Hiển thị các bài đăng có nhãn T. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn T. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến - Chiếc Cầu Qua Sông Lương

Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh
“Bèo” - Phùng Cung
Năm 2007 nhiếp ảnh gia Nghi Thanh đi qua một chuyến phà (ở Neak Loeung, tên Việt: Hố Lương) và ống kính chuyên nghiệp của ông đã ghi lại hình ảnh của một thiếu nữ bán soài vô cùng sống động và sắc nét, cùng với đôi lời chú giải – bằng Anh Ngữ – về địa phương này:
Ảnh: Nghi Thanh
“This is Neak Luong or Phumĭ Prêk Khsay, a little town belongs to Prey Veng ('long forest' in Khmer), one of the poorest provinces in Cambodia, prone to both floods and droughts. The province, situated near the Vietnamese border, was one of the most heavily bombed during the Vietnam War.”
[Đây là Neak Luong hay còn gọi là Phumĭ Prêk Khsaymột thành phố nhỏ thuộc Prey Veng (nghĩa là ‘rừng dài” theo tiếng Khmer), nơi nghèo nhất Cambodia, thường bị cả lụt lội lẫn hạn hán. Thị trấn này nằm gần biên giới Việt, là một trong những nơi chịu bom đạn nặng nề nhất vào thời chiến tranh Việt nam.]
Sáu năm sau, phóng viên Thanh Trúc cũng đã dừng chân ở nơi đây, và ghi lại một bài phóng sự ngắn (“Những Mảnh Đời Trôi Nổi Của Người Việt Ở Hố Lương”) với hơi nhiều xúc cảm:
“Tại Hố Lương, nhiều người Việt Nam, bây giờ được gọi là người Khmer gốc Việt, tuy đã sống ở chốn này gần bốn năm thế hệ nhưng mãi vẫn là những người gạo chợ nước sông, không có giấy tờ cũng không có quốc tịch.
Nghèo và không có tương lai thì không thể tránh được chuyện đi khỏi làng khỏi xóm để kiếm việc mà có khi lại rơi vào những cạm bẫy xã hội vốn đầy dẫy bên ngoài, điển hình như những quán cà phê, sự thực là quán gái, nơi rất chuộng các thiếu nữ Việt Nam...
Cuộc sống của người Việt ở Kampuchia, hoặc người Miên gốc Việt ở Xứ Chùa Tháp, những người không có quốc tịch, không có giấy tờ, không có đất đai, là cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt, chẳng có lối để thoát ra hay vươn lên khỏi cảnh túng đói.”
Nhà của người Việt, tại ấp 6, Hố Lương. Ảnh: Sovanrith
Hố Lương nằm bên dòng Bassac, thượng nguồn của Tiền Giang, tuy chỉ cách Nam Vang chừng hơn hơn một giờ xe nhưng lại rất xa khu du lịch quen thuộc Đế Thiên – Đế Thích nên du khách không mấy ai lui tới. Tôi lò dò đến đây vào cuối năm 2014, và nhận ra rằng cuộc sống của đồng bào mình hoàn toàn không có gì thay đổi: “... vẫn đơn điệu, tẻ nhạt, chẳng có lối để thoát ra hay vươn lên khỏi cảnh túng đói.”
Ngoại trừ những thanh niên thiếu nữ có thể lên thủ đô Nam Vang làm thuê, làm mướn, phụ hồ, phụ bàn, khuân vác, chạy xe ôm, bán quán cà phê (và đôi khi cũng phải bán thân luôn) còn người già và trẻ con ở Neak Loeung thì chỉ còn có cách mưu sinh là đi ăn xin hay bán hàng rong trên những chuyến phà – qua lại hàng ngày – ở khúc sông này.
Phà qua sông Hố Lương. Ảnh: NCB
Nhìn những cụm hoa lục bình tim tím, lơ lửng trên dòng nước đục màu phù sa, dưới ánh nắng vàng rực, giữa hai bờ cỏ dại xanh um – ngút xa tầm mắt –  ở bến sông Hố Lương khiến tôi không dưng mà chợt nhớ đến hình ảnh an vui nơi Bắc Mỹ Thuận, vào những tháng ngày xa xưa cũ:
Trong lúc cả đoàn xe xếp hàng dài, chờ đến luợt xuống phà, hành khách tấp nập ra vào những quán ăn nằm san sát bên đường. Không khí thơm lừng mùi gà nuớng, tôm nướng, heo nướng, bò nướng, cá nướng, chuột nướng… Không gian tươi tắn màu sắc của đủ loại trái cây quen thuộc, của miền Nam: khóm, mận, ổi, nhãn, soài, măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, vú sữa, sa pô chê, cam, quýt … 
Duới phà chen lẫn với hành khách là những em bé bán hàng rong: xôi vị, cốm dẹp, bánh bèo nước dừa, bánh tằm bì, chuối nướng, chè đậu, gỏi gà, cháo vịt, nem nướng, chả chiên, mía hấp, bì cuốn, bún mắm, chả giò, đậu phụng, cà rem, trà đá, ốc gạo hấp lá gừng, ốc leng xào dừa, chim mía rô ti… 
Ảnh:wordpress.com
Bến phà Hố Lương chiều nay tuy cũng an bình nhưng không nhộn nhịp và không có được cái sắc thái, cũng như sắc màu, phong phú và tươi vui như Mỹ Thuận năm nào. Anh bạn đồng hành, dân bản xứ, chỉ vào đám đông đang lao nhao vây quanh những chiếc xe chở khách:
  • They’re all Vietnamese! Họ đều là người Việt!
Dù đã sống hơn nửa đời tha phương cầu thực, qua rất nhiều nơi, tôi chưa bao giờ thấy đồng hương của mình trong tình cảnh nhếch nhác, khốn cùng, và thảm thương đến thế. Tháng trước, nơi khu Phố Đèn Đỏ Geyleng (ở Singapore) tôi cũng có gặp năm bẩy phụ nữ Việt Nam đi xin tiền – với phương cách vô cùng lịch sự: họ đi lanh quanh bên những bàn ăn chào mời thực khách mua giấy chùi miệng.
Thực khách ở Singapore không ai cần đến dịch vụ thừa thãi này nhưng họ vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức bán/mua.
Singapore là một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu người hàng năm cao nhất nhì thế giới. Người dân bản xứ không ai phải đi bán hàng rong hoặc đi xin ăn nên họ “nhường” công việc này cho những người Việt tha hương, ở bước đường cùng.
Lợi tức bình quân hàng năm của người dân Cambodia thì ngược lại: thấp nhất nhì thế giới. Có thể vì cái khó nó bó cái khôn nên chính phủ của đất nước này không được bao dung gì cho lắm.  
Theo tường trình của Minority Rights Organization (“The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia”)  đọc được vào hôm 19 tháng 3 năm 2014 thì có khoảng năm phần trăm, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở Cambodia (sắc dân thiểu số đông nhất ở đất nước này) và phần lớn bị coi là những kẻ vô tổ quốc nên họ bị tước đoạt tất cả những quyền lợi căn bản. 
Không quốc tịch, không khai sinh, không căn cước ... nghĩa là không có quyền sở hữu đất đai, tài sản, không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ căn bản nào về xã hội, giáo dục, hay y tế.
Bị kỳ thị là chuyện phổ biến xẩy ra cho tất cả những nhóm dân bản địa hay thiểu số, ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, tình trạng này thường chỉ xẩy ra ở bình diện cá nhân – at personal level.
Không luật pháp của xứ sở nào có thể ngăn cấm hay xử phạt sự thù ghét, khinh miệt giữa kẻ này và người nọ nếu những tình cảm tiêu cực này chưa được bầy tỏ qua ngôn ngữ hay hành động.
Còn ở bình diện thể chế, institutional level, Công Ước Quốc Tế về “xoá bỏ mọi hình thức kỳ thị chủng tộc” được hầu hết mọi quốc gia ký kết. Cambodia cũng “ký” nhưng chỉ “ký” chơi thôi!
Bởi vậy, dân Việt ở xứ Chùa Tháp bị đẩy vào cảnh khốn cùng là chuyện ... tất nhiên. Tôi cũng đã bưng xề đi bán hàng bánh tiêu trong một thời gian không ngắn (ở chợ Nhà Lồng và bến xe Rạch Giá, hồi năm 1979) và cũng suýt trở thành ăn mày – đôi bận – nên khó giữ được cho lòng bình thản trước cảnh thương tâm mà nhìn thấy chiều nay, nơi bến sông này.
Giữ im lặng hay lắc đầu trước một lời van xin của một người ngoại quốc – nói tình ngay, và nói với ít nhiều xấu hổ – vẫn dễ hơn là nói “không” với những đồng bào cùng khổ, nhất là giữa cảnh sông nước bao la, nơi đất khách quê người.
Tuy nhiên, tôi biết chắc rằng mình chỉ cần hỏi nhỏ một đứa bé ăn xin một câu thôi (“Con là người Việt phải không?”) và nó gật đầu là tôi sẽ ôm cháu bé vào lòng rồi vỡ òa lên khóc. Tôi sẽ móc hết đồng bạc cuối cùng cho nó, rồi sẽ bị bao vây bởi hàng trăm người đồng hương khác, và chưa chắc đã rời khỏi được bến phà này.
Nhìn nét mặt bỗng khác thường khiến cho người đồng hành ái ngại:
  • Don’t do stupid thing, man. Đừng có làm cái gì lố bịch nha, cha nội. Không có mày họ vẫn sống đấy thôi, và họ đã sống như vậy từ bao lâu nay rồi mà.
Có điều là anh bạn, cũng như chính tôi (ngay lúc đó) không hề biết rằng những chuyến phà qua sông Hố Lương đang sắp sửa đi vào ...  lịch sử. Rồi ra, chúng sẽ cũng cùng chung số phận – hẩm hiu – y như những chiếc phà ở sông Tiền Giang năm nào, theo  như thông tin mà tôi vừa tiếp cận sáng nay:
Neak Loeung Bridge planAmount: $131 millionGrant from: JapanStart: late 2010Finish: February 2015Length: 2210 mWidth: 13.5 mHigh: 37.5 m
Cầu Neak Loeung sắp hoàn thành. Ảnh: Sovanrith
Khi công trình kiến trúc trị giá 131 triệu Mỹ Kim này hoàn tất (vào tháng hai năm 2015) chắc chắc lưu thông sẽ dễ dàng và thông thoáng hơn nhiều. Điều chắc chắn không kém là giá thành của nhiều sản phẩm trong vùng sẽ hạ, và hành khách sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian vì khỏi phải chờ phà. Chỉ duy có điều không ai dám chắc là cuộc đời vốn đã bấp bênh của không ít người dân Việt (ở Hố Lương) rồi sẽ ra sao – trong những ngày tháng tới? 
Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2012

Nhật Tuấn - Con chim chỉ được hót trong đêm

Nhật Tuấn -
Gửi tới BBC từ Sài Gòn

Đứng trước linh cữu  nhà văn Hoàng Yến trong đám tang ông, tôi chợt nhớ câu nói của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mấy năm trước: “Nhà văn phải nói lên sự thật…”

Nhà thơ - lãnh đạo Tố Hữu lúc sinh thời đã kiểm soát văn hóa
 và tư tưởng Việt Nam một giai đoạn dài
Nhưng sự thật luôn luôn là “con chó bị đuổi ra khỏi nhà" (Shakespeare), là thứ tối kỵ trong xã hội “bày cừu”, là hàng quốc cấm trong xứ sở “toàn trị”, là nguy hiểm chết người khi đức vua cởi truồng.
Nhà văn Hoàng Yến là một trong rất ít người to gan dám kêu to lên “vua cởi truồng” đó. Còn nhớ những năm đầu Đảng và Chính phủ về tiếp quản Hà Nội, các nhà văn, nhà thơ, các nhà phê bình, các giáo sư…xúm vào khen thơ Tố Hữu, xài ngôn từ như xài bạc giả. Vậy mà nhà văn Hoàng Yến cả gan viết bài chê thơ Tố Hữu…”bé” vì “chất sống chưa thật sâu sắc nên ý thơ nhiều đoạn còn giả tạo và công thức…”

Vào tháng 4 năm 1955 dám viết như vậy ngay trên báo Nhân Dân thì có khác gì Hoàng Yến kêu lên ” vua cởi truồng”.

Khi hạ bút viết bài 'Đọc thơ Việt Bắc của Tố Hữu' đăng ba kỳ liền trên báo Nhân Dân quả thực nhà văn Hoàng Yến đã ký án tử cho chính ông.

Hoàng Yến đúc kết: “Cũng vì vậy những câu thơ miêu tả những chiến công lịch sử ở Điện Biên tuy đôi đoạn thơ có vẻ mạnh, khí thơ có vẻ hùng nhưng người đọc nhất là những đồng chí đã dự mặt trận Điện Biên, thấy chưa thỏa mãn và còn thấy là giả tạo…”

"Khi hạ bút viết bài 'Đọc thơ Việt Bắc của Tố Hữu' đăng ba kỳ liền trên báo Nhân Dân quả thực nhà văn Hoàng Yến đã ký án tử cho chính ông."

Ối chết, chê thơ Tố Hữu “công thức” thì còn chịu được chứ lại chê “giả tạo” thì đồng chí Ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban tuyên huấn trung ương Đảng chịu làm sao nổi.

Quy tội chết cho Hoàng Yến còn là nhẹ. Tuy nhiên để thêm cớ quy tội, phải đợi đến vài tháng sau khi tập thơ “ Tình người soi dặm đường” của Hoàng Yến NXB Hội nhà văn mới là “dấu chấm hết” cho sự nghiệp văn chương hiểu theo nghĩa “chính thống” của nhà văn Hoàng Yến. Tập thơ ra đời, lập tức đám phê bình “cung đình” xúm vào đánh đòn hội chợ về tội…đa cảm (!), thiếu “tính chiến đấu”:
“ Đường đi mặt trận
Nước đồng gợn trăng
Gió tre hoa bóng
Gợi tình chiếu chăn…”
(Đường đi mặt trận)

“Chiều cuối năm chưa xuống
Sương xuống nhiều hơn mưa
Bứt lá bỏ dòng suối
Thả xuân về dưới kia…”
( Bứt lá bỏ dòng suối)

Thế là đủ chứng lý để thành…án được rồi. Nhà văn Hoàng Yến phải đi cải tạo tại Văn Phong ( Phú Thọ) ba năm liền. Sau khi mãn hạn lại bị liệt vào loại cấm bút tức là viết không được in, hoặc nếu có in thì phải ký tên khác, không được ký tên Hoàng Yến.

"Thế là đủ chứng lý để thành…án được rồi. Nhà văn Hoàng Yến phải đi cải tạo tại Văn Phong (Phú Thọ) ba năm liền. Sau khi mãn hạn lại bị liệt vào loại cấm bút tức là viết không được in, hoặc nếu có in thì phải ký tên khác, không được ký tên Hoàng Yến."

Từ năm 1960 đến mãi 1975, giải phóng miền Nam, kẻ thù “Mỹ-ngụy” đã quá nhiều, thôi thì tha cho “kẻ thù nội bộ”. Thế là từ đó Hoàng Yến mới được phép công bố tác phẩm với tên chính của mình.
Suốt 15 năm cấm bút, Hoàng Yến như con chim chỉ được hót trong bóng tối đã lặng lẽ viết, lặng lẽ cất bản thảo vào ngăn kéo hoặc có được in thì cũng với bút danh khác: Thạch Tiên, Hoàng Lan Châu, Hoàng Đức Anh. Như “chim bị tên sợ cành cây cong”, Hoàng Yến đành rời bỏ những đề tài đương đại, những chuyện thời thế dễ “đụng chạm”, dễ “nhạy cảm” chuyển sang viết chuyên về đề tài…”lịch sử”.

Vậy nhưng “sự thù hằn nghiệt ngã” trong bóng tối “vẫn chưa tha cho Hoàng Yến. Vở kịch “ Hình và bóng” của ông chỉ mới diễn ở Hải Phòng được vài buổi đã có lệnh cấm. Nhưng đòn thù chết người ấy vẫn không đốn ngã được Hoàng Yến, ông vẫn can đảm “tọa thị thẳng thắn” trên đất nước và vẫn viết tiếp nhiều vở diễn giá trị khác trong dó nổi bật là “Thanh gươm cô đô đốc” được mời sang công diễn ở Paris.

Nhà văn Hoàng Yến đã vĩnh biệt thế gian tràn đầy ghẻ lạnh này. Thật không ngờ bạn bè tới chia tay ông với những vòng hoa chật cứng một góc chùa Vĩnh Nghiêm cần hẳn một chiếc xe tải chở đi công viên Vĩnh Hằng mới hết.

Nhà văn bị cấm bút vào loại ngặt nghèo nhất Việt Nam đã rời bỏ thế gian này. Lạ thay nếu ta vào Google đánh cụm từ “nhà văn Hoàng Yến” sẽ không ra một kết quả nào, toàn người mẫu, ca sĩ…
Trong hồ sơ Nhân Văn Giai phẩm của các phê bình gia hải ngoại (đặc biệt bà Thụy Khuê - RFI) cũng tuyệt nhiên không nhắc tới tên Hoàng Yến mà chỉ xoay quanh Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm …

Bài viết, đã được BBC biên tập lại,
tưởng nhớ nhà văn Hoàng Yến, qua đời ngày 23/02/2012.

Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2012

Lê Ngọc Thống - Đối tượng tác chiến đáng gờm của Trung Quốc là ai?

Lê Ngọc Thống

Một câu hỏi đặt ra mà câu trả lời lại mang tính bí mật, không thể công khai ở cấp Nhà nước vì có nhiều vấn đề tế nhị trong ngoại giao.

Tuy nhiên trong công tác quốc phòng, căn cứ vào mối hiểm nguy, thách thức an ninh để xác định đối tượng tác chiến cho quân đội cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó là điều mà bất cứ quốc gia nào bị nguy cơ xâm lược cũng phải làm. Nhưng Trung Quốc, có quốc gia nào dám tấn công xâm lược Trung Quốc? Không có. Cho nên đối tượng tác chiến của Trung Quốc chỉ là những quốc gia cản trở lại ý đồ chiến lược của họ mà thôi. Chẳng hạn như quốc gia nào cản trở “Chuỗi đảo thứ nhất, thứ hai…. Nếu như theo Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc đã đăng tải không cần úp mở thì dư luận quá rõ đối tượng tác chiến của Trung Quốc là bao gồm những quốc gia nào rồi. Có điều ai là đáng gờm mới là quan trọng.  Vậy quốc gia nào là đối tượng tác chiến đáng gờm của Trung Quốc?



Biển Đông đối với Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc.

Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông.  Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama.

Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai - Wetar). Đặc biệt eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz).
Do đó, vùng biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế, nhất là đối với Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản. Biển Đông còn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đông.

Với Trung Quốc, chỉ có duy nhất Biển Đông có thể được coi là cửa ngõ nối liền biển của Trung Quốc. Hướng đông là hai đồng minh Nhật-Hàn của Mỹ, Trung Quốc muốn khiêu chiến với hai quốc gia này vô cùng khó. Ấn Độ Dương thuộc về Ấn Độ nhưng giữa Trung Quốc và Ấn Độ Dương lại không hề có bất cứ một thông lộ trực tuyến nào, hiện tại có thể thông qua Myanmar để hướng tới Ấn Độ Dương, tuy nhiên quan hệ giữa Myanmar và Mỹ lại đang dần chuyển biến tốt đẹp. Biển Đông là cửa ngõ nối liền biển duy nhất, thông thoáng và nuốt dễ dàng của Trung Quốc. Bởi vì các nước có lợi ích, chủ quyền quanh khu vực đó nghèo và yếu hơn nhiều. Báo chí, các học giả Trung quốc cho rằng Biển Đông là “sinh mệnh của Trung Quốc”, rằng còn quan trọng hơn lợi ích cốt lõi, rằng “nếu không có Biển Đông Trung Quốc thành một nước bị phong tỏa”…Đó chẳng qua chỉ là một cách nói để kích động dân tộc, che đậy bản chất của sự việc mà thôi. Thử hỏi hơn 30 năm nay, Trung Quốc làm gì với Biển Đông và Biển Đông đã như thế nào với Trung Quốc mà Trung Quốc vẫn trỗi dậy thành cường quốc kinh tế, quân sự? Thực ra khi Trung Quốc đã như bây giờ thì Trung Quốc muốn cả thế giới mà trước tiên là Biển Đông.

Trung quốc rêu rao ở Biển Đông có nhiều tài nguyên, có trữ lượng dầu hàng trăm tỷ thùng để đánh lạc hướng dư luận và Mỹ về mục đích tranh chấp Biển Đông. Trung quốc cần Biển Đông không phải lý do kinh tế, năng lượng mà chủ yếu là về quân sự. Không có Biển Đông các hạm đội tàu ngầm tấn công mang đầu đạn hạt nhân chiến lược của Trung quốc như “cá nằm trên cạn”. Khi Trung Quốc chiếm trọn Biển Đông thì các tàu ngầm chiến lược mang đầu đạn hạt nhân của họ tha hồ vùng vẫy ở những độ sâu Mỹ khó phát hiện và theo dõi. Biển Đông là căn cứ, là nơi trú ẩn, xuất phát để tấn công hạt nhân hiệu quả nhất mà Trung Quốc muốn, là điều duy nhất có thể răn đe được Mỹ.

Trong khi đó, với Mỹ, lợi ích quốc gia, không những thế mà ngay cả an ninh quốc gia của Mỹ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đương nhiên là Mỹ không muốn điều này.

Chiến lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương là hành động kiềm chế, phòng ngừa sự thách thức vị trí bá chủ thế giới của Mỹ trước sự đang lên của Trung Quốc. Do không muốn đối đầu trực tiếp với Trung Quốc nên Mỹ có sách lược riêng của mình.

Khi cần thiết Mỹ sẽ không ngại ngần vũ trang cho các nước trong khu vực với một mũi tên trúng hai đích: Vừa được sự ủng hộ, mang ơn của những quốc gia mà bị Trung Quốc bắt nạt chèn ép trong vấn đề biển Đông, vừa tạo nên một tuyến phòng thủ chống Trung Quốc chiếm trọn biển Đông của Mỹ mà Mỹ không cần trực tiếp đối đầu với Trung Quốc về quân sự.

Còn Biển Đông đối với Nhật Bản thì sao? Nếu như Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông thì hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản cũng được vận chuyển qua Biển Đông.

Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông là rõ ràng. Thông qua “đường lưỡi bò” thì 80% điện tích Biển Đông là thuộc họ. Ý muốn này được thực hiện thì Trung Quốc phải vượt qua Việt Nam, Philipin và Nhật rồi sau đó thanh toán tiếp Mỹ. Việt Nam, Philipin, Indonexia…, nói chung, tất cả các nước phản đối đường lưỡi bò, thì Trung Quốc coi như con muỗi nhưng còn Nhật Bản???

Việc tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, Nhật Bản đã nhận thức rõ cách hành xử của Trung Quốc sẽ như thế nào. Trung Quốc sẵn sàng làm mọi thứ để tấn công vào chỗ hiểm của Nhật như cắt nguồn cung đất hiếm… và nếu như Trung Quốc độc chiếm Biển Đông thì Trung Quốc cũng không ngại ngần gì phong tỏa yết hầu giao thông của Nhật Bản trên Biển Đông khi cần thiết để có lợi thế trong việc giải quyết tranh chấp với Nhật ở vùng biển phía đông. Đương nhiên Nhật Bản làm sao lại ngồi nhìn lợi ích quốc gia, an ninh quốc gia bị thách thức như vậy.

Trung Quốc mới đuổi kịp Nhật từ năm 2010 nhưng Nhật đã như thế hơn nửa thế kỷ nay rồi. Điều này có nghĩa nội lực của Nhật được “tu luyện” rất nhiều năm và rất mạnh. Việc trở lại châu Á-TBD của Mỹ nhằm khống chế ngăn chặn Trung Quốc là rất khó khăn nếu chỉ một mình trong khi ngân sách quốc phòng bị cắt giảm. Vì thế, tăng cường lực lượng bằng cách tạo điều kiện cho đồng minh, cho các nước trong khu vực hành động theo mối quan tâm chung là sách lược khôn ngoan và hợp lý nhất của Mỹ. Và Nhật là quốc gia đầu tiên mà Mỹ quan tâm, là quốc gia mà có thể giảm gánh nặng cho Mỹ, là quốc gia có đối trọng so với Trung Quốc. Vì vậy khi Mỹ nới lỏng thì việc tái vũ trang của Nhật Bản chỉ là vấn đề thời gian, tùy thuộc vào hành động của Trung Quốc.

Với nền công nghiệp hiện đại, Nhật Bản chắc chắn đã chuẩn bị sẵn sàng (những thứ mà Mỹ không thể biết) để khi cần thiết chuyển nền công nghiệp này sang phục vụ cho chiến tranh thì ngay cả Mỹ cũng không lường hết được sự hiện đại như thế nào. Người Nhật có hàng chục nhà máy điện hạt nhân, còn bom, vũ khí hạt nhân… thì sao?

Cỡ như Việt Nam công nghệ lạc hậu mà sản xuất tàu pháo TT400TP bắn thử 1 lần là đạt yêu cầu ngay thì Nhật Bản không cần phải thử.Tất cả mọi thứ đã sẵn sàng, chỉ cần ráp vào là dùng ngay. Hiện tại Nhật Bản đã có trong tay gần như toàn bộ khí tài quân sự để thành lập một quân đội hiện đại và quy mô lớn. Nhật có số tàu chiến hơn gấp đôi Hải quân Hoàng gia Anh và tàu ngầm gấp đôi Hải quân Pháp. Nhật có một lực lượng Hải quân được trang bị khả năng chống tàu ngầm vô địch châu Á. Việc chọn mua máy bay F35A của Nhật không phải là không tính toán. Khi cần F35A sẽ biến thành F35B và ngay lập tức Nhật sẽ có ngay 3 tàu sân bay tấn công dạng Hyuga. Và đặc biệt, kinh nghiệm cho một cuộc chiến tranh lớn trên biển thì người Nhật có thừa.

Bất kỳ một dân tộc nào khi bị chèn ép, đe dọa thì họ sẽ làm tất cả mọi thứ. Đã qua rồi thời người Nhật chỉ biết được che chở để yên ổn làm ăn. Ngày nay Nhật phải biết tự bảo vệ mình. Người Mỹ đời nào chịu đối đầu trực tiếp với Trung Quốc cho người Nhật có thể dùng tiền đổi mạng. Đã đến lúc Nhật phải xông lên tuyến đầu nếu như không muốn Trung Quốc thực hiện xong chiến lược chuỗi đảo thứ hai. Tướng Nga từng tuyên bố: Nếu cần, sau 20 phút, Nhật Bản sẽ đi tong. Trung Quốc cũng có thể tuyên bố với Nhật Bản đại loại như vậy nếu chiến lược chuỗi đảo thứ 2 của họ thành công.

Ngài Alex Pherguson có nói một câu nổi tiếng: “Phong độ thì nhất thời nhưng đẳng cấp thì mãi mãi”. Về đẳng cấp, so với Nhật Bản, Trung Quốc chưa là gì. Trong thế chiến thứ 2 Trung Quốc là cái gì? Trong khi Châu Á là Nhật Bản. Trân Châu Cảng gắn liền với tên tuổi Nhật Bản. Nhật Bản là như thế đó.

Trên thực tế đang diễn ra sự khôi phục sức mạnh hải quân của Nhật Bản và có thể không phải nghi ngờ là người Nhật chẳng quên cái gì và chẳng sợ bất kỳ ai. Chẳng qua là họ đã thấu hiểu chuyện đời, họ hiểu cái giá phải trả là gì khi xưng hùng xưng bá. Nhưng, cây muốn lặng nhưng gió chẳng dừng. Họ không thể giấu mình, gác kiếm được nữa.

Trong tương lai gần chắc chắn không có sự đối đầu quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ. Sách lược của Trung Quốc là luôn né tránh đối đầu với Mỹ. Vì thế Mỹ chưa phải là đối tượng tác chiến trực tiếp, nguy hiểm mà Trung Quốc xác định. Do đó những nước có tranh chấp trên biển với Trung Quốc như Nhật, Việt Nam, Philipin… được coi là đối tượng tác chiến. Nhưng Việt Nam, Philipin thì Trung Quốc coi như “con muỗi” thì Nhật Bản, Trung Quốc coi như cái gì? Trung quốc sẽ dùng chiến thuật “Giết gà dọa khỉ”, nhưng khi con khỉ đã thành “tinh” thì giết con gà là con Hổ thì nó vẫn không sợ huống chi đó chỉ là con cáo

Cựu cố vấn cấp cao Singapore Lý Quang Diệu từng nói: Chẳng lực lượng Hải quân châu Á nào có thể đọ nổi với Hải quân Nhật! Đó là điều không sai và như vậy chắc chắn Nhật Bản là đối tượng tác chiến đáng gờm nhất mà Trung Quốc phải tính đến khi thực hiện “giấc mơ Trung Quốc” của mình.

1-3-12
Nguồn: Việt-Studies

Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2012

Thanh Tâm Tuyền - vang vang trời vào xuân


Thanh Tâm Tuyền



Mặt trời hồng như trăng
Thức lòng ta buổi sớm
Gió núi thổi rộn ràng
Gọi nghe biển dậy sóng


Đứng vững không khuỵu chân
Trên mảnh đất nghèo khổ
Thở hít tận vô cùng
Ngây say đóa hồng rợ


Vang vang trời vào xuân
Ta bật kêu mừng rỡ
Ơi bạn bè xa xăm
Tim ta cũng cháy đỏ
Rực thắm bóng trăng ngàn.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Buồn Vào Hồn Không Tên


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Có lần, tôi nghe giáo sư Nguyễn Văn Lục phàn nàn:
Người cộng sản có một sự sắp xếp rất máy móc, đơn giản về con người và sự việc. Hoặc họ coi là bạn, hoăc là kẻ thù của họ. Miền Nam sau 1975 có chiến dịch đi tìm thù và biến miền Nam thành mảnh đất hung bạo với những ngữ từ quen thuộc như: Quét sạch, đánh phá, truy lùng, tố cáo.

Nhạc sĩ Trúc Phương

Gần bốn mươi năm sau, sau cái chiến dịch “tìm thù” bắt đầu từ năm 1975, có bữa tôi đang ngồi lơ tơ mơ hút thuốc thì chuông điện thoại reo:
  • Tiến hả?
  • Dạ...
  • Vũ Đức Nghiêm đây...
  • Dạ...
  • Anh buồn quá Tiến ơi, mình đi uống cà phê chút chơi được không?
  • Dạ ...cũng được!
Tôi nhận lời sau một lúc tần ngần nên tuy miệng nói “được” mà cái giọng (nghe) không được gì cho lắm. Tôi cũng thuộc loại người không biết làm gì cho hết đời mình nên thường rảnh nhưng không rảnh (tới) cỡ như nhiều người trông đợi. Sống ở Mỹ, chớ đâu phải Mỹ Tho mà muốn đi đâu thì đi, và muốn đi giờ nào cũng được – mấy cha?

Khi Mai Thảo và Hoàng Anh Tuấn còn trên dương thế, thỉnh thoảng, tôi cũng vẫn nghe hai ông thở ra (“anh buồn quá Tiến ơi”) y chang như thế. Chỉ có điều khác là ông nhà văn khi buồn thì thích đi uống rượu, ông thi sĩ lúc buồn lại đòi đi ... ăn phở, còn bây giờ thì ông nhạc sĩ (lúc buồn) chỉ ưa nhâm nhi một tách cà phê nóng. Ai sao tui cũng chịu, miễn đến chỗ nào (cứ) có bia bọt chút đỉnh là được!

Vũ Đức Nghiêm sinh sau Mai Thảo và trước Hoàng Anh Tuấn. Ông chào đời vào năm 1930. Hơn 80 mùa xuân đã (vụt) trôi qua. Cả đống nước sông, nước suối – cùng với nước mưa và nước mắt – đã ào ạt (và xối xả) chẩy qua qua cầu, hay trôi qua cống. Những dịp đi chơi với ông (e) sẽ cũng không còn nhiều lắm nữa. Tôi chợt nghĩ như thế khi cho xe nổ máy.

Quán cà phê vắng tanh. Nhạc mở nhỏ xíu nhưng tôi vẫn nghe ra giai điệu của một bài hát rất quen:
Gọi người yêu dấu bao lần.
Nhẹ nhàng như gió thì thầm.
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi thương người xa xôi.
Gọi người yêu dấu trong hồn.
Ngập ngừng tha thiết bồn chồn.
Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương cho lòng nhớ thương…

- Hình như là nhạc Vũ Đức Nghiêm ... Anh nghe xem có đúng không? Tôi đùa.
  • Em nói nghe cái gì?
  • Anh thử nghe nhạc coi...
  • Nhạc của ai?
Tôi chợt nhớ ra là ông anh đã hơi nặng tai nên gọi cô bé chạy bàn:
  • Cháu ơi, người ngồi trước mặt chúng ta là tác giả của bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu mà mình đang nghe đó. Cháu mở máy lớn hơn chút xíu cho ổng... sướng nha!
Thấy người đối diện có vẻ bối rối vì cách nói vừa dài dòng, vừa hơi quá trịnh trọng của mình nên tôi cố thêm vào một câu tiếng Anh (vớt vát) nhưng ngó bộ cũng không có kết quả gì. Đúng lúc, chủ quán bước đến:
  • Cháu nó mới từ Việt Nam sang, ông nói tiếng Mỹ nó không hiểu đâu. Ông cần gì ạ?
- Dạ không, không có gì đâu. Never mind!

Tôi trả lời cho qua chuyện vì chợt nhận ra sự lố bịch của mình. Cùng lúc, bản nhạc của Vũ Đức Nghiêm cũng vừa chấm dứt. Tôi nhìn anh nhún vai. Vũ Đức Nghiêm đáp lại bằng một nụ cười hiền lành và... ngơ ngác!

Tự nhiên, tôi thấy gần và thương quá cái vẻ ngơ ngác (trông đến tội ) của ông. Tôi cũng bị nhiều lúc ngơ ngác tương tự trong phần đời lưu lạc của mình. Bây giờ hẳn không còn ai, ở lứa tuổi hai mươi – dù trong hay ngoài nước – còn biết đến tiếng “Gọi Người Yêu Dấu” (ngập ngừng tha thiết bồn chồn”) của Vũ Đức Nghiêm nữa. Thời gian, như một giòng sông hững hờ, đã vô tình bỏ lại những bờ bến cũ.

Vũ Đức Nghiêm, tựa như một cây cổ thụ hiếm hoi, vẫn còn đứng lại bơ vơ bên bờ trong khi bao nhiêu nhạc sĩ cùng thời đều đã ra người thiên cổ. Trúc Phương là một trong những người này. Qua chương trình Bẩy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam, nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam đã cho biết nhiều chi tiết vô cùng thê thiết về cuộc đời của người viết nhạc (chả may) này.

Trang sổ tay hôm nay, chúng tôi xin được nắn nót ghi lại đây những nhận xét của Hoài Nam, và mong được xem như một nén hương lòng (muộn màng) gửi đến một người đã khuất:
Trúc Phương là một trong những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình. Ông tên thật là Nguyễn Thiện Lộc, ra chào đời năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, tức Vĩnh Bình – một xứ Chùa Tháp thu nhỏ ở vùng hạ lưu sông Cửu Long...”

Nhạc của Trúc Phương thường buồn, rất buồn. Trong số những ca khúc của ông, hình như, chỉ có hai bản vui. Đó là: Tình Thắm Duyên Quê và Chiều Làng Em. Riêng bản Chiều Làng Em nói rằng vui là so sánh với những sáng tác khác của ông. Chứ thực ra, bản nhạc này tuy có nội dung êm đềm trong sáng nhưng giai điệu của nó cũng man mác buồn. Không hiểu vì cuộc đời của Trúc Phương vốn nhiều chuyện buồn và đã được ông gửi gấm vào dòng nhạc hay vì ông thích sáng tác nhạc buồn nên riết rồi nó ám vào người, chỉ biết những sáng tác phổ biến nhất, nổi tiếng nhất của ông đều là những ca khúc buồn: Chiều Cuối Tuần, Nửa Đêm Ngoài Phố, Tầu Đêm Năm Cũ, Bóng Nhỏ Đường Chiều ...”

Tháng 4 năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù. Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần. Trong một đoạn video phỏng vấn ông, được Trung Tâm Asia phổ biến tại hải ngoại, Trúc Phương cho biết:.
  Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rài đây mai đó,bèo dạt hoa trôi Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no…Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được…đến nữa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắc, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả. Tôi nghĩ ra được một cách… là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ… Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, 1 chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1 đồng… thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta..thế là mình lấy 1 đồng về….như là tiền thế chân…Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng…Mà nói anh thương…khổ lắm….Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi ,tôi đành phải trải chiếu gần chỗ ‘thằng cha đi tiểu vỉa hè’, thế rồi cũng phải nằm thôi. Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát…mà lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn …Tôi nghĩ mà thôi , còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết bài sau này…

Chất liệu, rõ ràng, đã có (và có quá dư) nhưng cơ hội để Trúc Phương viết bài sau này (tiếc thay) không bao giờ đến – vẫn theo như lời của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam:
Vào một buổi sáng năm 1996, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân. Thế nhưng xét về mặt tinh thần Trúc Phương đã để lại cho chúng ta một di sản vô giá.”

Chúng ta ở đây là những người yêu nhạc, trong nước cũng như hải ngoại, bên này cũng như bên kia chiến tuyến. Bởi vì hơn ba mươi ca khúc nổi tiếng của ông cho dù có một hai bài có nhắc đến chữ ‘cộng hoà’ vẫn phải được xem là những tình khúc viết cho những con người không phải cho một chế độ chính trị nào. Những con người sinh ra và lớn lên trong một cuộc chiến không lối thoát với niềm khắc khoải chờ mong một ngày thanh bình . Cuối cùng thanh bình đã tới nhưng không phải là thứ thanh bình mà những ‘con tim chân chính’ trong nhạc của Lê Minh Bằng hằng mơ ước mà là thứ thanh bình của giai cấp thống trị, của một thiểu số may mắn nào đó. Chính cái thanh bình ấy đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng trong đó có người Việt Nam xấu số đáng thương tên Nguyễn Thiện Lộc, tức nhạc sĩ Trúc Phương nổi tiếng của chúng ta.”

Thôi thì cũng xong một kiếp người! Và dòng đời, tất nhiên, vẫn cứ lạnh lùng và mải miết trôi. Sáng nay, tôi lại chợt nhớ đến Trúc Phương sau khi tình cờ đọc được một mẩu tin ngăn ngắn – trên báo Pháp Luật số ra ngày 1 tháng 2 năm 2012:
Ngày 31-1, một số cán bộ hưu trí, người dân ở phường Bình Hưng Hòa B (quận Bình Tân, TP.HCM) bức xúc phản ánh cuộc họp mặt đầu năm do phường tổ chức ... Ngay phần khai mạc lúc gần 9 giờ sáng, trên nền nhạc hip hop, hai phụ nữ ăn mặc hở hang, thiếu vải lên nhún nhảy, múa những động tác khêu gợi. Hai thanh niên múa phụ họa. Quan sát đoạn video chúng tôi thấy nhiều cán bộ hào hứng xem tiết mục lạ mắt này. Có cán bộ còn dùng điện thoại quay lại cảnh hai cô gái biểu diễn, ưỡn người và ngực về phía khán giả. Nhiều người tham gia rất hào hứng, chỉ trỏ, thì thầm vào tai nhau...
Chúng tôi tiếp tục liên lạc với bà Nguyễn Thị Bích Tuyền, Phó Chủ tịch phường kiêm Chủ tịch Công đoàn phường ... bà Tuyền lý giải: Tiết mục múa chỉ diễn ra gần 3 phút và đây là vũ điệu theo phong cách Hawaii nên hơi lạ...”

Nếu ngay sau khi chiếm được miền Nam mà qúi vị cán bộ cộng sản cũng có được cách “lý giải” tương tự thì thì Mai Thảo, Hoàng Anh Tuấn ... đã không phải bỏ thân nơi đất lạ. Vũ Đức Nghiêm cũng đã tránh được những giây phút bơ vơ, ngơ ngác, lạc lõng ở xứ người. Và Trúc Phương thì chắc chắn vẫn sẽ còn ở lại với chúng ta, vẫn có những đêm khắc khoải buồn vào hồn không tên, thay vì nằm chết cong queo trong đói lạnh – trên một manh chiếu rách – với tài sản duy nhất còn lại chỉ là một đôi dép nhựa.

Mọi cuộc cách mạng luôn luôn có cái giá riêng của nó. Riêng cái thứ cách mạng (thổ tả) của những người cộng sản Việt Nam thì đòi hỏi mọi người đều phải trả cái giá (hơi) quá mắc mà thành quả – xem ra – không có gì, ngoài tội ác!
Tưởng Năng Tiến



Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

Ngự Thuyết - NHỮNG NGÀY ẤN ĐỘ (tiếp theo)


Ngự Thuyết

Cái thuở ban đầu” khi mới đặt chân lên xứ sở này, tôi cảm thấy bỡ ngỡ chen lẫn một chút e ngại. Thử tưởng tượng một người từ một nước da vàng như Việt Nam, hay từ một nước có nhiều chủng tộc mà đa số là người da trắng như Mỹ chẳng hạn, bỗng dưng lọt vào một vùng ngoại ô của một thành phố Ấn Độ, người đông như kiến cỏ, nước da từ xám xịt đến đen nhẻm, y phục lạ lùng nhất là nữ giới, nói lia lịa với rất nhiều âm “r”, đi nườm nượp trên các ngã đường bụi bặm, đầy ổ gà, hoặc tụ lại quanh những gốc cây trú nắng trên những cánh đồng khô, hoặc xúm xít dưới các gầm cầu, các đền thờ hoang phế, hoặc chen nhau trong những quán ăn chật chội, dơ bẩn...


Và đặc biệt là tại các ga xe lửa, nhất là cái mùi của nó. Mùi sân ga, mùi người, mùi mồ hôi, mùi phân chim, phân chó, mùi khai khai, mùi máy móc dầu nhớt, mùi khói, mùi bụi. Những thứ mùi ấy tôi đã gặp từ lâu lắm hồi tôi còn nhỏ hằng năm được đi xe lửa từ Đà Lạt về Huế ăn Tết, nay gặp lại. Gặp lại người quen cũ tất nhiên là vui, gặp lại mùi hôi hám cũ cũng thấy “bồi hồi”. Và dường như hồi đó những ga xe lửa trên quê hương tôi còn có thêm mùi bắp nướng, khoai lang nướng, gà nướng quyện quánh với mùi củi cháy, mùi bụi than, mùi nước tiểu, và cả mùi phân người.

Bây giờ, nơi đây, không gian như đậm đặc lại. Hành khách chờ tàu nằm la liệt khắp nơi dưới bầu trời mênh mông xa trông chẳng khác gì những lớp cá mòi, cá hố, cá rựa, cá đao, cá lẹp, cá mần chặn ... được dân miền biển đem phơi khô trên những tấm vĩ tre đặt trên mặt cát nóng bỏng, hay trên các vỉa hè lồi lõm tồi tàn. Khi tàu mới ló dạng từ xa, những lớp người ngổn ngang ấy bật mình ngay dậy như người máy, rồi không ai bảo ai, chạy túa cuồn cuộn tràn lên tàu như sóng thần trong khi cũng từ các toa tàu ấy những lớp người khác không kém hung hãn ào ào đổ xuống như thác lũ. Hai lực lượng ngược chiều ấy xô đẩy nhau, níu kéo nhau, nhiều lúc cù cưa lui tới bất phân thắng bại, nhưng cuối cùng đâu cũng vào đấy, họ tách rời ra được nhau, kẻ lên toa, người xuống bến. Xơ xác, bèo nhèo, phờ phạc.

Giữa cảnh hỗn loạn đó là những dòng người khuân vác đi hàng một khá nhanh dọc theo các sân ga rồi leo lên những bậc thang tam cấp đi băng ngang chiếc cầu bắc trên cao nối liền các khu vực khác nhau của những khoảng sân lộ thiên rộng lớn, nhờ vậy họ tránh được những tuyến đường rầy chằng chịt cùng những đoàn tàu dài nằm lù lù bên dưới. Đúng ra họ không khuân vác, mỗi người phu thường đội trên đầu một hoặc hai cái va li lớn, hai tay xách những kiện hàng nặng khác, và đi băng băng. Trong đám người phu ấy, có người trông gầy gò ốm yếu hoặc đã lớn tuổi mái tóc bạc trắng rủ xuống cái mặt đen sì, nhưng tất cả đều đi nhanh như nhau, liền nhau thành một chuỗi dài. Thế ra họ đều rất khỏe hoặc đã quen việc. Có lẽ khỏe nhất trong thân thể của họ là những cái cổ cứng như gốc tre đực.

Tôi cũng có dịp ghé vào những quán nhỏ bên đường. Có một loại quán rất đông khách bán một thứ bánh mà giới bình dân thích lắm, đó là bánh “pa-ti” (mong rằng tôi không nói sai tên của nó). Tôi vào tìm được một chiếc ghế đẩu nhỏ, thấp, ngồi xuống chờ bà chủ quán chiên bánh.

Thật ra trong chuyến đi, tôi cũng có vài dịp gặp xã hội thượng lưu của Ấn Độ, hoặc đến những tiệm ăn sang trọng. Lớp người thượng lưu, trung lưu gần như đâu cũng như đâu, na ná giống nhau, từ Âu sang Á, từ Mỹ sang Úc, từ Trung Đông sang Phi châu v.v ... Âu phục vừa vặn, láng lẩy, đúng mốt, màu sắc nâng đỡ nhau, cà vạt tiệp màu với áo sơ mi, với bộ đồ lớn, và cả đôi giày cũng phải cùng gam màu ấm, hoặc màu lạnh, hoặc màu dã thú thích hợp. Và thơm tho. Thơm mùi thuốc lá, thuốc xì-gà, mùi rượu mạnh, và cả mùi nước hoa đàn ông. Ấy là chưa kể y phục còn phải phù hợp với nước da, khuôn mặt, chiều cao, vóc dáng của người sử dụng. Tôi bỗng nghĩ đến một câu thơ tiếng Pháp mà Xuân Diệu đã ghi nó bên trên bài thơ Huyền Diệu của ông: Les parfums, les couleurs, et les sons se répondent.” Nếu giới thượng lưu bây giờ gặp lúc cao hứng họp nhau ca hát, hòa nhạc thì họ rất đáng được tặng câu thơ nói trên. Trong một bài khác khi Xuân Diệu mới bước vào làng thơ, ông đã mô tả một buổi tối đầy ăm ắp cái hòa điệu nhịp nhàng và tình tứ của thiên nhiên:

Một tối bầu trời đắm sắc mây

Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy.

Cũng thế, cái quần cắt thật khéo khi “tìm nghiêng xuống” cũng sẽ gặp ngay người bạn đồng điệu là đôi giày láng cóong, màu sắc ăn ý.

Phụ nữ lại càng tài nghệ hơn, mỹ thuật hơn, tinh vi hơn, phức tạp hơn, cầu kỳ hơn, mà ngòi bút rỉ sét của người viết bài này không dám động đến. Tuy nhiên ta phải nhìn nhận rằng dù lắm khi phụ nữ thích du nhập những kiểu cách ăn mặc thời trang của Tây phương, họ vẫn bảo thủ và bảo tồn được y phục duyên dáng cổ truyền. Áo dài Việt Nam, áo sari Ấn Độ, xường xám Tàu, kimono Nhật ... vẫn được dùng đến khi cần. Đàn ông thì khác, theo Tây phương hoàn toàn.

Giới thượng lưu là giới được toàn cầu hóa sớm nhất nếu họ không muốn hay không giữ nổi bản sắc văn hóa của đất nước của họ. Không chỉ ở y phục mà thôi, họ thường có cùng những phong cách, dáng điệu, cử chỉ, thói quen, sở thích như nhau. Thậm chí trong một tương lai nào đó, biết đâu họ sẽ chỉ muốn sử dụng một thứ ngôn ngữ mà thôi cho tiện việc giao dịch trong thương trường, trong kinh tế, chính trị, và cả trong nếp sống hàng ngày. Một hiện tượng nữa cần lưu ý là trong vòng mấy trăm năm nay, biết bao nhiêu tiếng nói của những bộ tộc nhỏ trên toàn thế giới đã bị tiêu vong, và cũng không ít ngôn ngữ của những nước nhỏ ở Nam Mỹ, Phi Châu, Nam Thái Bình Dương bị mai một. Số lượng ngôn ngữ riêng biệt của các dân tộc đã giảm đi nhiều, những ngôn ngữ “yếu” dần dần biến mất, những ngôn ngữ “mạnh” ngày càng phát triển. Ngôn ngữ, một bộ phận chủ yếu của một nền văn hóa nào đó mất đi, nền văn hóa ấy khó tồn tại. Cách đây gần một thế kỷ, ông Phạm Quỳnh đã nói đại khái rằng Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn. Ông quá hâm mộ Truyện Kiều nên nói thế thôi. Tuy nhiên, như đã đề cập trên, sự tồn vong của ngôn ngữ, của văn hóa gắn liền với sự mất còn của quê hương, đất nước. Tôi rất khâm phục những người Việt ở hải ngoại làm việc quần quật suốt ngày để có thể nuôi con cái ăn học đàng hoàng tại các trường bản xứ, và cuối tuần lại cho chúng nó đi học thêm tiếng Việt. Đó là một nỗ lực lớn lao trong việc gìn giữ tiếng nói của tổ tiên, nòi giống. Và tôi cũng nghĩ rằng, mong muốn rằng, vấn đề toàn cầu hóa chủ yếu nhằm vào kinh tế, đồng thời phải chấp nhận sự đa dạng của văn hóa, của ngôn ngữ.

Muốn tìm thấy nếp sống đặc thù của một dân tộc, do đó, phải tiếp cận với giới bình dân. Nhưng tôi không phải là một nhà dân tộc học mà chỉ là người có tính tò mò mỗi khi đến một nơi xa lạ. Và tôi lò dò đến những xóm nghèo. Xin trở lại cái quán bán bánh pa-ti.

Vừa bước vào quán tôi đã thấy cả chục người chờ, kẻ đứng người ngồi. Tôi tìm được một chiếc ghế đẩu nhỏ. Thật ra một người địa phương có lẽ biết tôi là người nước ngoài đã nhường chiếc ghế nhỏ cho tôi. Tôi cám ơn và ngồi xuống tò mò quan sát. Tôi đoán quán này bán bánh bột chiên. Một rổ bánh chưa chiên màu đen đặt gần lò lửa, trên lò là một cái chão lớn dầu ăn đầy xắp xắp. Đó là những chiếc bánh đen to bằng nắm tay trẻ em, nhưng dẹp và tròn, trông na ná như bánh tiêu. Dầu đang sôi riu riu trong chảo, bà chủ quán dùng chiếc vá nhỏ vớt ra những chiếc bánh đã chiên xong, rồi xúc bánh chưa chiên cho vào chảo. Lạ thay những chiếc bánh đen chưa chiên biến thành bánh trắng. Tôi nhìn kỹ hơn. Thì ra khi chiếc vá trong tay bà chủ trờ tới, đàn ruồi đen đậu kín chiếc bánh bay toả ra để lộ nguyên hình bánh làm bằng bột trắng. Tôi lặng lẽ đứng dậy len lén bước ra khỏi quán. Tiếng nói của bà chủ quán đuổi theo tôi, nhưng tôi chẳng hiểu bà nói gì, lẳng lặng đi thẳng. Người bình dân ở đây đã sống quen với ruồi nhặng, đã tạo được sức đề kháng đối với vi trùng hay chất độc, đã được miễn nhiễm. Còn tôi nếu ăn thứ bánh đó chắc chắn bị “lỏng bụng” ngay.

Cũng thế, trên sông Hằng ở những đoạn được dùng làm chốn yên nghỉ cuối cùng của rất nhiều người Ấn Độ nghèo khổ, ta có thể thấy những khúc xương người chưa cháy thành tro nổi lềnh bềnh. Thế mà gần đó vẫn có dăm ba người trần trùng trục lội nước bì bõm, hoặc tắm gội, giặt giũ. Họ không sợ bị nhiễm độc vì đã miễn nhiễm, hay là vì nước sông Hằng thiêng liêng đã hóa giải mọi thứ độc địa như ý kiến của một người bản địa mà tôi tiếp xúc. Anh chàng Ấn Độ ấy còn chỉ cho tôi thấy mấy khúc xương người trôi đằng xa. Tôi bảo xương nặng phải chìm chứ thì được trả lời rằng sau khi thiêu đốt, xương nó khô và nhẹ hơn nước cho nên nó nổi. Trả lời xong, anh ta hóm hỉnh nói thêm rằng cũng có thể đó là xương làm bằng đồ nhựa cho trẻ em thả xuống sông chơi.

Đằng trước cái quán bán bánh bột chiên, một con đường nhỏ lát đá lởm chởm chạy ngoằn ngoèo, và bên kia đường có mấy quán hớt tóc. Cái chòi thì đúng hơn. Chòi nhỏ xíu, nền đất, lợp lá, trong đó chỉ có một ghế ngồi. Trước ghế là cái bàn nhỏ trên đó dựng một tấm gương hình chữ nhật to bằng trang báo nhật trình, một lọ nước lạnh, một cục xà bong, một cái bàn chải lông mềm để nhúng nước bôi vào mặt khách hàng trước khi cạo râu, cạo mặt, một con dao cạo lưỡi sáng loáng, một cái tông-đơ, một cái kéo, hai cái lược chải tóc. Bên cạnh tấm gương, treo lủng lẳng chiếc khăn lông trắng đã ố màu, và một miếng da dùng để mài dao cạo. Mọi thứ trông na ná như quán hớt tóc ở nhà quê Việt Nam cách đây hơn nửa thế kỷ. Chưa có khách, anh thợ hớt tóc ngồi rung đùi đọc báo. Thấy tôi dừng lại tò mò nhìn, anh ta đứng dậy, vội vàng lấy khăn lau nhanh chiếc ghế độc nhất và đưa tay chỉ ghế mời tôi vào. Tôi lắc đầu. Anh nhìn tôi, cười vui vẻ, rồi trở lại ghế ngồi xuống đọc báo tiếp.

Cạnh chòi hớt tóc là một dãy hàng bán trái cây, chuối, cam, quýt, chanh, v.v... và rất nhiều quả lựu chín nám. Và các loại rau. Các thứ đó đều nằm trong thúng, rổ, hoặc thùng giấy cũ, hoặc trên những chiếc lá to bảng, bày la liệt trên mặt đất. Các anh bán hàng, chứ không phải chị bán hàng, ngồi trên những chiếc ghế thấp rao hàng luôn miệng. Một anh nói được tiếng Anh giải thích rau quả ở đây nhỏ tí teo, trông èo uột nhưng tốt lắm, ngon lắm, không bị tiêm vào các thứ thuốc hóa học độc hại đâu. Tôi mua ăn thử vài trái. Đúng vậy, ngọt, thơm, ngon, và quá rẻ. Tôi mua thêm một ít mang theo, người bán hàng cám ơn rối rít.

Tôi cũng có dịp thử đi xe đạp lôi thay vì đi xe lôi có gắn máy, hoặc gọi ta-xi. Tha hồ trả giá. Thấy một anh trẻ tuổi, khỏe mạnh, mặt mày khôi ngô, đoán rằng anh ta biết tiếng Anh, tôi đến cho biết nơi tôi cần tới và hỏi giá. Anh đáp:
“120 rupees.”

“ 100 nhé,” tôi trả giá.

Anh lắc đầu. Tôi bỏ đi. Anh chạy theo.

Tôi đứng lại hỏi:
“Anh chịu giá 100 phải không?”

Anh lại lắc đầu. Tôi định bụng trả 120 cũng được, cũng rẻ chán so với chuyến ta-xi mà tôi đã trả tiền để đến đó những lần trước, nhưng ngay miệng hỏi tiếp:
“Thế thì bao nhiêu?”

Anh bảo:
“80.”

Tôi buồn cười nhưng cũng nhắc lại tôi sẽ trả anh 100 như tôi đã nói hồi nãy, nhưng anh nhất định đòi 80 thôi.

Gặp các nhà sư Phật giáo hay các giáo sĩ của những tôn giáo khác, những người lao động lam lũ này ít khi kỳ kèo về giá cả. Trả bao nhiêu họ nhận bấy nhiêu.

Lẽ dĩ nhiên xứ nào cũng có người lương thiện, kẻ lưu manh, nhưng tôi nghĩ rằng những đức tính như đơn sơ, chơn chất, thật thà, có khi đến ngây thơ, còn tồn tại khá nhiều nơi đám người Ấn Độ bình dân. Từ chỗ ngại ngùng lúc ban đầu, dần dần tôi nhận ra rằng người bình dân Ấn Độ tại bản xứ rất dễ mến, dễ làm thân. Chỉ có điều họ lam lũ quá. Nước Ấn Độ đang phát triển mạnh, ai cũng nhận ra điều đó, nhưng người dân còn nghèo đói, thiếu thốn. Có lẽ chánh quyền muốn họ sống khắc khổ để có đủ khả năng “chạy đua” cạnh tranh với các nước giàu mạnh trên thế giới.

Tôi xin kể tiếp ra đây chuyến đi của chúng tôi từ Nepal qua Ấn Độ. Sau khi làm xong thủ tục quá cảnh tại biên giới, lúc đó khoảng gần 12 giờ trưa, vợ chồng chúng tôi vội vàng thuê một chiếc xe nhỏ bốn chỗ ngồi do một tài xế Ấn Độ lái đưa chúng tôi về một ngôi chùa trụ trì bởi một ni sư người Việt Nam tọa lạc tại thị trấn Kushinagar thuộc tiểu bang Uttar Pradesh miền Đông Bắc. Nhưng tại sao lại vội vàng? Chẳng qua tại vì một chuyện lục đục giữa chúng tôi không đáng để viết vào đây. Do vội vàng và cũng vì bực bội, tôi không buồn hỏi xem đường đi xa hay gần. Thật ra trong thâm tâm, tôi nghĩ có lẽ cũng không xa lắm. Chúng tôi ngồi băng sau cùng với hành lý xách tay khá lỉnh kỉnh, cái va li lớn thì đã được để sau cốp xe, tài xế ngồi một mình ở băng trước. Khi xe đã lăn bánh, để đỡ thắc mắc, tôi hỏi tài xế khi nào thì đến. Anh tài xế ít nói này chỉ trả lời, “Tối, nếu chạy nhanh.” Và chiếc xe phóng đi vùn vụt.

Tôi hơi chột dạ. Bây giờ mới buổi trưa, mà tối mới đến! Thế là phải mất hơn bảy tiếng ngồi trên chiếc xe này nếu không xẩy ra biến cố gì. Biến cố gì nhỉ? Biết đâu nơi xứ lạ quê người, anh tài xế rím rím này có thể đưa mình tới một nơi vắng vẻ nào đó để trấn lột. Hoặc có thể anh ta không biết đường mà cứ nhận lời đại, tới đâu thì tới. Chúng tôi thì mù tịt, không biết một tí gì về địa hình, địa vật, đường ngang lối dọc của cái xứ sở lạ hoắc này. Liệu có điều gì rủi ro xẩy ra hay không, tôi băn khoăn. Tôi không nói lên cái ý nghĩ ấy, nhưng nhìn vào vẻ thẩn thờ của vợ tôi, tôi biết cô ta cũng đang lo lắng lắm. Quá hai giờ trưa tôi hỏi có nên dừng xe lại kiếm cái gì ăn hay không, anh tài xế đáp “Không”, và cứ lầm lì nhìn con đường dài hun hút mịt mù đằng trước, một tay cầm bánh lái, tay kia tựa vào cánh cửa kính đã hạ hé xuống, gió lồng vào rần rật. Vợ tôi ngồi bên cạnh cũng im hơi lặng tiếng. Xe cứ phóng nhanh. Tôi nhìn con đường dài trước mặt, có cảm giác như chiếc xe là con quái vật nuốt trôi mọi thứ mà nó thấy. Nhìn trước chán lại quay sang ngó hai bên. Phong cảnh tiêu điều, hết những bãi đất hoang vắng mênh mông đến những cánh rừng thưa xơ xác. So với những nơi tôi đã qua, tôi thấy Nepal xanh tươi, nhẹ nhàng, trong khi Ấn Độ tiêu điều, bí hiểm.

Khoảng bốn giờ chiều, tách rời con đường lớn, chui qua một cái cổng rất cao và lở lói từng mảng, chiếc xe đâm sâu vào con đường nhỏ hai bên là những túp lều vách đất mái lá nằm cách nhau khá xa. Những làn khói, có lẽ khói cơm chiều, ôm lấy mái lều; trẻ em, có đứa trần truồng, chạy tới, chạy lui đùa giỡn. Đường nhỏ nhưng xe vẫn chạy nhanh, cái anh chàng này định chạy đi đâu mà hấp tấp quá vậy? Một đứa bé đang chạy dọc theo bờ cỏ bên đường bỗng đột ngột đổi hướng chạy xông ra, tài xế đạp thắng két một tiếng dài và lách nhanh. Tôi hoảng hốt nhìn lui. Đứa bé đứng sựng lại, khóc ré. Chiếc xe lại phóng nhanh hơn trong tiếng quát tháo của nhiều người. Tiếng quát đuổi theo không kịp, nghe thảng thốt trong một giây và tắt lịm ngay. Khi xe đã chạy xa, anh tài xế quay lui nhìn tôi như muốn phân trần. Tôi muốn nói vài lời khuyên anh nên giảm tốc độ, thì chiếc xe đã lại phóng nhanh hơn nữa, gió gào to trên kính xe mở hé. Xe không có máy lạnh, cửa kính phải hé mở để một chút gió lồng vào cho đỡ ngột ngạt.

Chiếc xe chạy hết con đường nhỏ rồi rẽ qua một con đường lớn khác, gia tăng tốc độ. Nắng đã tắt, buổi chiều tranh tối tranh sáng. Nhìn đồng hồ, hơn sáu giờ. Nhiều lần tôi muốn bảo tài xế dừng xe lại để tôi hỏi cho ra lẽ. Nhưng hỏi gì, tôi tự nhủ. Mình không biết đường sá, không có một ý niệm gì về địa lý của một nơi lạ lùng như thế này, thì biết gì mà hỏi. Anh tài xế có thể tha hồ bịa đặt hàng trăm câu trả lời nếu anh muốn. Cuối cùng tôi đành nói cho có nói:
“Sắp đến chưa hả anh?”

“Hơn một tiếng nữa.”

Vợ tôi vẫn ngồi im lặng bên tôi nhưng tôi biết cô ta đang theo dõi từng lời nói, từng cử chỉ và thái độ của tôi. Tôi cố giữ bình tĩnh.

Xe lại rẽ qua một lối khác. Con đường không nhỏ lắm nhưng tối tăm. Đèn pha của xe không đủ sức xuyên thủng đám sương mù vừa dâng lên, nhưng chiếc xe vẫn lủi tới như con quái vật đui mù chẳng cần biết phía trước có gì. Cứ lủi, lủi. Cái anh chàng tài xế này đang lên cơn điên chăng. Hay phải thi hành cấp tốc một toan tính gì. Đèn đóm nhà ai hai bên đường thưa thớt, leo lét, khi sáng khi tắt, trông như những chấm tia sáng phát ra từ những cây nhang trước gió. Tôi lại nhìn đồng hồ, hơn bảy giờ. Nếu anh chàng này nói đúng thì sắp tới chùa, nhưng nếu xe cứ băng băng chạy mãi, tôi sẽ bắt anh dừng lại, rồi tùy cơ ứng biến.

Khoảng 15 phút sau bỗng nghe thấy bánh xe siết lên mặt đường chối cả tai. Xe dừng lại đột ngột, chúng tôi nhào người ra phía trước. Tài xế vội vàng quay người lại:
“Xin lỗi ông bà. Đã đến nơi rồi, tôi không thấy rõ đường, suýt chạy tiếp. Mời ông bà xuống đây.”

Nói xong anh ta mở cửa xe, nhảy xuống, chạy quanh ra sau cốp mang cái va-li của chúng tôi đặt xuống trên bãi cỏ, rồi chạy đến mở cửa cho chúng tôi và chìa hai tay ra ý nói đã tới rồi, xuống nhanh đi chứ. Trông anh hấp tấp, vội vã, như bị ma đuổi. Như nhiều nơi khác, con đường này cũng không có lề đường, chúng tôi đặt ba cái xách tay trên bãi ngay chỗ chúng tôi đứng. Tôi hỏi:
“Chùa đâu?”

“Qua khỏi cái cổng ấy, đi một thêm một đoạn ngắn là đến.”

“Cổng đâu nào? Tôi chẳng thấy cái cổng ở nơi nào cả. Đường sá cũng không thấy. Sương mù xuống nhiều quá.”

“Không phải sương mù. Khói đó, một chốc nó tan hết ngay. Người ta đốt cây, đốt lá, đốt rác trừ muỗi. Xin ông bà trả tiền.”

Vợ tôi đã cầm sẵn tiền trong tay từ hồi nào, kể cả tiền “tip”, đưa ngay cho anh tài xế, tôi can không kịp. Anh ta cám ơn, nói thêm rằng anh phải chạy ngay trở lại con đường cũ về Nepal cho kịp chuyến đi khác. Tôi chưa kịp phản ứng anh đã phóng xe nhanh lẫn vào trong đám khói sau khi hét to, “Chùa ngay trước mặt.” Tôi cau mày nhìn vợ tôi, rồi nhìn chiếc va-li to đằng kia, và ba cái xách tay lỉnh kỉnh.

Cô ta nói dấm dẳn:
“Anh lo ba cái xách tay này, em kéo va-li. Chồng cái xách lớn lên va-li mà kéo cũng được. Rồi đi. Chứ có gì đâu.”

“Nhưng đi đâu?”

Lúc ấy cô ta mới ngẩn người ra. Chúng tôi đứng tại chỗ, chưa biết phải làm gì, cũng chẳng nhìn thấy được gì sau lớp khói mù mịt. Vài con côn trùng bay vù vù quanh quẩn rồi biến. Châu chấu hay cào cào, có lẽ. Để tỏ ra không hoảng hốt, đồng thời khỏa lấp cái trống trải, tôi mang cái xách tay nặng đến cài lên trên chiếc va-li có bánh xe. Tôi nhẩm tính rằng tôi sẽ để vợ tôi đứng đây với hành lý, còn tôi thì đi quanh dò xem. Nhưng tôi lại nghĩ rằng làm như thế không ổn, tôi không thể để vợ tôi đứng một mình trong đám khói này. Vậy tôi phải làm gì? Sau một khoảnh khắc phân vân mà tôi nghĩ là khá lâu, chúng tôi nghe văng vẳng tiếng chuông. Tiếng chuông chùa. Tôi nhìn về phía đó. Dường như khói đã tan đi bớt, tôi thấy mờ mờ hình dáng chiếc cổng, không phải cổng chùa, mà là thứ cổng dẫn vào những con đường nhỏ tôi đã gặp đây đó trên đất nước này. Tiếng chuông tiếp tục vang vang từng nhịp như tiếng đập của trái tim, của buồng phổi, như những đợt sóng dào dạt vỗ nhẹ vào bờ cát phẳng.

“Chùa đây rồi, anh ơi,” vợ tôi mừng rỡ reo lên, giọng nói thật ấm áp, khác hẳn thái độ lạnh lùng từ khi bước lên xe cho đến bây giờ.

Tôi cũng thấy yên tâm dù vẫn còn một chút lo âu:
“Nhưng có phải chùa mình định đến hay không,” tôi vui vẻ đáp. “Lỡ một ngôi chùa nào thuộc một tiểu bang nào khác của người Ấn Độ, hay của người Tây Tạng, người Đài Loan, người Nhật ... thì sao.”
“Thì cũng không sao cả. Mình chỉ xin ngủ tạm qua đêm mai tính.”

Tiếp theo, văng vẳng trong gió, tiếng tụng kinh. Vợ tôi và tôi đứng thẳng người im lặng lắng nghe. Hình như không phải tụng kinh bằng tiếng Việt. Tôi cố nghe kỹ hơn. Khác với vợ tôi, tôi không thuộc bài kinh nào cả, chỉ nhớ mang máng kinh này vài câu, kinh kia năm bảy tiếng, một ít câu chú, câu kệ, và thường thì chỉ nhận ra âm thanh thôi, không hiểu được nghĩa từ tiếng Phạn hay tiếng Hán. Sau một hồi kinh tụng bằng thứ tiếng gì mà tôi không thể nào đoán ra được, bỗng tôi nhận ra mấy chữ đầu của chú Đại Bi: “Nam mô thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni...” Tôi giật mình, mừng rỡ.

Đúng là chùa Linh Sơn của ni sư Thích Trí Thuận rồi. Ở một nước lạ lùng, trong đêm tối mịt mùng, nghe được tiếng chuông ấy, tiếng tụng kinh ấy, từ ngôi chùa Việt Nam ấy, quả là một niềm hạnh phúc lớn. Tôi quay nhìn vợ tôi muốn chia sẻ nỗi vui mừng. Cô ta không để ý đến tôi, lim dim mắt tụng kinh theo.

A, cái anh tài xế ít nói này lạ thật. Tôi không biết làm thế nào để tỏ lòng quý mến của tôi đối với anh bây giờ. Tôi tưởng tượng nếu chúng tôi lâm vào hoàn cảnh như thế này tại một nơi nào khác, hay ngay tại quê hương cũ của tôi, thì chuyện gì sẽ xẩy ra? Chắc chắn không phải chuyện tốt đẹp. Tôi không thể không có cái ý nghĩ rằng mặc tất cả các thứ bê bối, dơ bẩn, nghèo nàn, người Ấn Độ, nhất là người bình dân, rất dễ mến, dễ làm thân. Càng hiểu biết họ nhiều hơn, càng tin cậy họ thêm.

Trong suốt thời gian đi đây đó trên bán lục địa Ấn Độ mênh mông, tôi thường nghĩ đến nước Tàu còn rộng lớn hơn mà tôi đã đến thăm tám năm về trước. Và so sánh, liên tưởng. Bắc Kinh vừa cổ kính, vừa hiện đại, Thượng Hải thì có thể so sánh với bất cứ thành phố lớn nào của phương Tây, Tô Châu, Hàng Châu dịu dàng, thơ mộng. Những ngoại ô, những miền quê cũng thật êm đềm, quyến rũ, và nó khơi dậy trong ta tình hoài hương, xui ta nhớ ao bèo, ao cá, lũy tre, khóm chuối, đồi chè, nương khoai, vườn sắn, ngõ trúc, nhịp cầu, mái chùa, dặm liễu, tiếng gà gáy trưa, tiếng chuông ban chiều, tiếng mưa rơi trên mái lá...

Nhiều cảnh của nước Tàu đẹp như trong thơ Nguyễn Du:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

như trong thơ Nguyễn Khuyến:
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá

Sư cụ nằm chung với khói mây

như trong thơ Xuân Diệu:

Gió thầm mây lặng dáng thu xa

Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà

Buồn ở sông xanh nghe đã lại
Mơ hồ trong một tiếng chim qua

Và nhất là như trong một số thơ của Huy Cận. Hình ảnh và cảm xúc của mấy câu đầu trong bài thơ Chiều Xưa tôi cũng tìm thấy trên đường đi đến Vạn Lý Trường Thành:

Buồn gieo theo gió ven hồ
Đèo cao quán chật bến đò lau thưa
Đồn xa quằn quại bóng cờ
Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về

Rồi một buổi sáng sớm trời lâm râm mưa bụi phủ mờ cả một vùng ngoại Hàng Châu, bỗng nghe tiếng gà gáy lúc gần lúc xa và nhìn thấy hàng cây hai bên đường đứng im phăng phắc, tôi lại nhớ mấy câu thơ trong bài Gà Gáy Trên Cánh Đồng Ba Vì Được Mùa cũng của Huy Cận:

Gà gáy đầu thôn gáy giữa thôn
Mưa tinh sương mát tận tâm hồn
Đêm qua tắt gió cây không ngủ
Mưa sớm hàng cây đứng ngủ ngon

Chiếc xe lớn cứ thế đưa du khách qua nhiều nơi, và mọi người ngồi trên xe, có lẽ cũng như tôi, đều cảm thấy chuyến đi vô cùng thú vị. Cho đến một hôm.

Hôm đó xe dừng lại tại một ngoại ô của Bắc Kinh, du khách xuống xe để được thư giãn. Mấy người đàn bà bán những xâu chuỗi ngọc trai ùa tới mời mọc liền bị công an không biết từ đâu chạy đến xua đuổi, quát tháo. Những người bán hàng chạy tan tác mọi phía. Về sau tôi mới biết công an làm thế để du khách chỉ được mua những thứ ấy trong những cửa hàng quốc doanh. Sau đấy mấy phút, khi mọi người sửa soạn lên xe theo lệnh của hướng dẫn viên du lịch, tôi bỗng thấy một bà già, quá già, đứng bên vỉa hè khuất sau một bảng chỉ đường tay nách một rổ khoai lang nướng đang còn nóng, khói đang còn bốc lên. Tôi vội chạy tới mua hai củ, quá rẻ, tôi biếu luôn số tiền thối lại. Bà già vui mừng quá đỗi, nói ấp úng những gì tôi không hiểu, tôi cũng vui theo, rồi chạy tới chiếc xe đang nổ máy đứng chờ tôi. Khi xe đã chạy được một quãng ngắn, củ khoai ấm và thơm nằm gọn trong tay, tôi quay lại nhìn bà già như muốn nói một lời cám ơn mà tôi quên nói lúc nãy, thì thấy bà đang bị hai công an dùng roi đánh tới tấp vào lưng, vào đầu. Bà đưa tay quờ quạng đỡ, và lụm cụm chạy. Chiếc nón văng xuống đất, khoai trong rổ đổ xuống lề đường, nằm ngổn ngang. Tội nghiệp bà già quá. Thế là mất tiêu hết cả vốn liếng, lại còn bị đánh đập. Tôi cảm thấy mình có lỗi, vì dù sao tôi cũng đã dự phần gây nên nỗi bất hạnh ấy. Tôi tự hỏi không lẽ cửa hàng quốc doanh cũng có bán khoai lang nướng? Sự việc đó làm tôi thấy hụt hẫng như bị ai tạt cả chậu nước lạnh vào mặt. Phần còn lại của chuyến viếng thăm nước Tàu mất đi rất nhiều hào hứng. Ở Ấn Độ hiếm khi tôi gặp cảnh sát. Tôi cũng được biết rằng cảnh sát đối với dân bằng một lối hành xử nhã nhặn, đúng đắn hơn nhiều. Ấn Độ là một nước dân chủ, tự do, đa đảng; những hành động tàn bạo về phía chánh quyền không được luật pháp dung dưỡng, toa rập.

Chưa hết, tối hôm ấy sau khi ăn uống xong, thấy trời còn sáng, nhiều người trong chúng tôi muốn kéo nhau đi dạo một vòng gần thôi cho biết phố phường về đêm, nhưng bị cảnh cáo không được làm thế. Có biến cố gì xẩy ra, khách sạn sẽ không chịu trách nhiệm. Thế nghĩa là gì? Có bao giờ du khách đi dạo chơi lại tròng trách nhiệm vào đầu khách sạn. Chúng tôi tìm hướng dẫn viên du lịch hỏi cho ra lẽ, nhưng hắn ta biến mất từ hồi nào rồi. Đành phải chờ sáng hôm sau giải quyết một việc đã rồi.

Vì những bó buộc như thế nên tôi ít có dịp tiếp xúc với người dân bình thường. Nhưng ít không có nghĩa là không có. Khi đi chúng tôi thăm Vạn Lý Trường Thành gần Bắc Kinh, một cô người Tàu độ 18, 19 tuổi, mặt mày sáng sủa, hiền lành, cứ lẽo đẽo theo chân vợ tôi và tôi, tay cầm máy ảnh, thỉnh thoảng chụp vài tấm hình, chụp luôn cả chúng tôi, rồi nhìn chúng tôi, mỉm cười. Người hướng dẫn hôm ấy có lẽ vì mệt nên xin được đứng chờ bên dưới, hẹn giờ và ấn định nơi tập họp trước khi trở về khách sạn. Chúng tôi được tự do đi đâu thì đi, miễn là phải đi trên mặt thành. Không đi nổi thì đứng lại nghỉ ngơi, hoặc đi đến nơi hướng dẫn viên đang chờ. Trèo lên nhiều đoạn dốc cao và dài trên mặt thành rộng, qua nhiều vọng gác đã xây trước đây vài ngàn năm nay vẫn còn kiên cố, chúng tôi mệt muốn đứt hơi. Rồi từ dưới nhìn lên, chúng tôi thấy một con lạc đà có thắng đủ yên cương đang đứng ở nơi cao nhất với chủ nhân của nó, có cả cô bé đứng bên cạnh, đằng sau là bầu trời xanh thẳm không một gợn mây. Đẹp quá! Chúng tôi muốn đến đấy nhưng tay chân đã rã rời đành ngồi xuống trên bậc tam cấp nghỉ. Cô bé liền đưa tay vẫy gọi chúng tôi tíu tít, tay chỉ vào máy hình. Cô lại muốn chụp cho chúng tôi một tấm hình cạnh con lạc đà. Thấy cô sốt sắng quá, chúng tôi rán hết sức đi đến. Trên đường quay về nơi tập họp, nhiều lúc mệt đến đắng cả cổ họng, chúng tôi phải ngồi bệt xuống đất thở dốc. Cô bé dường như đã quen, vẫn còn tươi tỉnh, và vẫn đi theo chúng tôi. Tôi hỏi vài câu, cô bé chỉ ậm ừ, cười cười, và gật đầu. Thỉnh thoảng nói, “Yes, yes.” Hơn hai giờ sau chúng tôi mới về tới nơi tập họp, cô bé cười rất tươi và chào chia tay. Tôi hơi bỡ ngỡ vì sự có mặt của cô bé, nhưng cũng cảm thấy vui vui.

Tôi thích du lịch. Cái vĩ đại của Vạn Lý Trường Thành, cái lộng lẫy của Taj Mahal, cái thơ mộng của Hàng Châu, Tô Châu lẽ dĩ nhiên đã ghi dấu ấn rất đậm trong tôi, nhưng những cuộc gặp gỡ tình cờ, ngắn ngủi trên những con đường dài, có khi cũng nằm sâu trong ký ức. Một khuôn mặt cùng nụ cười bất chợt bắt gặp thoáng qua mau trên khung cửa sổ của chiếc xe lửa chạy ngược chiều, cái nón rách tả tơi và cánh tay gầy gò đưa lên chống đỡ roi vọt tới tấp quất vào, tiếng xin tiền dai dẳng, kiên nhẫn, thì thầm bên tai trên con đường dốc đi xuống từ một ngôi chùa, anh chàng tài xế bí hiểm và âm thầm như chiếc bóng ..., và nay cô bé vui tính lẽo đẽo đi theo, tay vẫy vẫy gọi chúng tôi chụp hình, những câu trả lời ậm à, và về sau nước mắt rưng rưng, chắc chắn tôi không bao giờ quên.

Ngày hôm sau khi xe sắp rời khách sạn để chở chúng tôi ra phi trường, cô bé lại xuất hiện, đưa xấp hình cô chụp hôm trước cho chúng tôi xem. Hầu hết các tấm hình đều có chúng tôi trong đó. Vợ tôi và tôi xem nhanh, định xin hoặc mua lại mấy tấm, nhưng thấy bất tiện, xin hoặc mua đều bất xứng, nên trả tất cả lại cho cô. Cô ngập ngừng, muốn nói gì rồi im, mặt thì buồn. Lạ hơn nữa, hai con mắt rưng rưng. Tôi ngạc nhiên, nhưng cũng phải cùng vợ tôi giã từ cô bé, đi vội ra xe cho kịp. Vợ tôi đi cạnh tôi nói đùa, “Anh có số đào hoa lắm đó, anh đi cô ấy buồn đấy.” Tôi không nghĩ như thế. Hình như có cái gì không bình thường. Tôi phải hỏi cô hướng dẫn viên xem sao. Vâng, hướng dẫn viên cũng là một phụ nữ nhanh nhẹn, nói tiếng Anh lưu loát.

Khi xe đã qua khỏi những khu phố đường sá đông nghẹt và tiến ra xa lộ, cô hướng dẫn mới từ những dãy ghế hàng đầu đi lần lần xuống các hàng ghế cuối gom những thẻ thông hành của hành khách để làm thủ tục gì đó. Lúc cô đến thu thẻ thông hành của tôi, cô đổi sắc mặt, nụ cười chào khách không còn, trông cô khó đăm đăm. Tôi hơi bực mình nhưng cũng hỏi xem cô có biết gì về cô bé cho tôi xem hình hồi nãy hay không, thì được trả lời rằng cô ấy là sinh viên mới vào Đại Học, cuối tuần đến khu thắng cảnh này chụp hình kiếm thêm chút tiền. Tôi sửng sốt, và hiểu ra ngay. Nhưng tôi cũng cứ hỏi:
“Cô ấy theo chúng tôi để chụp hình cho chúng tôi, phải không?”

“Chứ để làm gì nữa, thưa ông.”

“Thế mà tôi cứ tưởng cô ấy là du khách, tình cờ gặp chúng tôi, đi theo chơi cho vui. Sao cô ta không nói gì cả về chuyện chụp hình?”

“Biết tiếng Anh đâu mà nói.”

Rồi như chợt nhớ ra điều gì, cô đổi sắc mặt ngay, cười tươi tươi hẳn lên:
“Ô, thế là hiểu lầm nhau rồi. Thường thì cô ấy muốn chụp hình cho ai, tôi thông ngôn giùm. Vừa rồi vì mệt tôi không cùng đi với quý vị, nên có ai thông ngôn cho cô ấy đâu. Và cô cứ tưởng quý vị hiểu việc làm của cô.”

“Nhưng khi thấy tôi không trả tiền, cô ấy phải đòi chứ. Tôi nhớ cô có đứng gần đấy, sao cô ta không nhờ cô thông ngôn giùm.”

“Con gái mới lớn mà, còn nhút nhát lắm. Với lại có lẽ cô ấy tưởng ông chê hình không đẹp, trả lại, nên cô không dám đòi tiền. Đúng, lúc ông trả lại xấp hình cho cô ta, tôi có đứng gần đấy, và tôi cũng nghĩ là ông khó tính lắm, nên tôi ... Xin ông tha lỗi.”

Tôi không có tấm hình nào nhưng nghĩ lại thấy cô bé tội nghiệp quá. Tôi hỏi xem nên trả bao nhiêu tiền, và nhờ cô hướng dẫn viên trao tiền lại cho cô chụp hình được không. Cô vui vẻ nhận lời.

Qua những sự việc nói trên, tôi nghĩ rằng ở đâu cũng có người tốt, kẻ xấu. Nếu con số tốt xấu đó chênh lệch tùy địa phương, ấy là do ở hoàn cảnh sống, môi trường sống, cũng như do ở cấu trúc xã hội, cơ chế xã hội đã tác dụng lên trên con người. Gần đây có những tin tức cho biết người Tàu hiện nay rất lạnh lùng, vô cảm, nhìn cảnh khổ, hoạn nạn, hay cả cái chết diễn ra trước mặt mình không chút xúc động. Tại sao vậy? Có lẽ cũng vì những lý do vừa nêu trên. Không những thế, họ thường tham lam giành giật đến nỗi báo chí ở Hồng Kông, theo đài Pháp Quốc Quốc Tế (RFI) phát thanh ngày 7 tháng 2, 2012, đã viết rằng người Tàu ở Hoa Lục là một lũ châu chấu đi đến đâu ăn sạch đến đấy. Trong một phạm vi rộng lớn hơn, nếu người Ấn Độ đi đầu tư tại các nước ở Phi Châu chẳng hạn, họ nghĩ đến cái lợi cho cả hai bên, bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư. Trung Quốc trái lại. Đầu tư đối với họ là bước thứ nhất. Bước thứ hai, chiếm hết của cải nơi họ đến đầu tư, để đi đến bước thứ ba, thuộc địa hóa. Hơn một triệu người Tàu mà số lớn là nông dân không có tay nghề chuyên môn, nhưng lại có vũ khí, được đưa đi phục vụ cho việc đầu tư tại Phi Châu, Nam Mỹ. Họ đi nườm nượp như những đoàn di dân bất tận. Nhiều nước ở Phi Châu, Nam Mỹ đã lên tiếng báo động ý đồ mở thuộc địa của Trung Quốc.

Một số quốc gia ở châu Á như Miến Điện, Lào, Cam Bốt, Việt Nam cũng lâm vào tình trạng bị Trung Quốc khống chế nhiều mặt xuyên qua những dự án đầu tư, khai thác hầm mỏ, doanh thương. Không khéo lại bị mất cả chủ quyền, mất nước, trở thành thuộc địa của Tàu.

Gần đây, Miến Điện đang cố vùng vẫy để thoát ra khỏi nanh vuốt của Trung Quốc. (còn tiếp)

1/2012