệu lực. Mỗi ngày các nhà nghiên cứu vẫn
tiếp tục đẩy biên giới của thế giới lượng tử ra
xa hơn, mở ra những chân trời mới.
Tất cả vật chất như trong
chính cơ thể chúng ta đều bắt đầu được tạo nên từ
khi các vì sao phát sinh trong vũ trụ. Từ gần 4 tỷ năm
trước, những hạt bụi tinh cầu đó đã biến chuyển
tạo ra những nguyên tố đầu tiên của sự sống, rồi
tiến hóa dần đến loài người. Tổ tiên của tất cả
chúng ta và các sinh vật khác là các vì sao; lịch sử vũ
trụ cũng chính là tiểu sử của chúng ta. Tất cả bắt
đầu trước đây 14 tỷ năm, đưa tới sự xuất hiện
của loài người. Tìm hiểu vũ trụ chính là đi tìm lại
gia phả của chúng ta; quán sát các thiên hà cũng là nhìn
vào chính bản thân mình.
Chúng ta có thể quan sát được
hàng trăm tỷ thiên hà như giải Ngân Hà, mỗi thiên hà
chứa hàng trăm tỷ các vì sao giống như mặt trời. Nếu
mỗi vì sao đó có chừng mươi hành tinh giống như trái
đất thì chúng ta thấy ngay là không thể nghĩ rằng trái
đất nơi ta sống là hành tinh duy nhất có sự sống. Chắc
phải có cuộc sống với trí thông minh ở ngoài trái đất,
họ cũng đang quán sát vũ trụ như chúng ta. Einstein, một
thần tượng của tôi, Trịnh Xuân Thuận, phải lấy làm
ngạc nhiên tại sao con người lại có khả năng tìm hiểu
cả vũ trụ; ông coi đó là “một điều khó hiểu nhất!”
Vô Thường
Một quan niệm căn bản trong
truyền thống Phật Giáo là tính Vô Thường (impermanence)
của vạn pháp, mọi sự vật, mọi hiện tượng. Trước
đây, khoa học Tây phương đã bị ràng buộc trong nhiều
thế kỷ với khái niệm từ thời cổ Hy Lạp về tính
bất biến của các hiện tượng thiên văn; vì Aristote nói
rằng cái gì thuộc về loài người thì thay đổi, phù
du; còn thế giới các thần linh, như các vì sao trên bầu
trời thì vĩnh cửu và không bao giờ thay đổi, bởi vì
các vị thần linh đều hoàn hảo tuyệt đối. Vì vậy,
vào ngày 4 tháng Bẩy năm 1054, ban đêm trên bầu trời
xuất hiện một thiên thể hoàn toàn mới sáng rực, nó
sáng như Kim Tinh, Vénus, ngay cả ban ngày mắt
thường cũng nhìn thấy, và kéo dài hàng mấy tuần
lễ liền; nhưng các nhà thiên văn tài giỏi ở Âu Châu
thời đó không hề ghi nhận họ thấy “ngôi sao” mới
này trong niên biểu thiên văn học đương thời. Bởi vì
theo quan niệm của họ thì bầu trời của các vị thần
linh là bất biến. Thiên thể trên, có nguồn gốc là
phần còn lại của một vụ nổ sao mà ngày nay chúng
ta gọi là "Tinh vân Cua."
Trong thời gian đó thì ở Trung Hoa người ta đã ghi
nhận sự xuất hiện của “ngôi sao” này, và họ đặt
tên là “Sao Khách.” Di tích khảo cổ cho thấy người
Maya ở Mỹ châu cũng ghi nhận hiện tượng thiên văn này.
Các nhà khoa học Âu Châu thời Trung Cổ tin tưởng ở lý
thuyết vũ trụ bất biến của Aristote hơn là tin vào
chính mắt của họ. Mãi đến thời Copernic, năm 1543, mới
thuyết phục được các nhà khoa học là vũ trụ có tính
vô thường.
Vũ trụ luôn biến chuyển, không
bao giờ ngưng. Các vì sao cũng sinh ra, tàn lụi, rồi chết
đi như tất cả chúng ta, nhưng cuộc đời của một vì
sao dài tính bằng hàng tỷ năm chứ không ngắn như đời
chúng ta. Phật Giáo theo quan điểm vô thường. Như chúng
ta nghĩ đang “ngồi yên” trong thiền đường này thì
thực ra chúng ta đang vận chuyển theo trái đất chung
quanh mặt trời với vận tốc 30 km một giây đồng hồ;
mà mặt trời cũng đang vận chuyển 220 km một giây quanh
trung tâm của Ngân Hà; và chính thiên hà này cũng đang tự
quay với tốc độ 90 km mỗi giây ở nơi chúng ta đang
sống. Tất cả đều vận chuyển, tất cả đều thay đổi,
đó cũng là quan niệm vô thường trong Phật Giáo.
Tôn
giáo của tương lai
Ông Trịnh
Xuân Thuận nhận xét, khoa học chỉ là một cửa sổ để
chúng ta nhìn thế giới. Muốn hiểu biết thực tại chúng
ta phải nhìn qua nhiều cửa khác. Phật Giáo phân biệt
hai loại sự thật, tục đế là những sự thật tương
đối, chân đế là sự thật tuyệt đối. Khoa học vẫn
cố tìm đến sự thật tuyệt đối nhưng chưa tới được.
Mỗi lần nhà khoa học giải đáp được một câu hỏi
thì hàng ngàn câu hỏi khác hiện lên. Nếu dùng kinh
nghiệm tâm linh đạt tới “giác ngộ,” chúng ta có hy
vọng nhìn thấy sự thật. Nếu không, vẫn là một “giai
điệu huyền bí.” Ông nghĩ rằng khoa học không thôi
không thể mô tả đầy đủ sự thật; khoa học không quá
tự cao như vậy. Kinh nghiệm tâm linh là con đường khác
bổ túc cho khoa học. Dù theo hai hệ thống lý luận khác
nhau, Phật Giáo và Khoa học Vũ trụ đã gặp gỡ trên
nhiều điểm. Những nguyên lý Phật Giáo như tính tương
lập (interdépendance) của mọi sự vật, tất cả đều
liên hệ với nhau và có duyên nhân quả với nhau (mutual
causality), về tính không (vacuity) và tính vô thường
(impermanence) của vạn pháp, đều tương đồng với kết
luận của các nhà nghiên cứu khoa học vũ trụ.
Tính tương lập của mọi vật
trong vũ trụ giúp chúng ta suy nghĩ để thấy hạnh phúc
của mỗi người tùy thuộc vào mọi người khác và cả
vạn vật chung quanh. Từ đó, chúng ta phát khởi lòng từ
bi và ý thức phải bảo vệ các sinh vật cũng như những
vật vô sinh trong môi trường sống. Mỗi người không thể
hạnh phúc nếu người chung quanh không hạnh phúc. Đó là
điều mà các tôn giáo đều dậy chúng ta.
Cuối bài thuyết trình, Giáo sư
Trịnh Xuân Thuận đã đọc cho thính chúng nghe một câu
của Albert Einstein nói về tôn giáo thường được trích
dẫn, “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ
trụ. Phải là một tôn giáo dựa trên thực chứng (based
on experience) và từ bỏ tính cách giáo điều (refuses
dogmatic). Nếu có một tôn giáo đáp ứng được nhu cầu
khoa học hiện đại, thì đó là Phật Giáo (If
there is any religion that would cope with modern scientific needs it
would be Buddhism).
Giới
thiệu
Trước buổi thuyết trình, Giáo
sư Trịnh Xuân Thuận đã được
một vị tăng sĩ tại Làng Mai giới thiệu với đại
chúng. Ông sinh năm 1948 tại Hà Nội, đậu Tú tài năm
1966, rồi học một năm tại l’Ecole Polytechnique de
Lausanne, Thụy Sĩ. Sau đó ông đã theo học các đại học
có tiếng tại Hoa Kỳ, California Institute of Technology
(Caltech), và Đại học Princeton, nơi đã trao bằng Ph.D.
cho ông vào năm 1974, về môn Vật lý học Vũ trụ
(astrophysics), dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Lyman
Spitzer, người sáng chế viễn vọng kính Hubble. Từ năm
1996 ông là giáo sư Vật lý Vũ trụ tại Đại học
University of Virginia tại Charlottesville. Ông cũng là giáo sư
Đại học Paris 7, làm việc tại Thiên văn đài Meudon, tại
IAP (Institut d’astrophysique de Paris) và Trung tâm Nghiên cứu
Khoa học (CNRS) của nước Pháp. Ông đã viết trên 230 bài
tường trình khảo cứu trên đề tài chuyên khảo là sự
hình thành và tiến hóa của các thiên hà (galaxies); về
sự tạo lập vũ trụ theo lý thuyết “Vụ Nổ Lớn”
(Big Bang). Một đóng góp của ông được giới khoa học
thảo luận với lòng thán phục là việc ông khám phá
thiên hà “trẻ nhất” trong vũ trụ, mang ký hiệu I
Zwicky 18. Ông là một trong số người sáng lập Hội Quốc
tế Khoa học và Tôn giáo (International Society for Science and
Religion).
Là một người viết rất nhiều sách phổ thông về
Vật lý học Vũ trụ; tại Đại học Virginia ông Trịnh
Xuân Thuận cũng dậy một lớp mang tên là “Vật lý
học Vũ trụ cho các Thi sĩ.” Ông đã xuất bản các
tác phẩm phổ biến khoa học cho đại chúng, viết
bằng tiếng Pháp với một lối văn nhuần nhã, điêu
luyện, đầy thi vị, chính xác và trong sáng dễ hiểu.
Các tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ
tiếng trên thế giới, được các tổ chức văn hóa
quốc tế vinh danh. Năm 2007 ông xuất bản cuốn Les
voies de la lumière, được trao Giải Moron của cựu
Tổng thống Jacques Chirac. Năm 2009, tại Hội nghị Khoa
học Ấn Độ (Indian Science Congress) kỳ thứ 99 tại
Bhubaneswar, ông được UNESCO trao tặng Giải Kalinga Năm
2012, ông được Học Viện Pháp Quốc (Institut de
France) trao Giải Hoàn Cầu (Prix Mondial) Cino Del Duca. Đây
là một giải hưởng văn chương rất uy tín, khi chúng
ta biết trong số những người được trao giải gần
đây có các nhà văn Mario Vargas Llosa (2008), Milan Kundera
(2009) và Patrick Modiano (2010). |
Giáo sư Trịnh
Xuân Thuận đã xuất bản các sách bằng tiếng Pháp sau
đây: La Mélodie secrète (Fayard, 1988); Un astrophysicien
(Beauchesne-Fayard, 1992), tự thuật; Le Destin de l'Univers –
Le Big Bang et après (Découvertes Gallimard, 1992); Le Chaos et
l'Harmonie (Fayard, 1998); L'Infini dans la paume de la main
(Nil/Fayard 2000, cùng với Matthieu Ricard); Origines, (Fayard,
2003); Les voies de la lumière (Fayard, 2007).
Chân Văn
(Đỗ Quý Toàn)
tường thuật
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)