Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Trinh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Trinh. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 18 tháng 7, 2017
The Economist, 15/7/2017/Phan Trinh dịch: Cái chết của Lưu Hiểu Ba: Thông điệp cho Trung Quốc và phương Tây
LƯU HIỂU BA, mất ngày 13/7 vừa qua, không là cái tên cửa miệng ở phương Tây. Tuy nhiên, với người Trung Quốc đang đòi dân chủ, đang chống lại dã tâm cản đường dân chủ của Đảng Cộng sản, thì cái tên Lưu Hiểu Ba lại rất nổi bật. Tiếng nói uy nghiêm, trầm tĩnh và không ngưng nghỉ kêu đòi tự do cho dân tộc Trung Quốc của Lưu Hiểu Ba đã khiến ông trở thành một trong những nhà phản kháng vì lương tâm nổi tiếng nhất thế giới, cùng hàng ngũ với Andrei Sakharov và Nelson Mandela. Ông cũng là tù nhân lương tâm đoạt giải Nobel Hoà bình như họ.
Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2014
Gordon G. Chang - “GORBACHEV” TÀU ĐANG XÉ NÁT ĐẢNG CỘNG SẢN
Phan
Trinh dịch
“Tập
Cận Bình, giống Gorbachev, muốn làm điều vĩ đại để cải cách một hệ thống bệnh
hoạn. Nhưng cũng như lãnh tụ cuối của Liên Xô cũ, Tập vừa kích hoạt những
chuyển biến mà ông không thể kiểm soát được.”
Giới
thiệu của người dịch:
Lập
luận của Gordon rất đáng chú ý, nhất là khi ông so Tập Cận Bình với Gorbachev,
người vừa cố sửa vừa cố giữ, sao cho không đổ vỡ, một hệ thống đã không thể
sửa. Thực ra, bài học của Gorbachev nôm na chính là: Sai không sửa không được,
nhưng cứ sửa là sụp.
Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014
Joan V. Bondurant/Phan Trinh dịch - Đấu tranh vì lương tâm: Phương pháp của Gandhi (1)
![]() |
Mohandas Karamchand Gandhi (1869 – 1948) - Hình: Internet |
Giới thiệu của người dịch: Tuy âm thầm nhưng có thật, tuy quy mô nhỏ nhưng tác dụng sâu, xã hội dân sự tại Việt Nam trong thời gian qua có thể nói đang thực sự chuyển mình. Chuyển từ “0” thành “1”. Chuyển từ không thành có. Chuyển từ nhận thức, đến hoạt động hỗ trợ người trong cuộc, đến vận động dư luận rộng rãi bên ngoài. Một phương pháp hành động vì nhân quyền và sự thật dường như đang định hình. Và, lạ thay, nó rất gần với những gì Gandhi đã nghĩ và đã làm cách đây trên dưới 100 năm.
Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013
The Economist - Tập làm Giông
The Economist
Phan Trinh dịch
Giới thiệu của người dịch:
Tập Cận Bình nhanh hơn nhiều, vượt khỏi dự đoán của báo chí thế giới. Vào ngày 15/11/2013, chỉ ba ngày sau khi Hội nghị Trung ương 3 Khóa 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc bế mạc, nghị quyết 22.000 chữ đã được phổ biến, kèm với diễn văn của Tập. Kiến nghị này do một ban gồm 60 chuyên gia soạn thảo và Tập là người cầm đầu.
Một loạt những cải cách, được The Economist gọi là chấn động, đã được nói tới: Kinh tế thị trường là chủ đạo, quyền sở hữu đất đai của nông dân, bãi bỏ trại lao động cải tạo, nới lỏng chính sách một con,… đặc biệt là cho phép các tổ chức xã hội (phi chính phủ) hoạt động, và dự định cải cách tư pháp cho độc lập với hành pháp.
Trông người lại nghĩ đến ta:
Tập làm giông, Tập không, ta có.
Tập làm gió, Tập có, ta không!
Tập có gì? Chủ động, phát động, vận động, chấn động!
Ta có gì? Thụ động, bị động, phản động, bất động!
Dưới đây bản dịch hai bài về cải cách của Tập, đăng trên The Economist số ra ngày 23/11/2013. Bài thứ nhất có tựa “Let quite a few flowers bloom” (nhiều hoa đua nở), bài thứ hai “The Xi manifesto” (tuyên ngôn Tập Cận Bình). Tựa phía trên là của người dịch.
1.
Nhiều hoa đua nở
Hai đề xuất ẩn trong văn kiện Đảng có thể thay đổi chính quyền Trung Quốc.
Thế là các ông bà nghị đã nghị xong, và mọi sự đã rõ. Sau nhiều tháng đoán già đoán non và sau bản Thông báo cuối hội nghị phổ biến vào tuần trước [ngày 12/11], bản nghị quyết cuối cùng, dài 22.000 chữ của Hội nghị 3 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã được công bố hôm 15/11. Trong lĩnh vực kinh tế, nghị quyết cho thấy Đảng còn muốn cải cách mạnh dạn hơn cả những gì bản Thông báo tóm tắt gợi ra. Lãnh tụ Đảng, ông Tập Cận Bình, muốn đẩy mạnh hơn những cải cách đã phải giậm chân tại chỗ suốt một thập niên qua. Như nguyên văn nghị quyết nói rõ: “Chúng ta hãy để cho lao động, tri thức, công nghệ, quản trị và tư bản phát huy hết tiềm lực của nó, hãy để cho mọi nguồn gốc của thịnh vượng được mặc sức nở rộ và hãy để cho mọi người được hưởng một cách công bằng thành quả của phát triển.” Quả là hay.
Dĩ nhiên, không có gì chắc chắn ông Tập có thể làm được tất cả những gì ông muốn, nhưng đã rõ là ông thắng trận này, tính cho đến nay. Về mặt kinh tế, ông cho thấy mình là hậu duệ của Đặng Tiểu Bình, nhà cải cách lớn của Trung Quốc, và hoàn toàn không phải là một gã Mao-ít hũ nút như một số người lo ngại trước đây. Các thế lực bảo thủ tìm cách bịt miệng những tiếng nói cải cách đã bị khóa họng, ít nhất là cho đến lúc này.
Nhưng, điều thú vị của nghị quyết không chỉ nằm trong những cải cách kinh tế, vốn đã được đoán trước. Chấn động hơn là một số những cải cách trong lĩnh vực xã hội mà nghị quyết công bố, ví như việc nới lỏng chính sách mỗi gia đình chỉ có một con. Những cặp vợ chồng mà vợ hoặc chồng đã là con một sẽ được phép có hai con, và chính sách này sẽ còn được nới lỏng hơn nữa. Một bước tiến khác được ủng hộ mạnh mẽ đó là các trại lao động cải tạo – hiện giam giữ 190.000 người, gồm cả các tù nhân chính trị và nhà hoạt động tôn giáo – sẽ được bãi bỏ.
Nhưng có thể nói, những tiết lộ quan trọng nhất của nghị quyết lại nằm rất sâu và chôn rất kín trong văn kiện, chẳng được mấy ai đưa tin hay giựt tít. Riêng có hai động thái cho thấy Đảng rất nhạy bén với bức xúc của xã hội Trung Quốc hiện nay và với những đòi hỏi được tự do hơn, đồng thời đòi hỏi chế độ phải chịu trách nhiệm, phải được kiểm soát nhiều hơn.
Trong 30 năm qua, Trung Quốc đã chuyển hóa từ một xã hội toàn trị sang một xã hội mà trong đó người dân có thể đi làm ở chỗ mình muốn, kết hôn với người mình chọn, đi lại nơi mình thích (dĩ nhiên vẫn còn những vướng mắc hạn chế quyền đi lại của người từ nông thôn và những vùng có sắc dân thiểu số). Trong 10 năm qua, sự xâm nhập của internet đã đi từ tối thiểu đến gần như cực đại. Những cơ chế an sinh xã hội truyền thống bị phá vỡ mà chưa gì thay thế thỏa đáng. Người dân bình thường bỗng có thêm quyền định đoạt nhờ có tiền, nhờ tham gia công luận thông qua các trang blog cá nhân, và nhờ họ đã hóa vai trở thành người tiêu thụ và người chủ những tài sản mình có.
Xã hội “PHI” chính phủ
Xã hội đã trở nên quá phức tạp, vượt khỏi khả năng kiểm soát của các cơ cấu xã hội truyền thống. Vì vậy, nhà cầm quyền đã quyết định cho phép sự phát triển của điều họ gọi là “các tổ chức xã hội”. Trên thực tế, đây chính là những tổ chức phi chính phủ (NGO). Đảng vốn rất không ưa bất cứ điều gì “phi” chính phủ và từ lâu xem các tổ chức phi chính phủ như những con ngựa thành Troy, nơi ẩn chứa những tư tưởng chính trị phương Tây và sự phá hoại, nhưng nhà cầm quyền ngày càng hiểu rằng các tổ chức xã hội kia có thể giúp giải quyết một số những vấn nạn – như chăm lo cho người bệnh, người cao tuổi, người nghèo. Sự phát triển của xã hội dân sự không chỉ quan trọng vì chức năng thực tế của nó, mà còn vì đó là cầu nối đến tương lai, gắn kết những cải cách kinh tế hôm nay với bất cứ những cải cách chính trị tương lai nào có thể có.
Cũng quan trọng không kém là vấn đề cải cách tư pháp. Các ông thẩm phán tham nhũng trắng trợn tại Trung Quốc bị dân chúng rất oán ghét. Nghị quyết của Đảng nhắc tới ý tưởng “hệ thống quyền hành tư pháp được tách rời một cách phù hợp với khu vực hành pháp”, nghĩa là bộ máy tư pháp ở địa phương sẽ không do chính quyền địa phương trả tiền hay kiểm soát nữa. Mặc dù một số nhà quan sát không tin điều này sẽ xảy ra, nhưng nếu nó xảy ra thật thì rất có thể đó sẽ là khởi đầu của một hệ thống kiểm soát và đối trọng tạo cân bằng làm cho quan chức nhà nước phải chịu trách nhiệm nhiều hơn.
Nội chuyện hai động thái này được nhắc tới trong văn kiện đại hội mà thôi đã là rất khích lệ rồi; nhưng ngược lại, việc chúng được chôn kín đến gần như không thể nhận ra trước con mắt người trần không chuyên cũng cho thấy Đảng đang đi hai hàng và vừa đi vừa run trên con đường tiến đến tự do hóa. Nhưng Đảng phải dấn tới thôi. Kế hoạch cải cách kinh tế của Đảng sẽ mang lại không chỉ thịnh vượng, mà sẽ tạo thêm những áp lực buộc thay đổi chính trị nhiều hơn. Nếu Đảng không đáp ứng, ắt sẽ có bùng nổ. Nếu ông Tập lâm vào cảnh chùn chân run gối, ông nên nhớ lại lời khuyên hào sảng này trong văn kiện đại hội: “Dám gặm cả xương cứng, dám lội nước chảy xiết, dám bẻ gẫy gông cùm ý thức hệ với quyết tâm kiên định.”
2.
Tuyên Ngôn Tập Cận Bình
Chủ tịch Trung Quốc tiết lộ những kế hoạch cải cách chấn động nhất trong hai thập niên qua, vừa táo bạo bất thường, vừa thận trọng như thường.
Kể từ thời Mao Trạch Đông lên nắm quyền năm 1949, chưa có lãnh tụ Trung Quốc nào lại nhanh nhẩu công bố kế hoạch chi tiết cho hàng loạt những cải cách như thế. Ngay cả Đặng Tiểu Bình, sau khi nắm quyền năm 1978, cũng chậm rãi trong việc công bố kế hoạch của mình. Chủ tịch nước Tập Cận Bình, trong văn kiện dài 22.000 từ được phổ biến vào ngày 15/11 vừa qua, đã cam kết thực thi những cải cách triệt để. Cải cách bao gồm từ việc nới lỏng chính sách một con, bãi bỏ các trại lao động cải tạo, đến việc bãi bỏ kiểm soát lãi suất. Nhưng cũng phải nói rằng chưa từng có lãnh tụ nào gặp nhiều thử thách như ông.
Mặc dù đã vượt qua Nhật Bản vào năm 2010 để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc vẫn chưa thấu hiểu được nhu cầu nắm bắt thông tin của thế giới bên ngoài với các chính sách của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc loan báo đã thông qua Nghị quyết vào ngày 12/11 sau cuộc mật nghị với trên 370 thành viên Ủy ban Trung ương Đảng. Nhưng họ đã muốn, như thường lệ, giấu kín nội dung Nghị quyết trong một tuần để triển khai trước cho nội bộ đảng viên. Nhưng cuối cùng thì họ đã nhượng bộ, chỉ sau ba ngày; có lẽ vì bị áp lực do sự đồn đoán (trên cả báo chí nhà nước Trung Quốc) rằng Hội nghị đã không xứng tầm là một cột mốc lớn cho công cuộc cải cách. Đảng cũng làm một việc bất thường khác là phổ biến một diễn văn của ông Tập Cận Bình, trong đó ông cho biết ông đã đích thân chỉ đạo nhóm soạn Nghị quyết gồm 60 thành viên. Báo đài nhà nước nói ông là lãnh tụ Đảng đầu tiên kể từ năm 2000 giữ vai trò này. Rõ ràng, trên thực tế, báo đài nhà nước ám chỉ rằng Nghị quyết kia chính là tuyên ngôn của ông Tập Cận Bình.
So với văn phong nhợt nhạt phát ngán thường thấy trong các văn kiện Đảng, Nghị quyết này phải nói là chấn động. Nghị quyết để một đoạn dài nói thêm về điểm đầu tiên trong Thông báo rút gọn đưa ra vào ngày 12/11 rằng các lực lượng thị trường sẽ giữ vai trò “chủ đạo” trong việc định đoạt mô hình kinh tế (đây là một bứt phá về khái niệm mà trước đây cứ bị Đảng tránh né, mặc dù đã áp dụng chủ nghĩa tư bản từ lâu). Nghị quyết kêu gọi “tăng tốc” các bước thúc đẩy để thị trường có thể quyết định lãi suất. Có thể để tạo tiền đề cho việc này, Nghị quyết cũng nói một hệ thống bảo hiểm sẽ được thực hiện để bảo vệ người gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng: quan chức nhà nước lo ngại rằng các ngân hàng nhỏ sẽ gặp khó khăn nếu lãi suất tiền tiết kiệm được thả nổi. Việc kiểm soát lãi vay cũng đã được bãi bỏ vào tháng 7 vừa qua. Có dự báo rằng hệ thống bảo hiểm này sẽ hình thành trong những tháng sắp tới. Nghị quyết cũng kêu gọi Trung Quốc tạo điều kiện để biến đồng Nhân dân tệ trở thành chuyển đổi được, đây là một điểm hóc búa, được hứa hẹn nhưng không được thực hiện trong suốt hai thập niên qua.
Nghị quyết cũng lặp lại cam kết của Đảng là sẽ để cho thị trường quyết định giá cả các tài nguyên then chốt như nước, dầu hỏa, khí đốt, điện và giao thông vận tải. Nhưng lần này, Nghị quyết dùng từ ngữ mạnh miệng hơn. Nghị quyết viết “Thị trường phải được quyền quyết định giá cả của bất cứ thứ gì mà thị trường có thể định đoạt được, và chính quyền không được can thiệp không chính đáng.” Trong diễn văn của mình, ông Tập định nghĩa vai trò của chính quyền bằng ngôn ngữ nghe rất quen thuộc với lập trường trung lập ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Ông nói đến những điều như: duy trì ổn định kinh tế, cung cấp dịch vụ công ích, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quy trình hoạt động của thị trường và chỉ can thiệp khi thị trường thất bại.
Tuy nhiên, ngôn ngữ đậm tính thị trường của Ủy ban Trung ương lại chệch choạc khi bàn đến vấn đề gây tranh cãi sôi nổi nhất, đó là vai trò của các doanh nghiệp nhà nước. Tuy vậy, phe cải cách – vốn lo ngại bởi sự khẳng định quen thuộc trong Thông báo cuối hội nghị rằng các doanh nghiệp nhà nước sẽ là “thành phần chính” của nền kinh tế – cũng được Nghị quyết cho một số hy vọng. Nghị quyết cho biết đến năm 2020, các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải giao cho chính quyền 30% lợi nhuận của họ bằng hình thức cổ phần (tăng lên từ 15% hay ít hơn hiện nay). Như nhiều nhà cải cách đã đòi hỏi từ lâu, một số tài sản của họ sẽ được giao lại cho quỹ an sinh xã hội của chính quyền trung ương. Và khu vực kinh tế tư nhân sẽ được cho nhiều cơ hội hơn để đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước và kinh doanh trong các lĩnh vực hiện do doanh nghiệp nhà nước thao túng, kể cả ngân hàng. Tuy nhiên, nghị quyết không đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước phải rút khỏi những lĩnh vực không then chốt như khách sạn và bất động sản. Nghị quyết cũng lặp lại từ ngữ của bản Thông báo tóm lược khi kêu gọi đẩy mạnh khả năng “kiểm soát và ảnh hưởng” của các doanh nghiệp nhà nước.
Cải cách nông thôn
Ở một lĩnh vực cải cách quan trọng khác – quyền sở hữu đất đai nông nghiệp và nhà ở nông thôn – Nghị quyết cho thấy những dấu hiệu rõ ràng hơn. Cuối thập niên 1990, thị trường bất động sản bắt đầu xuất hiện ở các đô thị Trung Quốc, nhưng không diễn ra ở nông thôn, nơi quyền sở hữu đất đai được quy định rất mơ hồ. Năm năm trước, Đảng yêu cầu thị trường bất động sản ở đô thị và nông thôn phải hòa chung thành một, nhưng chưa có tiến bộ đáng kể. Hiến pháp vẫn khẳng định đất đai nông nghiệp là “sở hữu toàn dân”, một khái niệm lưu cữu từ thời Mao, và luật pháp vẫn cấm việc bán đất đai cho người ngoài nông thôn và cấm cầm cố bất động sản nông thôn. Tuy nhiên, Nghị quyết với kế hoạch mới nói rằng nông dân cần được cho phép cầm cố nhà cửa. Một vài địa phương đã cho thử nghiệm việc này. Dù Nghị quyết tiếp tục kêu gọi thận trọng, nhưng những thử nghiệm theo hướng này sẽ còn lan rộng nhanh chóng (và luật lệ có lẽ cũng sẽ thay đổi) khi giờ đây Đảng đã bật đèn xanh.
Báo đài nhà nước đã ca tụng những bước vừa kể bằng ngôn ngữ dạt dào cảm xúc, cứ như là Trung Quốc vừa nhận được một phần mềm nâng cấp, kế hoạch cải cách đã được đặt tên là “cải cách phiên bản 2.0”. Một số bài báo gọi đó là những “cột mốc lịch sử” trên lộ trình đạt đến “giấc mơ Trung Hoa”, cụm từ được ông Tập dùng và trở thành phổ biến trên khắp các biển quảng cáo ngoài trời trong cả nước. Trong diễn văn của mình, ông Tập báo trước là hành trình sẽ không dễ dàng gì. Nhưng ông cũng trích lời Đặng Tiểu Bình nói năm 1992 rằng nếu không có cải cách sâu rộng thì đất nước sẽ đi vào “ngõ cụt”. Rõ ràng, ông Tập muốn so sánh mình với ông Đặng, và có vẻ ông đã thu tóm được quyền lực để tạo cho mình một thế lực tương tự như ông Đặng.
Giống như Đặng Tiểu Bình, và thực ra cũng giống như tất cả các lãnh tụ Trung Quốc kể từ thời Mao, ông Tập có vẻ vẫn kiên định duy trì quyền lực độc tôn của Đảng. Như dự đoán, kế hoạch của ông nói rất ít về cải cách chính trị. Nghị quyết nói về cải cách tư pháp nhưng không cho biết chi tiết, mà cũng nhắc đến nhu cầu cho phép nhiều không gian hơn cho các “tổ chức xã hội” – tên Đảng gọi các tổ chức phi chính phủ – trong khi vẫn kêu gọi tăng cường sự “quản lý” của chính quyền với những tổ chức này.
Nghị quyết cũng cho thấy một số nhượng bộ trong hai lĩnh vực về nhân quyền. Một là lời cam kết sẽ xóa bỏ các trại “lao động cải tạo” mà Liên Hiệp Quốc ước tính, vào năm 2009, có tới 190.000 người bị giam giữ không qua xét xử với các thời hạn lên đến bốn năm. Các trại cải tạo này thường được dùng để cách ly các nhà bất đồng chính trị và tôn giáo. Ngay báo đài nhà nước cũng từng đăng tải các lời kêu gọi xóa bỏ các trại này và một số quan chức trong nhiều tháng qua cũng từng cho thấy tín hiệu là sự thay đổi sẽ xảy ra. Tuy nhiên, Nghị quyết lại không nhắc đến việc cấm các hình thức giam giữ không viện dẫn pháp luật khác, vốn xảy ra thường xuyên.
Một thay đổi đáng kể khác là quyết định nới lỏng chính sách một con, cho phép các cặp vợ chồng được có hai con nếu vợ hoặc chồng là con một. Trong những năm qua, các cặp vợ chồng đều là con một đã được phép có hai con. Các gia đình nông thôn cũng thường có hai con nếu con đầu lòng là con gái. Tuy vậy, chính sách mới này có lẽ sẽ không mang lại một sự bùng nổ dân số. Nhiều cặp vợ chồng thị dân nói họ vẫn thích có một con hơn, vì chi phí nhà cửa, y tế và học hành ngày càng đắt đỏ. Nghị quyết cũng không đưa ra lời hứa chấm dứt việc chính quyền kiểm soát việc sinh đẻ, hoặc giảm bớt tiền phạt, đôi khi cao đến cắt cổ, đối với những ai vi phạm luật kế hoạch hóa gia đình.
Ông Tập Cận Bình sẽ phải đối đầu với những chống đối lớn. Nghị quyết kêu gọi thay đổi nhanh chóng chính sách hộ khẩu, vốn không cho nông dân lên thành phố sinh sống được hưởng các khoản an sinh xã hội ở đô thị, và nhiều trường hợp không được quyền mua xe hơi hay mua nhà. Chính quyền địa phương cũng sẽ chống đối khoản này, trừ khi họ nhận được nhiều hỗ trợ tài chính để chi cho trường học, bệnh viện cà các dịch vụ khác. Thị dân trung lưu cũng ngại ngùng không muốn chia sẻ tài nguyên cho giáo dục và chăm sóc y tế cho những người nhập cư. Các doanh nghiệp nhà nước, những công chức bướng bỉnh và những nhà kẻ giáo điều trong hàng ngũ Đảng cũng sẽ chống lại những cải cách thị trường có khả năng đe dọa quyền lợi của họ. Ông Chương Lập Phàm (Zhang Lifan) một nhà phân tích ở Bắc Kinh nói rằng những cải cách của ông Tập có thể dễ thành công hơn nếu đưa ra mười năm trước đây, trước khi những quyền lợi riêng tư được đổ bê tông và cố thủ.
Tuy vậy, quyền lực của ông Tập vẫn có thể giúp ông thực thi được các dự định của mình. Ông đã cho thấy ông đang xác lập quyền kiểm soát trực tiếp hệ thống an ninh trong nước, bằng cách lập ra một “ủy hội an ninh quốc gia” (người tiền nhiệm, ông Hồ Cẩm Đào lại nhường vai trò này cho đồng nghiệp). Ông Tập cũng cho hình thành một “nhóm lãnh đạo nhỏ” để lèo lái công cuộc cải cách, có lẽ cũng sẽ dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông. Nắm chặt hệ thống an ninh sẽ là điều có lợi cho ông: Nghị quyết, trong lời kêu gọi kiểm soát internet, cho thấy giới lãnh đạo lo ngại sâu sắc về những bất ổn xã hội và về quyền lực của hoạt động bất đồng trên mạng. Ông Tập Cận Bình có lẽ phải ghen với ông Đặng Tiểu Bình, vì ông Đặng đã tiến hành cải cách vào một thời đỡ rối ren hơn nhiều.
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013
The Economist - Giang hồ Bồ Tát
The Economist
Phan Trinh dịch
Giới thiệu của người dịch
1.
Robert Webster Ford (1923-2013) sinh ra ở Anh, đến Tây Tạng từ năm 1945, và trở thành người phương Tây đầu tiên làm công chức cho chính quyền tại đây. Khi Trung Quốc xua quân chiếm Tây Tạng năm 1950, thay vì bỏ đi, ông chọn ở lại cùng người Tạng. Và ông bị quân Trung Quốc bắt, giam tù, tra tấn, cải tạo tư tưởng suốt năm năm.
Câu chuyện của ông được kể lại trong cuốn tự truyện Captured in Tibet (Bị bắt ở Tây Tạng) xuất bản năm 1957, bản ở Mỹ có tên Wind Between the Worlds (Gió giữa ta bà thế giới), năm 1990 tái bản dưới tên The Occupation (Cuộc chiếm đóng) với lời tựa của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
2.
Bài được dịch dưới đây tuy ngắn gọn, nhưng lại như một cuốn phim ngắn cô đọng nhiều chi tiết và tình tiết. Đọc xong, hình ảnh Robert Ford cứ ám ảnh tôi, gợi nhiều suy nghĩ, và tôi xin phép được chia sẻ đôi điều ở đây.
Tuy không được truyền thông đại chúng nói tới bao nhiêu nhưng Robert Ford thật đáng chú ý, có lẽ vì ông đại diện cho một “cách làm người” khác. Cái cách của những gã “giang hồ” rời bỏ nước mình, sống, làm việc và sẵn sàng chết cho chính nghĩa ở một nước khác.
Nhưng đó mới chỉ là một vế, vì giang hồ cũng có năm bảy đường. Ford gợi nhớ đến con đường của những người nổi tiếng khác trong “giới”, tuy được truyền thông đại chúng tung hô, nhưng chưa hẳn đã thực sự xứng đáng, hoặc cần, chú ý.
Đường của Ché Guevara là một:
Ché sinh ở Argentina, làm bạn và làm cách mạng với Fidel Castro ở Cuba, rồi làm tiếp cách mạng ở Congo, Bolivia, cuối cùng chết ở Bolivia. Mặc dù trong thời Chiến tranh Lạnh, Ché trở thành một thứ James Dean của cách mạng (Ché cũng chết trẻ, lúc 39 tuổi), và được “phong thánh” (trẻ em Cuba mỗi sáng đều đọc câu “em mơ thành Ché”), con người thật của người hùng này ngày càng lộ rõ:
“Guevara không phải là một chàng lãng mạn theo đạo Chúa, mà là một tay Mác-xít tàn nhẫn và giáo điều, cũng không đại diện cho giải phóng, mà là đại diện cho một nền độc tài chuyên chính mới. Ở Sierra Maestra [Cuba] ông cho bắn bỏ những kẻ bị tình nghi là phản bội cách mạng; sau chiến thắng, Castro giao cho ông chịu trách nhiệm đội xử bắn, tử hình ‘những tên phản cách mạng’; khi làm bộ trưởng công nghiệp [Cuba], Guevara cổ xúy chính sách truất hữu triệt để, tịch biên đến miếng đất nông nghiệp cuối cùng, đến cửa hàng tư nhân cuối cùng. Việc ông cổ vũ cho chiến tranh du kích, bất kể tình hình chính trị có phù hợp hay không, đã đẩy hàng ngàn thanh niên Châu Mỹ La Tinh đầy ắp lý tưởng vào chỗ chết, đã giúp dựng nên các chế độ độc tài tàn ác và làm trì hoãn tiến trình đi đến dân chủ.” [i]
Ford khác Ché ở nhiều điều. Một điều nhỏ là Ford cũng từng “phượt” đó đây trên mô-tô như Ché, nhưng trong khi nhật ký mô-tô của Ché trở thành best-seller một thời, được làm phim, thì Ford phượt rồi lại chán, và ông quyết định không đi nữa, mà ở lại Tây Tạng, ngay khi quân xâm lược Trung Quốc tràn vào. Có lẽ, “ở lại” trong trường hợp này mới là thứ “giang hồ” tuyệt đỉnh.
3.
Cũng có một con đường giang hồ khác, của một người phương Tây khác, tên là Heinrich Harrer (1912-2006), nhà leo núi thám hiểm người Áo, có mặt ở Tây Tạng cùng thời với Ford, trước khi Trung Quốc xâm lăng. Chuyện của Harrer được kể lại trong phim Seven Years in Tibet (Bảy năm ở Tây Tạng), do tài tử Brad Pitt điển trai giữ vai chính, và Jean-Jacques Annaud đạo diễn (Annaud cũng là đạo diễn phim L’Amant (Người tình) quay tại Việt Nam).
Nếu so với Ford thì chuyện của Harrer quá bình yên và bình thường. Nhưng vì sao Harrer lên phim, Ford thì chìm? Câu trả lời có lẽ nằm ở công thức sản xuất phim theo kiểu Hollywood: Phương Tây thích làm phim về nước ngoài nếu, và chỉ nếu, có người phương Tây trong phim, nhất là ông Tây này phải giữ một vai trò “chiếu trên”, như góp phần “khai hóa” dân bản xứ chẳng hạn (hoặc trong trường hợp phim Người tình, nhân vật nữ phương Tây đã làm anh da vàng… điêu đứng). Hình tượng đó kín đáo làm khán giả phương Tây thấy thỏa mãn “tự ái dân tộc” hơn, và như thế sẽ mua vé xem phim nhiều hơn. Chuyện của Harrer đáp ứng điều này, ông là “thầy” dậy Anh văn, và nhiều thứ khác của phương Tây, cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Còn Ford, dù rất hay, lại là chuyện của một ông Tây hòa vào đám đông, và bị những tên cai tù (da vàng) trù dập. Harrer cũng giang hồ, nhưng là giang hồ “cung đình”, trong khi Ford là giang hồ… “chìm”.[ii]
4.
Con đường của Robert Ford Tây Tạng – tên rất dễ nhầm với Robert Redford, tài tử thành công trong phim Out of Africa (Rời Phi Châu) – gợi ra hình ảnh của một thiền sư rời chùa, rời tháp ngà, xuống núi, “thõng tay vào chợ”.
Có lẽ, với Ford, và những người như ông, sống – gồm cả sẵn sàng hy sinh để sống cho ra hồn – là một chọn lựa hoàn toàn có ý thức và tự nguyện, chứ không phải một phản xạ thụ động và đối phó. Họ sống thật với mình, chứ không “diễn” cho người khác xem và sung sướng vì mình long lanh trong mắt người khác. Và vì không diễn nên họ thanh thản như không. Thấy họ “hay” cũng được, bảo họ “ngu” cũng xong. Chuẩn mực xã hội không đo được họ.
Sau này, Robert Ford phục vụ cho Bộ Ngoại giao Anh, có lúc đã làm việc ở Việt Nam. Về hưu, ông đấu tranh cho Tây Tạng. Ông từng sắp xếp để Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp hoàng gia Anh. Và Lạt Ma đã đích thân chủ trì lễ tưởng niệm khi Ford qua đời. Tháng ba năm nay, chính quyền lưu vong Tây Tạng đã trả lại cho ông khoản lương còn thiếu từ năm 1950, tương đương 100 đô-la. Rất có thể loài người cũng nợ những người như Ford một khoản “lương” nào đó, chỉ vì họ tồn tại.
Tôi tin những gã giang hồ một mình như thế. Họ vẫn đang lang bạt đâu đó, giữa núi rừng, hoang mạc, ruộng đồng, làng chài hay phố thị. Họ có thể ngồi uống trà đá hay bia hơi ở bàn cạnh tôi trong quán bình dân tối qua, hay cọ vai vào bạn trên chuyến xe buýt vượt qua con đường nhiều ổ gà sáng nay.
______________
Robert Ford, người Anh, chuyên viên radio Tây Tạng Tự do, qua đời ngày 20/9, thọ 90 tuổi.
So với những quan chức khác của chính quyền Tây Tạng, ông dường như một mình một cõi. Áo không nâu sồng, tóc không kết bím, tai không khoen dài. Ngược lại, ông để tóc húi cao sau gáy và trên tai, lại mặc bộ quần áo vét cứng đờ, rất khó cho người mặc khom sâu cúi chào, ngồi chéo chân trên đất, hay co chân leo lên lưng ngựa. Ngoài đường, ai nấy chăm chăm nhìn tóc ông hoe hoe vàng. Những bạn thân người Tạng cũng không dám dùng chung dầu gội của ông, vì sợ dùng xong tóc họ cũng sẽ vàng hoe hoe như thế.
Robert Ford được người Tây Tạng mướn vào năm 1948 để dựng nên hệ thống thông tin hiện đại cho Tây Tạng: ít nhất là hiện đại hơn những con đường mòn in chân lừa đi, ngoằn ngoèo vắt ngang những dãy núi cao nhất thế giới. Việc của ông, với lời chúc phúc của Đạt Lai Lạt Ma, là gắn kết khu vực trọng yếu Chamdo ở phía đông với thủ đô Lhasa, và kết nối Tây Tạng với thế giới bên ngoài. Vô tình, ông cũng giúp Tây Tạng phần nào đứng vững như một đất nước tự do trước những đợt tấn công xâm nhập của Trung Quốc. Người dân Tây Tạng gọi ông là Phodo Kusho (Ford Esquire, Ngài Ford). Còn người Trung Quốc, khi bắt được ông, lại gọi ông là gián điệp tay sai đế quốc.
Cuộc sống của ông ở Chamdo thật lạ lùng, nhưng cũng rất khắc nghiệt. Ông phải gắng uống vô số những tách trà bơ, và loại bia “chang” khó nhằn đặc sản. Một lá thư gửi về Anh mất năm tuần mới đến, ngay một thông điệp gửi đến Lhasa cũng mất 15 ngày. Nhưng kết nối qua radio không chuyên lại giúp ông quen biết nhiều bạn bè trên thế giới, và trong một lần may mắn, ông quen được một anh thợ may cùng quê hương Burton-on-Trent. Nhờ vậy, khi điều kiện cho phép, ông có thể nói chuyện với bố mẹ vào mỗi thứ tư.
Huấn luyện cho người dân Tây Tạng hiểu radio là gì còn khó hơn. Người bình dân cứ tìm “cái ông nằm trong cái hộp”; các quan chức cao cấp thì cứ hay cúi mình trước micro và choàng khăn trắng cho micro để tỏ lòng tôn kính. Ở Chamdo, cũng chẳng mấy ai có đồng hồ để có thể hẹn giờ nghe đài. Thay vào đó, ông phải tính giờ truyền thanh của mình theo vị trí mặt trời lên xuống.
Khi quân đội Trung Quốc xâm lăng Tây Tạng vào năm 1950, ông được yêu cầu treo những giải cờ cầu nguyện lên cột ăng-ten phát thanh, vì để chống lại súng máy và đại pháo của quân Trung Quốc, người dân Tây Tạng hầu hết chỉ biết khẩn cầu thần thánh. Họ sợ máy bay trên trời có thể khuấy động các vị thần trên tầng cao. Ford tham gia những nghi lễ ông có thể tham gia, nhưng chưa bao giờ thấy mình là một phần của tôn giáo nơi đây. Có lẽ ông không chỉ là người Anh cô đơn nhất trên thế giới, như ông viết, mà còn là người Thiên Chúa giáo cô độc nhất.
Vào tháng 10, 1950, Chamdo thất thủ. Phodo Kusho lúc ấy có thể bỏ trốn khỏi Tây Tạng, nhưng không, ông đến Tây Tạng để phiêu lưu mạo hiểm kia mà – sau khi đã không thỏa mãn với những cuộc phiêu lưu phượt trên mô-tô, hay làm huấn luyện viên phát thanh cho RAF (Không lực Hoàng gia Anh), hoặc khi được phái đến làm việc tại Ấn Độ năm 1943. Bên cạnh đó, ông thấy không thể bỏ rơi các nhân viên, cũng là những người bạn Tạng của mình. Ít nhất, việc ông ở lại cũng góp phần cho thế giới bên ngoài biết rằng Tây Tạng đã không buông xuôi hay ngoan ngoãn đầu hàng. Ông đến Lhasa bằng cách vượt một chặng đường 4.500 mét xuyên qua những khe núi vách đá dựng đứng, phần lớn trong đêm, để rồi đến cuối đường, ông lại lọt vào tay quân Trung Quốc phục sẵn. Ông bị tống giam, trải qua không biết bao nhiêu cuộc tra vấn suốt năm năm trời.
Cai ngục đinh ninh rằng ông đã đầu độc Lạt Ma Geda, tu sĩ Tây Tạng thân Trung Quốc. Thực ra thì Ford đã không chịu chữa trị cho Geda, dù ông là “thầy thuốc” tốt nhất có được lúc bấy giờ ở Chamdo, nhờ ông học cứu thương khi còn là hướng đạo sinh; ngược lại, các thầy tu lo chữa bệnh cũng chỉ có thể đề xuất cách điều trị tốt nhất cho Geda là uống nước tiểu của Đạt Lai Lạt Ma.
Ngoài ra, hoạt động phát thanh của ông cũng làm cai tù Trung Quốc nghĩ ông là gián điệp, một việc ông không hề liên quan. Họ lập luận rằng: Nước Anh sẽ phản ứng thế nào, nếu Trung Quốc cử người đến xúi giục ly khai ở xứ Wales? Còn những thông điệp mã hóa kia trong báo cáo hàng ngày của ông có nghĩa là gì, chẳng hạn như dòng mật mã “SRI OM CONDK PR”? Ford cố giải thích: đó chẳng qua là “Sorry old man, conditions poor” (Xin lỗi bố già, tình hình bết bát quá). Kẻ tra vấn ông phản bác lập tức: “Bố láo! “Sorry” mà đánh vần thế à?”
Tôi trung của các vị
Quân Trung Quốc không giết ông. Thay vào đó, họ cố biến ông thành người cộng sản thuần thành bằng những cuộc tra tấn tâm lý liên tiếp. Điều kiện giam giữ khắc nghiệt dần, cho đến khi ông bị biệt giam trong căn phòng dưới gầm cầu thang đầy chuột. Khủng bố tinh thần cũng ngày càng tăng cường độ, cho đến khi cứ mỗi sáng thức dậy, ông lại bụng bảo dạ không biết hôm nay người ta có đem mình ra bắn bỏ hay không. Lần hồi, ông biết chắc rằng chỉ còn cách nhận tội (dù là nhận một cách giả tạo và chỉ nhận một phần) mới có thể thoát chết và đầu óc không phát điên. Thế là ông tự nạp vào đầu mớ ngôn ngữ Mao-ít, cũng leo lẻo lên án chủ nghĩa đế quốc, cũng tự phê, tự thú đã phạm tội trong tư tưởng ra sao. Không chỉ phải làm tất cả những thứ ấy, ông còn phải cho thấy mình “thành khẩn, chấp hành đường lối, và trên hết là thật tình cải tạo” ra sao.
Sau bốn năm, ông được phép viết thư cho bố mẹ vốn nghĩ rằng ông đã chết rồi. Một năm sau, ông được xem là đã cải tạo xong, và bị trục xuất qua Hong Kong. Ở Hong Kong, ông biết tin “một nhóm những con người dũng cảm đã chinh phục ngọn Everest”, chứ ngọn núi không được chinh phục “nhờ Đảng quang vinh hoặc nhờ Mao Chủ tịch vĩ đại”. Ông bắt đầu giải độc đầu óc mình, làm lại từ đầu.
Sau này, lúc nghỉ hưu, rời khỏi công việc trong ngành ngoại giao nước Anh, ông trở thành người đấu tranh rất mạnh mẽ và thẳng thắn cho quyền lợi Tây Tạng. Qua nhiều năm, vị thế của ông trở nên quan trọng: Ông là nhân chứng phương Tây duy nhất còn sống sót đã sống tận nơi, xem tận mắt đất nước Tây Tạng trước khi Trung Quốc xâm chiếm, ông cũng ở vị trí rất tốt để phản bác lại những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của kẻ chiếm đóng: Thì đúng rồi, Trung Quốc đã cải thiện được mức sống cho dân; thì đúng rồi, tiến bộ của nước Tây Tạng cổ xưa đã diễn ra, tuy hơi chậm chạp; nhưng theo ông, “không thể lấy một người máy, dù no nê khỏe mạnh, để thay thế một con người.”
Bạn của ông, đức Đạt Lai Lạt Ma hiện tại, đã chủ trì nghi lễ tưởng niệm ông. Trước đó vài tháng, ông đã trở thành một trong số ít người ngoại quốc làm công chức cho chính quyền Tây Tạng được tặng danh hiệu cao quý nhất của đất nước này, Giải thưởng Ánh sáng từ Sự thật. Và ông cũng được trả nốt số lương còn sót lại là một tờ 100 srang mà chính quyền Tây Tạng nợ ông từ trước khi ông bị bắt.
Ảnh: Robert W. Ford khi bị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bắt năm 1950.
Nguồn: “Robert Ford”, The Economist, số ra ngày 5 tháng 10, 2013. Tựa của người dịch.
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
________________________________________
[i] “Che Guevara – A modern saint and sinner. Why the Che myth is bad for the left” (Ché Guevara – thánh nhân và tội nhân kiểu mới. Vì sao huyền thoại Ché không tốt cho cánh tả), The Economist, số ra ngày 11 tháng 10, 2007.
[ii] Cả Harrer và Ford đều được Đức Đạt Lai Lạt Ma trao Giải Ánh sáng từ Sự Thật”. Harrer nhận giải năm 2002, vì nỗ lực của ông trong việc trình bày cho thế giới biết tình hình Tây Tạng. Ford nhận giải vào tháng 4, năm 2013, vì “không ngừng vận động cho chính nghĩa Tây Tạng trong hơn nửa thế kỷ”.
Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013
Tony Judt - “Mày giả vờ làm việc, tao giả vờ trả lương!”
Tony Judt
Phan Trinh dịch
Giới thiệu của người dịch:
Đây là đoạn cuối Chương 18 cuốn Post War của Tony Judt. Sau khi bàn về trí thức Tây Âu và Đông Âu, tác giả nói về nền kinh tế bế tắc và vờ vịt tại Đông Âu, bối cảnh của những biến động chính trị và xã hội dẫn đến cách mạng 1989 lật đổ cộng sản.
Nếu nghịch lý là gốc của cái hài thì nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể được xem như một vở kịch khôi hài đen, dù đỏ ngầu. Trong những vở đỏ đen nhiều tập kia, Tony Judt nhắc đến hai quái tật chết người của chế độ, ở Đông Âu trước đây, và cũng không khó thấy ở cả Việt Nam lâu nay, có thể tóm tắt nôm na như sau:
1. Lỗ vẫn làm: Thay vì kinh tế định đoạt chính trị như người cộng sản vẫn nói, chính trị cộng sản lại xúi bậy kinh tế. Kinh tế không xuất phát từ nhu cầu người tiêu dùng mà từ ý chí chủ quan của bề trên. Trên bảo sao dưới nghe vậy, làm khác là mất việc, phản biện thì phớt lờ, phản đối thì bỏ tù. Hậu quả là lỗ vẫn làm. Ở Việt Nam, những vụ như Boxit, Vinashin, rừng phòng hộ, điện hạt nhân, đường sắt cao tốc, 16 chữ… là những ví dụ của lỗ vẫn làm, càng làm càng lỗ, hoặc thấy lỗ mà/là cứ đâm đầu vào. Không chỉ lỗ tiền, còn lỗ cả mạng người, môi trường, lãnh thổ, cả sinh mạng Đảng.
2. Sai không sửa: Tất cả những thất bại, vờ vịt của nền kinh tế kia Đảng biết cả nhưng vẫn im lặng, như một nấm mồ. Đảng không dám phẫu thuật, chỉ dám dùng thuốc giảm đau tại chỗ. Thực ra, khi kinh tế đã đan xen vào chính trị thành một “khối thống nhất” thì đứt dây động rừng, sửa sẽ sụp. Học thuật thì nói như Tony Judt: Giữa hai cái xấu, Đảng chọn cái xấu ít hơn. Huỵch toẹt thì cũng có thể nói rằng: Đảng rất hiểu cố đấm ăn xôi là xấu, nhưng vẫn đỡ xấu hơn, đỡ đau hơn và khó chết hơn là thực tâm thay đổi. (Chẳng lạ, bao nhiêu kiến nghị, phản biện, góp ý của trí thức Đảng cứ giả vờ như không có. Hóa ra, những kiến nghị kia không đánh thức được Đảng mà đánh thức xã hội dân sự.) Nhưng, cũng như ung thư không chữa, Đảng đang sống ở giai đoạn cuối, Judt gọi là mượn thời gian để sống, được ngày nào hay ngày ấy, dân gian gọi là chờ chết.
Tiến là thoái
Đề tài mà các trí thức phản kháng ít bàn tới chính là kinh tế. Điều này cũng là một phản ứng thực tế. Kể từ thời Stalin thì tăng trưởng kinh tế, hay đúng hơn là tăng trưởng công nghiệp, vừa được xem như mục tiêu vừa được xem như thước đo mức thành công của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế, như trình bày trong Chương 13 cuốn sách này, là ưu tiên hàng đầu của thế hệ trí thức cải cách thời kỳ đầu: nó phản ánh nỗi ám ảnh của chế độ cộng sản và một quan điểm, được cả người theo lẫn không theo chủ nghĩa Marx đồng tình, rằng mọi động thái chính trị chung quy cũng chỉ là vì kinh tế mà thôi. Vì vậy, có thể nói trong giai đoạn 1956-1968 lúc Đông Âu loay hoay tìm cách tự cải tổ, phản biện để cải cách kinh tế chính là hình thức đối lập tốt nhất có thể có, dù là đối lập trong vòng “lễ giáo”.
Nhưng đến giữa thập niên 1970, những người thông thạo tình hình đã không còn dám hy vọng nền kinh tế khối Xô-viết có thể tự cải tổ từ bên trong, và lý do không chỉ vì lý thuyết kinh tế Mác-xít đã sụp đổ sau nhiều thập niên bị lạm dụng tàn tệ, mà còn vì nguyên nhân khác. Từ năm 1973, nền kinh tế các nước Đông Âu thụt lùi rất xa so với Tây Âu, không bằng cả mức tăng trưởng chậm lúc suy thoái của Tây Âu. Ngoại trừ Liên Xô có nhiều mỏ dầu mang lại ngoại tệ, nhất là khi dầu tăng giá, thì nạn lạm phát trên thế giới vào thập niên 1970 và việc “toàn cầu hóa” thương mại và dịch vụ vào thập niên 1980 ở phương Tây đã đẩy nền kinh tế các nước khối Xô-viết vào thế bất lợi không thể khắc phục. Nếu vào năm 1963 hoạt động ngoại thương của các nước Khối Comecon (Đông Âu) đạt mức 12% tổng lượng ngoại thương toàn cầu, thì đến năm 1979 con số này lại rớt xuống chỉ còn 9% và còn nhanh chóng sụt giảm hơn nữa.[i]
Các nước khối Xô-viết không thể cạnh tranh về chất lượng với các nền kinh tế phương Tây. Cũng không nước nào, ngoại trừ Liên Xô, có nguồn nguyên liệu thô ổn định để bán cho phương Tây, vì vậy, họ không thể cạnh tranh cả với những nước kém phát triển nhưng giàu tài nguyên trên thế giới. Tính khép kín của khối Comecom còn khiến các nước này không thể tham gia những mạng lưới thương mại mới hình thành của Tây Âu, hoặc tham gia Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Họ cũng không thể điều chỉnh nền kinh tế cho phù hợp với giá cả thị trường thế giới mà không làm người tiêu dùng trong nước phải nổi đóa (như đã xảy ra tại Ba Lan năm 1976).
Ý thức hệ xúi dại
Khuyết điểm làm lụn bại các nền kinh tế cộng sản lúc này chính là sự bất lực thâm căn do ý thức hệ xui khiến mà ra. Vì duy ý chí, quyết liệt tập trung sản xuất sản phẩm công nghiệp cơ bản nhằm đáp ứng công cuộc “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, khối Xô-viết đã bỏ lỡ chuyến tầu đưa nền kinh tế từ sản xuất hàng loạt qua sản xuất chuyên sâu giá trị cao, vốn đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo các nền kinh tế phương Tây vào thập niên 1960 và 1970. Họ cố bám vào mô hình kinh tế đã quá cũ kỹ, nhìn là nhớ đến Detroit hoặc Ruhr vào thập niên 1920, hoặc thậm chí cả Manchester cuối thế kỷ 19.
Vì vậy Tiệp Khắc, nước có rất ít quặng sắt, vào năm 1981 vẫn phải trở thành quốc gia đứng thứ ba thế giới (tính theo đầu người) về xuất khẩu thép. Đắng hơn nữa là Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) lúc đó cũng đang lên kế hoạch sản xuất lớn những sản phẩm công nghiệp nặng đã hoàn toàn lỗi thời. Chẳng khách hàng đủ tỉnh táo nào lại muốn đi mua thép Tiệp Khắc hoặc máy móc Đông Đức, trừ khi được trợ giá cực rẻ, nên rút cuộc các sản phẩm này càng sản xuất, càng bán, càng lỗ vốn. Hậu quả là các nền kinh tế kiểu Xô-viết thay vì tạo ra giá trị thặng dư, lại tạo ra giá trị âm trừ. Thật vậy, nguyên liệu thô mà họ nhập khẩu hoặc khai thác từ lòng đất có giá trị còn cao hơn thành phẩm được làm từ nguyên liệu thô.
Ngay cả trong các lĩnh vực có ưu thế cạnh tranh, cách làm kinh tế kiểu Xô-viết cũng gây thiệt hại lớn. Trong khi Hungary được Comecon chọn là nơi sản xuất xe tải và xe buýt, Đông Đức vào thập niên 1980 được phân công sản xuất máy vi tính. Nhưng, khôi hài không chỉ ở chỗ máy vi tính do Đông Đức sản xuất không đáng tin cậy và cổ lỗ sĩ về chất lượng, hệ thống kinh tế tập trung còn khiến họ không thể sản xuất đủ số lượng. Trong năm 1989, Đông Đức (dân số 16 triệu) chỉ sản xuất được số máy vi tính bằng 1/5 số máy sản xuất tại Áo (dân số 7,5 triệu), trong khi Áo cũng chỉ là một đối thủ hạng ruồi trên thị trường sản xuất máy vi tính quốc tế. “Ưu thế cạnh tranh” ở đây rất tương đối: Đông Đức chi hàng triệu Đức-mã cho việc sản xuất những sản phẩm chẳng ai muốn dùng, trong khi thị trường thế giới đang có những sản phẩm tương tự với chất lượng tốt hơn và giá rẻ hơn.
Vâng ý trên
Thủ phạm gây ra tất cả những yếu kém này chính là quy hoạch tập trung, vốn chứa đầy khuyết tật bẩm sinh. Cuối thập niên 1970, Gosplan (Ủy ban Kế hoạch Nhà nước), cơ quan hoạch định kinh tế trung ương của Liên Xô, có đến 40 ban ngành kinh tế khác nhau và 27 ủy hội kinh tế hoạt động riêng biệt. Các quan chức đã bị con ngáo ộp chỉ tiêu ám ảnh nặng đến nỗi họ luống cuống đưa đại ra những chính sách nghe là cười. Giáo sư Timothy Garton Ash, chuyên nghiên cứu Đông Âu, nhắc đến chuyện khôi hài này tại Đông Đức: Trong “Kế hoạch Kinh tế Nhân dân Quận Prenzlauer Berg”, khi nói về chỉ tiêu trong việc cải tổ thư viện, người ta đã hồ hởi quy hoạch rằng “Số lượng sách lưu trữ trong các thư viện phải tăng lên từ 350.000 đến 450.000 quyển, và số lượt mượn sách phải tăng lên 108,2%”.[ii]
Hệ thống giá cả cố định cũng khiến không thể xác định được đâu là giá đúng, đâu là mức cầu, đâu là chỗ cần điều chỉnh khi tài nguyên thiếu hụt. Quản lý các cấp đều sợ rủi ro, sợ sáng tạo vì sợ không đạt chỉ tiêu trước mắt. Thực ra, họ cũng chẳng có động lực nào để làm khác đi: họ biết dù bất lực đến đâu, họ vẫn sẽ ngồi ở vị trí đang có, nhờ chủ trương nổi tiếng “ổn định cán bộ” (áp dụng từ 1971 về sau) được Brezhnev rất ưa thích. Trong khi đó, để đảm bảo chỉ tiêu bề trên định sẵn, các đốc công và giám đốc nhà máy sẵn sàng che giấu thông tin về vật liệu và lao động dự trữ trước mắt chính quyền. Phí phạm và khan hiếm, tưởng như đối nghịch, đã trở thành một cặp bài trùng dung dưỡng nhau.
Nịnh hót lên ngôi
Một hệ thống như thế rõ ràng không chỉ khuyến khích sự trì trệ, yếu kém, mà còn thúc đẩy một vòng quay tham nhũng liên hoàn không thể ngừng. Đây là một trong những nghịch lý của chủ nghĩa xã hội khi cho rằng chỉ có tư sản mới nhiều tham nhũng. Quyền lực, chức vụ và đặc quyền đặc lợi tuy không thể mua bán trực tiếp nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào mối quan hệ trao đổi qua lại giữa chủ và khách. Quyền hạn do luật pháp quy định bị gạt qua một bên, thay vào đó là sự nịnh hót, và kẻ nịnh hót lại được tưởng thưởng bằng công việc ổn định và cơ hội tiến thân. Chỉ để có được những thứ bình thường và hợp pháp như thuốc men trị bệnh, nhu yếu phẩm, quyền đi học, người dân cũng buộc phải bẻ cong luật pháp bằng hàng loạt chiêu trò, tuy nhỏ nhặt nhưng rất xúc phạm nhân cách.
Hậu quả là cách ứng xử vừa bất tín vừa bất cần gần như trở thành chuẩn mực trong những năm này. Một ví dụ tiêu biểu: Các xí nghiệp sản xuất máy kéo hoặc xe tải đã không quan tâm sản xuất cho đủ phụ tùng, đơn giản vì họ có thể nhanh chóng đạt chỉ tiêu khi sản xuất các cỗ xe to lớn kia hơn. Bi kịch là khi những cỗ xe này hư hỏng thì không tìm đâu ra phụ tùng thay thế. Những con số chính thức được công bố chỉ nêu ra tổng số máy móc các loại được sản xuất trong một lĩnh vực nhất định, chứ không chú ý đến chuyện còn bao nhiêu máy móc chạy được. Thông tin trên giấy thì mập mờ, chỉ hỏi công nhân mới biết thật mọi chuyện.
Làm giả, lương giả, chợ giả
Thay cho những khế ước xã hội đường hoàng, ở đây lại là sự đồng lõa xã hội xã hội chủ nghĩa, và tình trạng này được diễn tả qua câu châm biếm cay độc: “Mày giả vờ làm việc, tao giả vờ trả lương”. Nhiều công nhân, nhất là lao động chân tay, cũng có lợi trong tình trạng này, vì họ được hưởng những khoản an sinh xã hội trong khi chẳng cần làm việc bao nhiêu. Cuốn Tự điển Chính trị Bỏ túi của Đông Đức đã mô tả tình trạng vừa kể một cách vô tình nhưng thật mỉa mai qua câu sau đây: “Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự khác biệt giữa giờ làm việc và giờ rảnh rỗi, vốn gay gắt trong xã hội tư bản, không còn nữa.”
Hai lãnh vực duy nhất tương đối có hiệu quả, trong một nền kinh tế cộng sản tiêu biểu, tính đến năm 1980, là công nghiệp quốc phòng kỹ thuật cao và cái được gọi là “nền kinh tế thứ hai” – tức các loại chợ đen cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Tầm quan trọng của nền kinh tế thứ hai này, tuy không hề và không thể được nhà nước công nhận, là bằng chứng cho thấy tình trạng bi thảm của nền kinh tế chính thức. Tại Hungary, vào đầu thập niên 1980, ước tính có tới 84.000 lao động lành nghề các loại hoạt động thuần túy trong khu vực tư nhân, đáp ứng đến gần 60% tổng nhu cầu về dịch vụ tại địa phương, từ nhu cầu sửa chữa ống nước cho đến nhu cầu mua dâm.
Thêm vào hoạt cảnh vừa kể một bên là việc canh tác nhỏ lẻ trên thửa đất gia đình của nông dân, và một bên là các xí nghiệp tư, hoạt động được nhờ công nhân tuồn nguyên liệu từ xí nghiệp nhà nước (gạch, dây đồng, chữ đúc…) rồi phù phép “chuyển đổi” cho sản xuất riêng, thì có được bức tranh tổng thể về chủ nghĩa cộng sản kiểu Xô-viết – rất gần với chủ nghĩa tư bản Ý – tức là chỉ tồn tại được nhờ nền kinh tế ngoài luồng.[iii] Đây là một mối quan hệ cộng sinh: nhà nước cộng sản chỉ duy trì được sự độc quyền trong khu vực công bằng cách chuyển qua khu vực tư tất cả những hoạt động và nhu cầu mà nhà nước không thể phủ nhận hay đáp ứng; trong khi đó, nền kinh tế ngoài luồng lại lệ thuộc vào khu vực công để có nguyên liệu, và cần hơn nữa chính là nhờ khu vực công bất lực nên khu vực tư mới có một thị trường béo bở, với những giá trị và lợi nhuận thổi phồng.
Ít con, nhiều rượu, chóng chết
Nền kinh tế tù đọng chính là lời nguyền rủa vận vào chủ nghĩa cộng sản vốn cho rằng mình hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Và nếu không là chất xúc tác cho hành vi đối lập, thì nền kinh tế kia cũng là nguồn gốc tạo nên bất mãn. Với hầu hết người dân dưới chế độ cộng sản thời Brezhnev, từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1980, cuộc sống tuy không đậm màu sợ hãi hay đàn áp nhưng lại là những chuỗi ngày xám xịt và buồn tẻ. Các cặp vợ chồng ngày càng sinh ít con hơn, nhưng họ lại rượu chè nhiều hơn – lượng rượu tiêu thụ tính theo đầu người tại Liên Xô tăng bốn lần trong những năm này – và chết sớm hơn. Những khu nhà tập thể trong các xã hội cộng sản không chỉ xấu xí về mỹ thuật, mà còn tồi tệ về chất lượng và gây khó chịu khi sử dụng. Nói cách khác, nhà tập thể nhếch nhác là chiếc bóng của nhà nước toàn trị tồi tệ đã tạo ra nó. Một tài xế taxi ở Budapest có lần vừa chỉ tay về những dãy nhà tập thể cao tầng ẩm thấp, bẩn thỉu, nằm xấu xí ở ngoại ô thành phố, vừa nói với người viết rằng: “Chúng tôi sống ở đó, trong mấy cái nhà đúng kiểu cộng sản kia kìa – hè thì nó nóng, đông thì nó rét.”
Như mọi thứ khác trong khối Xô-viết, nhà tập thể thường có giá rẻ (giá thuê trung bình khoảng 4% thu nhập một gia đình bình thường ở Liên Xô), cũng vì nền kinh tế không do giá cả mà do sự khan hiếm điều phối. Điều này có lợi cho nhà cầm quyền – việc phân phối độc quyền những mặt hàng luôn khan hiếm giúp duy trì sự thúc thủ của quần chúng – nhưng cũng chứa một rủi ro nghiêm trọng mà hầu hết giới lãnh đạo cộng sản đều hiểu rất rõ. Đến cuối thập niên 1960, khi mọi sự đã rành rành là những hứa hẹn về một tương lai “xã hội chủ nghĩa” rạng rỡ không đủ sức dụ dỗ dân chúng trung thành với chế độ nữa, các nhà lãnh đạo cộng sản đã đổi chiều, xem dân chúng như những người tiêu dùng và tìm cách thay thế xã hội không tưởng (xã hội chủ nghĩa) của ngày mai bằng những sung túc vật chất của ngày hôm nay.
Sao cũng được
Đó là chọn lựa rất có tính toán. Vasil Bil’ak, nhân vật bảo thủ có công cõng rắn cắn gà nhà đưa quân Xô-viết xâm lăng Tiệp Khắc năm 1968, trong lần phát biểu với Ban Tuyên giáo Đảng vào tháng Mười 1970 đã nói rằng: “Lúc đó (năm 1948), ta treo tranh cổ động ở cửa hiệu vẽ vời chủ nghĩa xã hội sẽ đẹp đẽ ra sao và quần chúng cứ thế tin như in. Nhưng đó là cơn lên đồng của một thời xưa rồi. Bây giờ, không thể cứ treo bánh vẽ nói về chủ nghĩa xã hội sau này nữa mà cửa hàng hôm nay phải chứa cho đầy hàng, để ta ghi vào thành tích là ta đang tiến tới chủ nghĩa xã hội, là ta đang có chủ nghĩa xã hội ngay tại đây.”[iv]
Rõ ràng nhà nước đã làm điều ngược ngạo là cố khuyến khích dân chúng xem chủ nghĩa tiêu thụ như thước đo thành công của chủ nghĩa xã hội. Điều này dĩ nhiên khác hẳn với nội dung của “cuộc tranh luận trong bếp” đình đám giữa Tổng Bí thư Liên Xô Khrushchev với Phó Tổng thống Mỹ Nixon vào năm 1959, khi Khrushchev nói với Nixon rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ qua mặt chủ nghĩa tư bản chẳng trong bao lâu nữa. Bil’ak – cũng như Kádár tại Hungary – không ảo tưởng như vị Tổng Bí thư kia. Ông hài lòng chấp nhận chủ nghĩa cộng sản là một bản sao mờ nhạt của chủ nghĩa tư bản, chừng nào có đủ hàng hóa làm người tiêu dùng hài lòng. Erich Honecker tại Đông Đức – lên làm lãnh tụ năm 1971, thay thế Walter Ulbrich, kẻ ra đi không ai thương tiếc – cũng vậy, ông chỉ hứa hẹn mang lại cho dân Đông Đức một phiên bản thu gọn của “phép lạ” kinh tế diễn ra tại Tây Đức vào thập niên 1950.
Phồn vinh giả, mệt thật
Chiến lược này thành công vừa phải trong một thời gian. Mức sống tại Tiệp Khắc, Hungary và Ba Lan được cải thiện trong thập niên 1970, ít nhất là khi đo bằng mức tiêu thụ hàng hóa bán lẻ. Số xe hơi và tivi, hai mặt hàng tiêu dùng tiêu biểu của thời kỳ này, tăng lên đều đặn: tại Ba Lan, số xe hơi tư nhân, tính bình quân đầu người trên toàn dân số, tăng bốn lần từ 1975 đến 1989. Đến cuối thập niên 1980 tại Hungary, trung bình cứ 10 người thì có 4 chiếc tivi; ở Tiệp Khắc cũng có số tương tự. Nếu người mua chấp nhận chất lượng kém, kiểu dáng nghèo nàn và không nhiều chọn lựa, họ có thể tìm được những gì mình muốn, không có ở cửa hàng nhà nước thì ra chợ đen. Tuy nhiên, ở Liên Xô, hàng hóa “ngoài luồng” khó tìm và tương đối đắt đỏ hơn.
Với nhu yếu phẩm, tình trạng cũng vậy. Vào tháng Ba 1989, một người tiêu thụ tiêu biểu ở Washington DC sẽ cần làm việc 12,5 giờ để mua một giỏ hàng nhu yếu phẩm chuẩn (gồm xúc-xích, sữa, trứng, khoai tây, rau củ, trà, bia,…). Một giỏ hàng tương tự sẽ tốn 21,4 giờ làm việc tại London, nhưng lại ngốn tới 42,3 giờ làm việc tại Moscow, mặc dù nhà nước đã trợ giá rất nhiều.[v] Chưa hết, người tiêu thụ ở Liên Xô và Đông Âu còn phải tốn nhiều thời giờ để tìm kiếm, chờ đợi mua thức ăn và những mặt hàng khác. Nếu không đo bằng đồng rúp [Nga], đồng crown [Tiệp Khắc] hay đồng forint [Hungary], mà đo bằng thời gian và công sức, thì có thể thấy đời sống dưới chế độ cộng sản vừa đắt đỏ vừa mệt mỏi.
Việc định nghĩa thành công của chủ nghĩa cộng sản bằng khả năng thỏa mãn nhu cầu cá nhân của người tiêu dùng cũng không dễ dàng, vì như trình bày ở trên, toàn bộ nền kinh tế đã được cài đặt để sản xuất lớn máy móc công nghiệp và nguyên liệu thô. Ngoại trừ thức ăn, các nền kinh tế cộng sản đã không sản xuất ra được những sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn (ngay sản xuất thức ăn họ cũng không hiệu quả bao nhiêu – Liên Xô từ lâu đã trở thành nước nhập khẩu gạo, đưa tổng số thực phẩm nhập khẩu tăng lên ba lần từ năm 1970 đến 1982). Cách duy nhất vượt qua trở ngại này là nhập khẩu hàng tiêu dùng từ nước ngoài, nhưng phải trả bằng tiền theo giá thị trường. Tiền chỉ có nhờ xuất khẩu, nhưng, ngoại trừ Liên Xô có dầu hỏa, thị trường thế giới chẳng quan tâm gì đến sản phẩm của khối xã hội chủ nghĩa, trừ khi chúng được bán với giá rẻ bèo, nhưng ngay cả khi bán với giá bèo, vẫn có trường hợp không ai mua. Cách thực tế nhất, cách duy nhất để các cửa hiệu có đủ hàng hóa cho người tiêu dùng tại phương Đông là vay tiền từ phương Tây.
Tư sản nuôi vô sản
Phương Tây đương nhiên sẵn sàng ra tay giúp đỡ. Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới và những ngân hàng tư nhân đều rất vui lòng cho các nước khối Xô-viết vay tiền, vì lý do: Hồng quân Liên Xô là bảo chứng đáng tin cậy cho ổn định lâu dài, thêm vào đó, quan chức cộng sản cũng đã biến hóa các số liệu về năng suất và tài nguyên nghe rất thuyết phục.[vi] Chỉ tính trong thập niên 1970, nợ nước ngoài của Tiệp Khắc đã tăng lên 12 lần. Tại Ba Lan, nợ nước ngoài tăng đến 3000% sau khi Tổng Bí thư Gierek và tay chân cho nhập ào ạt hàng hóa được trợ giá từ phương Tây, cùng lúc thực hiện các chương trình bảo hiểm xã hội mới rất tốn kém dành cho nông dân, và cho kềm giá thực phẩm ở mức giá năm 1965.
Thật khó lòng kiểm soát khi nợ lên đến mức vừa kể. Năm 1976, Gierek cho tăng giá thực phẩm tại Ba Lan thì bạo loạn giận dữ đã nổ ra nhưng lập tức bị dẹp tan, và chế độ đã không còn con đường nào khác ngoài tiếp tục vay mượn: từ năm 1977 đến 1980, 1/3 tiền Ba Lan vay từ nước ngoài được dùng để trợ giá cho hàng tiêu dùng trong nước. Các kinh tế gia cộng sản tại Praha, Tiệp Khắc, cũng khuyến cáo nên bỏ dần bao cấp và chấp nhận giá “thật”, nhưng các lãnh tụ chính trị của họ sợ hậu quả khó lường của biện pháp này nên cũng chỉ chọn cách vay mượn nhiều hơn nữa. Và, tương tự như những năm giữa hai thế chiến, lại một lần nữa các quốc gia nhỏ và dễ vỡ tại Đông Âu phải vay vốn từ phương Tây để vực dậy nền kinh tế tự cấp, và cũng để tránh né những chọn lựa còn khó khăn hơn nhiều.
Ngập nợ
Miklós Németh, thủ tướng cộng sản cuối cùng của Hungary, vài năm sau đó cũng phải công nhận những điều vừa kể. Khoản vay một tỉ Đức-mã từ Bonn, được chấp thuận vào tháng Mười 1987 và được các chính khách Tây Đức mô tả như một đóng góp cho công cuộc “cải cách” kinh tế của Hungary, thực ra đã không được dùng để cải cách kinh tế. Németh công nhận: “chúng tôi dùng 2/3 số tiền này để trả lãi, và phần còn lại dùng để nhập thêm hàng tiêu dùng, cho khủng hoảng kinh tế nhìn bớt xấu xí.” Năm 1986, thâm thủng thương mại của Hungary được nhà nước công bố là 1,4 tỉ đô-la Mỹ mỗi năm. Từ 1971 đến 1980, nợ nước ngoài của Ba Lan đã tăng từ 1 tỉ lên 20,5 tỉ đô-la Mỹ, và sau đó còn lên cao hơn nữa. Chính Đông Đức cũng tự nhận rằng trong những năm cuối cùng của chế độ họ đã dùng trên 60% tiền lãi nhờ suất khẩu hàng năm để trả lãi tiền vay của phương Tây (dù lãi suất đã được phương Tây cắt giảm rất hào phóng). Yugoslavia, một khách hàng thường được chiều chuộng (từ 1950 đến 1964, Mỹ đã bao trả đến 3/5 thâm thủng hàng năm của Belgrade) thì luôn nhận được những khoản cho vay rộng rãi và những cam kết hỗ trợ tức thời, tất cả đều dựa trên những số liệu khống, không có bất cứ liên hệ gì với thực tế.
Gộp chung, nợ nước ngoài của Đông Âu ở mức 6,1 tỉ năm 1971, đã tăng lên 66,1 tỉ vào năm 1980, và lên tới 95,6 tỉ đô-la Mỹ vào năm 1988[vii]. Con số vừa kể không bao gồm số liệu từ Rumani – vì Ceaușescu đã trả hết nợ vay nước ngoài nhờ đè đầu cỡi cổ vắt kiệt dân nước mình trong nhiều năm trời; con số cũng có thể cao hơn nếu Hungary không có những nhượng bộ về giá cả trong thập niên 1970. Nhưng ý nghĩa của tình trạng này thật rõ ràng: hệ thống cộng sản không chỉ vay tiền để sống, mà còn vay mượn cả thời gian. Không sớm thì muộn, chế độ cần phải thực hiện những điều chỉnh kinh tế, tuy sẽ đau đớn và làm xáo trộn xã hội.
Không thể sửa
Nhiều năm sau này, ông Markus Wolf, trùm gián điệp Đông Đức, có thể tự hào rằng vào cuối thập niên 1970, mình là người dám khẳng định Đông Đức đã “hỏng rồi”. Cũng không chỉ mình Wolf thấy điều này. Những nhà kinh tế như Tamás Bauer tại Hungary, và đồng nghiệp Ba Lan Leszek Balcerowicz, cũng rất hiểu tòa nhà cộng sản xây trên cát đang lung lay đến mức nào. Nhưng, chừng nào những nhà tư bản còn bảo kê nó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn tồn tại. “Thời kỳ trì trệ” (nói theo Gorbachev) dưới triều Leonid Brezhnev đã tạo ra rất nhiều ảo tưởng, và không chỉ là trong các nước cộng sản. Năm 1978, khi Báo cáo của Ngân hàng Thế giới khẳng định rằng Đông Đức có mức sống cao hơn cả Anh Quốc, thì có lẽ cả thằng Cuội trên cung trăng cũng phải lăn ra cười sặc sụa.[viii]
Nhưng, những người cộng sản hiểu nhiều điều mà các nhà tài chính ngân hàng phương Tây không tưởng tượng được. Cải cách kinh tế trong khối Xô-viết không phải là bị trì hoãn, mà là không thể được. Như Amalrik dự đoán trong cuốn Liệu Liên Xô có tồn tại đến năm 1984?, giới lãnh đạo cộng sản “thấy chế độ hiện tại tệ hại, nhưng vẫn đỡ tệ hại hơn là phải đau đớn thay đổi nó.” Cải cách kinh tế, dù chỉ là những điều chỉnh cục bộ nhất, mang lại hiệu quả nhỏ nhất, cũng sẽ đứt dây động rừng, có ảnh hưởng chính trị lập tức. Những sắp xếp kinh tế của chủ nghĩa xã hội không tạo ra những khu vực độc lập mà đan xen chằng chịt vào nhau tạo thành cả một hệ thống chính trị.
Không phải vô tình mà các nước chư hầu Liên Xô tại Đông Âu đều được cai trị bởi những ông trùm già, bảo thủ và cơ hội. Vào thời đại mới của chủ nghĩa thực dụng, những vị như Edward Gierek ở Warsaw (sinh 1913), Gustáv Husák ở Praha (sinh 1913), Erich Honecker ở Bá Linh (sinh 1912), János Kádár ở Budapest (sinh 1912) và Todor Zhivkov ở Sofia (sinh 1911) – chưa kể các vị Enver Hoxha ở Tirana (sinh 1908), và Josip Broz Tito ở Belgrade (sinh 1892) – đều là những vị có tính thực tế ở mức thượng thừa. Giống như Leonid Brezhnev – sinh 1906, bảy lần nhận Huân chương Lênin, bốn lần nhận danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô-viết, đoạt Giải Hòa bình Lenin, Tổng Bí thư, và từ 1977 kiêm luôn Chủ tịch Nước – các ông trùm này cũng chỉ già đi theo kiểu rất thường dân: Họ không có động cơ gì để tự làm khổ mình, ngược lại, họ có đủ ham muốn để được chết trên chiếc giường hiện có. [ix]
Chưa thể sụp
Mặc dù “chủ nghĩa xã hội trên thực tế” đã chứng tỏ sự bất lực và mất uy tín toàn diện nhưng điều này vẫn chưa làm chế độ sụp đổ. Aleksandr Solzhenitsyn, trong diễn văn nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1971 (diễn văn được đọc thay, vì ông vắng mặt), nói một cách hùng hồn rằng “một khi dối trá bị lật tẩy, bạo lực trần trụi sẽ lộ nguyên bộ mặt thô bỉ của nó, và rồi bạo lực, khi ấy đã đuối sức, sẽ sụp đổ tan tành.” Nhưng nhận định này đã không hẳn đúng. Sự trần trụi của bạo lực Xô-viết đã hiện nguyên hình từ rất lâu – và còn bị phơi trần lần nữa trong cuộc xâm lăng đầy thảm họa vào Afghanistan năm 1979 – bên cạnh đó, những dối trá của chủ nghĩa cộng sản cũng đã từng bước bại lộ và được giải mã vào những năm sau biến cố 1968.
Tuy vậy, chế độ cộng sản vẫn chưa sụp đổ. Có thể nói, đóng góp nổi bật của Lenin cho lịch sử Châu Âu là ông đã bắt cóc tinh thần cấp tiến của châu Âu, vốn có tính chia rẽ ly tâm, và biến nó thành một thứ quyền lực chính trị với một hệ thống kiểm soát độc quyền rất sáng tạo: thu gom thô bạo mọi quyền hành về một mối và dùng bạo lực quyết liệt để duy trì nó tại một chỗ. Hệ thống cộng sản có thể bị bào mòn vô hạn định ở ngoại vi [Đông Âu], nhưng yếu tố khiến nó cuối cùng sụp đổ chỉ có thể đến từ trung tâm của quyền lực [Moscow]. Trong câu chuyện về ngày tàn của chủ nghĩa cộng sản, những hoạt động đối lập mới, nở rộ trong giới trí thức tại Praha và Warsaw, có thể xem là đoạn kết cho một khởi đầu mới. Còn nhân tố lãnh đạo vừa xuất hiện tại Moscow mới chính là khởi đầu cho đoạn kết.[x]
Nguồn: Post War, Tony Judt, NXB Penguine Books, 2006, trang 577-584. Tựa và tiêu đề là của người dịch.
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
[i] Suốt thập niên 1980, Ba Lan và Tiệp Khắc rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng (“tăng trưởng” âm) – nền kinh tế các nước này thu nhỏ lại. Nền kinh tế của chính Liên Xô cũng đã co cụm lại từ năm 1979. (TG)
[ii] Timothy Garton Ash, The Uses of Adversity (NY, 1989), trang 9. (TG)
[iii] Trong nông nghiệp, phần lớn Liên Xô, Hungary, Rumani một lần nữa lại gợi nhớ tới tình trạng các đại trang trại vào thế kỷ 19: giới lao động nông nghiệp bị trả lương bèo bọt, làm việc cầm chừng, thiếu thốn dụng cụ nên chỉ làm tối thiểu cho những ông chủ vắng mặt, còn để dành sức cho công việc thật tại các thửa đất riêng của gia đình. (TG)
[iv] Xin cảm ơn Tiến sĩ Paulina về trích dẫn này. (TG)
[v] Dưới thời Brezhnev, một pound (khoảng nửa ký) thịt bò tốn 3,5 rúp để sản xuất nhưng chỉ được bán với giá 2 rúp. Cộng đồng Châu Âu cũng trợ giá cho người chăn nuôi, với tỉ lệ gần như tương tự. Sự khác biệt nằm ở chỗ Tây Âu có Chính sách Nông nghiệp Chung, trong khi Liên Xô thì không. (TG)
[vi] Hungary gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 1982, cả hai đều phấn khích chúc mừng nhau. Chỉ đến năm 1989, người ta mới biết chính quyền Hungary đã cố tình hạ rất thấp mức nợ trong và ngoài nước của thập niên trước đó. (TG)
[vii] Jeffrey D. Sachs, cố vấn kinh tế của chính phủ Ba Lan hậu cộng sản và nhiều nước trên thế giới, chủ trương rằng: Kinh tế các nước hậu cộng sản sẽ khó lòng phục hồi nếu cứ phải trả các khoản nợ do chế độ cũ để lại. Với nỗ lực vận động và tư vấn của Sachs, Thủ tướng Đức Helmut Kohl đã giúp xóa 50% nợ cho Ba Lan, tương đương 15 tỉ đô-la Mỹ, vào đầu thập niên 1990. Lý do để Thủ tướng Kohl thay đổi, từ phản đối qua đồng ý xóa nợ, là vì nước Đức cũng từng được đồng minh xóa những khoản nợ vay trước Thế chiến II. Chuyện xóa nợ được kể lại trong Chương “Poland’s Return to Europe” (Ba Lan trở về với Châu Âu) trong cuốn The End of Poverty (Chấm dứt nghèo đói), của Jeffrey D. Sachs, NXB Penguine Books, 2006. (ND)
[viii] Nguyên văn “Prince Potemkin must surely have smiled in his far-off grave” (Hoàng thân Potemkin có nằm trong mộ ở nơi xa lắc cũng phải mỉm cười). Potemkin (1739-1791) – nhà quý tộc, chính khách, nhà quân sự Nga, được phong tước Hoàng thân Đế quốc Nga – được nhắc đến ở đây như một kẻ phỉnh phờ, do giai thoại ông cho xây một ngôi làng giả tạo nhưng đẹp đẽ để gây ấn tượng khi Nữ hoàng Catherine II đến thăm. (ND)
[ix] Hơn nữa, cũng như Brezhnev, các vị này là những người tiêu dùng hàng đầu của thời đại họ đang sống. Một truyện tiếu lâm Xô-viết cùng thời kể rằng: Vị lãnh tụ Liên Xô một hôm khoe với mẹ các dacha [nhà nghỉ dưỡng ở đồng quê], biệt đội xe hơi, và các dãy nhà lưu trú mùa săn bắn của mình. Mẹ lãnh tụ khen: “Tuyệt đấy, Leonid!” Nhưng rồi bà lại lo: “Nhưng nếu bọn cộng sản trở lại nắm quyền thì sao con?” (TG)
[x] Tony Judt viết đoạn cuối này để dẫn nhập vào Chương 19 “The End of the Old Order” (Kết thúc trật tự cũ), chương nói về những yếu tố khác dẫn đến sự sụp đổ của cộng sản, trong đó nổi bật là vai trò của Gorbachev, vai trò của Giáo hoàng John Paul II, Công đoàn Đoàn kết, vụ Liên Xô sa lầy ở Afghanistan (khiến sau đó Liên Xô phải bỏ hẳn chủ trương xua quân sang Đông Âu, dù để cứu các chế độ chư hầu đang lâm nguy), thảm họa nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, những biến chuyển ở Kremlin, phản ứng của phương Tây… Chương 19 cũng nói về diễn tiến cách mạng 1989 tại các nước Đông Âu, trước khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Liên Xô năm 1991. (ND)
Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013
Tony Judt - Xa cộng sản, gần con người: Đi dây ở Đông Âu (1)
Tony Judt
Phan Trinh dịch
Bài liên quan: Xa cộng sản, gần con người: Bể dâu ở Tây Âu
Giới thiệu của người dịch:
Như Tony Judt trình bày trong phần trước, có thể nói vui rằng: so với đồng sự ở phía Đông, trí thức Tây Âu sướng thật, họ tự do, muốn theo cộng sản thì theo, muốn bỏ thì bỏ, muốn thậm thụt thì thậm thụt, chẳng chết anh Tây nào.
Ngược lại, ở Đông Âu và các nước tương tự, theo cộng sản cũng chết – chết lâm sàng, vì bám theo một chủ nghĩa sai lầm tất yếu vùi đất nước xuống dưới hầm tai vạ và cuối cùng vứt cả đảng vào hố rác lịch sử – nhưng không theo cũng chết, vì chế độ nắm trong tay cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, lẫn quân đội, công an, báo chí, luôn tự cho mình đúng và cưỡng bức mọi người tuân phục. Ai chống đối sẽ bị đẩy vào chỗ chết, chết ngay hay chết dần dần, trong tù, trong nhà thương điên, trong đồn công an, hay trên ruộng đồng, trên rừng, ngoài biển…
Trên đe dưới búa như thế nhưng những con người khát khao sự thật và có trách nhiệm với đồng loại vẫn cứ như mầm cây đội đất ngoi lên, vẫn cứ như nước len lách mọi kẽ hở để xuyên qua núi đá. Họ đi dây giữa hai bờ vực, dù có thể rớt bỏ mạng bất cứ lúc nào. Sợi dây họ bước lên trên cũng không thẳng một đường, mà cong cong, ngoài vòng chính trị.
Họ không đấu tranh, họ bảo vệ: bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền công nhân, bảo vệ dân oan bị ngược đãi, bảo vệ hòa bình… đôi khi nghe như bảo thủ. Hiến chương 77 ở Tiệp Khắc, KOR ở Ba Lan và những kiến nghị, tuyên ngôn, hành vi phi chính trị khác ra đời trong hoàn cảnh này. Họ làm những việc mình có thể làm, thay vì những việc mình muốn làm, hoặc cần phải làm, như người ở “đàng ngoài” thường cổ vũ.
Tên họ cũng khó gọi. Không ai thích được gọi là “phản kháng”, vì nghe chẳng khác gì lời mời “Tù ơi, mở cửa ra!” Người ngoài nhắc đến họ như những nhà bất đồng, nhà dân chủ, người phê phán, nhà phản biện, hay công dân tự do,… nhưng chế độ chỉ một mực xem họ là tội phạm, hoặc tội phạm sẽ thành.
So cả hai, có thể thấy trí thức sống trong lòng chế độ cộng sản và trí thức ở ngoài tuy có nhiều điểm tương đồng, nhưng không hẳn đã có cùng mẫu số. Trong bối cảnh Việt Nam, khoảng cách trong và ngoài không phải không có, dù giữa thời internet. Hy vọng rằng sự thấu hiểu sẽ xóa tan những ngộ nhận chủ quan của cả trong lẫn ngoài, bằng không thì người đang đi dây trong lòng chế độ, và cả người đang cố đi dây nối liền trong và ngoài nữa, sẽ rất dễ lãnh đạn từ cả hai phía.
Chính trị qua ngả “phi chính trị”
Năm 1975, ông Zdeněk Mlynář [i], một người cộng sản Tiệp Khắc phe cải cách, đã viết “Thư ngỏ, gửi bè bạn cộng sản và chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu”, kêu gọi họ lên tiếng chống đàn áp trí thức tại Tiệp Khắc. Việc làm nghịch lý này cho thấy rằng ảo tưởng về khả năng cộng sản tự sửa đổi quả là rất khó loại bỏ. Tuy nhiên, vào lúc đó, những người như Mlynář chỉ là thiểu số, niềm tin của ông vào chủ nghĩa xã hội và vào những cảm tình viên tại phương Tây đã làm kinh ngạc cả những trí thức phê phán chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu.
Những trí thức này, lúc đó chưa được gọi là những “nhà phản kháng” (từ ngữ mà bản thân người được mô tả không hề thích), hầu hết đều tránh giáp mặt chế độ, tránh xa cả thứ ngôn ngữ “xã hội chủ nghĩa” chế độ quen dùng. Sau những gì xảy ra năm 1968 [Liên Xô xâm lăng Tiệp Khắc, đè bẹp cải cách và đàn áp kéo dài], thì thứ ngôn ngữ kia, với những từ ngữ rôm rả như “hòa bình”, “công bằng”, “hữu nghị “, vốn đã xơ cứng, nghe lại càng giả dối hơn, nhất là với những người hoạt động tích cực trong thập niên 1960. Hầu hết trong số họ là sinh viên, học giả, nhà báo, kịch tác gia, nhà văn… nạn nhân chính trong những vụ đàn áp tại Tiệp Khắc, vào khi mà đảng, dưới quyền Gustáv Husák (ngài “chủ tịch hay quên”), tính toán chính xác rằng: hy vọng tốt nhất để lập lại trật tự là dùng những cải thiện vật chất để trấn an dân chúng, trong lúc vẫn phải tích cực trấn áp tiếng nói phản kháng và cả những ký ức về quá khứ.
Bị đẩy lui vào bóng tối, sống chui – cuộc sống chui đúng nghĩa trong trường hợp Tiệp Khắc, nơi rất nhiều giáo sư đại học và nhà văn phải làm nghề đốt lò, đun hơi – người bất đồng chính kiến rất khó dự phần vào những tranh luận chính trị với kẻ đàn áp mình. Thay vào đó, sau khi thoát vòng kim cô chữ nghĩa cộng sản và những tranh cãi loay hoay để cải thiện chế độ trong những thập niên trước, họ đã biến yếu thành mạnh và tập trung cổ xúy những đề tài phi chính trị. Trong những chủ đề này, nhờ vào Thỏa ước Helsinki, “quyền con người” trở thành chủ đề dễ khai thác nhất.
Luật ông đập lưng ông
Mọi bản hiến pháp trong các nước khối Xô-viết đều long trọng nhắc đến quyền công dân, bổn phận công dân; vì vậy, những quyền bổ sung được Hội nghị Helsinski thông qua đã trang bị cho những nhà bất đồng tại đây một lối đi thông thoáng có tính chiến lược. Nói theo sử gia Tiệp Khắc Petr Pithart, thì mục tiêu của những nhà bất đồng không phải là đòi thêm một vài quyền hạn mình chưa có – đòi như vậy chẳng khác gì mở đường cho chính quyền gia tăng đàn áp – nhưng là yêu cầu thực hiện những quyền hạn đã được công nhận và long trọng ghi trong luật pháp. Điều này tạo cho những người bất đồng một hình ảnh “đối lập” ôn hoà, thậm chí bảo thủ nữa, trong khi đẩy đảng cầm quyền về phía bị động.
Xem trọng từng chữ của luật pháp “xã hội chủ nghĩa” không chỉ là một thủ thuật hay chiêu thức khiến nhà cầm quyền cộng sản lúng túng, mà còn có ý nghĩa khác. Trong những xã hội khép kín, nơi mọi thứ đều được xem là chính trị – còn bản thân chính trị lại bị ngăn cấm – thì “quyền con người” mở ra một lối thoát, một khe hở xuyên qua bức màn bi quan đen tối bao phủ Đông Âu suốt “thập niên câm lặng 1970”, một dấu chấm hết cho nạn độc chiếm ngôn-ngữ-như-quyền-lực của chế độ. Hơn nữa, quyền cá nhân được ghi trong hiến pháp, về bản chất, là bằng chứng chính thức cho sự tồn tại của con người, và con người có những quyền hạn mà người khác và cả cộng đồng phải tôn trọng. Những quyền hiến định này xác lập một không gian tách bạch giữa một bên là những cá nhân tay trắng và bên kia là một nhà nước toàn năng.
Xã hội dân sự
Phong trào đấu tranh cho nhân quyền, như nhận định của Miklós Haraszti, một lý thuyết gia trẻ Hungary, xác nhận rằng điều cần thiết không phải là sửa đổi để có một chủ nghĩa cộng sản tốt đẹp hơn, mà là sự thiết lập, hay tái lập, một xã hội dân sự (“tư sản”). Cái nghịch lý trong việc bẻ ngược lộ trình của Marx, và thay thế xã hội xã hội chủ nghĩa bằng xã hội tư sản này, cũng là suy nghĩ của các trí thức tại Praha và Budapest. Như đồng nghiệp người Hungary của Haraszti, ông Mihály Vajda, giải thích thì: sự siêu việt của xã hội tư sản chắc chắn đáng mơ ước hơn “nền chuyên chính công dân, một kinh nghiệm lịch sử không thể chịu đựng được” ở nước họ.
Ý nghĩa lớn của nỗ lực tái lập xã hội dân sự – một ý niệm vẫn còn mơ hồ với mục tiêu không chắc chắn, nhưng được giới trí thức đối lập Đông Âu tán thành rộng rãi từ giữa thập niên 1970 trở về sau – nằm ở chỗ nó gián tiếp công nhận rằng sau những gì xảy ra vào năm 1968 thì khả năng tự cải tổ của đảng và nhà nước là một con số không to tướng. Ít ai thực sự chờ đợi lãnh tụ Husák ở Praha, hay Honecker tại Bá Linh, (quan chức Xô-viết thì càng không), sẽ thừa nhận tính chính đáng của những vận động cho quyền con người hoặc nghiêm chỉnh tôn trọng hiến pháp của chính họ. Nói về quyền con người trên lý thuyết là để minh họa rằng nó vắng mặt trên thực tế, là để nhắc mọi người trong và ngoài nước biết rằng những xã hội này mất tự do đến đâu. Thay vì tấn công trực diện vào nhà cầm quyền cộng sản, những người đối lập mới đã cố tình tâng bóng bổng qua đầu họ.
Václav Havel
Với những người bất đồng như Haraszti, hoặc Adam Michnik ở Ba Lan – tác giả luận văn “Chủ nghĩa tiến hóa mới”, một luận văn vạch ra hầu hết đường lối chiến lược của phe đối lập Ba Lan những năm sau đó – thì thời điểm giữa thập niên 1970 chính là bước ngoặt, tách rời hiện tại của họ với thời tuổi trẻ hăm hở đi theo chủ nghĩa Marx với những hứa hẹn kinh tế và xã hội các loại của nó. Với những người chưa hề bị lôi kéo vào các cuộc tranh cãi về chủ nghĩa Marx, như Václav Havel, thì sự chuyển đổi diễn ra dễ hơn nhiều. Là con của một doanh nhân giàu có tại Praha, gia đình bị nhà cầm quyền cộng sản tước đoạt tài sản năm 1948, Havel không có bất cứ sự phấn khích cách mạng nào như những bạn trẻ dấn thân cùng thời, ông cũng không giữ vai trò tích cực gì trong những cải cách dẫn đến biến cố 1968. Nhìn chung, quan hệ giữa Havel và chủ nghĩa cộng sản luôn nằm ở thế đối đầu, phần lớn là vì gốc gác tư sản của mình, nhưng chưa bao giờ đó là một quan hệ có màu sắc chính trị.
Nhưng rồi trải qua thập niên 1970 và 1980, sau khi bị quấy nhiễu, bắt bớ, vào tù vì các hoạt động của mình, Havel cũng đã trở thành một nhân vật chính trị tột bậc. Nhưng “thông điệp” của ông vẫn dứt khoát không có màu chính trị. Ông kiên định lập trường rằng không cần phải tranh cãi với nhà cầm quyền làm gì. Cũng chẳng cần, về cơ bản, nói hết sự thật, mặc dù biết rằng trong một chế độ được dựng trên dối trá thì điều này rất quan trọng. Điều duy nhất có ý nghĩa trong hoàn cảnh đó là “sống trong sự thật”, chỉ vậy thôi, còn mọi thứ khác đều là thỏa hiệp – ông cũng cho rằng: “Ngay việc thành lập một lực lượng chính trị cũng khiến người ta phải chơi trò chơi quyền lực, thay vì giương cao sự thật.”
Như Havel giải thích trong luận văn viết năm 1984 về mục tiêu và chiến thuật của phe đối lập còn non yếu tại Tiệp Khắc, thì mục tiêu chính là hành động độc lập, bất kể chế độ tìm cách áp đặt mình ra sao, là cứ sống như là mình thực sự tự do. Đây rõ ràng không phải là bài thuốc cho đại đa số quần chúng, và Havel hiểu điều này, ông viết: “Đây có lẽ là những phương thức không thực tế trong hoàn cảnh hôm nay, và rất khó áp dụng trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, tôi không biết cách nào khác tốt hơn.”
Lập trường của Havel không phải không có tiền lệ. Trước đó không lâu, Ludvík Vaculík, phát biểu tại Đại hội Lần thứ Tư của Công đoàn Nhà văn Tiệp Khắc năm 1967, đã đề nghị với đồng nghiệp của ông một chiến lược sống “như là” tương tự đề nghị của Havel. Ông nói: “Chúng ta nên ra vẻ như là những công dân…, diễn thuyết như là những người lớn và độc lập trước pháp luật.” Trong không khí lạc quan hơn của thập niên 1960, Vaculík và những người khác vẫn hy vọng nhà cầm quyền sẽ nhượng bộ hay đáp ứng nguyện vọng của họ cách nào đó. Nhưng khi Michnik hay Havel cổ vũ cho chủ trương tương tự thì hoàn cảnh đã khác. Không còn có thể khuyên nhủ nhà cầm quyền nên điều hành đất nước ra sao, mà chỉ có thể đề xuất cho người dân cả nước – bằng cách làm gương – cách sống sao cho hợp lẽ.
Trí thức và quần chúng
Trong thập niên 1970, nói rằng giới trí thức Đông Âu có thể “đề xuất cho người dân cả nước” cách sống đúng nghĩa thực ra nghe cũng hơi quá – hầu hết giới trí thức không ở vị trí có thể đề xuất điều gì có ý nghĩa ngay cho trí thức giống mình, nói gì đến đề xuất cho quần chúng. Giới trí thức, nhất là tại Hungary và Ba Lan, hầu hết không biết về điều kiện sinh sống và lập trường của công nhân tại các trung tâm công nghiệp, càng không biết gì về hoàn cảnh của nông dân. Thực vậy, như hai nhà phản kháng Hungary, Iván Szelényi và George Konrád, từng nói rằng hệ thống chính trị cộng sản đặt “trí thức trên con đường dẫn đến quyền lực giai cấp”, thì cũng có thể nói rằng chính nhờ cộng sản mà khoảng cách có tính truyền thống Trung Âu giữa “giới trí thức” và “quần chúng” lại xuất hiện lần nữa, nặng nề hơn (trước đây, khoảng cách này tại những xã hội quý tộc như Hungary và Ba Lan rõ nét hơn là tại Tiệp Khắc bình dân, nhưng từ 1948, khi cộng sản lên nắm quyền, thì mâu thuẫn giai cấp tại Tiệp Khắc cũng được đào sâu, dù gượng gạo).
Ba Lan: KOR
Xã hội đầu tiên dẹp bỏ được hàng rào chia cắt trí thức và quần chúng vừa kể chính là Ba Lan. Năm 1976, sau một loạt các cuộc biểu tình phản đối giá thực phẩm leo thang đến chóng mặt, chế độ đã phản ứng mạnh, đánh đập, bắt bớ công nhân tại các thị trấn công nghiệp Ursu và Radom. Trong một phản ứng có thể coi là giúp chấm dứt sự thờ ơ của cả công nhân lẫn trí trức về các cuộc biểu tình của nhau, Jacek Kuroń và một số đồng nghiệp đã công bố thành lập Ủy ban Bảo vệ Công nhân (KOR) vào tháng 9, 1976. Mục tiêu của KOR, cũng như của Ủy ban Bảo vệ Nhân quyền và Dân quyền (ROPCiO) thành lập vào tháng 10 cùng năm, là công bố cho mọi người biết về những vụ xâm phạm quyền tự do dân sự của công nhân, hỗ trợ họ về pháp lý, và thành lập một mặt trận chung. Ba năm sau, tháng 12, 1979, những trí thức lãnh đạo KOR – gồm một số người Do Thái, người Công giáo, người cộng sản cũ, và những thành phần khác – đã viết và phổ biến một văn bản có tên là “Hiến chương Quyền Công nhân”
Tiệp Khắc: Hiến chương 77
Sự hình thành – hoặc đúng hơn, sự khẳng định – một không gian dân sự độc lập tại Ba Lan đã ra đời từ một xung đột có tính xã hội. Trong khi đó, bên kia biên giới, tại Tiệp Khắc, với bối cảnh chính trị ngột ngạt hơn, không gian dân sự này đã hình thành từ một cơ hội có tính pháp lý. Vào tháng 1, 1977, một nhóm công dân Tiệp Khắc đã ký vào văn bản (ban đầu được phổ biến như tuyên ngôn đăng trên một tờ báo Tây Đức) phê phán chính quyền không tôn trọng các điều khoản về nhân quyền được ghi trong Hiến pháp Tiệp Khắc, cũng như trong Đạo luật Cuối của Hiệp định Helsinki 1975, và các hiệp ước của Liên hiệp Quốc về quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, là những hiệp ước mà Tiệp Khắc đã ký tên thỏa thuận – riêng Sắc lệnh Helsinki 120 thì còn được chính thức đưa vào Luật pháp Tiệp Khắc nữa.[ii]
Những người ký tên vào văn bản này (sau được biết đến như “Hiến chương 77”) mô tả chính họ như “một tập hợp không ràng buộc, không chính thức, mở rộng, quy tụ những con người… kết nối với nhau bằng khát khao dấn thân, với tư cách cá nhân và như một tập thể, cho sự tôn trọng quyền con người và quyền dân sự tại đất nước chúng ta và trên thế giới.” Họ thận trọng nhấn mạnh rằng Hiến chương 77 không phải là một tổ chức, không có quy chế gì, không có cơ cấu tổ chức gì thường trực, và “không hình thành nền tảng cho bất cứ hoạt động chính trị đối lập nào”, một quy định nhằm giữ cho hoạt động của họ luôn ở trong vòng pháp luật tại Tiệp Khắc.
Hiến chương 77 là thành quả của một nhóm rất nhỏ những cá nhân dũng cảm không đại diện cho ai ngoại trừ chính họ: 243 người ký tên vào văn bản gốc, và trong một thập niên sau đó thu hút được chữ ký của 1.621 người khác (trên dân số 15 triệu). Phát ngôn viên đầu tiên của Hiến chương 77 là Havel, Jiří Hájek (ngoại trưởng Tiệp Khắc dưới thời Dubček) và cụ Jan Patočka, triết gia hàng đầu của Tiệp Khắc, tất cả họ đều là những cá nhân riêng biệt, không có địa vị hay thế lực xã hội nào. Nhưng điều này không ngăn cản nhà cầm quyền đáp trả dữ dội, họ chụp mũ Hiến chương 77 là “một văn bản chống nhà nước, chống chủ nghĩa xã hội, xách động mị dân, tuyên truyền bịp bợm”. Mỗi người một kiểu, những người ký tên đã bị bêu xấu, bằng ngôn ngữ y như trong các phiên đấu tố thập niên 1950, là “phản bội và làm loạn”, là “tôi tớ trung thành và tay sai đế quốc” và là “bọn phiêu lưu quốc tế”. Những người ký tên bị trả đũa và đe dọa, hình thức trừng phạt gồm cả đuổi việc, không cho con cái học hành, treo bằng lái, bị trục xuất ra nước ngoài và mất quyền công dân, bị quản thúc, xét xử, bỏ tù.
VONS: bảo vệ người bị ngược đãi
Phản ứng gay gắt với những người ký tên vào Hiến chương 77, và đòn thù của chính quyền nhằm đàn áp một thế hệ những nhạc sĩ trẻ (nhất là nhóm “Người Nhựa Vũ trụ”), đã thúc đẩy việc thành lập nhóm hỗ trợ họ vào tháng 4, 1978, có thêm “Ủy ban Bảo vệ Người bị ngược đãi” (VONS), với mục tiêu tương tự như mục tiêu của KOR. Nhà cầm quyền tại Praha phản ứng bằng cách bắt sáu nhân vật lãnh đạo của VONS, trong đó có Havel, và vào năm sau đó, xử họ tội phá hoại. Tháng 10, 1979, họ bị kết án tù, có án lên tới năm năm.
Sau những biến động vào năm 1968 thì tất cả các chế độ cộng sản tại Đông Âu (ngoại trừ Rumani dưới quyền Ceaușescu) đều áp dụng đường lối mà Kadár đã dùng ở Hungary. Họ không còn giả vờ tìm kiếm sự trung thành thật lòng của kẻ bị trị nữa, mà chỉ đòi quần chúng tỏ vẻ tuân phục bằng những dấu hiệu bên ngoài là đủ. Một trong những mục tiêu của Hiến chương 77 – tương tự mục tiêu của VONS hoặc KOR – là giúp đồng bào vượt qua sự thờ ơ với việc chung của đất nước. Đặc biệt, Havel còn nhấn mạnh đến việc đừng để nhà cầm quyền thỏa mãn khi thấy nhân dân hạ mình tuân phục một cách vô tình chỉ vì không muốn bị nhòm ngó. Còn nếu cứ tuân phục thì chế độ có thể xem như đã đặt được “một trạm gác trong đầu mỗi công dân” – một đề tài được mô tả trong tiểu luận kinh điển “Power of the Powerless”[iii] với ví dụ về anh hàng rau treo trong cửa hàng mình khẩu hiệu “Vô sản thế giới, đoàn kết lại!”
Bảo vệ môi trường
Trong nỗ lực vượt qua sự thờ ơ và sợ hãi của quần chúng, có một số đề tài do trí thức dấn thân đưa ra dễ được quần chúng tán đồng hơn những đề tài khác. Thảm họa môi trường chẳng hạn. Tại Slovakia, theo con số chính thức được chế độ đưa ra, có 45% trong 5.600 km sông ngòi tại Slovakia bị ô nhiễm “ở mức nguy hiểm” vào năm 1982. 4/5 nước giếng ở phía đông nước cộng hòa này không thể dùng cho người uống được. Nguyên nhân chính là do dùng quá nhiều phân bón tại các nông trại tập thể trong vùng, làm đất bị nhiễm độc và mùa màng thất bát, như đã từng xảy ra tại các vùng đất đen ở Liên Xô.
Vào đầu thập niên 1980, khu vực phía bắc Bohemia có mức ô nhiễm không khí tệ hại nhất Châu Âu, vì dùng than nâu (rẻ tiền) trong sản xuất công nghiệp và điện. Trong 73,5 tỉ kwh điện sản xuất từ vùng này, có đến 64 tỉ kwh được sản xuất từ các lò đốt than nâu, vốn thải ra lượng lưu huỳnh cực lớn. Hậu quả là đến năm 1983, có đến 35% rừng trên toàn Tiệp Khắc đã chết hoặc đang chết, và 1/3 tất cả các nguồn nước tại Tiệp Khắc đều bị ô nhiễm nặng đến mức không thể dùng, kể cả trong công nghiệp. Tại ngay thủ đô Praha, chính quyền bắt buộc phải thành lập một dịch vụ đặc biệt tại bệnh viện để điều trị các chứng bệnh đường hô hấp trẻ em. Nhà văn Ivan Klíma, trong truyện ngắn “Âm mưu ngày Giáng sinh”, mô tả không khí tại thủ đô Tiệp Khắc bằng dòng này: “Một làn sương đục, lạnh, có mùi khói, mùi lưu huỳnh và mùi khó ở.”
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thì nhà nước chính là kẻ gây ô nhiễm, nhưng xã hội lại là người chịu khổ. Vì vậy, ô nhiễm là đề tài mọi người đều quan tâm. Nó cũng ngầm mang tính chính trị: vì sao quá khó để bảo vệ môi trường? Câu trả lời rất đơn giản, vì chẳng có ai quan tâm áp dụng những biện pháp phòng ngừa ô nhiễm ngay từ đầu. Chỉ có những biện pháp hiệu quả và đồng bộ được nhà nước chấp thuận mới có thể bắt buộc các cấp cải thiện tình hình, nhưng khốn nỗi, những biện pháp này lại không thể đến từ một nhà cầm quyền vốn khuyến khích sự phí phạm ngay từ đầu. Bất cứ quản đốc nhà máy hay nông trại nào đủ thận trọng, dám chấp nhận giảm “chỉ tiêu”, để tự đưa ra những sáng kiến ngăn ngừa ô nhiễm đều sẽ gặp rắc rối nghiêm trọng. Hệ thống kinh tế cộng sản tự bản chất sẽ tàn phá môi trường nơi nó vận hành, và điều này ngày càng có nhiều người hiểu ra.[iv]
Tự kiểm duyệt
Trong khi đó, cũng dễ hiểu thôi, người cầm bút và các học giả lại quan tâm nhiều hơn đến vấn đề kiểm duyệt. Trở ngại trong việc được phép xuất bản, hoặc biểu diễn, khác nhau tùy từng nước cộng sản. Ở Tiệp Khắc năm 1969, nhà cầm quyền đã đàn áp không chút nao núng: không chỉ hàng ngàn người cầm bút và nghệ sĩ nam nữ bị cấm xuất bản hay biểu diễn trước công chúng, mà một loạt rất nhiều những đề tài, nhân vật hay sự kiện cũng bị cấm nhắc tới. Ngược lại, ở Ba Lan, Giáo hội Công giáo với những thiết chế và báo chí của mình, đã tạo ra được một không gian an-toàn-một-nửa, trong đó một số tự do trong sinh hoạt văn học và trí thức được thực thi, dù mọi người vẫn phải thận trọng.
Nhưng điều đáng nói ở đây, tương tự như ở Hungary, đó là kiểm duyệt lại thường là tự kiểm duyệt. Để có thể tiếp cận với khán giả, các trí thức, nghệ sĩ, học giả luôn bị cám dỗ phải tự điều chỉnh tác phẩm của mình, phải cắt xén hoặc rào đón lập luận để tránh những phản bác chính thức có thể có. Cái lợi về vật chất và nghề nghiệp mà hành động tự kiểm duyệt mang lại không hề nhỏ, nhất là trong các xã hội nơi văn hóa và nghệ thuật được xem như những công cụ quan trọng; bù lại, cái giá phẩm hạnh phải trả vì mất tự trọng cũng có thể rất lớn. Y như nhà văn Heine đã viết 150 năm trước, bằng lời lẽ khiến nhiều trí thức Đông Âu có thể hiểu ngay, rằng: “những đao phủ tư tưởng kia đã biến chúng ta thành lũ tội phạm. Người cầm bút … phải liên tục phạm tội giết con: hắn giết chết đứa con tinh thần của mình, vì sợ đến khiếp vía phán đoán của kẻ kiểm duyệt.”
Im lặng và in chui
Tự kiểm duyệt là hình thức đồng lõa một phần. Một hình thức đồng lõa khác là im lặng – cuộc đào tẩu nội tâm của “Ketman” trong tác phẩm Captive Mind [trí tuệ ngục tù] của Czesław Miłosz. Nhưng, những người đã mở miệng, đã phổ biến chui tác phẩm tự đánh máy và sao chép bằng giấy than của mình, lại cũng đối diện với một thực tại không sáng sủa gì, đó là họ trở nên gần như vô hình, vì ý tưởng và tác phẩm nghệ thuật của họ bị giới hạn trong một nhóm khán giả ít ỏi, khép kín – họ trải qua tình trạng mà một trí thức Tiệp Khắc đã cay đắng gọi là tình trạng tự sướng nhờ phát hành các tác phẩm chui samizdat cho cùng một số khoảng 2000 trí thức, bản thân số trí thức này cũng viết cho cùng đối tượng đọc.
Dũng cảm không tạo ra chất lượng
Thêm vào đó, lòng dũng cảm cũng không bảo chứng cho chất lượng. Sự bất phục tùng, đối kháng, và mối nguy hiểm thường có của việc viết chui, mang lại cho tác phẩm (nhất là với người ái mộ ở phương Tây) một hơi hướng lãng mạn, và đôi khi, những đề cao quá đáng. Những ý tưởng độc đáo và tiến bộ dĩ nhiên có thể bừng nở và lớn mạnh trên đống phân hổ lốn đang phân hủy của khối Xô-viết – trong đó, những tác phẩm của Havel và Michnick là xuất sắc nhất, nhưng không nhất thiết là đại diện duy nhất cho những Fleurs du Mal [cánh hoa đớn đau] mọc lên từ chủ nghĩa cộng sản.[v] Nhưng đối với nhiều người khác, việc không được xuất bản chính thức không có nghĩa là tác phẩm của họ có chất lượng. Không có “nàng thơ kiểm duyệt” nào ở đây (từ ngữ của George Steiner). Chế độ không thích anh không có nghĩa là anh có tài.
Vì vậy, danh tiếng của cả một số những trí thức nổi tiếng nhất cũng nhăn nhúm và teo tóp lại khi tác phẩm của họ được bày ra giữa thị trường tư tưởng tự do. George Konrád tại Hungary chẳng hạn, những luận văn khá dễ dãi có tên “Phản chính trị” được khen ngợi rộng rãi vào thập niên 1970, nhưng ông là một trong nhiều người gần như không còn được ai nhắc tới sau năm 1989. Những người khác như nhà văn nữ Đông Đức Christa Wolf hiểu rất rõ rằng chính những gian truân của việc cầm bút dưới chế độ cộng sản đã cho bà những đề tài mãnh liệt, và một nguồn năng lượng nhất định nào đó (và một vị thế xã hội nữa). Đó cũng là một trong những lý do vì sao nhiều trí thức trong các xã hội cộng sản chấp nhận từ chối cơ hội di dân ra nước ngoài hoặc sống lưu vong – họ tin rằng thà là bị ngược đãi trong nước mà có ảnh hưởng, còn hơn tự do mà chân không chạm đất, đầu không đụng trời, chẳng dính líu vào đâu.
Milan Kundera
Nỗi sợ không dính líu vào đâu nằm phía sau một trăn trở khác rất phổ biến trong những năm này, đó là thiết tha mong cho Đông Âu được “trở về” với Châu Âu càng sớm càng tốt. Giống như mối quan tâm về kiểm duyệt, trăn trở này cũng chỉ giới hạn trong hàng ngũ trí thức – đúng ra là với phần lớn người cầm bút tại các tỉnh phía tây Đế quốc Habsburg cũ [tức Trung Âu], nơi lạc hậu và kém phát triển được áp đặt theo lệnh của Liên Xô đã gây ra nhiều tai ương đau đớn. Người phát ngôn nổi tiếng nhất, đại diện cho trăn trở này, là nhà tiểu thuyết, nhà biên kịch Tiệp Khắc Milan Kundera, viết và sống lưu vong tại Paris. Đối với ông, bi kịch của Trung Âu (một từ được tái sinh và tái sử dụng để minh họa cho ý kiến của Kundera) nằm ở chỗ nó bị thôn tính bởi một nền độc tài ngoại lai, đến từ Châu Á [ám chỉ đế quốc Nga Xô-viết] [vi]
Bản thân Kundera không được trọng vọng nhiều ở quê hương mình, nơi mà cả chọn lựa lưu vong lẫn sự thành công của ông bị các đồng nghiệp xem nhẹ, họ là những người đã tự nguyện từ bỏ cả lưu vong lẫn cơ hội thành công để ở lại trong nước. Nhưng quan điểm chung của ông về Trung Âu cũng được chia sẻ rộng rãi, nhất là với độc giả phương Tây, vốn bị chỉ trích là đã sao nhãng, bỏ mặc một phương Tây “khác” ở sát nách phía Đông của họ – đề tài này cũng được Miłosz phác họa trong thập niên 1950 khi ông nói: “một chương trong cuốn sách tưởng tượng về thơ Ba Lan hậu chiến nên được dành để nói về cái nghịch lý, và thậm chí trò hề, trong cách đối xử của trí thức Tây Âu, nhất là trí thức Pháp, đối với Đông Âu.”
Trung Âu: nghiêng Tây
Với Kundera, người vốn hoài nghi những sáng kiến công dân như Hiến chương 77, thì hiện trạng của Tiệp Khắc thời cộng sản chỉ là cái đuôi nối dài của một vấn đề cũ hơn, đó là vấn đề bản chất và số phận của một quốc gia chẳng may nằm ở trung tâm Châu Âu, nơi các nước nhỏ, các dân tộc ít người luôn có rủi ro bị xóa sổ. Vì vậy, Kundera cho rằng mục tiêu của trí thức đấu tranh tại Tiệp Khắc và trí thức lưu vong là làm sao cho thế giới biết đến nỗi trăn trở này, thay vì mất thời giờ tìm cách thay đổi đế quốc Mạc-Tư-Khoa mang đậm màu độc tài phương Đông Trung cổ. Hơn nữa, theo Kundera, Trung Âu là “định mệnh của phương Tây ở dạng cô đặc”. Havel cũng đồng ý với nhận định này khi cho rằng: Chủ nghĩa cộng sản là tấm gương đen tối mà lịch sử đưa lên cho phương Tây soi thấy mặt mình.
Những người Ba Lan như Michnick không dùng cụm từ “Trung Âu”, hoặc nói nhiều về nhu cầu “về với Châu Âu”, một phần là vì, không như người Tiệp, trí thức Ba Lan có thể theo đuổi các mục tiêu gần hơn, dễ đạt hơn. Điều này không có nghĩa người Ba Lan và các dân tộc khác không mơ đến ngày sẽ được chia sẻ các lợi ích từ một Cộng đồng Châu Âu mới, hoặc không mơ đến ngày có thể thay thế câu chuyện huyền thoại thảm hại có tên chủ nghĩa xã hội bằng một câu chuyện thần thoại “Châu Âu” dễ chịu hơn nhiều. Họ không nói, vì họ có những ưu tiên cấp bách hơn, như ta sẽ thấy sau đây.
(Còn 1 kì)
Nguồn: Post War, Tony Judt, NXB Penguine Books, 2006, trang 566-577
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
Chú thích (Các chú thích của người dịch sẽ viết tắt là ND. Các chú thích của tác giả sẽ viết tắt là TG)
[i] Zdeněk Mlynář là một trong những người cùng Václav Havel khởi xướng Hiến chương 77. Mlynář một thời là bạn học của Gorbachev. Ông là chồng của bà Klímová, người đặt tên “Cách mạng Nhung”. (ND)
[ii] Điều đáng chú ý là quyết định của chính quyền Tiệp Khắc thông qua Hiệp ước về Nhân quyền của Liên hiệp Quốc năm 1976 – và là quốc gia thứ 35 thông qua văn bản này – đã làm Hiệp ước trở nên có hiệu lực trong khuôn khổ luật pháp quốc tế. (TG)
[iii] Tên tiểu luận “Power of the Powerless” được dịch bằng nhiều cách: Quyền lực của không quyền lực (Khải Minh, bản dịch năm 2006), Sức mạnh của thảo dân (Phạm Nguyên Trường, bản dịch năm 2012), cũng có thể dịch là “quyền lực của người không quyền lực” hay “quyền lực của người bị trị”, “quyền lực dân đen”… (ND)
[iv] Nhưng trong nội bộ những người chủ trương bảo vệ môi trường cũng có người nghĩ khác. Milan Šimečka, một nhà văn Slovak, đã cảnh báo các đồng nghiệp (trong số có cả Havel) rằng đừng đánh giá thấp lợi ích của hiện đại hóa: “Tôi chủ trương rằng ngay cả ô nhiễm đi kèm với phát triển công nghiệp thì vẫn tốt hơn là tình trạng hỗn loạn và hung bạo tràn lan trong một xã hội mà người dân không thể thỏa mãn những nhu cầu căn bản của mình.” Milan Šimečka, “A World With Utopias or Without Them”, Cross-Currents, Số 3 (1984), trang 26. (TG)
[v] Yugoslavia [Nam Tư] là một ngoại lệ so với các nước khác: “Vì chưa từng có một văn hóa chính thức hình thành tại Yugoslavia (không có nghĩa là không có những quan chức nhà nước trong sinh hoạt văn hóa), nên không thể có một đối trọng tự nhiên, tức một văn hóa chui, có tính thay thế và tồn tại song song, như được yêu thích rộng rãi tại các nước xã hội chủ nghĩa khác.” Dubravka Ugrešić, The Culture of Lies (1998), trang 37. (TG)
[vi] Đế quốc Nga Xô-viết được xem là mang tính độc tài Châu Á phần lớn vì di sản còn sót lại của gần 250 năm bị Mông Cổ đô hộ, thế kỷ 13-15. Các phương pháp cai trị được nước Nga Sa hoàng lẫn nước Nga Xô-viết áp dụng rộng rãi như trung ương tập quyền, tôn giáo bám vào nhà nước, quí tộc cung đình, trí thức ngoan ngoãn, đất đai toàn là của vua, nông dân là nông nô, hộ chiếu nội địa (một hình thức hộ khẩu)… được cho là vay mượn hoặc biến thể từ thời Mông Cổ cai trị. Hơn hai thế kỷ bị đô hộ cũng làm nước Nga chậm phát triển gần 200 năm so với Châu Âu, khiến Nga không tham gia vào những biến đổi tích cực ở Châu Âu trong thời kỳ Phục hưng và Cải cách. Một hệ quả là Nga thiếu hẳn một tầng lớp trung lưu độc lập, tác nhân cần có của những thay đổi kinh tế, xã hội, chính trị… Nước Nga ngày nay vẫn còn nhiều dấu vết của chế độ cũ cũng vì di sản này. Richard Pipes (1923-), một sử gia Mỹ gốc Ba Lan, giáo sư Đại học Harvard, nghiên cứu sâu về đề tài này qua tác phẩm Russia Under the Old Regime xuất bản năm 1974, sách tham khảo của sinh viên ngành sử và chính trị ở các nước nói tiếng Anh. (ND)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)