Thứ Sáu, 3 tháng 3, 2023
Nguyễn Mộng Giác: Thiên nhiên trong văn Phạm Xuân Đài
![]() |
Nhà văn, nhà báo Phạm Xuân Đài. (Hình: Tài liệu) |
Suốt nửa thế kỷ sống trong chiến tranh, người Việt chúng ta mê mải chạy theo những giấc mộng lớn. Giấc mộng nào cũng có những hứa hẹn tuyệt vời : nắn lại dòng chảy những con sông, đào núi lấp biển để tạo ra những nông trường có bay thẳng cánh, san bằng quá khứ meo mốc cổ lỗ rồi xây trên đó những tương lai huy hoàng. Đình chùa miếu mạo bị phá sập, nắm xương tàn của người đã khuất bị bốc lên nhường chỗ cho các xưởng máy. Con người tự tín cho rằng mình đầy đủ quyền năng để chế ngự thiên nhiên. Chúng ta quên sông quên núi, quên lá quên hoa, chúng ta hò hét giữa những khối xi măng hắc ín; lâu ngày trong văn chương, ca nhạc, kịch nghệ, phim ảnh… chỉ có chuyện con người. Thiên nhiên vắng bóng.
Thứ Ba, 20 tháng 12, 2022
Phạm Xuân Đài: Đến với nước Nga (Phần 2)
Lời giới thiệu: Nhà văn Phạm Xuân Đài viết “Đến với nước Nga” vào khoảng năm 2000, tức đã hơn 20 năm trước. Khi đó Liên Xô vừa mới sụp đổ chưa đến 10 năm, và khắp nơi trên đất nước Cộng hòa Liên bang Nga (tức Cộng hòa XHCN Xô viết Nga cũ) – dấu vết của một thời kỳ “xã hội chủ nghĩa” với nền kinh tế tập trung bao cấp quan liêu, trì trệ và tư duy, tiềm lực con người bị kìm hãm, hãy còn rất nặng từ trong đời sống kinh tế cho tới văn hóa, hành vi ứng xử của người Nga. Hơn 20 năm đã qua, nước Nga bây giờ có lẽ đã thay đổi nhiều, thật thú vị khi đọc lại bài tùy bút/bút ký này của nhà văn Phạm Xuân Đài để được nhìn thấy lại hình ảnh nước Nga những năm 2000…
***
Trời mùa hè dù đã năm giờ chiều nắng hãy còn cao, chúng tôi lại lấy xe điện ngầm để đi thăm nhà thờ Đấng Cứu Thế, một ngôi nhà thờ lạ, vừa mới xây dựng xong nhưng lại đã có từ rất lâu, sự tái sinh của nó là cả một câu chuyện ly kỳ về sự sống dậy của Con Người.
Ngay sau khi đánh đuổi quân Pháp ra khỏi của nước Nga vào năm 1812, Nga hoàng Alexandre Đệ nhất đã quyết định xây dựng một ngôi nhà thờ vĩ đại “để tạ ơn Đấng Cứu Thế”. Năm năm sau, công trình bắt đầu với một dự án rất đồ sộ, nhưng sau bảy năm thi công, người ta mới phát giác ra đó không phải là một dự án khả thi, mọi chuyện ngừng lại. Mãi đến năm 1839, 27 năm sau chiến tranh với Pháp, việc xây đại giáo đường để tạ ơn chiến thắng mới chính thức bắt đầu lại tại một địa điểm mới và với một ông vua mới là Nicolai Đệ nhất. Trong lễ đặt viên đá đầu tiên tổ chức ngày 10 tháng 9 năm 1839, người ta không quên chuyển đến viên đá đầu tiên do tiên vương đã đặt trong lần xây nhà thờ không thành mấy mươi năm trước. Bốn mươi bốn năm sau, vào năm 1883 nhà thờ được khánh thành, lại với một vị vua khác nữa là Alexandre Đệ tam. Từ đó, nhà thờ Đấng Cứu Thế đã trở thành ngôi Đại Giáo Đường chính của cả nước, và trở thành không chỉ là một trung tâm tôn giáo, mà còn là một công trình văn hóa, kiến trúc và lịch sử nổi tiếng của nước Nga.
Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2022
Phạm Xuân Đài: Đến với nước Nga (Phần 1)
Lời giới thiệu: Nhà văn Phạm Xuân Đài viết “Đến với nước Nga” vào khoảng năm 2000, tức đã hơn 20 năm trước. Khi đó Liên Xô vừa mới sụp đổ chưa đến 10 năm, và khắp nơi trên đất nước Công hòa Liên bang Nga (tức Cộng hòa XHCN Xô viết Nga cũ) – dấu vết của một thời kỳ “xã hội chủ nghĩa” với nền kinh tế tập trung bao cấp quan liêu, trì trệ và tư duy, tiềm lực con người bị kìm hãm, hãy còn rất nặng từ trong đời sống kinh tế cho tới văn hóa, hành vi ứng xử của người Nga. Hơn 20 năm đã qua, nước Nga bây giờ có lẽ đã thay đổi nhiều, thật thú vị khi đọc lại bài tùy bút/bút ký này của nhà văn Phạm Xuân Đài để được nhìn thấy lại hình ảnh nước Nga những năm 2000…
***
Cho đến khi tôi được đến với nước Nga thì cảm tưởng của tôi về nước này rất trái ngược nhau, vừa thân thiện, vừa ác cảm. Thân với nền văn học, ác cảm với chế độ chính trị đã qua của nó. Đó là nói một cách rất tổng quát, ngoài ra tôi chẳng biết gì cụ thể về đất nước và con người tại đó. Nếu nước Nga không thay đổi chế độ chính trị cách đây gần một thập niên thì chắc tôi khó lòng đến với nó được. Nhưng dù sao Nga vẫn là một thế giới riêng biệt trong thế giới ngày nay, và đến với nước Nga vẫn là một điều đầy háo hức, thậm chí hồi hộp.
Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2022
Phạm Xuân Đài: Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Một khẩu hiệu nổi tiếng của đảng Cộng sản Việt Nam, đã có từ thời đảng còn tranh đấu cho đến khi đã đoạt được quyền hành, là :
Trí Phú Địa Hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ
Vì câu khẩu hiệu này đi vào lịch sử đã lâu, thiết tưởng nên tìm hiểu lại nội dung muốn nói cái gì. Trí, Phú, Địa, Hào là bốn loại người trong xã hội Việt Nam xưa (trước khi có đảng Cộng sản). Trí là người trí thức; Phú là người giàu có; Địa là địa chủ, có nhiều đất ruộng; Hào là kẻ mạnh thế, có tài trí hơn người. Đào tận gốc, trốc tận rễ có nghĩa là phải tiêu diệt một cách triệt để, để cho những thành phần này không bao giờ có thể ngóc đầu lên được. Trong xã hội cộng sản tuyệt đối không còn sự hiện diện của bốn loại người này.
Đảng Cộng sản làm cách mạng xã hội, đem lại công bình cho mọi người về tài sản, về hưởng thụ nên mục tiêu của họ là phải tiêu diệt tất cả bất công của xã hội cũ. Họ phải tiêu diệt những kẻ giàu có, những kẻ có nhiều đất ruộng, thậm chí những kẻ có mạnh thế trong xã hội, cái đó có thể hiểu được, nhưng tại sao kẻ thù vào hàng số một, đứng hàng đầu trong các kẻ thù của cộng sản lại là người Trí thức ? Muốn hiểu điểm này của cộng sản thì phải biết Trí Thức là gì.
Theo Hà Sĩ Phu người Trí thức có những đặc điểm như sau :
TRÍ THỨC có ba đặc điểm, hay ba tính chất:
1/ Tính chất tự do và không ranh giới: Người Trí thức có thể đi sâu vào một lĩnh vực nhất định, nhưng không bị khoanh vùng trong lĩnh vực đó, trong quốc gia đó. Sự phân chia thành các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, văn hoá, văn nghệ, chính trị, đạo đức, kinh tế, quốc gia, quốc tế, con người, nhân loại… vân vân… đều chỉ là những sự phân chia tương đối, quy ước, tạm thời. Sự phát triển và liên tưởng của lô-gích tư duy sẽ vượt qua những ranh giới ấy.
2/ Tính chất tiên phong và phát hiện, dự báo: Bởi được trang bị bằng hai công cụ đặc biệt là kho tri thức ngàn đời của nhân loại đã đúc kết thành các khoa học và sức nhạy cảm chủ quan của bộ óc cá nhân, những người Trí thức như những “bộ máy dò” tiên phong vô cùng nhạy cảm, nó bay về muôn phương, nó cảm ứng lập tức với những cái mới, cái bất thường, nó xâu chuỗi lập tức những quan hệ tuyến tính, những quan hệ thuận quy luật và trái quy luật. Học vấn tuy là điều kiện cần thiết tất yếu cho đặc điểm này, nhưng cũng chỉ là những điều kiện làm nền, điều kiện ban đầu thôi, chưa hề đầy đủ để tạo nên Trí thức.
Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2022
Phạm Xuân Đài: Cái Chết Trong Ca Khúc Phạm Duy
Trong buổi lễ tưởng niệm Đỗ Ngọc Yến vào tối ngày 23 tháng Tám 2006 tại phòng sinh hoạt Lê Đình Điểu của báo Người Việt, Bích Liên với giọng cao vút trong phong cách opéra, đã hát những lời này:
1.
Hồn xuân vừa tàn hơi
Hay nắng ấm lung linh qua đời
Hay gió tuyết mưa sa bay ngang trời
Người yêu dù xa xôi
Xin nhớ tới quê hương u hoài
Trong giá rét đêm đông đang trông vời
Một lần người đưa tiễn nhau
Như vẫn cầu lời hứa năm nào
Đằm thắm cho vui lòng nhau
Một lần người xa cách nhau
Trái tim sầu còn vẫn tươi mầu
Vì đó... không ai quên đâu...
2.
Người đi về mai sau
Nghe khóc lóc xe tang đưa sầu
Nghe bóng xế khăn sô bay ngang đầu
Người đi vào không gian
Nghe nhớ tiếc đau thương vô vàn
Nghe tiếng hát êm êm ru linh hồn
Người về dần trong cõi mồ
Như lúc nào vừa mới ra đời
Chào đón xuân tươi ngày mới
Cuộc đời từ trong chiếc nôi
Đã quay về cùng với gió bụi
Về chốn không tên, xa xôi...
(*)
Bài hát nói về cái chết, Phạm Duy dựa vào điệu nhạc Chanson de Solvejg viết lời lâu rồi, đã trên nửa thế kỷ, ít người biết, nhưng chạm sâu xa đến một vùng mà không mấy người có khả năng nói tới. Phạm Duy là một nhạc sĩ hiếm hoi nhiều lần nói về cái chết, và Khúc Ca Ly Biệt trên đây là bài hát hoàn toàn về sự biệt ly của chết chóc, một cách toàn diện, trong không gian, trong thời gian, trong thân phận kẻ lìa trần cũng như trong lòng người ở lại.
Phạm Duy là một nhạc sĩ sáng tác mãnh liệt về khắp các mặt của cuộc đời, nhưng lại luôn luôn nhắc đến cái chết, tuồng như ông thấy chết cũng là một hình thái biểu hiện sự sống. Ngay từ khi còn rất trẻ, trong khi say sưa viết lên cái khí thế bừng bừng đánh quân ngoại xâm giữa thời điểm 1945, ông cũng đã mường tượng đến sự chết rồi. Ông vừa viết xong bài Xuất Quân lẫm liệt Ngày bao hùng binh tiến lên thì đã nghĩ ngay đến hình ảnh ma quái của những Chiến Sĩ Vô Danh
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng
Quân này là quân ma, họ đã ra đi chiến đấu và đã ra người thiên cổ, ông dùng ngay hình ảnh ấy để lay động lòng người đang đứng trước cuộc chiến giữ nước
Ra biên khu trong một chiều sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về đây hú với gió
Là hồn người Nam nhớ thù.
Một thanh niên đang ở độ tuổi ngoài hai mươi, mang bầu máu nóng phụng sự cho đất nước mà đã sớm nhìn ra những hình ảnh của “cõi bên kia” như thế thì cũng là chuyện lạ. Bài Nợ Máu Xương lại càng lạ hơn nữa, vừa hiện thực vừa siêu thực, tả toàn cảnh chết chóc vì chém giết
Ai nghe không sa trường lên tiếng hú?
Tiếng lầm than, những tiếng người đời quên.
Đi lang thang tiếng cười vang tiếng hú
Xác không đầu nào kia?
Nghe phảng phất như Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du! Phải chăng linh cảm mẫn nhuệ của một nghệ sĩ lớn đã khiến Phạm Duy nhìn thấy trước cảnh chiến tranh tàn phá kinh hoàng trên đất đước Việt Nam suốt ba mươi năm sắp tới, dù thời điểm viết Nợ Xương Máu là vào năm 1946, trước khi toàn quốc kháng chiến với Pháp. Ông đã dùng những hình ảnh cổ điển của thi ca thời đó để vẽ nên sự chết chóc, nhưng bản chất của tấn thảm kịch chiến tranh thì thời nào cũng thế
Lá rụng tơi bời
Đoàn quân tiến qua làng.
Từng thanh kiếm đứt ngang,
Từng lớp áo rách mướp,
Từng cánh tay rụng rời!
Qua làn mây trắng
Đoàn quân tiến về trời
Ầm rung tiếng sa trường...
Tiếng ầm rung chết chóc đó còn vang mãi trong lòng người không biết bao nhiêu thế hệ nữa khi họ có dịp ôn lại những trang sử xưa, không phải những trang chính sử ghi lại một cách vô cảm các biến cố, mà là những trang sử như của Phạm Duy viết khi “đoàn quân tiến qua làng” với những chiếc áo rách mướp, những thanh kiếm gãy ngang, những cánh tay không còn nguyên vẹn... và nói rõ họ đang “tiến về trời.” Lịch sử một dân tộc không thể không ghi những trang như thế, cũng như mấy năm về sau khi sáng tác ông đã đóng vai một ký giả chiến tranh tả thực cái cảnh dã man rùng rợn “quân thù đã bắt được con đem ra giữa chợ cắt đầu” từ một thảm cảnh của làng Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Hoặc một cách gián tiếp, chỉ dùng một số hình ảnh ước lệ, nhưng hiệu quả gợi cảm thương về sự chết chóc vẫn lớn:
Người đi không về
Chắc rằng có người nhớ
Hương khói chiêu hồn
Hiu hắt những chiều trận vong.
(Đường Ra Biên Ải)
Một số năm về sau ông rời khỏi các ám ảnh chiến tranh, đề tài sáng tác càng phong phú, nhưng cái chết vẫn không rời ông. Ông đã viết về việc sáng tác của ông vào khoảng đầu thập niên 1960: “Đối với tôi chỉ có ba điều quan trọng: Tình Yêu, Sự Đau Khổ và Cái Chết.” Nhưng cái chết vào thời điểm này đã được trừu tượng hóa thành một loại tư tưởng, không còn cụ thể có khi đầy ghê rợn như trong thời kháng chiến Pháp. Như về bài Đường Chiều Lá Rụng, tác giả đã tâm sự như thế này: “Lúc này tôi đang yêu đời lắm, nhưng tôi vẫn nói tới cái chết, chẳng hạn, qua những kiếp lá trong đường chiều. Lá đang như những chiếc thuyền rung rinh trong ngọn gió, bỗng nghe đất gọi về, lá rơi xuống đất để trở thành những ngôi mộ úa trên con đường chiều, nơi đó có tôi và người yêu đang đi trong cuộc tình.”
Lá vàng bay! Lá vàng bay!
Như dĩ vãng gầy, tóc buông dài, bước ra khỏi tình phai
Lá vàng rơi! Lá vàng rơi!
Như chút hơi người giã ơn đời trên nẻo đường hấp hối!
Khi một người lên tiếng Tạ Ơn Đời thì tâm hồn hẳn đầy sung sướng vì những gì đời đã cho mình. Quả thế, tác giả ca ngợi “bao nhiêu là thương mến, bao nhiêu là quyến luyến,” rồi “tay hái biết bao niềm yêu,” và “đời vẫn cho ta ngọt bùi”... nhưng cuối cùng vẫn không quên cái chết đang chờ ở cuối đường
Mang ơn đời nâng đỡ
Dâng nấm mồ thô sơ
Với dâng hương hồn thương nhớ
Còn vấn vương trong chiều tà.
Bài Một Bàn Tay là một bài hát triết lý, qua hình ảnh bàn tay mà thấy ra toàn diện cuộc đời, từ bàn tay bà mụ “đưa anh ra khỏi lòng người” đến bàn tay làm lụng, bàn tay yêu đương..., nhưng cuối cùng, cũng sẽ bàn tay ấy làm động tác giúp kết thúc một đời người
Một mai đưa anh thăm thẳm lìa đời
Mùa đông khăn tang mây bỏ đường dài
Bàn tay thương nhớ, ôi gặp anh băng giá
Lạ lùng, tay khép làn mi.
Suốt cuộc đời sáng tác của mình, kể cả khi còn rất trẻ, Phạm Duy không bao giờ quên cái chết, và ông diễn tả nó một cách tài tình, khiến ta khi hát lên cảm thấy như vừa chạm vào cái cõi bi thương đáng sợ ấy. Thật ra ông không đi sâu vào chính cái chết như Tolstoi tả phút hấp hối của André trong Chiến Tranh và Hòa Bình, ông chỉ nói về tình huống bề ngoài, nhưng cách nói nghệ thuật của ông khơi dậy gần như đầy đủ “kinh nghiệm chết” hình như vẫn luôn luôn có sẵn trong mỗi chúng ta. Đó có thể là kinh nghiệm tử biệt sinh ly về cái chết của bao người khác ta hằng chứng kiến, nhưng cũng rất có thể là của chính ta, lưu trữ bằng một cách nào đó sâu trong tâm thức sau hàng vô số kiếp luẩn quẩn trong vòng tử sinh. Đôi khi ta vẫn có cảm tưởng “nhớ” lại một cái gì đó không hề được kinh nghiệm trong đời này.
Tương truyền bản nhạc Sombre Dimanche (Chủ nhật buồn) là một bản nhạc gây chết chóc, vì không hiểu sao nhiều người nghe nó đã tự tử. Quả là thỉnh thoảng vẫn có những tác phẩm mang cái ma lực kỳ dị như vậy. Bản nhạc ấy vào tay Phạm Duy đã mang lời Việt Nam như sau:
Chủ nhật nào tôi im hơi
Vì đợi chờ không nguôi ngoai
Bước chân người nhớ thương tôi
Đến với tôi thì muộn rồi
Trước quan tài khói hương mờ bốc lên như vạn ngàn lời
Dẫu qua đời mắt tôi cười vẫn đăm đăm nhìn về người
Hồn lìa rồi nhưng em ơi tình còn nồng đôi con ngươi
Nhắc cho ai biết cuối đời có một người yêu không thôi
Ơi hỡi... ơi... người!...
(Chủ Nhật Buồn)
Đó là luyến tiếc, vướng víu, là không siêu thoát, phải không?
Khi chúng ta còn nhỏ, sự chết đối với chúng ta là chuyện... của người lớn. Khi vào đời ở tuổi thanh niên thì đó là chuyện của... người già. Chính mình thì chối hết. Nhưng khi bắt đầu vào tuổi già thì như một khả năng tự nhiên, càng ngày ta càng cảm nhận được trong thân tâm mình cái “khả năng chết” một rõ hơn, mãi đến một lúc, hết chối nữa, đành nhận nó là của mình. Nó dần dà, tự nhiên biến thành một phần của sự sống. Phạm Duy là một người hiếm hoi “biết” cái chết, “sống” với cái chết ngay từ tuổi thanh niên. Tại sao? Để làm gì? Trong nhân loại, thỉnh thoảng nẩy ra một người có khả năng trình bày hộ cho mọi người khác ý nghĩa toàn bộ cuộc nhân sinh mà thông thường người phàm mắt thịt chỉ thấy rất ngắn, toàn là chuyện eo sèo trước mắt. Chứ sao, phải nói về cái chết chứ, làm sao có sự sống nếu không có sự chết? Cái chết chờ bên đầu kia cuộc đời mỗi người, nào có xa xôi gì, trong chớp mắt của thời gian đã tới nơi, để bắt đầu một chuyển hóa mới, một cuộc du hành mới
Người là ai? Từ đâu tới?
và người ơi, người sẽ bước chân về nơi nao?
Người vì sao mà chớm nở?
rồi sớm tối cánh hoa tươi tơi bời theo với những lá úa?
Người là chi? là cơn gió? là giọt mưa?
là cát trắng hay bụi xanh lơ?
Người từ xưa, thuyền theo lái về bến cũ?
Người lên xe đi từ hư vô qua hư vô?
(Xuân Hành)
Một loạt câu hỏi từ muôn đời của loài người nhưng không bao giờ cũ, vì ngày nào con người không còn biết đặt ra những câu hỏi như thế về thân phận mình thì cũng có nghĩa là đã dừng lại trên con đường hoàn thiện chính mình.
*
Chết là cái mà không ai có kinh nghiệm, nhưng không phải vì thế mà người ta hoàn toàn không thể viết gì về cái chết. Đang sống mà “chuyển sang từ trần” là một sự bí nhiệm, từ ngàn xưa con người vẫn suy nghiệm, vẫn cảm xúc đau đớn và vẫn... thờ phượng cái chết. Đặc biệt các tôn giáo và các tín ngưỡng lo săn sóc đến cái chết một cách kỹ lưỡng nhất, vì biết rõ đó không phải là một cái gì có thể đối xử một cách bình thường theo cung cách cuộc sống trần thế. Trước sự chết, con người bàng hoàng và sợ hãi, phải tìm mọi cách trấn an nỗi sợ. Đông hay Tây đều đặt ra sự tự kỷ cho mình về một cõi sau khi chết: sinh ký tử quy, sống gửi thác về, về với ông bà, về ngôi nhà Cha, về miền Cực lạc... cố dẫn dụ mình rằng cuộc sống trần thế này tuy ai cũng tưởng là quan trọng cần hết sức bám víu lấy, nhưng thực chất chỉ là cái rất phụ, chỉ là một sân khấu tạm bợ để múa may trong một thời gian thoáng qua, rồi sau đó thì “về” với cái đích thực. Lời hứa hẹn và giải thích thì rất nhiều, người ta nghe theo lời này hay lời kia, hoặc chẳng nghe lời nào cả, là tùy khuynh hướng và căn cơ của mỗi người, nhưng nhìn chung mọi tín ngưỡng đều nhằm khuyên làm tốt khi sống để được an ổn khi chết, làm như cả cuộc đời chỉ là một chuỗi dài chuẩn bị cho cái giây phút không còn cuộc đời nữa. Thế mới biết cái chết nó ám ảnh con người đến thế nào. Ám ảnh đến gần như biến thành một mục tiêu của sự sống.
Riêng Phạm Duy chấp nhận hết trong sáng tác của mình: Tình Yêu, Khổ Đau và Cái Chết. Đó là thái độ của một nghệ sĩ lớn, sống tận cùng từng phút giây của cuộc nhân sinh. Và, nghe như có vẻ mâu thuẫn, cũng “sống” tận cùng với phút giây không còn sự sống nữa, là lúc Cõi Chết bắt đầu.
(2006)
(*) Viết thêm :
Trước khi Phạm Duy mất một thời gian không dài lắm, anh có gửi một email cho tôi cho hay anh sửa một ít lời trong bài Khúc Ca Ly Biệt (lời Việt cho Chanson de Solvejg của Grieg). Bài viết về cái chết tuyệt hay, tôi mê từ hồi còn trẻ. Ở phân đoạn 2 có câu
Người đi về mai sau
Nghe khóc lóc xe tang đưa sầu
Nghe bóng xế khăn sô bay ngang đầu...
Phạm Duy bảo thay hai chữ khóc lóc thành lóc cóc,
Nghe lóc cóc xe tang đưa sầu
tôi điếng cả người.
Cách đó mấy dòng có câu
Người về dần trong cõi mồ
Như lúc nào vừa mới ra đời
Chào đón xuân tươi ngày mới
Anh dặn sửa chữ mồ thành chữ mơ,
Người về dần trong cõi mơ
Đến đây thì tôi hiểu tâm trạng của ông già ngoài chín mươi, ông nhìn cái chết thản nhiên rồi, không khóc lóc nữa mà chỉ có tiếng lóc cóc của chiếc xe ngựa đưa tang, có thể nghe cũng vui tai ! Và cõi mồ thành cõi mơ, diễn tả một tâm thức nhẹ nhõm thảnh thơi lắm rồi...
Rõ ràng đó là lời nhắn gửi cuối cùng của Phạm Duy cho tôi : Tôi đã nhìn ra cõi đó rồi, chẳng sao cả, thích lắm...
(Ghi thêm vào ngày 3 tháng Năm, 2022)
Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2022
Phạm Xuân Đài: Bài Thuyết Trình Không Đọc
Một phần của bài dưới đây được tác giả soạn để nói tại buổi sinh hoạt “Đêm nhớ về Sài Gòn,” một chương trình có chủ đề Sài Gòn do một số anh em văn nghệ ở Boston dự trù tổ chức vào ngày 6 tháng Mười Hai, 2003, nhưng vào giờ chót phải hủy bỏ vì một trận bão tuyết bất ngờ. Cũng vì trận bão, tác giả đã phải quay trở về lại California sau khi đã đi được quá nửa đường đến Boston.
*
Ý định hát về Sài Gòn, viết về Sài Gòn, nói về Sài Gòn tự nhiên nảy ra cùng một lúc nơi nhiều người làm văn nghệ. Riêng tạp chí Thế Kỷ 21 thì gần đây đã được một độc giả ở Chicago viết thư về trách sao quý vị không làm một số báo về Sài Gòn mà lại làm số báo về Hà Nội. Bức thư ấy làm chúng tôi giật mình, mới thấy ra sự vô tình của mình đối với một thành phố mà mình quá nặng nợ. Đúng thế, Sài Gòn đối với chúng ta như một kẻ rất thân yêu và gần gũi, đến nỗi chúng ta thấy không cần nhắc nhở đến, kiểu như con cái thì không hay nói nhiều về cha mẹ của mình, mà chỉ nói về thiên hạ.
Đường phố Sài Gòn thời 1960
|
Từ đầu thế kỷ 20, Sài Gòn đã là một nỗi quyến rũ người cả nước. Đó là một đô thị văn minh đích thực trước bất cứ một thành phố nào của Việt Nam. Tổ chức đô thị có những quy luật riêng của nó, không cứ hễ dồn dân lại ở đông đúc một nơi mà có thể gọi là đô thị. Hà Nội chưa hề có một nếp sống đô thị, yếu tố nông thôn, yếu tố tùy tiện hãy còn đầy rẫy nơi ấy. Các thành phố khác của Việt Nam thì đều có kích thước nhỏ. Chỉ có Sài Gòn, nhờ vị thế đặc biệt về địa lý và lịch sử của nó, đã rất sớm xứng đáng gọi là một đô thị đúng nghĩa của Việt Nam.
Vài nét lịch sử
Năm 1998 vừa qua, Sài Gòn tròn 300 tuổi. Năm 1698 lần đầu tiên địa danh Sài Côn được ghi vào bản đồ hành chánh xứ Đàng Trong nước Đại Việt khi Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính, tức Nguyễn Hữu Cảnh, thừa lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu đặt nền cai trị trực tiếp phần đất Nam Tiến, phân chia lãnh thổ Đồng Nai – Gia Định thành hai dinh trấn: Trấn Biên (Biên Hòa) và Phiên Trấn (Gia Định), lấy đất Nông Nại (Đồng Nai) làm huyện Phước Long và xứ Sài Côn (Sài Gòn) làm huyện Tân Bình.
Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2022
Phạm Xuân Đài: “Ông Khai Trí” Và Giấc Mộng Sách Vở (Trích báo Thế Kỷ 21 tháng 12, 2004).
Ông Nguyễn Hùng Trương tại nhà sách Khai Trí (hình Người Việt) |
Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2021
Phạm Xuân Đài: Vui Ca Xang
Hình minh họa Chinh Phụ Ngâm do tác giả, nhà văn Trùng Dương cung cấp. |
Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021
Phạm Xuân Đài: Đọc 'Gọng Kìm Lịch Sử' của Bùi Diễm
Tác giả Gọng Kìm Lịch Sử Bùi Diễm (trái) và Phạm Xuân Đài (hình Trần Triết, tháng 5-2015 tại Quận Cam, Nam California) |
Thứ Sáu, 8 tháng 10, 2021
Phạm Xuân Đài: Cái Chết Trong Ca Khúc Phạm Duy
Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2021
Phạm Xuân Đài: Nhà văn Võ Phiến an hưởng tuổi già
Họp mặt tại nhà ông bà Võ Phiến dịp Tết Kỷ Sửu 2009. Từ trái : Hà Dương Thị Quyên, Thái Vân, Trần Mộng Tú, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Tường Thiết, Phạm Phú Minh, Võ Phiến-Viễn Phố, bà Đỗ Ngọc Yến. |
Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2021
Phạm Xuân Đài: Ta Đây Trâu Đấy…
Hình : Quốc Văn Giáo Khoa Thư |
Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2021
Phạm Xuân Đài: Về tập thơ Ở Đây của Khánh Hà
Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2020
Phạm Xuân Đài: Montmartre - ngôi chợ (trên) trời
![]() |
Nhà thờ Sacré Coeur, Hình Kiran Ridley/Getty Images |
Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2020
Phạm Xuân Đài: Trần Mộng Tú Và Mùa Thu
![]() |
Hình minh hoạ, Buddhika Weerasinghe/Getty Images |
Một năm có bốn mùa, nhưng có hai mùa thu hút sự chú ý của văn nhân thi sĩ nhất, là mùa Xuân và mùa Thu.
Mùa Xuân là mùa hồi sinh của vạn vật sau mùa đông mưa gió, rét mướt, mùa của tàn lụi. Mùa Xuân mang lại sức sống mới, với khí hậu ấm áp dần lên, cây cối nảy lộc non, bầu trời trong xanh không còn mưa gió phũ phàng. Chữ Xuân tượng trưng cho sự tươi đẹp, sự trẻ trung, những từ ngữ như Hoa Xuân, Gái Xuân… tự nó như hứa hẹn một quãng đường đầy tích cực của cuộc sống trong mùa Hè tưng bừng sẽ đến.
Sau mùa Hè là mùa Thu với một tiết tấu êm dịu cho khắp vũ trụ quanh ta. Khí hậu đang nóng bức bỗng trở nên mát mẻ. Mùa màng, thảo mộc từ các hoa lá tươi thắm của mùa Xuân, kết quả trong mùa Hè đã vừa chín trong mùa Thu. Lá cây xanh tươi đóng vai trò nuôi nấng từ hoa đến quả qua hai mùa Xuân Hè, bây giờ đã hết nhiệm vụ, bắt đầu trở mình báo hiệu một nhiệm kỳ sắp chấm dứt. Con người trong mùa Thu có cái tâm lý mãn nguyện được thu hoạch mùa màng mình đã chuẩn bị từ mùa Xuân, chăm bón suốt mùa Hè và biết là mình có quyền được thư thái nghỉ ngơi sau những tháng bận bịu mệt nhọc.
Trong trạng thái chung đó từ thiên nhiên đến con người, Thu đã trở nên một mùa có cái đẹp u nhã êm đềm tác động sâu xa đến tâm hồn người. Văn thơ sáng tác trong mùa Thu rất phong phú và thâm trầm từ Đông sang Tây, từ thời xưa cho đến thời nay, trong đó thi sĩ Việt Nam đóng góp không phải là ít.
Thời đương đại, tại hải ngoại, thi sĩ Trần Mộng Tú đã viết khá nhiều thơ về mùa Thu. Nhân mùa thu năm 2020 đang tới chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc Diễn Đàn Thế Kỷ một số bài mà chúng tôi đang có.
Tác giả Trần Mộng Tú từ nhiều năm nay cư ngụ tại Seattle, thuộc thiểu bang Washington nằm trên góc Tây Bắc thuộc “vùng lạnh” của nước Mỹ. Đó là một địa phương thuộc hạng thơ mộng nhất của Hoa Kỳ, thảo mộc đa dạng, có đồng bằng, núi non, ao hồ và biển cả. Và khi mùa Thu về :
Em đi dưới bầu trời tháng mười
ngửa mặt, hàng phong chấp chới đỏ
như những cây đuốc thắp trong mưa
mùa thu về nhuộm hồng con phố
Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2020
Phạm Xuân Đài: Nhà văn Võ Phiến an hưởng tuổi già
![]() |
Ông bà Võ Phiến trong vườn nhà |
Ở tuổi 86, hiện nay nhà văn Võ Phiến đang sống những ngày an hưởng tuổi già trong tình thân của gia đình và bạn bè. Từ năm 1980 làm việc và cư ngụ tại Highland Park City thuộc Los Angeles, nhưng vào năm 2003 ông bà Võ Phiến đã mua nhà tại Santa Ana và dời hẳn về đây, để gần gũi con cháu và bạn bè người Việt Nam.
Ngôi nhà cũng êm đềm như cuộc sống của ông bà. Trong một cư xá yên tĩnh cuối đường số 5 thuộc thành phố Santa Ana, ngôi nhà hai tầng nhỏ nhắn xinh xắn, có một mảnh vườn be bé bên cạnh với những cây hoa hồng ở bờ dậu, cây quít, cây hồng dòn, cây thanh long và những cây hoa khác chạy vòng ra đến sân sau. Đó là nơi để bà Viễn Phố (tức bà Võ Phiến) săn sóc cây cỏ hàng ngày, và là nơi mỗi buổi sáng nhà văn Võ Phiến đi tha thẩn ngắm lá, ngắm hoa, tức là thưởng thức tài chăm nom vườn tược của bà.
Nếu căn nhà ở Los Angeles là nơi sống để làm việc, thì ngôi nhà hai tầng ở Santa Ana là nơi để an hưởng tuổi già. Cả hai căn nhà đều có đặc tính chung gọn gàng, văn vẻ, một chút gì có thể gọi là thơ mộng. Nhà ở Los Angeles tuy xa Little Saigon nơi tập trung đông đảo người tị nạn Việt Nam, nhưng các văn hữu xa gần vẫn thường lui tới thăm ông bà, và ai cũng ưa thích vẻ thanh tao và mỹ thuật của ngôi nhà lẫn vườn cây. Trong khu vườn khá rộng trồng nhiều loại cây ăn trái, có dựng bức tượng bán thân bằng đồng của nhà văn Võ Phiến, tác phẩm của điêu khắc gia Ưu Đàm, một nghệ sĩ di dân thuộc thế hệ thứ hai. Trong khung cảnh của căn nhà Los Angeles, nhà văn Võ Phiến đã viết các tác phẩm quan trọng của ông tại hải ngoại: Văn Học Miền Nam - Tổng Quan, Thư Gửi Bạn, Nguyên Vẹn, Truyện Thật Ngắn, Đối Thoại, bộ Văn Học Miền Nam v.v... Võ Phiến đã sống tại đây từ năm 1980, và sau 15 năm đi làm công chức cho thành phố Los Angeles ông nghỉ hưu vào năm 1992, vẫn tiếp tục sống và viết tại đây 11 năm nữa. Đến năm 2000 khi bà Võ Phiến nghỉ hưu, không còn nhu cầu ở gần