Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Xuân Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Xuân Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 15 tháng 9, 2023

Vụ cháy chung cư mini ở Hà Nội: cần thay đổi từ pháp luật, sự quản lý của nhà nước cho tới tư duy, lối sống của người dân!

Toàn cảnh đám cháy chung cư mini
trong hẻm 29/70 phố Khương Hạ,
phường Khương Đình, quận Thanh
Xuân, Hà Nội) (Ảnh: TTXVN)

Phạm Xuân Nguyên: Đau đớn và phẫn uất


ĐAU ĐỚN trước 56 người đã chết và hàng chục người bị thương trong vụ cháy kinh hoàng tại khu nhà cho thuê (phải gọi đúng như thế chứ không thể gọi đó là chung cư mi ni được) ở số 37, ngách 29/70 Khương Hạ (Thanh Xuân, Hà Nội). Họ, những người già con trẻ, những thanh niên trẻ trung, đã phải bị chết và bị thương tức tưởi trong đau đớn xót xa vô cùng tận. Cầu xin đấng cao xanh cho họ được siêu sinh tịnh độ ở thế giới bên kia! Và xin chia sẻ sâu sắc nỗi đau không thể gì khoả lấp này của các gia đình nạn nhân vụ cháy!

Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2023

Phạm Xuân Nguyên: 123 năm sinh nhà văn Antoine Éxupery (1900 – 1944)

Antoine de Saint-Exupéry.
Ảnh: Britannica.
Ngày này (29/6), cách đây 123 năm, Antoine Saint-Exupéry ra đời ở nước Pháp. Ông là phi công chiến tranh, nhà sáng chế, nhà văn nổi tiếng mà tên tuổi từ lâu đã vượt khỏi biên giới nước mình đến khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt với tác phẩm “Hoàng tử bé” (Le Petit Prince) được dịch nhiều thứ hai sau Kinh Thánh, Exupéry đã nuôi dưỡng cuộc sống tâm hồn của bao thế hệ người như một thứ kinh Phúc Âm văn chương, giúp họ biết cách tìm hạnh phúc làm đứa trẻ suốt cuộc đời. Cuốn sách đó cùng cái chết của ông đã biến ông mãi mãi là điều bí ẩn của thế gian này.

Nhân kỷ niệm 123 năm ngày sinh (một con số rất hay) của Xanh-Tếch (cách đọc thân mật tên nhà văn), mời mọi người đọc lời “Nguyện cầu” của ông và bài viết của một nhà phê bình văn học Nga viết cách đây ba năm (2020).

Thứ Sáu, 17 tháng 3, 2023

Phạm Xuân Nguyên: Vì sao Kenzaburō Ōe (31/1/1935 – 3/3/2023) khó vào Việt Nam?

Nhà văn Kenzaburō Ōe
(31/1/1935 – 3/3 2023).
Nguồn Wikipedia

Kenzaburo Oe (1935–2023) là một trong ba nhà văn người Nhật Bản được trao giải Nobel văn chương. Ông nhận giải năm 1994. Trước ông là Yasunary Kawabata (18991972) năm 1968. Sau ông là Kazuo Ishiguro (sinh 1954, nhà văn Anh gốc Nhật) năm 2017. 


Trong ba người thì Kenzaburo Oe ít vào được Việt Nam, và vẻ như khó vào, xét về số lượng sách được dịch ra tiếng Việt. 


Đứng đầu là Yasunary Kawabata. Nhà văn của vẻ đẹp Nhật Bản đã được giới thiệu liền ngay sau khi nhận giải, từ đó các tác phẩm của ông được lần lượt dịch ra tiếng Việt [1], có những cuốn có đến vài ba bản dịch khác nhau. Cho mãi tới gần đây sách của ông vẫn được dịch và xuất bản [2]. Có thể nói đến nay ở Việt Nam Kawabata đã hiện diện gần như đầy đủ các tác phẩm của mình. Truyện của ông trong tiếng Việt đã được dạy trong nhà trường phổ thông, đã được làm luận án đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, đã được viết thành sách chuyên khảo. Năm 2022, kỷ niệm 50 năm ngày mất, một hội thảo quốc tế về ông đã được tổ chức tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP Hồ Chí Minh.


Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2021

Phạm Xuân Nguyên: Dòng thời gian

Nói về thời gian, người ta thường ví với dòng sông. Có lẽ vì cũng như sông chảy theo dòng về phía trước, thời gian cũng một chiều từ hôm qua đến hôm nay sang ngày mai. Thời gian như dòng sông cũng chảy qua nhiều khúc quanh, chỗ ngoặt, có khi ta biết nó chảy về đâu, có khi ta không biết đâu là nơi nó chảy. Ta nói thời gian trôi cũng như sông trôi. Cái đã trôi qua không trở lại. Và trong dòng chảy trôi ấy của sông, của thời gian, muôn vật biến đổi không ngừng nghỉ. Khổng Tử ở phương Đông đứng bên trên sông ngắm nhìn dòng nước mà nói với các học trò: “Thệ giả như tư phù; bất xả trú dạ” (Mọi vật đi qua như nước này chảy đi; ngày và đêm không có vật chi ngừng nghỉ). Heraclit của phương Tây thấy sông là thấy sự chuyển động: “Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Nhưng không chỉ vì sông trôi nên nước tắm ta lần trước đã không còn phải là nước tắm ta lần sau. Mà còn vì thời gian trôi, ta ở lần tắm sau đã khác ta ở lần tắm trước. Nghĩa là thời gian làm cả sông và ta thay đổi.

Xuân Diệu (1916 – 1985) thi sĩ yêu đời cuồng nhiệt nên luôn cuống quít với bước đi của thời gian. Ông thúc giục con người phải vội vàng để sống hết cõi sống trần gian, căng hết các giác quan để tiếp nhận và cảm thụ hết mọi hình bóng mùi vị thanh âm hương sắc cuộc đời. Nói về thời gian ông có một bài thơ thật hay lấy chuyện đi thuyền để nói. Con thuyền đi trên sóng nước dòng sông cụ thể, nhưng đời người ta cũng là con thuyền trôi trên sóng nước cuộc đời mà mỗi khắc mỗi giây luôn thay đổi cùng với sự đổi thay của đất trời, vũ trụ, của chính cơ thể mình nữa.

Thuyền đi mà nước cũng trôi
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Lòng thơ mơ tưởng cũng thay khác rồi
Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước sang tôi phút này

Thứ Ba, 6 tháng 8, 2013

Phạm Xuân Nguyên - Phê bình chỉ điểm


Phạm Xuân Nguyên 

Đây là sự định danh một kiểu gọi là “phê bình văn học” của Nguyễn Văn Lưu đã được tôi nói lên tại diễn đàn của hai cuộc họp quan trọng. Cả hai cuộc tôi đều được mời dự chính thức và được phát biểu chính thức. Cuộc thứ nhất là hội thảo “Nâng cao chất lượng, hiệu quả phê bình văn học” do Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ngày 10/4/2012 tại hội trường Ban tuyên giáo trung ương.


Đến dự cuộc đó có các ông Trương Tấn Sang, Đinh Thế Huynh, và ngồi chủ trì là các ông Nguyễn Hồng Vinh, Đào Duy Quát, Hữu Thỉnh. Khi tôi phát biểu trong phiên thảo luận buổi chiều thì hai vị Chủ tịch nước và Trưởng ban Tuyên giáo trung ương đã không còn ngồi dự. Tôi đăng ký phát biểu và khi lên bục tôi đã mở đầu ý kiến của mình bằng cách nói ngay: bản tham luận “Kinh nghiệm phê bình qua một trường hợp văn học” của Nguyễn Văn Lưu đọc buổi sáng là lối phê bình chỉ điểm.

 Ông ta có quyền lấy trường hợp Nguyễn Huy Thiệp để khảo sát phê bình, nhưng cái lối tập hợp tư liệu các bài viết phê bình xoay quanh tác phẩm của nhà văn này rồi tổng hợp lại thành ra như một hệ thống có tổ chức phân công người định hướng tư tưởng, người viết bài... là có ý đồ xấu, là bóp méo sự thực đời sống văn học, là vu cáo những người phê bình có bài viết ủng hộ hiện tượng văn chương Nguyễn Huy Thiệp hành động như một “tổ chức”.

Cuộc thứ hai là hội nghị lý luận phê bình văn học lần thứ ba do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Tam Đảo (Vĩnh Phúc) trong các ngày 3-5/6/2013. Nguyễn Văn Lưu đọc bài viết phê phán bản luận văn “Vị trí kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” của Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) với những lời quy kết nặng nề.

 Khi thảo luận tôi cũng đã lên bục phát biểu to trước hội trường rằng kiểu phê bình như thế của Nguyễn Văn Lưu là phê bình chỉ điểm. Tôi cũng nhắc lại đây là lần thứ hai tôi dùng cụm từ này cho Nguyễn Văn Lưu và tôi nhấn mạnh không thể nào ở thời nay, ở nước ta hiện nay chấp nhận được một lối phê bình như thế. (Nói thêm một chi tiết là khi Nguyễn Văn Lưu đang đọc thì nhà văn HPP từ hội trường đi ra ngoài, ngang qua chỗ tôi ngồi anh nói nhỏ “sao bây giờ lại sinh ra những kẻ phê bình cảnh sát như vậy hả ông?”).

Cả hai cuộc lần tôi phát biểu thẳng thắn, công khai tại hai hội thảo lớn báo chí khi tường thuật đều có lược trích ý kiến của tôi, nhưng không báo nào dẫn lại lời tôi nói “phê bình chỉ điểm” đối với Nguyễn Văn Lưu. Mới hay để đưa tin, tường thuật một sự kiện cho thật trung thực, khách quan trên báo chí chính thống cũng là khó. Tổng kết hội nghị Tam Đảo, ông Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam có nhắc tới bốn tiếng này của tôi nhưng là ở phần nói cái chưa được của hội nghị.

Phê bình chỉ điểm là gì?

Nó không phải bây giờ mới có, mà đã có trong suốt đời sống văn học, khi âm thầm, khi rộ lên, và thường là rộ lên thành đợt. Đó là kiểu phê bình cốt điểm mặt chỉ tên những người bị coi là sai trái, sai lầm, lệch lạc, phản động theo một cách đọc văn bản sáng tác và văn bản phê bình thiên về chính trị, quy về chính trị. Các văn bản sáng tác được viết theo cấu trúc nghệ thuật. Các văn bản phê bình được viết theo cấu trúc khoa học. Đọc chúng đúng nghĩa để nhận xét, đánh giá, phản biện là phải đọc theo quy tắc nội tại của văn bản, đọc có lý thuyết và phương pháp, đọc trong hệ thống liên kết văn bản, không thể hồ đồ suy diễn, diễn dịch theo lối áp đặt từ một động cơ, ý muốn ngoài văn học, ngoài khoa học. Phê bình chỉ điểm thường không đọc “vỡ chữ” (để mượn hai chữ này của nhà phê bình văn học và nghệ thuật Nguyễn Thị Minh Thái) các văn bản đó, hoặc có “vỡ chữ” được thì lại “bóp chữ”, và đọc theo lối áp ý (áp buộc ý riêng của mình) và ác ý. Theo dấu chỉ điểm này, người ta sẽ xử lý.

Từ đó, phê bình chỉ điểm là kiểu phê bình dựng chuyện, lập hồ sơ giả, dựng hiện trường giả. Tác phẩm văn học bị lấy làm cái cớ để vu cho người viết những điều không có, ép cho họ những ý nghĩ, tư tưởng không thật, và thế là biến một cuốn sách, một tác giả thành ra một vụ việc mang tính hình sự, nặng hơn nữa thì coi đó là vụ án mà kẻ kết án chính là kẻ viết phê bình như thế. Những tác giả của kiểu phê bình này tự cho mình và coi mình có quyền nắm chân lý, ở vai quan tòa, và lớn tiếng dùng giọng văn buộc tội để nói về người và việc văn học. Theo dấu chỉ điểm này, người ta sẽ xử lý.

Phê bình chỉ điểm do vậy là mang tính vụ việc nhất thời, là báo động giả, lấy sự gây ồn ào rối loạn làm mục đích chính, nhưng hậu quả nó gây ra thì nặng nề cho tâm lý xã hội, cho tinh thần văn giới, và thậm chí gây tác hại về nhân sinh. Theo dấu chỉ điểm, người ta sẽ xử lý. Bởi vì nó luôn được xuất hiện chính thức trên các phương tiện thông tin đại chúng chính thống và xuất hiện một cách ưu tiên, dành chỗ. Nó dễ khiến đám đông tin theo vì sự xuất hiện đó và vì cách viết kích động yếu tố chính trị trong hiện tượng văn học, cũng cả vì đám đông không được thông tin hai chiều, chỉ có chiều đi không có chiều lại.

Tuy nhiên, phê bình chỉ điểm lại thường có hiệu ứng ngược: nó chết nhanh, còn cái bị nó phê thì sống dài. Cứ nhìn lại hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh thì rõ. Khi mới xuất hiện, tác phẩm của hai nhà văn này đã bị phê bình chỉ điểm kêu la ầm ĩ nào là phủ nhận chiến tranh cách mạng, nào là hạ bệ thần tượng, nào xuyên tạc lịch sử dân tộc, vân vân và vân vân, cứ như đọc sách của họ thì hỏng cả mọi sự. Cho đến bây giờ nhìn lại thì chính Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh là hai thành quả xuất sắc nhất của văn học Việt Nam đổi mới, là hai tác giả văn học Việt Nam được dịch nhiều nhất và đánh giá cao nhất ở nước ngoài, là hai gương mặt không thể thiếu khi giới thiệu văn học Việt Nam hiện đại.

 Điều này tôi nói là sự thực, còn hơn cả sự thực, đó là sự thật, dù ai khen chê thế nào mặc lòng, nhưng ai còn có lương năng văn học thì cũng đều thừa nhận thực tế đó. Còn lại bên họ là những người phê bình có mắt xanh tâm sáng biết “anh hùng đoán giữa trần ai mới già” nhận chân ra giá trị đích thực của hai người viết mới với những giá trị mới cần thiết cho văn học nước nhà thời kỳ đổi mới ngay từ khi họ vừa xuất hiện trên văn đàn. Trong khi đó, những bài viết kiểu phê bình chỉ điểm một thời vấy bẩn họ giờ còn ai đọc, mà có đọc cũng chỉ thấy chúng bất lực.

Kinh nghiệm của tôi đối với kiểu phê bình chỉ điểm: hễ thấy có bài, mà nhất lại là nhiều bài đánh liên tục, dồn dập, tàn độc nhắm vào một tác giả, tác phẩm, công trình nào đó, thì hãy tìm ngay những cái bị đánh ấy đọc trực tiếp bằng con mắt, trí tuệ mình, đọc dưới góc độ văn hóa, văn học nghệ thuật và quên ngay những trò đánh đấm hội đồng chỉ điểm, phi văn học, phản nhân văn. Như ở trường hợp bản luận văn của Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) về nhóm Mở Miệng: hãy tìm đọc thơ của nhóm đó, hãy tìm đọc luận văn đó, thích hay không thích, đồng ý hay không đồng ý, mỗi người có quyền lựa chọn và phát biểu, nhưng hãy cứ đứng ở địa hạt văn học của thơ và khoa học của luận văn, đừng đẩy sang phía chính trị, tư tưởng, càng không được quy kết, quy chụp về tư tưởng và chính trị. Làm như thế là hại người.

 Mà đó chính là cách làm của phê bình chỉ điểm. Nó thế này: “Vì vậy chúng tôi cấp thời đề nghị phải lập tức đình chỉ việc giảng dạy của cô giáo Nhã Thuyên - dù là giảng dạy hợp đồng. Đồng thời hủy bỏ Luận văn, hủy bỏ học vị Thạc sĩ của tác giả Luận văn, xem xét lại tư cách của người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Nguyễn Thị Bình và trách nhiệm của Hội đồng chấm Luận văn này.” (Nguyễn Văn Lưu). Đây chính là một cáo trạng khoác áo “phê bình văn học” truy bức tội danh “kích động sự phản kháng và chống đối” cho một bản luận văn cao học. Theo dấu chỉ điểm này, người ta sẽ xử lý.

Hà Nội 7.2013
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả


Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Phạm Xuân Nguyên - CÓ MỘT TẤM LÒNG NHƯ THẾ


Phạm Xuân Nguyên

Tôi nhớ mãi một bài báo đọc được trên tạp chí Bách Khoa trong quá trình tìm hiểu về văn học miền Nam trước 1975. Bài báo nói chuyện những địa danh ở miền Nam Bộ lại luôn mang tên người, những thôn ấp kênh rạch được gọi là xóm Ông Đồ, ấp Trùm Thuật, sông Ông Đốc, ngọn Ông Trang, rạch Biện Nhan, núi Bà Đen... Núi sông được gọi theo tên con người, mà lại là những người dân chân chất, bình thường, những con người chân lấm tay bùn, không phải những vĩ nhân, nhân vật lịch sử. Thật lạ lùng. Ở miền Bắc thì con người phải mượn tên sông núi để ghi danh mình như Tam Nguyên Yên Đổ, ông Tú Vị Xuyên, cụ Nguyễn Tiên Điền, còn trong Nam con người cho núi sông mượn tên mình trước bạ. Mới đọc đến đó tôi đã khoái quá. Nhưng tác giả chưa dừng ở đó. Trong Nam tên núi tên sông là tên người, nhưng người Nam lại rất lắm tín ngưỡng, thờ lắm thần, lập lắm đạo. Cớ sao vậy? Câu trả lời của tác giả chốt lại trong một từ: đất mới. Nam Bộ là miền đất mới, người Việt vào đó khai khẩn phải tự tạo ra tất cả mọi thứ cho cuộc sống của mình, từ tên gọi núi sông đến thần linh đạo giáo. Kết luận lại, tác giả gọi đó là “đất của con người”. Và đó cũng là tên của bài báo tôi đọc được. Toàn bài toát lên một sự ngợi ca con người Việt Nam đi mở đất, nối dài bờ cõi. Toàn bài chan chứa lòng yêu con người Việt Nam tràn trề sức sống và biết sống trong mọi hoàn cảnh, môi trường. Giọng văn như kể chuyện, một lối văn nói, khiến người đọc thấy gần gũi, chan hòa. Tôi đọc xong bài ngó tên tác giả thấy hai chữ Tràng Thiên. Ngày tháng ghi dưới bài viết là vào năm 1972.


Từ đó tôi chú tâm đọc những bài khác cùng loại của cùng tác giả. Nói thật là càng đọc được càng thích thú, khoái cảm, càng thấy mình hiểu thêm nhiều điều trong cuộc sống quanh mình, ở trên đất nước mình, nhất là về phía Nam, càng kích thích mình chú ý hơn đến những cái thường ngày để mà tìm hiểu. Ông Tràng Thiên đã lấy những cái mắt thấy tai nghe ra để diễn giải, cắt nghĩa, suy luận, phỏng đoán về một từ ngữ, một mùi vị, một món ăn, một tiếng cười, tiếng chửi của người Việt toàn thể, của người Việt miền Nam, đặng để mà hiểu hơn từ đó yêu hơn. Theo ông, ta thấy được “những ve vẩy phấp phới của tà áo dài là niềm vui hợp lý chúng ta tự thưởng cho mình bên cạnh những lao tác nhọc nhằn”. Theo ông, ta hiểu vì sao, theo cách hiểu của ông, người Việt lại có “cuộc chiến bằng mồm” tức là chửi, mà là chửi tục. Theo ông, ta mới biết thương con én quá chừng, giống chim gắn với mùa xuân, được nói đến trong thơ ca, vậy mà người ta lại không hề quan tâm đến nó, bằng chứng là nó không có được một cái tên gọi tiếng Việt, “én” chỉ là do “yến” của tiếng Hán đọc chại mà ra. Nghe thế ta giật mình. Biết bao thứ bình thường quanh ta, ta sống hàng ngày với những thứ đó, ta coi chúng là quen thuộc, gần gũi, vậy mà bỗng chốc ta ngớ ra khi muốn biết ý nghĩa chúng ra sao, tại sao chúng lại có cách gọi tên, cách dùng như chúng. Ta vô tình. Ta thờ ơ. Ta sống buông xuôi mặc lòng. May nhờ có các nhà văn như Nguyễn Tuân, Thạch Lam hồi trước, và Vũ Bằng, Tràng Thiên gần đây, ta mới được cảm nhận đầy đủ, tinh tế những thứ ta sống hàng ngày, những nơi ta từng đến từng qua. Họ để ý quan sát. Quan sát rồi họ chú tâm suy nghĩ. Suy nghĩ rồi họ tìm cách diễn giải. Diễn giải cũng là một cách để nói lòng yêu. Ông Tràng Thiên yêu lắm đất nước mình là Việt Nam, quê hương mình là Bình Định, cố đô mình là Huế. Vâng, “yêu quá, có thể nào khác được / có thể nào khác được nếu mình yêu” (Thanh Thảo). Những bài viết về quê hương đất nước của Tràng Thiên là được viết ra trong một thời kỳ gian lao, ác liệt trên mảnh đất chữ S khi chiến tranh gầm thét và xé nát đất đai, thể xác, phong hóa, tập tục. Giữa cảnh bom đạn chết chóc, viết về cái ăn cái mặc, cái khóc cái cười, cái cảm cái nghĩ, dường như là cách ông nhà văn này chống chọi với bạo lực, dường như ý ông muốn cất giữ những nét văn hóa riêng của dân tộc cho khỏi bị tàn phá, hủy hoại của vũ khí. Ông thương Mẹ Việt Nam, bấu víu vào Mẹ; “Gọi Mẹ Việt Nam, Mẹ cúi xuống kiểm điểm từng địa phương, từng phần tử trong đám con đàn cháu lũ Việt Nam chắc chắn Mẹ sẽ không đến nỗi tuyệt vọng đâu. Đã đành, nhiều lúc con trẻ hành động ngông cuồng rồ dại quấy phá Mẹ không ít, làm Mẹ điêu đứng thẫn thờ cũng nên, nhưng Mẹ hãy xem có những gương mặt khả ái, những tấm lòng nhiệt thành, sau hai mươi năm điêu linh vẫn còn những kẻ kiên nhẫn siêng năng, sau nhiều suy sụp ngả nghiêng xã hội vẫn còn những tâm hồn đứng đắn lành mạnh nhờ được hun đúc trong một truyền thống tốt đẹp tự lâu đời”.

Vậy là tôi đã đọc Tràng Thiên ở mảng viết này của ông từ những bài lẻ trên báo chí đến cả tập sách được đặt tên Đất nước quê hương. Ngay khi đọc xong bài “Đất của con người” nói trên tôi đã kể lại cho nhiều người như một phát hiện của tác giả về vùng đất phía Nam và tôi đã rất muốn in lại bài viết đó cho nhiều người cùng đọc. Nay thì không chỉ bài viết đó mà còn nhiều bài viết khác của Tràng Thiên đã được in lại thành tập Quê hương tôi vừa xuất bản. Tập sách đưa lại nhiều hiểu biết về môn đất nước học, văn hóa học, và cả những kiến thức về du lịch, nhưng trên hết là một tình yêu, một tấm lòng. Cầm tập sách tôi vui mừng gặp lại một người quen chưa từng gặp mặt nhưng đã cho tôi đồng hành trên con đường văn hóa văn chương. Một nhà văn nổi tiếng về tạp bút tạp luận mà Tràng Thiên là bút hiệu được lấy từ câu thơ nổi tiếng của Vương Bột đời Đường “Lạc hà dữ cô vụ tề phi / Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc” (“Cánh cò bay với chiều sa / Sông thu lẫn với trời xa một màu”). Ở phương trời xa ngoài đất nước trong cõi người đã đi gần chín phần mười thế kỷ Tràng Thiên hẳn mừng khi biết tấc lòng của mình với quê nhà sau bốn mươi năm lại đã xôn xao, phập phồng.

Nhưng Tràng Thiên là ai vậy mà nãy giờ tôi cứ lòng vòng loanh quanh mãi không nói ra? Xin thưa: Tràng Thiên là Võ Phiến, một nhà văn tên tuổi của văn học phía Nam thời đoạn 1954-1975 hiện nay đang sống ở Mỹ. Ông tên thật Đoàn Thế Nhơn, sinh 1925, quê Bình Định. Mẹ Việt Nam đang vui mừng đón những đứa con phiêu tán trở về. Dẫu ra đi trong hoàn cảnh nào, dẫu ở những phương trời nào, đất nước quê hương vẫn là nơi người đi muốn trở về, sau rốt. Võ Phiến được in lại trong nước, dù đang phải dưới bút danh Tràng Thiên, là một tin vui cho tác giả, cho độc giả, là một ích lợi cho văn hóa, văn học nước nhà. Rồi đây những cái có ích như vậy, những cái thực sự là giá trị văn chương, học thuật của cả một đội ngũ những người cầm bút, rộng ra là những người sáng tạo văn học nghệ thuật, của một nửa nước phía Nam thời 1954-1975 chắc sẽ được xuất hiện trở lại nhiều hơn. Văn học còn dè dặt, nhưng âm nhạc thì đã tưng bừng hơn, với sự trở về nước của những giọng ca từng nổi tiếng, quen thuộc, như Chế Linh mới đây, và Khánh Ly tới đây. “Thì Tổ Quốc chật hẹp gì cho trăm con cùng nương náu /Chúng ta không chung một đoạn đường nhưng chung một tương lai” (Chế Lan Viên).

Và đó là một phúc lớn.

2.9.2012