Hiển thị các bài đăng có nhãn Tô Văn Lai. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tô Văn Lai. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2022

Nguyễn Văn Tuấn: Ông Tô Văn Lai (1937 – 2022) ‘đi mang theo quê hương’

Ông Tô Văn Lai (1937 – 2022), người sáng lập Trung tâm Thuý Nga. Ảnh của báo Người Việt.

Ông Tô Văn Lai, một trong những người có ảnh hưởng lớn đến đời sống âm nhạc và văn hoá ở hải ngoại, mới qua đời ở tuổi 85. Ông để lại cho đời một sân khấu mang tên ‘Thuý Nga Paris by Night’ như là một tài sản tinh thần của hàng trăm triệu khán giả trong và ngoài nước.

 Kỉ niệm những ngày đầu xa quê

Dạo đó (đầu thập niên 1980s), tôi mới định cư ở Úc và quần quật làm lại cuộc đời ở quê hương mới, nên ít khi nào chú ý đến nhu cầu văn nghệ. Bạn bè gặp nhau ngày cuối tuần thì chủ yếu là ăn uống và ca hát theo kiểu ‘cây nhà lá vườn’. Người cầm đờn, kẻ nghêu ngao ca hát những ca khúc nổi tiếng thời trước 1975 hay những ca khúc thương nhớ về quê nhà mà chúng tôi nghe được từ bên trại tị nạn. Đời sống âm nhạc và văn hoá của người Việt xa xứ thời đó chỉ có vậy.

Video ca nhạc “Paris by Night” đầu tiên của Trung tâm Thuý Nga phát hành vào năm 1983.


Nguyễn Văn Lục: Tưởng nhớ Tô Văn Lai. Một người bạn cùng lớp Đại Học Sư Phạm Triết Đà Lạt

Tôi viết với tư cách một trong những người bạn lâu năm của Tô Văn Lai về những gì còn nhớ trong tình trạng hiện nay bạn bè cùng lớp rơi rụng gần hết. Và chỉ còn dăm người còn liên lạc với nhau: Trương Đình Tấn, Phạm Phú Minh, còn có bút hiệu Phạm Xuân Đài, Nguyễn Văn Lục,  Minh Pat Boone, Vĩnh Phiếu, Hồ Công Danh (ở trong nước). Tôi cũng xin nói thật là tôi e ngại viết về một người bạn đã thành đạt ở một tầm kích vượt trội từ trong nước ra hải ngoại. Sự e ngại ấy có cái lý của nó. Hễ một người có danh vọng, khi nằm xuống thì sẽ có nhiều người lên tiếng ca ngợi như một thứ “Văn chương phúng điiếu”. Ca ngợi người mà chính là gián tiếp cho mình. Tôi cũng chẳng muốn làm công việc mà bạn mình không cần. Nhiều khi người chết cũng chẳng cần thứ gia tài đó. Vì thế, tôi ráng giữ nguyên tắc cho riêng mình là: Bài học ngữ pháp về tang chế (Grammaire du Deuil). Như thế rồi thì tôi có thể thong dong viết về bạn mình.

Trước hết, xin nói qua về việc thành lập Đại học Đà Lạt nơi chúng tôi đã thành đạt. Nó chỉ bắt đầu từ niên khóa 1957-1958 với hai ban Đại học Sư phạm quốc gia : Triết Học và Pháp Văn. Cơ sở trường Đại Học Đà Lạt vốn là Trung tâm an dưỡng của Sĩ quan Pháp có tên là Camp Robert. Camp Robert có hai khu. Một ở phía trường Yersin, một phía trong rừng, xa thành phố, rộng 40 mẫu, nơi có 40 ngôi nhà lớn nhỏ. Nơi đây được gọi là Thụ Nhân (trồng người) đã đào tạo tất cả chúng tôi thành những trí thức miền Nam, đi gieo trồng môn triết học lan tỏa khắp các tỉnh thành miền Nam (Xem thêm đầy đủ bài của Đỗ Hữu Nghiêm (Kỷ niệm 10 năm Viện Đại Học Đà Lạt).

Từ cơ sở ấy, linh mục Nguyễn Văn Lập đã nhiều năm xây dựng và phát triển nên cơ ngơi ngày hôm nay. Nhất là khi mở thêm phân khoa chính trị, Kinh Doanh mà sỉ số sinh viên lên cả ngàn.

  • Số giáo sư giảng dạy về môn Triết còn nhớ được

  • Thật ra, việc học ra trường với thứ bậc cao thấp chẳng có gì để đáng nói. Chỉ cần chăm một chút là có thể đạt được.  Sự thành công sau này chủ yếu là lúc ra đời. Việc học chỉ là giai đoạn chuẩn bị như bước nhảy vào đời. Nó giống như cái ván nhún trong hồ bơi (tremplin). Cái vấn đề không phải là cái ván nhún, mà là sự thao luyện giày công trong  nhiều tư thế nhào lộn đúng chuẩn mực, để ngụp sâu và ngoi dậy. Sự thành công bao giờ cũng có giá phải trả bằng nhiều cách khác nhau.


Phạm Phú Minh: Bơi Qua Hồ Xuân Hương Giữa Đêm Khuya

Bây giờ ở tuổi xế chiều, nhớ lại quãng đời lúc còn trẻ, tôi thấy thời tươi đẹp nhất là ba năm học Đại học Sư phạm tại Đà Lạt.

Đậu Tú Tài 2 vào mùa hè năm 1960, tôi ghi danh vào lớp Dự Bị Văn Khoa của Đại học Sài Gòn. Học được nửa năm thì thấy Thông cáo cuộc thi tuyển vào Đại Học Sư Phạm của bộ Giáo Dục, tôi bèn ghi danh đi thi hai ban : Triết học và Anh văn. Tự thấy mình cũng đã lớn rồi, phải tìm nghề ngỗng mà sống, chứ làm sao có thể ở trong tình trạng “cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” mãi được. Cuối cùng là đến kỳ thi, và tôi đậu vào ban Triết học. Tôi có nhận được thư thông báo là tôi phải đi Đà Lạt để học lớp Triết trên đó, năm thứ nhất bắt đầu từ niên khóa 1961-1962. Học ba năm, nếu song suốt trong các kỳ thi lên lớp và thi mãn khóa, chúng tôi sẽ ra trường vào mùa hè 1964, và nhận nhiệm sở đi dạy đầu tiên vào niên khóa 1964-65.

Đến Đà Lạt, tôi như rơi vào cõi mộng mơ. Đà Lạt có một cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời, không khí mát mẻ, rừng thông, hồ nước, đồi núi… giàn trải một cách hài hòa và mỹ thuật không khác nào một bức họa lớn. Khi ghi danh nhập học tại văn phòng Viện Đại Học Đà Lạt tôi có cảm giác như đang làm thủ tục để vào cư ngụ trong một cõi thần tiên.

Tôi không xin vào nội trú trong đại học xá ở ngay trong trường, vì tôi có một nhà bà con tại thành phố này, và chú tôi, người đã đến đây lập nghiệp từ lâu, khuyên tôi ở nhà chú tôi để đi học. Tôi rất hạnh phúc khi mới tới xứ lạ, gặp được tình cảm ấm áp của bà con giòng họ như ôm ấp lấy mình.

Ngày tựu trường, lớp tôi sĩ số khoảng 30 người, từ tứ xứ tới đây, bắt đầu làm quen với nhau. Người tôi để ý đầu tiên là Tô Văn Lai vì anh là người đỗ đầu của cuộc thi tuyển vào lớp này. Anh có vẻ rất thư sinh, quần áo chỉnh tề, ăn nói vừa điềm đạm vừa vui vẻ. Lớp chúng tôi có đến ba người tên Minh mà anh em trong lớp dần dần dựa vào đặc tính của mỗi người để đặt cho mỗi người một biệt hiệu để phân biệt. Một bạn cao lớn đẹp trai như tài tử điện ảnh, anh em đặt tên là Minh Pat Boone; một bạn khác được đặt biệt hiệu là Minh Cờ Bạc (có thể trong đời sống nội trú anh này hay tổ chức cờ bạc để giải trí chăng); còn tôi, có biệt danh là Minh Xe Lam, vì sau mấy tháng nhập học tôi được gia đình gửi tiền để mua một chiếc Lambretta cũ để đi học, vì nhà chú tôi cách trường đến sáu cây số.