Thứ Ba, 15 tháng 8, 2023
Phan Thanh Tâm: Nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh: Hai cột trụ của nghề báo-kiến thức và đạo đức
Theo nhà báo lão thành, kiến thức là trí, đạo đức là tâm. Nếu có trí giỏi mà không có tâm lành, nghề viết cũng chẳng thành tựu được bao nhiêu. Khi đã viết, không phải chỉ viết bằng tay mà viết bằng cả con tim. Bí quyết của trau dồi kiến thức là khiêm tốn và học từ sách vở tra cứu, học từ bạn và đồng nghiệp; quan trọng nhất là học từ độc giả. Nhà báo Sơn Điền sinh ở Bắc Giang, hưởng thọ 92 tuổi, qua đời ngày 12/8/2012 tại Cali. Bài báo cuối cùng là bài Kinh Động Vũ Trụ trên mạng ngày 19/7/12 nói về các nhà thiên văn Mỹ đã tạo ra một loại máy khám phá những bí mật của Hoả tinh.
Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2022
Phan Thanh Tâm: Nhà báo là nhà văn của thế hệ mới
Trà Mi ký giả ban Việt ngữ đài VOA |
Nhà báo là nhà văn của thế hệ mới. Văn chương báo chí thời đại là văn chương thông tin; không phải là văn chương tưởng tượng, sáng tác. Văn phong báo chí cần chính xác, gọn gàng, trong sáng, chi tiết phải cụ thể. Nhiệm vụ của văn chương báo chí là thông tin. Không có nó con người sẽ tụt hậu, mai một, thụt lùi. Đó là nhận định của cô Trà Mi, ký giả truyền thông đa phương tiện (truyền thanh, truyền hình và internet) với gần 25 năm kinh nghiệm làm phóng viên, xướng ngôn viên, biên tập viên, người dẫn chương trình, người điều khiển các cuộc hội luận/talkshow truyền thanh-truyền hình.
Trong 25 năm trong ngành truyền thông, cô Trà Mi từng làm việc tại một đài truyền hình ở VN (1997-2001), làm ký giả quốc tế của đài Á Châu Tự do gần bảy năm trước khi gia nhập đài VOA từ năm 2009. Ban biên tập Việt ngữ VOA có 14 người trong đó có ba người nữ, cô là nữ ký giả lâu năm nhất. Hiện cô là chủ biên/biên tập viên của Ban Việt ngữ và là người mở ra chương trình TV ‘VOA Express’, bản tin truyền hình hàng ngày của VOA Việt ngữ. Theo cô, câu “nhà báo, nhà văn tuy hai mà một, tuy một mà hai” đúng nhưng không đúng hẳn. Nhà báo có viết văn giỏi thì mới hỗ trợ thành nhà báo giỏi.
Cô Trà Mi nói, người viết văn có sự rộng rãi, phóng túng trong sáng tác, tư duy tưởng tượng tự do bay nhảy. Nếu họ có tố chất nghề báo thì văn phẩm của họ sẽ được trình bày rành rẽ, dễ đọc hơn. Ngược lại, người viết báo mà dùng chữ nghĩa bay nhảy, tối tăm, khó hiểu thì “chết chắc”. Thực tế cho thấy, có nhiều nhà văn tên tuổi lẫy lừng thường xuất thân từ nhà báo. Tên cô có vẻ Huế nhưng sinh ở Sài Gòn. Giọng Nam hoàn toàn. Cô bay qua Mỹ từ năm 2001 nhờ học bổng của California State University, Fullerton. Sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Giáo dục năm 2003 cô xin vô làm ký giả quốc tế cho RFA. Bút danh Trà Mi có từ lúc đó.
Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2021
*Phan Thanh Tâm: Vua “Đá Nói” Huyền Vũ - Nhà Báo Làm Đẹp Văn Chương Thể Thao
Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2021
Phan Thanh Tâm: Hoài Nghi Tin Vịt và Sự Thật
Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2020
Phan Thanh Tâm: Kỷ sự - Nhà Báo Lê Thiệp Qua Đời Nhưng Không Mất
Thứ Ba, 12 tháng 5, 2020
*Phan Thanh Tâm: Ký sự Saigon Execution - Bức Ảnh Định Mạng
Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2020
Phan Thanh Tâm: Nghệ sĩ Võ Đình - một họa sĩ yêu viết
Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2018
Phan Thanh Tâm: Một Thời Quái Dị
Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017
Phan Thanh Tâm: Vinh Danh Cụ Phan Thanh Giản Trên Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cọng Sản
Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2016
phan thanh tâm: Vết Thương Lòng Của Một Thế Hệ
Tuyển tập Thơ Lính Chiến Miền Nam (ARVN Soldiers Poetry) tập hợp 125 bài thơ của hơn 50 tác giả là tuyển tập có nhiều hình ảnh sống động của thuở tao loan trườc 1975, được vẽ lên bằng chữ về người đi đánh trận với balô, nón sắt, súng dài, súng ngắn, bản đồ, địa bàn; ở một tiền đồn xa xôi, hay trong một cuộc hành quân trên kinh rạch vào một đêm đen kịt, hoặc đang nằm kích ở một khu rừng vào một buỏi chiều tà lúc trăng vừa ló lên ở bên kia đồi. Tuyển tập còn vang vang tiếng bom, tiếng đạn, tiếng ca, tiếng khóc, tiếng gió, tiếng lá khô xào xạc, cùng tiếng chửi thề và cả tiếng sóng trong lòng của những người trong cuộc; và dường như có phảng phất cả mùi tử khí của nhiều xác chết đủ kiểu.
Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2016
Phan Thanh Tâm - Nguyễn Ngọc Bích: Một Cái Chết Rất Đẹp
Nhà trí thức dấn thân Nguyễn Ngọc Bích đã có một cái chết đẹp khi anh lìa đời ngày 3/3/16 trên chiếc phi cơ bay hướng về quê hương để đến Manila thủ đô của Phi Luật Tân nhằm trình bày về việc bảo vệ quyền lợi quốc gia và lợi ích dân tộc Việt Nam trong các buổi hội thảo của Tĩnh Hội/Họp Mặt Dân Chủ lần thứ 15 và Hội Nghị về tình hình Biển Đông Nam Á lần thứ hai do bốn tổ chức dân sự gồm hai Việt HMDC, VOICE và hai Phi US Pinoys for Good Governance, Pinoy Patriots United Movement tổ chức; có sự tham dự của một số sinh viên Phi, và sinh viên Việt đang du học tại Manila.
Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2016
Phan Thanh Tâm - Ngồi
Ai cũng phải có lúc ngồi. Chẳng ai có thể đi đứng mãi. Chỉ có người bệnh nặng mới phải nằm hoài thôi. Theo Việt Nam Tự Điển của nhà sách Khai Trí ở Saigon ấn hành năm 1970 ngồi là đặt đít xuống hoặc gặp chân lại cho đít hỏng. Có tới hơn trăm lối ngồi: ngồi bẹp, ngồi bệt, ngồi trệt, ngồi chem bẹp, ngồi lì, ngồi chóc ngóc, ngồi xó ró, ngồi xếp bằng, ngồi ngom ngỏm, ngồi nhao nháo, ngồi tót, ngồi một đống, ngồi buồn, ngồi cho hỏ, ngồi chong ngóc, ngồi chum hum, ngồi ghé, ngồi xếp chè he... nhưng tôi không thấy tự điển nói tới lối ngồi được viết trong Những Lời Dạy Từ Các Thiền Sư Việt
Thứ Bảy, 21 tháng 2, 2015
Phan Thanh Tâm - Cô Gái Huế Thời Tiền Chiến
![]() |
Hình minh họa: Nguyễn Tuán Khanh |
Bài thơ Ở Đây Thôn Vỹ Dạ, được Hàn Mạc Tử viết từ năm 1939, đã đưa địa danh Vỹ Dạ và mối tình đầu của một thi sĩ tài hoa nhưng mệnh yểu vào văn học sử. Đó là một kỷ niệm của một mối tình trong trắng, thanh cao và bất diệt giữa hai tâm hồn khác tôn giáo. Cô Hoàng Thị Kim Cúc, người đẹp trong cuộc, đã xác nhận như vậy. Tuy thế, vẫn có nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi trong hơn nửa thế kỷ qua đã viết về chuyện tình Hàn Mạc Tử + Kim Cúc không trung thực, “có khuynh hướng liêu trai hóa”. Vì vậy, gần đây mới có cuốn Lá Trúc Che Ngang Chuyện Tình Của Cô Tôi ra đời ở Huế.
Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014
Phan Thanh Tâm - Một tài liệu bổ túc về trường hợp Phạm Quỳnh
LTS. Sau khi bài “Những ngày cuối cùng trong cuộc đời làm chính trị của học giả Phạm Quỳnh” của Phạm Cao Dương được đăng trên DĐTK ngày 30 tháng 10, 2014, chúng tôi nhận được những dòng góp ý sau đây của độc giả Phan Thanh Tâm. Thực ra sự việc Hồ Chí Minh đã nộp đơn xin học trường Thuộc Địa của Pháp năm 1911 trong đoạn góp ý này không nhằm bổ túc cho bài của Gs Phạm Cao Dương, mà có vẻ nhằm giải thích cho một việc khác: Hồ Chí Minh ra lệnh thủ tiêu Phạm Quỳnh năm 1945. Hãy hình dung tâm trạng của Hồ Chí Minh: khi mình đã nộp đơn vào trường Thuộc Địa mà đơn bị bác bỏ, thì mười năm sau, Phạm Quỳnh đã được ca ngợi nhiệt liệt khi diễn thuyết tại chính trường này.
Trường hợp này có thể gợi ý cho việc nghiên cứu một trong những động lực giết chóc vô số những trí thức yêu nước của Hồ Chí Minh sau 1945, phải chăng trong thâm sâu là để trả thù cho những căm phẫn thua thiệt trong quá khứ? - DĐTK
Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014
Phan Thanh Tâm - Giới thiệu sách: TRẦN ĐỨC THẢO NHỮNG LỜI TRĂNG TRỐI: Hồ Chí Minh: con khủng long ba đầu, chín đuôi
Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013
Phan Thanh Tâm - Người Tù Trong Phòng Giam Tuyết Trắng
* Phan Thanh Tâm
Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013
Phan Thanh Tâm - Kiều Việt Nhân Hậu - Kiều Tàu Ác Hiểm
Thứ Tư, 3 tháng 10, 2012
Phan Thanh Tâm - Ai Giữ Tập bản thảo Hoa Địa Ngục?
Tập thơ Hoa Địa Ngục được ai cất giữi kể từ khi Nguyễn Chí Thiện xộc vào Tòa Đại Sứ Anh ở đường Lý Thường Kiệt Hà nội ngày 16/7/79. Bà Lê Mạnh Hùng tức nhà báo Lê Phan cho biết tập thơ được gửi về Bộ Ngọai Giao London. Vì không hiểu nội dung, họ chuyển cho Giáo sư Patrick G. Honey. để tham khảo. Ông là cố vấn, chuyên viên số một về Việt Nam của Bộ.
Bà Trưởng Ban Việt ngữ cũ đài BBC Judy Stowe cho Lê Phan hay là sau khi nhận được trả lời của Giáo sư Honey về tập đó là gì, "họ viết báo cáo và coi như mọi chuyện đã xong". Còn tập thơ, họ hỏi ông Honey có muốn giữ không? Nếu không họ đem hủy. Là một học giả, vị giáo sư này mới xin trao cho ông để làm tài liệu.
Lê Phan trong một điện thư viết rằng, "văn khố nào mà cất một tập bản thảo chưa được xuất bản không tên tuổi". Văn khố Anh Quốc mỗi ngày phải tiếp nhận biết bao nhiêu cuốn sách, thời giờ đâu mà tiếp nhận một bản thảo như vậy. Vả lại, Nguyễn Chí Thiện lúc bấy giờ là "một người vô danh tiểu tốt". Bộ Ngoại giao Anh chẳng muốn giữ thì đưa vào văn khố để làm gì?
Giáo sư Honey, về hưu không còn muốn dính tới vấn đề Việt Nam nữa, đã tặng nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến tập Hoa Địa Ngục khi gặp lại ông bạn già, sau hơn hai chục năm xa cách vì thời cuộc, trong dịp ông Như Phong sang viếng Anh Quốc năm 1997. Thời gian ở Anh, Như Phong tá túc nhà hai vợ chồng Lê Mạnh Hùng. Trước khi về Mỹ, giấy tờ, tài liệu sách báo nhiều quá, ông gửi lại một số. Chẳng được bao lâu, ông lâm trọng bệnh; qua đời ngày18/12/2001, hưởng thọ 79 tuổi.
Ông có ba người anh đều bị Cọng sản giết năm 1945. Nhà báo Như Phong sau 1975 bị đi học tập cải tạo mãi đến năm 1994 mới định cư ở Mỹ. Năm 1993, Tổ Chức Human Rights Watch chọn ông để trao giải thưởng Tự Do Phát Biểu Tư tưởng. Ông từng làm cố vấn cho Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát và Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ. Từ năm 1962, ông được thế giới biết đến qua những loạt bài viết cho các tạp chí nghiên cứu ở Luân Đơn trên tờ The China Quarterly hay The Forum World Features.
Lê Phan cho biết nhân một buổi dọn dẹp, sắp xếp đồ đạc, soạn thấy tập thơ của Nguyễn Chí Thiện nên mới định bụng là sẽ trả cho tác giả vì Như Phong đã mất. Lê Phan viết "việc chỉ có vậy thôi. Tụi này hoàn toàn là kẻ đưa thư". Hôm sang Cali vì quá ít ngày, lại không biết ông Nguyễn Chí Thiện nên mới phải nhờ Đinh Quang Anh Thái chuyển lại cho ông này.
Tập Hoa Địa Ngục xuất hiện lần đầu tiên hồi tháng 9/80 do Thời Tập ở Virginia in ra, không tên tác giả, không đầu đề, nhưng đã gây xôn xao trong dư luận vì những vần thơ "có sức phá vạn lần hơn trái phá". Gần hai năm sau, người ta mới biết tác giả là Nguyễn Chí Thiện bị chế độ của Hồ Chí Minh, chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hoà đày đến tầng cuối địa ngục trần gian,
Phan Thanh Tâm
Saint Paul 28/12/08
Hai Tập Thơ Tù Nguyễn Chí Thiện & Hồ Chí Minh
Từ tù lớn đến tù nhỏ, từ tù thời Tây cho đến tù thời nay, Việt Nam là nước có số lượng văn thơ tù ngục nhiều nhất thế giới. Đố ai đếm được nước mình có bao nhiêu thơ tù thì cũng như đố ai biết lúa mấy cây, biết mây mấy từng hay đố ai nằm ngủ mà không mơ vậy. Tuy thế, hầu như mọi người trong chúng ta đều nghe nói tới hai tập thơ Hoa Địa Ngục của Nguyễn Chí Thiện và Nhật Ký Trong Tù của Hồ Chí Minh.
Hoa Địa Ngục với “những vần thơ từ đau khổ bao la” xuất hiện lần đầu tiên hồi tháng 9/80 một cách khá ly kì, do Thời Tập ở Virginia in ra, không tên tác giả, không đầu đề , “song sức phá vạn lần hơn trái phá” của tập thơ đã gây xôn xao trong dư luận. Gần hai năm sau, người ta mới biết tác giả là Nguyển Chí Thiện, một cái tên lạ hoắc, bị chế độ của Hồ Chí Minh, chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hoà, tác giả tập thơ Nhật Ký Trong Tù, đày đến tầng cuối địa ngục trần gian, khiến ông phải than rằng: “Tôi sợ bác Hồ vạn lần hơn bác Hổ.”
Nhật Ký Trong Tù được công bố đầu tiên năm 1960, sau vụ Nhân văn Giai Phẩm; năm 1990 mới cho xuất bản toàn bộ gồm 133 bài. Các bộ máy công quyền Việt Nam đã vận dụng mọi phương tiện để năm châu biết Hồ Chí Minh, chẳng những là một nhà cách mạng mà còn là một nhà thơ, một nhà văn hóa nữa. Khác với Hoa Địa Ngục, tập thơ của họ Hồ viết bằng chữ Hán về tù ngục bên Tàu, từ 29-8-1943 đến 10-9-1943, thời Tưởng Giới Thạch, được dịch ra tiếng Việt để giảng dạy ở các trường trong nước.
Có thể nói sách nào viết về Hồ Chi Minh cũng đề cập tới Nhật Ký Trong Tù. Nó như đứa con cưng được cung phụng đủ điều. Viện Văn Học trong cuốn Suy Nghĩ Mới Về Nhật Ký Trong Tù, với sự cọng tác của 21 Giáo sư và nhà nghiên cứu chuyên ngành cho biết “Nhật Ký Trong Tù của Hồ Chí Minh đã được tìm hiểu, nghiên cứu hầu như về tất cả mọi phương diện và công bố dưới nhiều hình thức khác nhau: khảo luận, giảng dạy, bình thơ...” Tác phẩm này được dịch in ở nhiều nước trên thế giới như Liên sô (cũ), Pháp, Balan (cũ), Hungari (cũ), Trung Quốc, Tiệp Khắc (cũ), Mỹ...
Trái lại, Hoa Địa Ngục “tưới bằng xương máu thịt” trong các nhà tù miền Bắc thì lại là một tai họa, lại có cơ bị chôn vùi theo người cưu mang ra nó. Nguyễn Chí Thiện đã phải mất ba ngày moi trong bộ nhớ ở đầu mình, viết lên giấy 400 bài thơ để đưa đứa con tinh thần đào thoát. Ngày 16/7/1979, ông dứt khoát xộc vào Toà Đại Sứ Anh, xin tị nạn nhưng bị từ chối. Ông trao cho họ tập thơ và ba tấm hình. Ông khẩn khoản mong họ cho Hoa Địa Ngục phổ biến ở các nước tự do.
Vào Tù Vì Sự Thật
Bước ra ông bị Cảnh sát bắt đưa thẳng vô Hoả Lò, được gọi là “Hanoi Hilton”, nơi giam giữ phi công Mỹ bị hỏa tiễn Nga bắn hạ. Đây là lần thứ ba ông sống với “rận, chấy, kẹp cùm, thối khai, dớt dãi”. Lần thứ nhất ông bị bắt năm 1961 sau khi dạy Sử thay cho một người bạn; vì lời nói “nước Nhật đầu hàng bởi Mỹ thả hai quả bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki” chớ không như cuốn Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 của nhà sách Sự Thật viết “quân Nhật đầu hàng vì thua quân Nga ở Manchuria.”
Lần thứ hai bị tù, năm 1966, vì công an gán ông là tác giả các bài thơ phản động, truyền miệng trong dân chúng ở Hải Phòng và Hà Nội. Ông hay nhẩm thơ trong đầu vì ở tù, giấy bút không có và bị khám trại thường xuyên. Qua lời tựa tập thơ Hoa Địa Ngục do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ in năm 2006, Nguyễn Chí Thiện thố lộ, “Có những ngày mưa rét, vừa nhẩm đọc, vừa ứa nước mắt, lưng tựa vào tường, người run rẩy”. Để nhớ, ngày nào ông cũng đọc thơ đã làm, “làu làu như một cuộn băng.”
Còn Hồ Chí Minh nếm mùi tù mấy lần? Lần đầu gần hai năm từ 6/1931 đến 1/1933 ở nhà tù Trung Ương Hồng Kông và nhà tù Victoria vì Tống Văn Sơ - tên Hồ Chí Minh bấy giờ - hoạt động cho Cọng Sản quốc tế, bị giam chung với ông già họ Lý “độ 60 tuổi, hòa nhã, mưu trí, và gan góc, giỏi chữ Trung Quốc, làm được thơ.” Lần thứ hai ở huyện Đức Bảo tỉnh Quảng Tây ngày 27/8/1942. Ông rời hang Pác Bó – mà Nguyễn Chí Thiện gọi là hang Ác Thú – ngày 13/8/1942 trở lại Trung Quốc nhằm tìm sự hỗ trợ cho lực lượng của ông từ các nước đồng minh chống phát xít với cái tên mới là Hồ Chí Minh.
Theo sách báo Cọng sản, sau nửa tháng băng rừng, Hồ Chí Minh bị bắt ở Túc Vinh ngày 27/8/1942; bị giải giam qua 30 nhà tù thuộc 13 huyện tỉnh Quảng Tây. Nhờ sự can thiệp, vận động từ đảng bộ Cọng sản và Liên sô cùng các nhân vật trong chính giới Trung quốc ông được thả ngày 10/9/1943. Hồi ký của nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh cho biết, “Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tầu phát hiện có rất nhiều đôla. Nghe nói hồi ở Pác Bó, có người đã thấy ông phơi đôla cho khỏi ẩm mốc.”
Con vua thì được làm vua. Thơ vua thì buộc cả nước vỗ tay reo hò khen hay. Đó là thơ tù của Chủ tịch nhà nước dù sinh ở Tàu, viết tiếng Hán. Thơ tù “của người dân đen, của lớp người sống cực nhọc nhất, thê thảm nhất” ở trong nước phải trốn chui trốn nhủi, phải cao chạy xa bay. Hoa Địa Ngục ra khỏi Việt Nam, vọt xa và cao như rồng gặp mây. Nó ghi chép cảnh thực, tình thực, của một giai đoạn lịch sử đớn đau tột độ, không cường điệu, khuếch đại, bôi đen; lấy chất liệu từ muôn ngàn cuộc đời bị tan nát, chôn vùi.
Uy danh của Hồ Chí Minh đã tỏa sáng cho Nhật Ký Trong Tù. Trái lại, Hoa Địa Ngục thì mang tác giả ra khỏi cuộc đời đen thui. Giờ đây Nguyễn Chí Thiện là một trong những tên tuổi Việt Nam lẫy lừng nhất thế giới. Trước đó, tuy chưa biết của cha căn chú kiết nào nhưng báo nói, báo in các nơi đã đua nhau phổ biến “tiếng của cuộc đời nức nở” trong tập thơ. Hơn hẳn Nhật Ký Trong Tù, chưa có nhạc sĩ người Việt nào phổ nhạc; nhiều bài trong Hoa Đia Ngục đã được nhạc sĩ Phạm Duy, Phan văn Hưng, Trần Lãng Minh, Nguyễn Văn Thành (Dân Chủ Ca) đưa vào âm nhạc. Một số bài có cả lời Anh nữa.
Giải Nobel Về Văn Chương
Ba lần được đề cử lãnh giải Nobel về Văn chương; vào tự điển Who’s Who in Twentieth-century World Poetry; hội viên danh dự của nhiều trung tâm văn bút Pháp, Hoà Lan…; được nhiều giải thưởng: Giải thưởng thơ Rotterdam (1984), Freedom to Write Prize của Trung tâm Văn bút Hoa Kỳ, và ba năm làm khách danh dự của International Parliament of Writers; dịch ra tiếng Anh, Pháp, Đức, Tiệp, Hòa Lan, Trung Hoa, Đại Hàn… bởi các dịch giả nổi tiếng như: Huỳnh Sanh Thông, Nguyễn Ngọc Bích, Ỷ Lan, Võ Văn Ái, Nguyễn Hữu Hiệu, Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Ngọc Phách, Bùi Hạnh Nghi, Bùi Xuân Quang, Nguyễn Ngọc Quỳ, Jachym Topol, Dominique Delaunay…
Ngoài ra, nhân Nghị Hội Quốc tế các Nhà văn (Parlement des Ecrivains) ở Âu Châu bảo trợ để giúp ông phục hồi sức khỏe ở St-Lô gần Normandie (Pháp) và nghiên cứu, diễn thuyết từ 1999 đến đầu tháng 6/2001, ông đã hoàn thành tập truyện Hỏa Lò, gồm sáu truyện ngắn, một truyện vừa. Đôi khi trong cái rủi nằm phục một điều hay. Nhờ bị tống vào “Hỏa Lò gần Trung Ương nhất” nơi “con người gần con vật nhất,” nền văn học Việt Nam có thêm một tác phẩm văn xuôi nói về một địa ngục có thật. Sống tổng cọng 27 năm trong tù, Nguyễn Chí Thiện đích thực là một chứng nhân của thời đại mả tù và mả lính.
Trong www.vietnamlit.org của G.S Dan Duffy bằng tiếng Anh, mục tự truyện (autobiography), với sự nhuận bút của Jean Libby, một nhà hoạt động xã hội, tác giả Hoa Địa Ngục kể rõ việc xộc vào toà Đại sứ Anh và các lần bị tù cùng thân thế của mình. Nguyễn Chí Thiện sinh ở Hà nội ngày 27/2/39, thành công dân Mỹ ngày 20/10/04. Qua Mỹ nhờ sự vận động của Đại tá Noboru Masuoka và các tổ chức nhân đạo. Ông có người anh, ông Nguyễn Công Giân, cựu trung tá trong QLVNCH. Ông viết, quả là nhờ số mệnh và sống được là một phép lạ.
Đứa con tinh thần mà ông đưa đào thoát ra nước ngoài ở Toà Đại sứ Anh, gần 30 năm sau đã về lại với người viết ra nó. Trên nhật báo Người Việt, Nguyễn Chí Thiện cho biết khoảng tháng Sáu năm 2008, ông có nhận từ Giáo Sư Lê Mạnh Hùng nguyên bản tập thơ Hoa Ðịa Ngục mà Bà vợ của Giáo Sư Patrick Honey (Phòng Nghiên Cứu Phi Châu và Phương Ðông tại Luân Ðôn) đã cho Giáo Sư họ Lê giữ bản này sau khi Giáo Sư Honey mất (2005). Bản ông viết hai mặt giấy, có nhiều trang bằng mực đỏ. Dưới lá thư viết bằng tiếng Pháp, có ghi tên ông và địa chỉ “136 Rue de La Gare, Hải Phòng.”
Theo Ông, “để giữ an ninh cho tôi, Bộ Ngoại Giao Anh đã cắt bỏ phần này.” Bản Văn Nghệ Tiền Phong thì do ông Châu Kim Nhân giao cho từ ông Ðỗ Văn. Ông Hùng và ông Văn đều từng làm cho BBC. Hoa Địa Ngục xuất hiện đầu thập niên 80; có lẽ vì vô đề nên Thời Tập lấy câu thơ Tiếng Vọng Từ Đáy Vực làm tựa và Văn Nghệ Tiền Phong thì đặt tên là Chúc Thư Của Một Người Việt Nam. Nhà Xuất Bản Tổ Hợp Miền Đông Hoa Kỳ cho hay, tập tuyển dịch sang tiếng Anh năm 1984 của Huỳnh Sanh Thông (Flowers from Hell) đã khẳng định tựa đề là Hoa Địa Ngục và tên tác giả chính xác là Nguyễn Chí Thiện, dựa trên một bức thư của Giáo sư Honey.
Tác Giả Dởm
Nguyễn Chí Thiện họp báo ngày 25/10/08 ở Quận Cam Cali để phản bác lại chuyện có người nghi ông là Thiện “dởm”; tác giả Hoa Địa Ngục đã chết; Lý Ðông A mới là tác giả thực. Ông thách người tố giác $200,000, nếu chứng minh ông là người giả mạo. Nguyễn Chí Thiện còn trưng dẫn tài liệu việc giảo nghiệm chữ viết, hình ảnh để xác nhận: “Tôi là tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục”. Một số tên bạn tù hiện ở quận Cam, Hà Nội, Pháp và ngay cả còn trong tù cọng sản cũng được ông nêu ra. Nguyễn Chí Thiện quả quyết nói, “tôi thường đọc thơ cho họ nghe trong tù.”
Thật ra, nếu trường Ecole Coloniale của Pháp năm 1911 cho Hồ Chí Minh xin vào học làm quan, lúc đó tên là Nguyễn Tất Thành thì Việt Nam chắc sẽ không có Việt Gian, Việt Cộng, Việt kiều, không có Đấu tố, Mậu Thân, Mỹ Lai, Chất độc da cam; không thuyền nhân vượt biển, không trại cải tạo; không có Nhật Ký Trong Tù, Hoa Địa Ngục; không có thơ: Yêu biết mấy con nghe tập nói, Tiếng đầu lòng, con gọi Xít ta lin; hay bài hát: 1-2-3, ta là cha thằng Mỹ, 4-5-6, ta là cháu bác Hồ, 7-8-9, ta là lính thủ đô, 10-20, ta là người Xô viết; hoặc câu ca dao: Chiều chiều trên bến Ninh Kiều, Dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân; và tuyệt nhiên không có dịnh nghĩa đầy tính Việt gian: yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa.
Theo dòng đời, ông thành đảng viên Cọng sản năm 1920, được huấn luyện tại Đại học Phương Đông (1923) và Đại học Lénine (1934), Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa Mác Lê làm “cẩm nang thần kỳ” vì ông có một Tổ quốc Cách Mạng Nga để phục vụ; có một sứ mệnh xây dựng phong trào vô sản ở Châu Á để hoàn thành; và có một “người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn” là Lénine để tuân phục. Trước đó, năm 1919 ông đã đạo danh Nguyễn Ái Quốc, tên chung của Hội Những Người An Nam Yêu Nước do Phan Châu Trinh đứng đầu, để làm tên của mình.
Tập thơ Hoa Địa Ngục và tập truyện Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện gây ấn tượng mạnh hơn Nhật Ký Trong Tù và Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch do Trần Dân Tiên - tức Hồ Chí Minh - viết. Những cảnh bị trói cánh khuỷu, cổ mang vòng xích, ăn không đủ hay ở chung với tù bệnh giang mai cùng tháng ngày tù ngục ở bên Tàu mà họ Hồ tả chẳng thấm vào đâu nếu so với những thống khổ mà Nguyễn Chí Thiện phải chịu trong chế độ lao tù Miền Bắc. Hơn nữa, đảng Cọng sản có cả một mạng lưới bảo vệ Hồ Chí Minh. Thời gian tù Hồng Kông, hai luật sư người Anh bào chữa cho ông và ông còn được ăn cơm Tây, ngủ giường tốt.
Phần Nguyễn Chí Thiện thì đã “sống bẩn thỉu, hôi hám như một con chuột cống, có điều thua con chuột cống ở chỗ đói, rét, ốm, đi không vững.” Thân cô, thế cô, nhiều lúc quá tuyệt vọng, rũ rã, ông muốn chết. Nguyễn Chí Thiện tồn tại được là nhờ “Thơ và Mơ”; phải sống để đưa ra khỏi nước “mầy vần thơ ai oán”. Còn Nhật Ký Trong Tù tung ra chỉ để tuyên truyền, làm đẹp cuộc đời Hồ Chí Minh. Trong Những Mẩu Chuyện của Hồ Chủ Tịch, ông tự cho mình là cha già dân tộc. Danh xưng dân Ấn tôn vinh Mohandas Gandhi (1869-1948), người đã thuyết phục được Anh Quốc trả độc lập cho Ấn bằng con đường hòa bình ngày 15/8/1947. Hồ Chí Minh đã ăn cắp ý này.
Ai là tác giả Nhật Ký Trong Tù?
Sự nghiệp và cuộc đời hai tác giả khác hẳn nhau. Gần nửa đời người, Nguyễn Chí Thiện chỉ biết hết tù nhỏ đến từ lớn, không vợ con, chay tịnh. Tài sản của ông là Hoa Địa Ngục và Hỏa Lò, được kết nụ, nung nấu trong lòng chế độ mà Hồ Chí Minh đã xây dựng sau 30 năm bôn ba hải ngoại. Sự nghiệp Hồ Chí Minh là làm cách mạng chuyên nghiệp, cướp chánh quyền. Có cả trên trăm lần thay tên đổi họ. Chỉ Đệ tam quốc tế của Liên sô mới thấu rõ “con đường bác đi” vì tên ông có trong sổ lương. Vợ Tăng Tuyết Minh (1), con Nguyễn Tất Trung (2), nhưng vẫn sống lối độc thân tại chỗ, được tôn làm vua đạo dụ. Một điều giống nhau, cả hai ông đều bị tố: kẻ đạo thơ.
Ở Việt Nam, chẳng ai dám bàn nhiều về chuyện này. Trong bài “19/5 không phải là ngày sinh của Hồ Chí Minh” (3), Đinh Tiểu Nguyễn cho biết, “Ngày 15 tháng 10 năm 1998, tại Ban Việt học của Đại Học Paris VII, Giáo sư người Nhật, ông Kenichi Kawaguchi, Hội viên Văn Bút Nhật bản, Giáo sư tại Đại học Tokyo, Ban Bang giao quốc tế, thuật chuyện ông về Hà Nội. Nghe nói tập thơ Tù của Hồ Chí Minh, ông đã đến Hà Nội tìm đọc và có thể sẽ dịch ra tiếng Nhật. Một giáo sư người Việt thấy vậy, vỗ vai ông vừa cười và bảo tập thơ ấy có phải của ông Hồ đâu mà ông mất công nghiên cứu.”
Theo Wikipedia tiếng Việt, Nhật ký trong tù, nguyên gốc tập thơ chỉ là một quyển sổ tay nhỏ, bìa xanh đã bạc màu, ghi bốn chữ "Ngục trung nhật ký" (tức Nhật ký trong tù), kèm theo bốn câu thơ và một hình vẽ hai nắm tay bị xích; bên trong gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán và một số ghi chép; ở trang đầu ghi 29.8.1932 và ngày 10.9.1933, trang sau ghi 29-8-1942 và 10-9-1943 là lúc Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây. Điều này làm nảy sinh nhiều nghi vấn về tác giả và thời điểm sáng tác của tập thơ.
Đã có nhiều bài báo bàn ra tán vào về nghi vấn ai là tác giả. Trước hết là con số bài thơ trồi sụt bất thường. Ngày tháng tù của ông Hồ ở bìa sách và lưng sách sai biệt 10 năm. Chữ viết có vẻ khác. Trang đầu dùng chấm, chữ nghiêng trái. Trang chót dùng gạch ngang, chữ hơi ngã phải. Hầu hết các bài báo cho là Hồ Chí Minh lấy thơ người khác rồi viết thêm thơ mình vào; nên Hồ Chí Minh không thể là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký gốc được. Mặt khác, trong cuốn “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện,” tác giả T. Lan cũng là tên của Hồ Chí Minh cho biết: Ở Quảng Tây ông chỉ bị bắt “giải đi suốt 18 nhà lao”.
Giáo sư Lê Hữu Mục, dạy Triết trường Quốc Học Huế và các Đại Học Văn Khoa trước 1975, nhờ còn ở Việt Nam sau 30/4/75 nên ông đã “thọc sâu vào được cái bóng tối dày đặc bao bọc chung quanh tập thơ.” Qua Canada ông đã viết tập “Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký.” Theo ông, ban tuyên giáo Cộng Sản đã rất công phu trong việc gán ép quyền tác giả tập thơ cho Hồ Chí Minh. Trong tương lai, vẫn theo giáo sư, “nó sẽ bị đánh bật ra khỏi tay Hồ Chí Minh, sẽ được trao trả cho tác giả đích thực của nó là già Lý.” Đó là ông lão hay làm thơ, cùng bị giam với Hồ Chí Minh ở Hồng Kông những năm 1932-1933.
Vụ Đạo Thơ lớn Nhất Trong Lịch Sử
Tập biên khảo, được xuất bản bởi Ủy Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh năm 1990 ở Paris còn cho biết, “quốc tịch Trung Hoa của con người trong tập thơ nổi bật lên một cách dễ dàng,” nếu đọc kỹ các bài thơ. Con người này là Ông già Lý, chúa một dãy núi, kể lại đời sống ở những vùng rừng núi khi còn trẻ qua nhiều bài thơ trong cuốn sổ tay đó. Ngoài ra, có những từ liên hệ trực tiếp với Hồng Kông hơn là ở Quảng Tây; phù hợp với con số 1932-1933 mà nhà văn Đặng Thái Mai đã nêu ra, mới đúng là năm viết Nhật Ký Trong Tù.
Viện Văn Học trong cuốn Suy Nghĩ Mới Về Nhật Ký Trong Tù đã bác lập luận của Lê Hữu Mục bằng bài “Câu Chuyện Tác Giả Ngục Trung Nhật Ký” của Phó Giáo sư Phan Ngọc tức Nhữ Thành. Phó giáo sư này, khẳng định là tập thơ “viết cùng một thứ chữ; xuất xứ đâu có phải mơ hồ.” Tác giả Nhữ Thành còn cho rằng, “Quyển sách Lê Hữu Mục viết ra thực tế là hành động giơ dao.” Ông khuyên Giáo sư này, “Nên buông dao thì hơn.” Về dòng chữ đề ngày 29.8.1932 – 10.9.1933 ở ngoài bìa, Viện văn học biện minh là để “nguỵ trang.”
Dù vậy, những phản biện của Viện Văn Học không đủ thuyết phục, không đánh tan được nghi vấn ăn cắp thơ của Hồ Chủ Tịch từ nửa thế kỷ nay. Đây là một vụ án đạo văn thơ lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, có sự hỗ trợ của quyền lực. Thời gian chỉ làm dịu vơi nỗi khổ, niềm đau; chớ không thể xóa bỏ sự hoài nghi hay gian ác được. Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản, để lại nhiều mả tù, mả lính, xương trắng Trường sơn, và gây cảnh Nam Bắc phân ly, huynh đệ tương tàn. Đường vào văn học sử thì khác. Rất dễ nhưng rất khó. Nó đòi hỏi sự thật và nghệ thuật.
Tù nhân Nguyễn Chí Thiện, trước các làn sóng tố cáo “Thiện giả, ăn cắp thơ,” đã chấp nhận giảo nghiệm hình ảnh và chữ viết của mình để minh chứng tên tác giả thực của Hoa Địa Ngục. Đảng Cọng Sản Việt Nam thừa kế di sản Hồ Chí Minh tổ chức cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh từ 3/2/2007 đến 3/2/2011 thì không gì cụ thể và ngay thẳng hơn: cho công bố cuộc giảo nghiệm chữ viết và con số cùng bút tự chữ Hán trong các di cảo của ông Hồ với cuốn sổ gốc Nhật Ký Trong Tù. Nếu hô hào suông, thần tượng Hồ Chí Minh chỉ là: Trông xa ngỡ tượng tô vàng; Nhìn gần lại hóa toàn là đồ gian.
Thật vậy, thực tiễn mới là thước đo chân lý. Muốn biết về thời đại Hồ Chí Minh thì “Hãy lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực” bằng cách đọc Hoa Địa Ngục và Hỏa Lò. Kinh nghiệm Cọng sản là một cái gì cụ thể. Trong “Hồi kí Nguyễn Hiến Lê”, một học giả có cả trăm đầu sách, rất có ảnh hưởng ở miền Nam, ông viết, muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người miền Nam rút được. Mấy ông Tây bà đầm, các nhà khoa bảng lẫy lừng khi nói đến họ Hồ nên nhớ đến lời này. Mong lắm thay!
Phan Thanh Tâm
Saint Paul, 12/08
(1) http://www.gio-o.com/NguyenDuyChinhTangTuyetMinh.htm
(2) http://www.geocities.com/xoathantuong/bt_sophanntt.htm
(3) http://www.geocities.com/xoathantuong/dtn_1905hcm.htm
Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2012
Phan Thanh Tâm - Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Ông Già và tivi
“Ông già và Biển cả” của văn hào Ernest Hemingway ấn hành năm 1962 là một người nghèo khổ nhưng không chút buồn nản trước mọi hoàn cảnh; lấy biển khơi làm lẽ sống; còn các ông già ở Mỹ thì sống cô đơn, không phải lo về sinh sống mà lại có một nỗi buồn ray rứt thật khó tả vì các ông thấy sự sống của các ông đã bắt đầu ra đi bằng những bước chậm rãi. Tuy chán đời, nhưng vì thế giới của những năm đầu Thiên niên kỷ III có nhiều chuyện lạ khiến các ông xem TV nhiều hơn. Nhờ vậy, các ông mới nhận thấy có một người bạn chung thủy vẫn luôn luôn ở trong phòng ngủ các ông. Người bạn đó là cái TV.
![]() |
Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh |
Đây là những giòng trích trong bài báo ÔNG GIÀ VÀ TIVI của một ông cụ 89 tuổi. Ông cụ này là cố nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh. Ông trao cho tôi mẫu bài này hồi mùa hè năm 2009 khi tôi đến San Jose’ ở lại nhà ông hai ngày nhân dịp sinh viên báo chí Vạn Hạnh miền Đông Bắc và một số anh em Việt Nam Thông Tấn Xã cùng tổ chức mừng 60 năm làm báo của ông. Bài báo còn viết, con người học từ cái máy, không phải để bắt chước y hệt mà phải biết sàng lọc, loại bỏ những vu khống, lạm dụng. Ông cụ nhắn nhủ, hãy mở bộ óc ra để thâu vào những tư tưởng tự do trong sáng của thời đại mới, thay vì đóng óc để giữ chặt chủ trương bảo thủ cực đoan đã lỗi thời.
Sinh ở Bắc giang năm 1921, qua đời ngày Chủ Nhật 12 tháng 8 năm nay, hưởng thọ 92 tuổi, nhà báo Sơn Điền thuộc thế hệ già nhất trong làng báo tiếng Việt hải ngoại. Ông vào nghề nhờ cuốn “A.B.C du Journalisme” rách nát của bậc đàn anh Trần Việt Sơn trao cho từ năm 1948 và viết truyện ngắn dưới bút hiệu Tùng Khanh. Suốt đời sống đạm bạc bắng ngòi bút; bài báo cuối cùng của ông là bài Kinh Động Vũ Trụ ngày 7/19/12 nói về các nhà Thiên Văn Mỹ đã tạo ra một loại máy khám phá những bí mật của Hoả tinh. Tại sao không an dưỡng với tuổi già mà viết nhiều vậy? Ông nói vì có mối sầu vong quốc. Ông mượn lời nhà văn được gỉải Nobel năm 2000 Cao Hành Kiện để trả lời: viết cho dịu đi những nỗi thống khổ trong lòng. Để theo dõi thời sự, ngoài xem TV, Internet ông còn đọc nhiều loại sách báo ngoại quốc.
Theo nhà báo lão thành, báo mà không có tin tức thì không thể là báo. Tuy báo đọc không thể có tin sốt dẻo, đưa tin nhanh bằng tin chớp nhoáng (breaking news) của CNN, CBS, NBC, ABC... hay Headline News của mấy đài phát thanh; nhưng báo đọc sẽ không thua báo nhìn (TV), báo nghe (Radio) và sẽ không biến mất. Tin nhanh cần; nhưng báo đọc cung cấp nhiều chi tiết làm nổi bật ý nghĩa thực sự của tin. Những chi tiết đó chỉ có thể có với thời gian và với lời bình của các nhà phân tách thời sự. Trong bài Bước Nhỏ, Đường Dài (tháng 8, 1966) viết về nghề mà ông đã cống hiến cả đời, từ lúc ban mai cho đến lúc xế chiều, ông đặc biệt nói đến đạo đức, kỹ cương và tinh thần trách nhiệm nằm trong lương tâm của người ký giả chuyên nghiệp hay nghiệp dư.
Trong bài báo, ông còn cho thấy ước vọng xây dựng ngay tại hải ngoại một nền tảng cho một ngành báo chí hiện đại và lành mạnh cho đất nước Việt Nam trong tương lai, khi chế độ độc tài đảng trị phải nhường bước cho một chế độ tự do dân chủ, tôn trọng nhân quyền. Việc viết báo tiếng Việt ở các nước tự do có cộng đồng người Việt cư ngụ có sứ mạng bảo tồn ngôn ngữ mẹ đẻ và phong phú hóa tiếng Việt bằng việc dịch ra tiếng Việt các từ ngữ mới mỗi ngày một nhiều ở những nước đứng hàng đầu về phát triển truyền thông. Vẫn theo ông, định luật số một của nghề làm báo là khiêm tốn, ký giả không được coi thường độc giả. Độc giả là người thầy của nghề làm báo.
Nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh làm việc cho Việt Nam Thông Tấn Xã, thường được gọi là Việt Tấn Xã (VTX) từ năm 1951 ở Hà Nội; từng làm phóng viên, đặc phái viên; phiên dịch viên Anh, Pháp, phụ trách các bản tin quốc nội, quốc tế; tu nghiệp, thực tập tại thông tấn Kyoto, thông tấn Jiji, nhật báo Mainichi, nhật báo Asahi; mê say các môn Vật lý, Không gian, Vũ trụ nên ngoài việc viết bình luận về thời cuộc, ông còn viết về các đề tài khoa học. Thông thạo Anh, Pháp và Nhật, cộng tác với các báo Thần Chung, Đuốc Nhà Nam, Dân Chủ Mới, Saigon Mới, Tiếng Chuông, Trắng Đen, Quyết Tiến, Hoà Bình, Độc lâp…; dịch thuật tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, Nghê Khuông, Gia Cát Thanh Vân từ nguyên chữ Hán cho các báo Việt Ngữ ở Saigon.
Một nhà báo quí hiếm
Năm 1965 ông được cử làm Tổng Thư Ký Việt Tấn Xã, chịu trách nhiệm ba ấn bản Anh, Pháp, Việt, điều hành hàng trăm nhân viên; cơ quan này có tổ chức như một Tổng Nha tự trị, nhưng ông vẫn có cung cách một nhà báo. Việt Tấn Xã sinh hoạt như một toà soạn, coi nhau như anh em một nhà; ai cũng kính trọng quí mến ông, gọi ông bằng Anh. Sau 1975, ông bị đi tù 12 năm ở Gia Trung Pleiku, cùng với nhiều nhà văn, nhà báo, nhà thơ khác. Thời gian bị giam cầm, ông “bao giờ cũng là tấm gương sáng hiểu biết, bình tĩnh, hòa nhã”. Tháng 2/1992, ông bà sang Mỹ đoàn tụ với các con ở San Jose’, lúc đó đã hơn thất thập, ông không dừng bút mà tiếp tục viết cho mục Trước Thời Cuộc cho đến khi hết ngồi viết nổi. Người bạn đời mất trước ông bảy năm.
Trong cuốn “Tâm Pháp Khí Công”, xuất bản mùa thu năm 2009 mà ông là tác giả, nhà bình luận thời cuộc cho biết nhờ tập luyện như những điều viết trong sách, tinh thần và thể xác ông còn kháng kiện, làm việc bình thường 6, 7 tiếng đồng hồ một ngày, trừ chủ nhật, “tôi chỉ làm có 4 tiếng”. Trong cuốn sách này, ông còn kể lại hồi trẻ ông cũng có học võ Thiếu Lâm; thời gian ở Nhật học “Kiếm đạo”, (Kendo), tìm hiểu về Nhu đạo, Thiền, nghiên cứu về Yoga, Hiệp khí đạo (Aikido) của Nhật và Thái Cực Đạo của Đại Hàn. Ngoài ra, ông còn có để ý đến nhiều phương pháp luyện công, luyện khí bắt nguồn từ sự khai sáng của Đạt Ma Tổ Sư ở chùa Thiếu Lâm, liên quan tới Phật pháp.
“Vô Tư, Trung Thực, Tôn Trọng Độc Giả; chúng tôi đưa tin, độc giả phán xét”. Đó là những lời trong bài góp ý với Đại Hội truyền thông hải ngoại hồi tháng 4 năm 2003 tại Cali, của nhà báo lão thành. Ông nói, hai cột trụ của nghề làm báo là kiến thức và đạo đức. Theo ông, học vấn giản dị chỉ là sự tích lũy kinh nghiệm. Trau dồi kiến thức không nhất thiết chỉ ở trường học mọi cấp mà ở trường đời. Nghề báo là môi trường tốt nhất cho sự học hỏi. Hành nghề báo chí phải kiên nhẫn chiụ khó tự học, ngày ngày phải học và học mãi cho tới già. Nghề này là một nghề tự do, không ai đòi hỏi bằng cấp hay giấy phép. Có kiến thức rộng mới có tư duy sâu sắc, luận bàn chín chắn.
Về báo chí và đạo đức, ông cho rằng nó nằm trong những đạo lý thông thường về nhân phẩm và tư cách của con người. Đây là một mảnh đất rất mông lung vì cái đạo đức của tôi có khi không giống cái đạo đức của anh. Tuy nhiên, tất cả tùy thuộc vào chữ Tâm, nơi chứa toàn bộ năng lượng con người. Đó là tinh thần trách nhiệm. Ông kể chuyện Trần Quang Ngọc trong Tiêu Sơn Tráng Sĩ của Khái Hưng, giả làm nhà sư hoạt động chung với nữ hào kiệt tài sắc vẹn toàn Nhị Nương trong thời Mạc Lê. Trai tài, gái sắc tình chiến hữu sâu đậm nhưng vẫn trong sáng. Có người hỏi, Quang Ngọc đáp, “ta nhờ chiếc áo cà sa này để tranh đấu thì không nên làm cho nó nhọ nhem đi”.
Vẫn theo nhà báo này, cái khó nhất của nghề báo bổ là dễ mắc sai lầm vì phải chạy đua với đồng nghiệp, cọng thêm với sự hăng say của nghị luận trong tư tưởng. Kỹ thuật truyền tin càng mau lẹ, sai lầm càng dễ mắc. Ông nói, nắng mưa là bệnh của trời, làm sai là bệnh của người thế gian. Vấn đề là có biết nhìn nhận những sai lầm đó để sửa chữa hay không? Cũng trong bài góp ý nói trên, nhà bình luận thời cuộc lão thành còn viết, làng báo chúng ta tuy có những cá nhân độc lập về chính trị nhưng lại có một nền tảng chính trị vững chắc không ai dị nghị, là tự do ngôn luận, tự do báo chí. Chế độ nào bóp nghẹt những tự do đó, chúng ta chống lại.
Năm 1965 nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh dạy môn báo chí tại các trường Đại Học Vạn Hạnh và Chính trị kinh doanh Đà lạt. Ra hải ngoại năm 2007 ông cho xuất bản tuyển tập “Những Mùa Xuân Trở Lại” và năm 2009 cuốn “Tâm Pháp Khí Công”. Cụ Sơn Điền hưởng thọ 92 tuổi, qua đời nhưng không mất, chỉ mờ dần thôi như câu nói của Đại Tướng Douglas Mac Arthur Old Soldiers never die, They just fade away (Những người lính già không bao giờ chết. Họ chỉ mờ dần đi). Một nhân viên từng làm việc dưới quyền ông và cũng là sinh viên của ông khi nghe tin ông ra đi đã viết Thầy Khánh là một nhân vật quí hiếm trên đời, tôi rất nể phục và kính yêu, nghe tin thầy qua đời thật là buồn.
Phan Thanh Tâm,
Saint Paul 8/12