Hiển thị các bài đăng có nhãn Sổ tay. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sổ tay. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Bao Giờ Bướm Ta Nổi Loạn
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Bướm Nga đang nổi loạn. Nguồn ảnh: procontra.asia
Trong cái xã hội trước sau vẫn trọng nam khinh nữ, nơi quyền lực quốc gia, quyền lực trong gia đình và quyền lực trên giường vẫn chủ yếu thuộc về đàn ông, bướm Việt Nam sớm muộn rồi cũng phải nổi loạn - Phạm Thị Hoài
“Ga Vinh một buổi tối trời mưa. Một túp nhà lá nằm nép bên vệ đường, phía sau là khoảng nước dở ao dở rãnh, muỗi và cỏ nhiều. Một ngọn đèn dầu run rẩy vì gió, cháy leo lét được treo trước cửa sổ. Một con chó già còm cõi bê bết bùn đất và lạnh, nằm in bóng đèn dầu dưới cửa sổ, tru ư ử trong họng mà không dám vào nhà vì sợ đòn. Gió hú rít xoáy quanh cửa tranh nhau luồn vào nhà. Có tiếng mái tranh cọ nhau xào xạc như van xin. Tiếng chẫu chuộc gọi cái làm nhịp cho mưa rơi.
Bên này cửa sổ:
“Khêu to đèn thêm tí nữa, không tốn dầu lắm đâu.”
Bên kia cửa sổ:
“Thế này đủ rồi, khách xa thừa sức nhìn thấy.”
Im lặng một lúc lâu.
Bên này:
“Mấy giờ rồi nhỉ…?”
Bên kia:
“Ðồng hồ bán mất rồi… Có lẽ khoảng chín, mười giờ…”
Có tiếng chân rẽ nước đi tới, rồi một cái đầu đàn ông thò vào cửa sổ, nhễu nước lã chã xuống con chó.
“Bao nhiêu?”
Bên này:
“Năm chục.”
“Ðắt thế, gái Sài Gòn còn chả tới nữa là…”
“Thế muốn bao nhiêu?”
“Hai chục…?”
“Thôi về ngủ với bò cho sướng, để hai chục đấy mai mà ăn cháo.”
“Ðồ đĩ rạc!”
Tiếng chân dậm dựt bỏ đi.
“Ba chục được không?” Có tiếng hỏi với lại.
“Ừ thôi, trời mưa mở hàng để lần sau lấy chỗ đi lại.”
“…”
“Thanh toán trước đi!”
“Gì mà vội thế, chả ‘tình’ tí nào cả.”
“Sao? Có tiền không?”
“Lấy gạo nhé?”
“Gạo gì? Mậu dịch hay gạo mới?”
“Mới chia tiêu chuẩn tháng ở cơ quan về, chưa xem.”
“Gạo mậu dịch rồi, tính bao nhiêu?”
“Hai chục.”
“Ðắt quá, mà cũng không có cân nữa.”
“Mười tám đồng vậy, đong đại bằng ống sữa bò đi…”
“Ừ, thế cho tiện, cân mất công, gạo đi mua nặng ký… mà này, có trộn đá dăm vào không đấy?”
“Mang đèn ra mà soi.”
“Gạo này chỉ mười lăm đồng.”
”Ðong vun tay thế kia thành hai cân của người ta chứ còn gì…”
Một thằng nhóc chừng chín tuổi thình lình hiện ra như chui từ dưới đất lên, đứng mút tay nhìn cảnh đong gạo. Người đàn ông còn đang loay hoay cột lại cái bao của mình thì nó giật túi gạo nơi tay người đàn bà, chạy vụt ra cửa.
“Nấu cơm nhé, đừng nấu cháo… Nhớ để phần cho chị đấy.”
Người đàn bà dặn với theo…
Bên này:
“Thu nhập hằng tháng bao nhiêu?”
“Thất thường lắm, không tính được.”
“Có chồng con gì chưa?”
“…”
“Quê quán ở đâu?”
“Ðô Lương.”
“Sao trôi giạt ra tận đây thế?”
“Ở quê khổ quá…”
“Khổ một chút nhưng cuộc sống lương thiện, có chồng con đàng hoàng có thoải mái hơn không?”
“Ðảng viên phải không?”
“Sao biết?”
“Chơi bao nhiêu lần rồi?”
“Ừ… mới tham quan một lần cho biết…”
“Có thích không?”
“…”
“Không sợ chi bộ biết bao?”
“Chỉ sợ quần chúng, cảm tình đảng thôi.”
“Bí thư phải không?”
“Chưa, mới phó thôi.”
“Sao biết mà mò đến?”
“Bí thư giới thiệu… ấy không phải, bà con quen biết…”
“…”
“Hành nghề bao lâu rồi?”
“Sáu năm.”
“Ðúng dân chuyên nghiệp, có bệnh không? Có không?”
“Cải tạo mới ra, chưa kịp có.”
“Vẫn ngựa quen đường cũ, phải cố gắng đè nén những đam mê thấp hèn mà nghĩ đến tương lai chứ! Chết, chết, ai đấy?”
“Ðừng sợ, con chó nằm ngoài lạnh, cào cửa đòi vào nhà đấy.”
“Ba chục… đắt quá, mất đứt một phần tư tháng lương rồi còn gì?”
“…”
“Cái gì đấy?”
“Ngô nướng…”
“…”
“Bẻ một nửa thôi, chưa được ăn tối đâu.”
Tiếng khóa thắt lưng kêu lách cách, người đàn ông kiểm soát lại cái ví của mình rồi đi ra cửa, nách cắp bao gạo.
Từ buồng trong, một bà già tay chống đầu gối, tay đấm lưng lò dò bò ra. Cầm miếng giấy đang cháy, bà múa mấy vòng tròn như đuổi vía, rồi rán sức bê chậu nước hắt toẹt ra đường.
Căn nhà lại chìm trong bóng tối.”
(Thế Giang. “Chỗ Nước Đọng”. Thằng Người Có Đuôi. Costa Mesa: Người Việt, 1987. 99-104)
Khi tác phẩm (thượng dẫn) được xuất bản ở Hoa Kỳ thì cũng là lúc Việt Nam đang “dũng cảm và quyết tâm” bước vào thời kỳ đổi mới. Mười năm sau, đất nước này lại lập thêm một kỳ tích nữa: cả dân tộc (nô nức) bước ra biển lớn – theo như lời kêu gọi (vô cùng) thiết tha của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ông cũng là vị lãnh đạo được nhiều người, trong cũng như ngoài nước, đặt nhiều kỳ vọng và đánh giá rất cao như là kẻ có khuynh hướng cấp tiến và "muốn tăng tốc tiến trình đổi mới kinh tế" ("who wants to accelerate the process of economic change").
Tương tự, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (vào thời điểm đó) cũng được dư luận nhận định là nhân vật sẽ năng nổ hơn người tiền nhiệm, đặc biệt trong việc cải tổ kinh tế và pháp luật, lót đường cho VN tiến vào tổ chức WTO ("And there is a widespread perception he will be more active than his predecessor, particularly in implementing economic and legal reforms that pave the way for Vietnam’s accession to the World Trade Organization”) – theo nguyên văn như lời của nhà báo Karl D John (“Vietnam’s South Takes Leadership Wheel”) đọc được trên Asia Times, số ra ngày 28 tháng 6 năm 2006.
Mà thiệt: chỉ cần năm năm sau, sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, hình ảnh của những “chỗ nước đọng” đã (hoàn toàn) đổi khác: linh động, tấp nập hơn thấy rõ, và cũng nổi bật những nét hạch toán của nền kinh tế thị trường – theo như “Ký Sự Quất Lâm” và “Nhật Ký Đồ Sơn”, được giới thiệu bởi ngòi bút của nhà văn Đào Tuấn:
Nguồn ảnh: http://daotuanddk.wordpress.com
“Đó là nhật ký ‘làm việc’ của một cô gái mại dâm gần như kín các dấu ‘X’. Sở dĩ phải ghi chép là để cuối tháng, cuối tuần, cuối ngày ‘đọ sổ’ với chủ mà thanh toán tiền, giống hệt với một dạng ‘chấm công’. Đây là một đoạn trong bài viết: ‘Những ký hiệu dấu sao ‘*’ trong vòng tròn, đó là ‘đi qua đêm’ và được tính bằng 3 ‘cuốc’ đi nhanh. ..Dấu ‘X’ có gạch dưới là những lần đi một lần, tính với chủ là 1, nhưng em cho khách làm 2, được bo khá. Còn cái dấu ‘X’ nằm trong ô vuông thì em không nói gì cả, nhất định không chịu nói ra. Như vậy, đây là một dạng ‘văn vật’ có hồn. Có ngày em đánh dấu 16 ‘nhát’, nói chung số ngày có trên 10 ‘nhát’ hơi nhiều. Ngày nhiều nhất là có tới đánh 21 cái dấu X’, lại có 3 gạch chân’. Nhưng 21 lần/ngày vẫn chưa phải là kỷ lục. Cũng chính cô gái này kể lại: Ở Đồ Sơn có đứa dịp 30/4, đã ‘đi khách’ tính với chủ là 50 lần.”
“Ký sự Quất Lâm’, hay ‘Nhật ký Đồ Sơn’ đang cho thấy thêm một hiện thực khác: Các cô gái bán dâm đang phải lao động cực nhọc để kiếm tiền, trong khi số tiền kiếm được rơi tới 70-80% vào túi chủ chứa, còn được gọi là tú ông, tú bà. Có lẽ, điều để lại ấn tượng mạnh là nhận xét của nữ blogger: ‘…Các Tú ông, Tú bà. Họ khác hẳn với tưởng tượng của tôi, và có lẽ là khác tất cả chủ chứa ở những nơi khác. Đa số hiền và lành. Giống như những người tiểu thương ở chợ, hoặc người bán nước chè trên phố. Họ quan niệm cái ‘nghề’ của mình giống như cung cấp dịch vụ thông thường cho du khách y như cho thuê ghế, hay bán quán ăn vậy!”
Thiệt là cởi mở và phóng khoáng. Ngay cả dân tộc Thái Lan, vốn có truyền thống và nổi tiếng vì kỹ nghệ tình dục, chưa chắc đã có quan niệm về chuyện bán dâm cấp tiến đến cỡ đó. Thế mới hiểu thế nào là tính cách “đột phá” của chiến lược đi tắt đón đầu, vẫn thường được nghe ra rả suốt ngày từ hệ thống loa đài – ở Việt Nam.
So với Quất Lâm hay Đồ Sơn thì cung cách hành nghề của chị em ta ở Sài Gòn, xem ra, có vẻ hơi thiếu rộn ràng và cũng kém phần ... chuyên nghiệp hơn – chút xíu – theo như ghi nhận của tiến sĩ Kimberly Kay Hoang , qua hai luận văn nghiên cứu điền dã (*) về khu kinh tế mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh Quang Vinh:
“Khách của số lớn trong nhóm phụ nữ này là những đàn ông Việt Nam nghèo với thể xác làm họ buồn nôn. Nếu thủ dâm và khẩu dâm không làm khách đạt thỏa mãn, thì giao cấu là biện pháp cuối cùng những người đàn bà này sẽ làm. Chín trong số mười hai phụ nữ mại dâm đã cho tác giả biết họ đều nôn mửa khi mới vào nghề sau khi cảm thấy tinh dịch của khách hàng trên tay hay trong miệng vì họ tởm lợm thể xác của những khách mua dâm...
Nôn mửa, theo tác giả, là một phản ứng tự nhiên của cơ thể khi cảm thấy tởm lợm vì thể xác đàn ông nói chung, và đặc biệt với thân hình của những người đàn ông lớn tuổi không sạch sẽ. Tất cả những phụ này đều nói là họ đã từng ôm nhau khóc vì họ phải làm những việc, như Trâm nói, ‘mà chỉ có những người đàn bà ở dưới đáy của xã hội mới làm.’
Mỗi bao cao su giá khoảng 40 xu, một giá quá đắt đối với những phụ nữ mại dâm bậc thấp. Vì thế, họ thường cố gắng làm cho khách xuất tinh bằng những cách khác hơn là giao cấu...”
Công an đang tác nghiệp. Nguồn ảnh: banvannghe.com
Ở Việt Nam cũng có những phụ nữa mại dâm “bậc rất cao” mà giá cả mỗi lần đi khách (có thể) mua được một viên kim cương nho nhỏ, hay nhơ nhỡ. Số này ít lắm và họ chỉ phục vụ cho một giới người (hiếm hoi) được gọi là những đại gia, hay còn gọi là những nhà tư bản đỏ – những kẻ đang thu tóm mọi nguồn lợi của xứ sở này nhờ vào nền Kinh Tế Thị Trường, theo định hướng XHCN.
“Trong cái xã hội trước sau vẫn trọng nam khinh nữ, nơi quyền lực quốc gia, quyền lực trong gia đình và quyền lực trên giường vẫn chủ yếu thuộc về đàn ông, bướm Việt Nam sớm muộn rồi cũng phải nổi loạn” thôi. Tôi hoàn toàn, và tuyệt đối, không dám nghi ngờ gì về ước vọng (nóng bỏng) của nhà văn Phạm Thị Hoài. Tuy nhiên khi còn rất nhiều phụ nữ Việt Nam vẫn chưa sắm nổi một cái bao cao su (“giá khoảng 40 xu”) để tự bảo vệ lấy thân, và không ít người còn phải “bán trôn rồi, lại bán cả mồ hôi” (“mà đói rách vẫn quần cho sớm tối”) thì viễn tượng về một cuộc nổi loạn của họ e rằng sẽ rất muộn, chứ khó mà sớm được, với chế độ hiện hành.
Tưởng Năng Tiến
(*) Hai luận văn, “Economies of Emotion, Familiarity, Fantasy, and Desire: Emotional Labor in Ho Chi Minh City’s Sex Industry”(1) và “She's Not a Dirty Low Class Girl: Sex Work in Ho Chi Minh City,” (2) là những công trình đã đoạt giải luận văn sinh viên cao học tại các đại học Cornell (2008), UC Berkeley (2010) và những giải thưởng khác cuả ASA và giải Cheryl Allyn Miller, Những nhà Xã hội học cho Phụ nữ trong Xã hội (2011). Tác giả Kimberly Hoàng tốt nghiệp cử nhân về Communication & Asian American Studies tại đại học UC Santa Barbara và theo học Xã hội học tại đại học Stanford trước khi hoàn tất học trình tiến sĩ Xã hội học (chú trọng về phụ nữ, giới tính và tình dục) tại đại học UC Berkeley. [Theo Trần Giao Thủy (dcvonline.net)].
Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thời Đại Buông Rèm
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Ảnh: Nguyễn Ngọc Tư
“Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21.6 là ngày kỉ niệm ra đời của báo ‘Thanh niên’ do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập 21.6.1925. Trong lịch sử báo chí Việt Nam, từ những năm 60 thế kỉ 19 đã có ‘Gia Định báo’ và một số báo khác lần lượt ra đời tại Sài Gòn, Hà Nội và một vài địa phương khác. Nhưng báo ‘Thanh niên’ đã mở ra một dòng báo chí mới: báo chí cách mạng Việt Nam. Từ khi có báo ‘Thanh niên’, báo chí Việt Nam mới giương cao ngọn cờ cách mạng, nói lên ý chí, khát vọng của dân tộc Việt Nam và chỉ rõ phương hướng đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Do ý nghĩa đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Quyết định số 52 ngày 5.2.1985 lấy ngày 21.6 hằng năm làm Ngày báo chí Việt Nam nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm xã hội của báo chí, thắt chặt mối quan hệ giữa báo chí với công chúng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Ngày 21.6.2000, nhân kỉ niệm 75 năm Ngày báo chí Việt Nam, theo đề nghị của Hội Nhà báo Việt Nam, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đồng ý gọi Ngày báo chí Việt Nam là Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam.”
[Thông tin trong bài (hay đoạn) này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào].
Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa chúc mừng và cảm ơn các nhà báo nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam. Ảnh: gdtd.vn
Đã có lần, tôi nghe ông Phùng Quán than thầm:
Có những lúc ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy!
Vì không biết làm thơ nên vào những lúc ngã lòng, tôi hay nghĩ đến Bắc Hàn để vịn vào xứ sở này mà đứng dậy. Cứ so với nước XHCN anh em khốn khổ và khốn nạn này thì cuộc sống ở Việt Nam văn minh (hoặc đỡ man rợ) hơn nhiều lắm. Bắc Hàn luôn bị bịt kín bên trong bức màn sắt – ngột ngạt muốn chết mẹ luôn – chứ nào có được thư thả (đi ra đi vào) và dễ thở như ở nước ta, nơi chỉ bị bao quanh bởi những tấm rèm rất mỏng manh và vô cùng thanh nhã!
Hơn nữa, nhà nước VN cũng chưa bao giờ phải che đậy những chuyện rùng rợn – kiểu như những loại vũ khí hạt nhân, hay những vụ chết đói tập thể – như chính phủ Bình Nhưỡng. Quá lắm thì Hà Nội cũng chỉ lấp liếm vài vụ cưỡng chế đất đai nho nhỏ, mấy cuộc đàn áp lai rai những sắc dân thiểu số, hoặc những sự cố không quan trọng gì mấy – như chuyện rò rỉ ở đập thuỷ điện Sông Tranh 2, chả hạn.
Ấy thế mà vẫn có điều tiếng eo sèo, này nọ. Hôm 11 tháng 6 năm 2012, phóng viên Nam Khang (Tuổi Trẻ Online) than phiền:
“Có lẽ đến bây giờ chưa vấn đề xã hội nào gây sự đặc biệt chú ý của dư luận tại Quảng Nam, mà ở đó báo chí bị thách đố như chuyện sự cố đập thủy điện Sông Tranh 2... Các nhà báo đi nhờ xe UBND tỉnh Quảng Nam đến hiện trường, bảo vệ tại đây kiểm tra kỹ, ông nào là nhà báo thì không cho vào... Bức xúc quá, trong một cuộc họp giao ban, các nhà báo đã đề nghị UBND tỉnh tác động với Ban quản lý thủy điện này để anh em vào tác nghiệp dễ dàng. Ông Lê Phước Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh, nói: “Đất đã giao cho họ, nhà họ đã làm, nên cho vào hay không là quyền của họ, tỉnh cũng chịu nên anh em thông cảm!”
Thì rồi cũng phải “thông cảm” thôi chớ còn biết làm sao nữa. Chuyện nhỏ mà. Ngay cả sinh hoạt Quốc Hội mà còn phải buông rèm thì nói chi đến những chuyện vớ vẩn, hay linh tinh khác:
“Bây giờ, làm báo nhiều khi cũng sướng. Cái gì tế nhị cứ TTXVN mà phang, tội đâu ‘thằng TTX’ nó chịu. Nhưng đến cỡ Tuổi trẻ cũng lấy lại TTX thì mình nghĩ các báo khác cần quái gì đăng lại, tốn tiền bạn đọc, có lẽ lần sau chỉ cần đưa rằng ‘Tin họp thường vụ QH mời bạn đọc tìm đọc trên TTX’... Nhưng cái gì cũng buông rèm thì biết lấy gì mà viết. Dù là viết kiểu bị buông rèm!” (Đào Tuấn - Báo Chí Thời Buông Rèm).
Viết được thì tốt, không viết thì đừng nhưng chớ có dại mà vém rèm là bỏ mẹ, hoặc (không chừng) dám bỏ mạng luôn. Phóng viên Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Văn Hải, Hoàng Khương – chắc chắn – đã không bị vướng vào vòng lao lý, nếu họ biết thêm chút đỉnh về lịch sử báo chí nước nhà.
Hơn nửa thế kỷ trước, trên báo Văn có bài viết (Đống Máy) của tác giả Minh Hoàng. Xin trích dẫn một đoạn ngắn để rộng đường dư luận:
“Đời thuở nhà ai, vô duyên vô cớ cho khuân ầm ầm một lô một lốc tinh những máy đắt tiền về chất một đồng sù sụ giữa trời nắng chang chang thế kia .... Cứ nắng, mưa, mưa, nắng ngập ngụa mãi thế này, đến lúc máy móc mọc thành cứt sắt cả, ngồi trơ mắt ếch một lũ với nhau, mới chạy đến đây mà khắc phục chắc? Là máu là thịt của nhân dân mà sao các ‘bố’ ấy cứ nhởn nhơ như không, chả thấy xót xa là gì...”
Hễ nói động đến “các bố ấy” là lôi thôi lắm, lôi thôi lớn, lôi thôi lâu, và lôi thôi liền tức khắc – theo ghi nhận của nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân:
“Tuần báo ‘Văn’ bị xử thua, bị đóng cửa sau số 37 (ngày 17/01/1958), mặc dù nội dung số Tết 1958 đã được chuẩn bị và đưa tin chi tiết trên một vài tờ báo hàng ngày ở Hà Nội. Vả chăng, việc quy tội cho tuần báo ‘Văn’cũng chỉ là cái cớ để người ta ra tay trừng phạt những nhà văn nhà báo đã từng liên can ít nhiều đến báo ‘Nhân văn’ và các cuốn ‘Giai phẩm’, kết cục là có gần một chục người bị án tù với tổng cộng trên 50 năm tù giam và hàng chục năm bị quản chế; vài người bị buộc ra khỏi Ban chấp hành Hội, ba người bị khai trừ hội tịch vĩnh viễn, một số khá đông bị cảnh cáo; tất cả họ đều bị treo bút vài ba năm song trên thực tế thời gian cấm đăng tải bị kéo dài dường như vô hạn nếu không có thời đổi mới (1986-88).”
Nguồn ảnh: Văn Hoá Nghệ An
“Đống Máy” xuất hiện trên Văn vào ngày ngày 27 tháng 12 năm 1957. Nó là tiền thân của những đống đồng nát Vinashin và sắt vụn Vinalines hiện nay. Và đây là hệ quả tất yếu của chính sách buông rèm mà nhà đương cuộc Hà Nội đã kiên trì và xuyên suốt theo đuổi hơn nửa thế kỷ qua.
Tuy thế, Thiếu Tướng Nguyễn Viết Nhiên – phó tư lệnh quân chủng hải quân, người (có lẽ) vừa trở về từ sao hoả – vẫn tỏ vẻ (rất) băn khoăn và (vô cùng) thất vọng:
- Hết Vinashin đếnVinalines đổ, ăn nói thế nào với nhân dân?
- Dễ không à. Cứ bịt miệng dân thì tha hồ làm bậy tha hồ ăn nói.
Câu trả lời của nhà văn Nguyễn Quang Lập quả là chính xác và hoàn toàn phù hợp với “Dự thảo Nghị định quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và nội dung thông tin trên mạng,” vừa được phổ biến vào hôm 11 tháng 6 vừa qua.
Về sự kiện này, bác Hà Sĩ Phu đã có lời bàn (ra) như sau :”Nghị định cứ như là sự khai triển điều 88 luật hình sự vào phạm trù Internet vậy. Nếu dự thảo Nghị định này được thông qua và áp dụng thành công thì toàn bộ hệ thống tạm gọi là ‘thông tin lề trái’ bấy lâu nay, như cửa ngõ mở ra với nền báo chí văn minh, với những blog được nhân dân yêu mến có số người đọc vượt xa các tờ báo chính thống, đều bị quy kết vi phạm luật, có thể sẽ bị kiểm duyệt để trở về số phận chung với hơn 700 tờ báo ‘lề phải’ dưới cái gậy chỉ huy của cùng một Tổng biên tập? Có lẽ nào?”
Còn “lý” với “lẽ” gì nữa, cha nội? Rành rành, trước sau như một, trên đã có chủ trương buông rèm (xuống) và bịt mồm thiên hạ (lại) rồi cứ thế cắm cúi mà ăn chia với nhau thôi.
Khoẻ!
Tình trạng này đã kéo dài lâu nhưng e không thể kéo dài luôn được. Tọa thực băng sơn. Ngồi ăn núi lở. Vừa ăn, vừa phá, vừa đục khoét, tẩu tán mọi thứ ra nước ngoài thì rừng vàng bạc bể nào mà chịu đời cho thấu!
Câu hỏi cần được đặt ra là liệu Chính Sách Buông Rèm ở Việt Nam hiện nay còn có thể kéo dài thêm bao lâu nữa? Và quê hương này sẽ còn lại gì sau khi mọi tấm rèm đã được kéo lên?
Tuy được che kín bởi bức màn sắt nhưng người khiếm thị vẫn có thể hình dung ra được bên trong Bắc Hàn là một xứ sở tan hoang, và một dân tộc hoàn toàn suy kiệt. Đây cũng là hình ảnh của Việt Nam trong tương lai (rất) gần, nếu những người cộng sản vẫn còn tiếp tục cầm quyền ở đất nước này.
Tưởng Năng Tiến
Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012
Đầu Xuân Nói Chuyện Thánh Thần
Tưởng Năng Tiến
N.B.P
Ý tưởng thượng dẫn của nhà văn Nguyễn Bình Phương, trong tác phẩm mới nhất của ông (Xe Lên Xe Xuống *), xem ra, hơi lạ. Nó khiến tôi không dưng mà cảm thấy vô cùng ái ngại cho cụ bà Hoàng Thị Loan – thân mẫu của ông Hồ Chí Minh, người vẫn thường được mô tả như là một vị thánh, ở Việt Nam.
Thánh nhân hay tạo ra những thánh địa. Nhỏ nhất cũng cỡ thành phố rực rỡ tên vàng. Lớn hơn chút xíu là cấp thủ đô của lương tâm nhân loại. Còn lớn nữa thì cả một đất nước của niềm tin và hy vọng. Ngoài ra, thánh nhân cũng thường là nguyên do cho những Thời Đại Của Thánh Thần, như Thời Đại Hồ Chí Minh Quang Vinh – chả hạn.
Các thánh (tất) không nhiều nhưng cũng không hiếm lắm. Họ vẫn xuất hiện lai rai ở khắp mọi nơi. Chỉ riêng tại Châu Á, đã có nhiều nhân vật hóa thánh và được sùng kính hết cỡ: bác Mao, bác Pol Pot, bác Kim Đại Thành, bác Kim Chính Nhật...
Có điều rất đáng phàn nàn là tiêu chuẩn để hiển thánh của những nước xã hội chủ nghĩa anh em, dường như, không được chia sẻ bởi đa phần nhân loại. Bên kia dẫy núi Pyrénées thiên hạ lại nhìn quí bác bằng đôi mắt (hoàn toàn) khác, với tên gọi cũng khác – những nhà độc tài, hay những tên bạo chúa – thay cho hai chữ thánh nhân. Tiêu chuẩn bình chọn và xếp hạng của họ cũng khác hẳn, căn cứ theo số sinh linh đã bị sát hại trong thời gian các bác cầm quyền – chứ không dựa vào tượng đài, lăng tẩm, hay văn thơ (cung đình) nhan nhản trên những phương tiện truyền thông của nhà nước. Xin đan cử một thí dụ, tìm thấy ở trang filibustercartoons.com:
Dictators responsible for massive crimes against humanity (over 20 million death)
Na Name me | C Country | Tim Time e in Power | Regime e | N Events table Events | After After...... |
Joseph Stalin | USSR | 1924-1953 | Communist | Revolutionary regime | died in office |
Adolph Hitler | Germany | 1933-1945 | Fascist | World War II, Jewish Holocaust | committed suicide |
Mao Tse-Tung | China | 1945-1976 | Communist | Revolutionary regime | died in office |
Dictators responsible for massive crimes against humanity (at least 1 million death)atrocities (east 1 million dead)
Name | Country | Time in Power | Notable Events | Regime type | After... |
King Leopold II | Belgium | 1865-1909 | Colonization of the Congo | Monarch | died in office |
Kaiser Wilhelm II | Germany | 1888-1918 | World War I | Monarch | fled, died in exile |
Czar Nicholas II | Russia | 1894-1917 | World War I | Monarch | overthrown, killed |
Enver Pasha, member of triumvirate dictatorship | Turkey | 1913-1918 | Armenian genocide | Military | fled, died in rebellion |
Vladimir Lenin | USSR | 1917-1924 | Russian Civil War | Communist | died in office |
Emperor Hirohito | Japan | 1926-1989 | World War II | Monarch | died in office |
Prime Minister Hirota Koki | 1936-1937 | Military | resigned, tried, executed | ||
Prime Minister Tojo Hideki | 1941-1944 | Military | resigned, tried, executed | ||
President Chiang Kai-shek | China / Taiwan | 1928-1949 | Chinese Civil War | Military | died in office |
President Ho Chi Minh | North Vietnam | 1945-1969 | Vietnam War | Communist | died in office |
President Kim Il Sung | North Korea | 1948-1994 | Korean War | Communist | died in office |
President Yahya Khan | Pakistan | 1969-1971 | Indo-Pakistan War | Military | resigned, died |
President Saddam Hussein | Iraq | 1969-2003 | Iran-Iraq War, Kurdish genocide | one party state | overthrown, tried, executed |
Prime Minister Pol Pot | Cambodia | 1975-1979 | Cambodian genocide | Communist | overthrown, arrested, died awaiting trial |
President Kim Jong Il | North Korea | 1994- | chronic famines | Communist | still in power |
Generally bad dictators (over 10,000 killed)
President Kemal Ataturk | Turkey | 1920-1938 | one party state | died in office |
Prime Minister Benito Mussolini | Italy | 1922-1943 | Fascist | overthrown, killed |
Prime Minister Antonio de Salazar | Portugal | 1932-1968 | Fascist | resigned, died |
Francisco Franco | Spain | 1939-1975 | Fascist | died in office |
Prime Minister Ion Antonescu | Romania | 1940-1944 | Fascist | overthrown, tried, executed |
Ante Pavelic | Croatia | 1941-1945 | Fascist | overthrown, died in exile |
Gheorghe Gheorghiu | Romania | 1945-1965 | Communist | died in office |
President Tito | Yugoslavia | 1945-1980 | Communist | died in office |
President Yakubu Gowon | Nigeria | 1966-1976 | Military | overthrown, still living |
President Suharto | Indonesia | 1967-1997 | Military | resigned, still living |
President Idi Amin | Uganda | 1971-1980 | Military | overthrown, died in exile |
President Mengistu Haile | Ethiopia | 1974-1991 | Communist | fled, lives in exile |
President Le Duan | Vietnam | 1976-1986 | Communist | died in office |
President Babrak Karmal | Afghanistan | 1979-1987 | Communist | resigned, died in exile |
President Slobodan Milosevic | Yugoslavia | 1997-2000 | Fascist | resigned, arrested, died awaiting trial |
President Omar al-Bashir | Sudan | 1989- | Military | Still in office |
Bản bình chọn này cũng đã được phổ biến, vào ngày 9 tháng 01 năm 2012, trên danchimviet.infor, cùng với lời thuyết minh như sau:
“ Trang mạng kể trên đã chia các nhân vật lịch sử thế giới ra làm 3 loại quái vật tùy theo mức độ tội ác mà họ gây ra cho nhân loại.
- Chịu trách nhiệm về cái chết của ít nhất 20 triệu người: Stalin, Hitler và Mao.
- Chịu trách nhiệm về cái chết của ít nhất một triệu người: Danh sách này có 15 người, trong đó có Hồ Chí Minh, Polpot, Lenin, Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật, Saddam Hussein…
- Chịu trách nhiệm về cái chết của trên 10.000 người: Có 16 nhân vật, trong số đó có cố Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam- Lê Duẩn.
“Nếu phân theo hình thức phạm tội ác thì có 4 loại: Phát xít, cộng sản, chế độ quân phiệt và chế độ quân chủ. Chủ nghĩa cộng sản góp mặt 12 người.
Các nước ‘vinh hạnh’ có 2 người là Nga (Stalin, Lenin), Việt Nam (Hồ Chí Minh, Lê Duẩn), Bắc Triều Tiên (cha con ông Kim). Số còn lại rơi vào Campuchia, Romania, Nam Tư (cũ), Trung Quốc, Ethiopia và Afghanistan.”
Bác Hồ Chí Minh đang từ thánh bỗng hoá thành một con quái vật, và bị “qui chụp” tội phạm chống lại nhân loại ở mức đại trà (massive crimes against humanity). Làn ranh giữa thánh thần và ác quỉ (thiệt) mong manh dễ sợ. Thảo nào “... không bà mẹ nào muốn con là thánh.”
Có con hoá thánh theo kiểu bác Hồ – ngó bộ – lôi thôi thật, lôi thôi lắm, và (e) là sẽ còn lôi thôi lâu chứ không phải bỡn.
Why?
Thì tại vì cái nước mình ó thế chứ sao! Cứ như bên nước bạn, ở bắc Hàn chẳng hạn, thời gian hóa thánh chỉ có hạn thôi. Tượng đài của bác Kim Đại Thành, Kim Chính Nhật, hay Kim Chính Ân ... dù có dựng lên khắp nơi chăng nữa cũng sẽ bị giật sập ngay, và kể như xoá sổ, sau khi chế độ của họ sụp đổ.
Ở ta thì khác, theo như mong mỏi của ông Tố Hữu:
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn
Ta không có hàng ngàn “tượng đồng phơi những lối mòn” của lãnh tụ như bên nước bạn, thay vào đó là hàng vạn áng văn/thơ ca tụng “manh áo vải” và “hồn muôn trượng” của thánh nhân – cùng với hàng triệu trang sách báo, cùng sách giáo khoa tung hô công đức của Người. Đó là chưa kể đến vô số những bản nhạc... thương râu, nhớ dép được hát ra rả suốt ngày qua hệ thống loa phường – ở Việt Nam.
Văn hoá của Đảng (ta) để lại ấn tượng trong lòng dân sâu và lâu hơn những tượng đài, ở Bắc Hàn, nhiều lắm. Báo có bài viết về tình cảm mà người dân dành cho Bác. Xin đan cử một thí dụ:
“Bà tôi không theo đạo bà bảo chiếc gối bông là 'chiếc bùa hộ mệnh' của bà. Tôi để ý mỗi khi có việc gì hệ trọng thì bà lại lần giở chiếc gối, lấy ra một tờ giấy ố vàng đưa lên áp vào ngực và lẩm nhẩm khấn vái như người ta đọc kinh…”
“Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước rợp cờ hoa mừng giải phóng, bà tôi lặng lẽ làm mâm cơm thắp hương lên bàn thờ Bác. Khác với mọi lần, bà tôi kính cẩn khấn vái rất lâu, nước mắt bà chảy dài làm tôi cũng muốn khóc theo. Khấn vái xong bà gọi tôi đến lấy cho bà chiếc gối. Tôi hồi hộp nhìn theo tay bà lần giở từng lớp bông gòn lấy ra một túi nilông đựng một tấm ảnh Bác Hồ đen trắng được bà cắt ra từ tờ báo Quân đội Nhân dân cũ và một tờ giấy ố vàng hơi nhàu, đó là bản Di chúc của Bác.” (“Chiếc Gối Thần Của Bà Tôi”, Tuổi Trẻ Online 22/06/2007)
“Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước rợp cờ hoa mừng giải phóng, bà tôi lặng lẽ làm mâm cơm thắp hương lên bàn thờ Bác. Khác với mọi lần, bà tôi kính cẩn khấn vái rất lâu, nước mắt bà chảy dài làm tôi cũng muốn khóc theo. Khấn vái xong bà gọi tôi đến lấy cho bà chiếc gối. Tôi hồi hộp nhìn theo tay bà lần giở từng lớp bông gòn lấy ra một túi nilông đựng một tấm ảnh Bác Hồ đen trắng được bà cắt ra từ tờ báo Quân đội Nhân dân cũ và một tờ giấy ố vàng hơi nhàu, đó là bản Di chúc của Bác.” (“Chiếc Gối Thần Của Bà Tôi”, Tuổi Trẻ Online 22/06/2007)
Từ 30 tháng 4 năm 1975 đến nay đã hơn một phần tư thế kỷ. Người phụ nữ Việt Nam, với chiếc gối thần dấu kín tấm ảnh và di chúc Bác (e) đã qua đời. Tuy thế, những thế hệ người Việt kế tiếp vẫn cứ một lòng thương nhớ Bác – kể cả những em bé lên ba:
“Kỳ thật Bống và Bác, không, chính xác phải là Cụ Hồ, sống cách nhau cả thế kỷ. Ấy thế mà chỉ cần một lần vào thăm lăng Bác, dăm ba lần xem phim tư liệu về Bác Hồ, xem ảnh và nghe mẹ kể những câu chuyện về tình cảm của Bác Hồ với trẻ em, Bống đã cảm thấy gần gũi và kính trọng Bác.
Đến nỗi mấy hôm nay, khi các đài truyền hình liên tục giới thiệu những đoạn phim về Bác Hồ vui chơi với thiếu nhi và những bài hát, điệu múa liên quan đến chủ đề này là Bống lại cảm động, cảm xúc dâng trào, dụi vào lòng mẹ và thổn thức:’Con nhớ Bác Hồ quá’. Rồi nước mắt vòng quanh, Bống lại nói, con nhớ Bác Hồ lúc còn sống, chơi với trẻ con ấy...
Tối qua khi đi ngủ, chẳng ai nói gì đến chuyện này nhưng bỗng dưng Bống sụt sịt. Mẹ hỏi sao thế thì Bống òa lên khóc: ‘Con nhớ Bác Hồ quá!’. Mẹ càng hỏi, càng dỗ dành thì Bống càng khóc nhiều hơn. Mẹ nói ‘để hôm nào mẹ bảo bố cho con đi lăng Bác nhé’. Bống òa lên nức nở, như những lần bị mẹ đánh oan:’Con nhớ Bác Hồ lúc còn sống, lúc bác nói chuyện với các em bé. Sao Bác Hồ lại chết hả mẹ? Sao Bác không sống mãi mãi với con như là hai mẹ con mình mãi mãi bên nhau vậy?"
“Bống làm bố mẹ luống cuống. Cuống vì không biết dỗ con thế nào, và lúng túng vì con khóc thương quá. Nhưng quả thật đây là tình huống mà cả hai bố mẹ không hề nghĩ đến, thậm chí có tưởng tượng cũng chẳng thể tưởng tượng ra chuyện này. Sao Bống của mẹ lại đa sầu đa cảm đến thế nhỉ?” (“Con Nhớ Bác Hồ Quá”, VnExpress 26/09/2007).
“Đa sầu, đa cảm đến thế” là yếu tính chung của rất nhiều người cầm bút (trong hợp tác xã tư tưởng) ở Việt Nam, chứ chả riêng gì bé Bống. Chính những ông bà văn thi sĩ (quốc doanh) này đã làm cho bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
Di sản của Bác cũng như của cả nền văn hoá Đảng rất khó bị phân hủy với thời gian. Nó sẽ còn lưu lại rất lâu, ở đất nước chúng ta. Và đây là sự bất hạnh (chung) cho cả dân tộc Việt, chứ chả riêng chi cụ bà Hoàng Thị Loan. Hèn chi mà “... không bà mẹ nào muốn con là thánh.”
Tưởng Năng Tiến
(*) Sách do Diễn Đàn Thế Kỷ xuất bản tháng 12, 2011, giá 20 mỹ kim. Liên lạc với nhà xuất bản: (714) 839-8746 hoặc: phamxuandai@yahoo.com. Có bán tại các hiệu sách vùng Little Saigon. Mua sách qua bưu điện: Trong nước Mỹ, xin gửi chi phiếu hoặc bưu phiếu $22, ngoài nước Mỹ, xin gửi $25 / một cuốn. Chi phiếu đề tên YEN TRAN, gửi về Diễn Đàn Thế Kỷ, 9702 Bolsa Ave #112, Westminster CA 92683 – USA.
Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2011
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đạo Quân Thất Trận
Từ giờ phút này trở đi các em nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam, một nền giáo dục của một nước độc lập. Hồ Chí Minh (3 tháng 9 năm 1945)
Khi Hồ Chủ Tịch tuyên bố như trên, vào ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (chắc chắn) không ai có thể hình dung ra được là “nền giáo dục của một nước độc lập” nó mắc (tới) cỡ nào? Gần hai phần ba thế kỷ sau, mãi đến ngày 7 tháng 5 năm 2011, cái giá này mới được ghi rõ - trên báo Sài Gòn Tiếp Thị:
“Tháng Bảy mới là thời điểm chính thức các trường đầu cấp nhận hồ sơ tuyển sinh, nhưng hiện nay tại Hà Nội, cuộc chạy đua vào lớp 1 đã lên đến đỉnh điểm. Dù không giấy mực hay tuyên bố chính thức ‘giá’ vào trường điểm là bao nhiêu, nhưng các bậc phụ huynh đều hiểu muốn cho con vào trường mình mong muốn đều phải mở hầu bao. Một suất vào trường điểm lên đến cả vài nghìn USD.”
Thứ Năm, 4 tháng 8, 2011
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đòn Thù
Tưởng Năng Tiến
Trong phần giới thiệu bài “Viết cho anh Anh Cù Huy Hà Vũ trước ngày ra toà” (của Lê Diễn Đức) Phạm Toàn đã đoán trước, từ phiên toà sơ thẩm: “Bản án sẽ tuyên nặng, vì sẽ là một đòn thù.”
Ông nhà giáo, kiêm nhà báo, nói (đại) vậy mà ... trúng phóc. Đúng là một cú đòn thù. Và người biết điều này rõ nhất, không ai khác hơn là chính Cù Huy Hà Vũ: “Ông bị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả thù vì các đơn kiện của ông đối với việc thủ tướng Dũng đồng ý cho phép khai thác bauxite và ký quyết định cấm không cho người dân khiếu kiện tập thể.”
Thứ Tư, 27 tháng 7, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Mạnh Tường và Lê Trần Luật
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sinh hồi đầu thế kỷ XX. Luật sư Lê Trần Luật chào đời vào cuối thế kỷ này. Giữa hai ông, xem ra, có một khoảng cách (khá) xa về tuổi tác và hoàn cảnh sống.
Tôi ra đời sau Nguyễn Mạnh Tường và trước Lê Trần Luật khá lâu. Nói một cách (hơi) cải lương và kiểu cọ, tôi là người thuộc thế hệ bắc cầu. Bữa nay, gặp bữa rảnh, tôi xin được làm gạch nối cho câu chuyện (thời sự) có liên quan đến hai ông.
Tôi ra đời sau Nguyễn Mạnh Tường và trước Lê Trần Luật khá lâu. Nói một cách (hơi) cải lương và kiểu cọ, tôi là người thuộc thế hệ bắc cầu. Bữa nay, gặp bữa rảnh, tôi xin được làm gạch nối cho câu chuyện (thời sự) có liên quan đến hai ông.
Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Thái Độ & Chế Độ
Tưởng Năng Tiến
Bữa trước, tôi nghe ông Nguyễn Hưng Quốc cằn nhằn:
“Chỉ duy có một điểm chung nhất, ở tất cả các phi truờng tại Việt Nam, từ quốc tế đến quốc nội: đó là gương mặt lạnh lùng, vô cảm của các nhân viên hải quan. Đặt chân đến các nuớc khác qua ngả hàng không, điều chúng ta bắt gặp đầu tiên có thể là một nụ cuời. Ở Việt Nam thì không. Tuyệt đối không. Gương mặt nào cũng lạnh tanh. Ánh mắt nào cũng lạnh tanh. Không khí chung quanh lạnh tanh.”
Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến: Ở Một Nơi Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
Bạn có thể tự do cầu nguyện
Nhưng chỉ để mình Đấng Tối cao nghe thấy mà thôi.
T.K.
Ảnh Tí Hớn. Nguồn: Blog Nguoi Buon Gio
Theo tường thuật của Solzhenitsyn thì chỉ vì hai câu thơ thượng dẫn, người viết (bà Tanya Khodkevich) đã phải vô tù ngồi đúng... mười năm. Vào thời Stalin, cứ dính dáng đến tôn giáo là lãnh đủ một chục cuốn lịch. Thi sĩ hay tu sĩ gì cũng đều cùng một giá.
Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Bác Kiệt
Tưởng Năng Tiến
![]() |
Võ Văn Kiệt (23 November 1922 11 June 2008) Ảnh: Việt Weekly. |
Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Đông Du & Giấc Mơ Bay Cùng Đàn Sếu
Tưởng Năng Tiến
“Phong trào Đông Du là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong trào có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cho việc giành lại độc lập cho nước nhà...”
Thứ Hai, 23 tháng 5, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Bao La Tình Bác
Tưởng Năng Tiến
Babui
“Tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên nhi đồng quốc tế.”
Thứ Tư, 18 tháng 5, 2011
Tưởng Năng Tiến – Chút Quà Sinh Nhật
Tưởng Năng Tiến
“Who controls the past, controls the future; who controls the present, controls the past.”
George Orwell
Công viên Lê Văn Tám, ở Thành phố Hồ Chí Minh, được bao quanh bởi bốn con đường lớn: Hai Bà Trưng, Võ Thị Sáu, Điện Biên Phủ và Đinh Tiên Hoàng. Giữa lòng đô thị ngột ngạt và nóng bức, sự hiện diện của một khoảnh đất rộng rãi với cây xanh bóng là một món quà tặng (vô cùng) quí giá cho công chúng.
Vậy mà vẫn có lời ra, tiếng vào:
- Đâu có thằng nhỏ (mẹ rượt) nào tên Lê Văn Tám, mấy cha?
Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Giấu Như Sản
- Dối như Cuội.
Thành ngữ
Dối như Sản.
Thành ngữ mới
Ngày 2 tháng 5 năm 2011, AFP (rầu rĩ) đưa tin: “Bắc Hàn tịch thu điện thoại di động để ngăn chận tin tức.” (N. Korea seizes mobile phones to curb news).
Thành ngữ
Dối như Sản.
Thành ngữ mới
Ngày 2 tháng 5 năm 2011, AFP (rầu rĩ) đưa tin: “Bắc Hàn tịch thu điện thoại di động để ngăn chận tin tức.” (N. Korea seizes mobile phones to curb news).
Thứ Hai, 2 tháng 5, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Đêm Havana & Ngày Hà Nội
Tưởng Năng Tiến
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ đắng cay như ở đây?
Chín người – mười cuộc đời rạn vỡ.
Bị ruồng bỏ và bị lưu đầy…
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ yêu thương như ở đây?
Mỗi tấc đất có một người qùi gối
Dâng trái tim và nước mắt
Cho nỗi đau của cả loài người …
Phùng Quán
Tôi chưa bao giờ đến Hà Nội, và cũng chưa bao giờ cảm thấy có chút xíu nào hào hứng khi nghĩ đến chuyện phiêu lưu tới một nơi xa xôi, lôi thôi và tai tiếng (tùm lum) như thế. Đã thế, đường thì xa, vé tầu thì mắc, thủ tục thì lôi thôi rườm rà, và lỡ mà kẹt luôn thì… chết mẹ!
Thứ Tư, 27 tháng 4, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Vẫn Chuyện Tháng Tư
Tưởng Năng Tiến

Dân chúng ở miền đất này thường chỉ nhớ đến Trần Văn Hương như một người lập dị. Ổng hay đi làm bằng xe đạp, trong thời gian là Ðô Trưởng Sài Gòn, và thỉnh thoảng lại sáng tác ra những câu thơ (hơi) kỳ cục:
Ngồi buồn gãi háng, dái lăn tăn…
Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Lỡ Một Chuyến Tầu
Tưởng Năng Tiến
Cả dân tộc bước ra biển lớn.
(Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)
(Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)
Tôi rất ngại chuyện đánh răng, rửa mặt. Tắm, gội, giặt giũ – tất nhiên – cũng không lấy gì làm hào hứng lắm. Kẻ xấu miệng nói như vậy là ăn dơ, ở bẩn, người biết chuyện thì giải thích rằng tại tôi không phải mạng Thủy nên sợ nước. Riêng tôi, đôi lúc, lại trộm nghĩ rằng đây là nỗi sợ chung của quốc dân đồng bào chứ chả riêng ai.
Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011
Thứ Hai, 18 tháng 4, 2011
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Núm Ruột Quê Hương
Đời nhịp sầu lỡ bước, bước hoang mang rồi.
Phạm Duy
Vào những năm đầu của thập niên 1980, khi phong trào vuợt biển tìm tự do lên đến điểm cao nhất ở Việt Nam, người ta hay nghe những “người di tản buồn” nghêu ngao hát bản “Sài Gòn Vĩnh Biệt”:
“Sài Gòn ơi tôi xin hứa rằng tôi trở về.
Người tình ơi tôi xin hứa giữ vững lời thề…”
Phạm Duy
Vào những năm đầu của thập niên 1980, khi phong trào vuợt biển tìm tự do lên đến điểm cao nhất ở Việt Nam, người ta hay nghe những “người di tản buồn” nghêu ngao hát bản “Sài Gòn Vĩnh Biệt”:
“Sài Gòn ơi tôi xin hứa rằng tôi trở về.
Người tình ơi tôi xin hứa giữ vững lời thề…”
Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2011
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – CẦM BÚA & CẦM BÚT
Tưởng Năng Tiến

“Vờ tìm ví da trong túi áo, nhà điền chủ mắt vẫn lẳng lơ nhìn chị nhà quê cho mãi đến khi cầm trong tay cái ví rồi mà vẫn không lấy tiền ra vội, lại hỏi:
"Con tính bao nhiêu?"
Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Giữa Than Hồng & Củi Nỏ
Tưởng Năng Tiến

Ngồi bàn thế sự khóc điêu linh
Tâm thiền bỗng hoá hình gươm dựng
Dưới bóng trăng soi điệu chém kình
Trong vài trang sổ tay trước, khi đề cập đến vấn đề “Gươm Giáo &Tôn Giáo,” tôi có ghi lại một mẩu đối thoại (ngăn) ngắn – như sau:
- Thưa cha con muốn xưng tội.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)