Thứ Ba, 11 tháng 4, 2023
Họ đã “gặp lại” nhau ở nơi xa đó!
Kết thúc bài bút ký “Đi thăm Nguyễn Xuân Hoàng” lúc nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đang bị bệnh nặng, nhà văn-nhà báo Phạm Phú Minh viết “Rồi sẽ đến lúc chỉ còn một. Và đến một lúc nữa, sẽ không còn ai cả”. Điều đó đã trở thành sự thật. Nhà văn-nhà báo-nhà giáo Nguyễn Xuân Hoàng qua đời ngày 13/9/2014. Và mới đây, ngày 9/4/2023, hiền thê của ông, nhà văn-nhà thơ Trương Gia Vy cũng đi gặp chồng ở thế giới bên kia.
Xin mời đọc lại bài viết của nhà văn-nhà báo Phạm Phú Minh kể lại lần đi thăm nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, và bài thơ nhà văn Trương Gia Vy viết tặng chồng hồi tháng 7 năm 2014, hai tháng trước khi nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng qua đời.
DĐTK
Phạm Phú Minh - Ði thăm Nguyễn Xuân Hoàng
Để chuẩn bị cho cuộc hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn vào tháng Bảy 2013 vừa rồi, tôi đã mời nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng tham dự ban điều khiển các buổi hội thảo, và anh đã nhận lời, khoảng nửa năm trước. Tôi rất yên tâm, vì ban điều hành gồm Bùi Bích Hà, Đỗ Quý Toàn và Nguyễn Xuân Hoàng thì coi như là "mạnh"; đề tài nào, tình huống nào những nhà cầm bút lão luyện này cũng có thể lèo lái xuôi chèo mát mái được.
Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2022
Phạm Phú Minh: Người dịch Tây Hành Nhật Ký sang tiếng Pháp
Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2022
Phạm Phú Minh: Bơi Qua Hồ Xuân Hương Giữa Đêm Khuya
Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2022
Điếu Văn Của Phạm Phú Thứ Viếng Phan Thanh Giản (Dịch thuật : Nguyễn Duy Chính; Giới thiệu : Phạm Phú Minh)
LTS. Dù toàn bộ bài này đã được đăng trên DĐTK vào tháng 8 năm 2021, nay vì một “lý do đặc biệt”, chúng tôi xin đăng lại trong số báo này. Lý do là vào chiều ngày 15 tháng 5, 2022 trong buổi ra mắt cuốn sách Phan Thanh Giản và Vụ Án ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân’ của tác giả Phan Đào Nguyên, diễn giả Phạm Phú Minh đã dùng bài Ai Điếu của Phạm Phú Thứ viếng Phan Thanh Giản làm đề tài cho bài thuyết trình của mình. Nhiều khán giả tỏ ý muốn biết rõ hơn về bài Ai Điếu này, chúng tôi đã hứa sẽ đăng lại toàn bài trên số DĐTK hôm nay để ai quan tâm sẽ có tài liệu để xem lại kỹ càng hơn. DĐTK
Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2022
Phạm Phú Minh: Ði thăm Nguyễn Xuân Hoàng
Tại nhà Nguyễn Xuân Hoàng, San Jose. Từ trái : Phạm Phú Thiện Giao, Hà Tường Cát, Phan Huy Đạt, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Phú Minh, Vy, Đinh Quang Anh Thái, Đỗ Quý Toàn, Hoàng, Vy và nhóm anh em Người Việt |
Thế nhưng hai tuần trước ngày hội thảo thì Hoàng gọi cho tôi từ San Jose, giọng yếu ớt, cho biết không thể xuống quận Cam tham dự hội thảo được, vì lâm trọng bệnh một cách bất ngờ. Vé máy bay đã mua nay đã phải trả lại, chứng đau lưng tưởng là thông thường hóa ra có nguyên do trầm trọng từ cột sống, và đang chuẩn bị một chương trình chữa chạy dài ngày trong nhà thương. Hoàng tỏ ý tiếc bỏ lỡ một chương trình hội thảo quan trọng và hứa hẹn nhiều hào hứng. Tôi vội trấn an Hoàng là đừng lo gì về cuộc hội thảo, mà hãy lo chữa bệnh, sức khỏe của bạn là cái quan trọng nhất hiện nay. Tuy vậy trong lòng tôi dấy lên một nỗi tiếc nuối và lo lắng về chỗ trống do Hoàng vừa để lại trên bàn chủ tọa đã phác họa, vì Hoàng là một người điều khiển các chương trình hội thảo văn học đầy kinh nghiệm và kiến thức. Cách đây sáu năm, vào năm 2007, khi tổ chức hội thảo về văn học Việt Nam hải ngoại cũng tại Little Saigon, tôi cũng đã mời Hoàng vào ban điều khiển chương trình, và buổi hội thảo đã diễn ra rất tốt đẹp. Hoàng tiếp nhận nội dung thuyết trình nhanh và chính xác, tóm tắt ngắn gọn và thông minh để khán giả nắm vấn đề, từ đó lèo lái cuộc thảo luận lịch sự và xây dựng.
Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2022
Phạm Phú Minh: Symphony “Vietnam 1975” Của Nhạc Sĩ Lê Văn Khoa Đã Thành Tựu
(Đã được phát biểu tại hai buổi ra mắt đĩa nhạc tại Quận Cam ngày 22 và 23 tháng Tư 2005)
Thưa quý vị,
Tôi đọc trên tờ flyer giới thiệu đĩa nhạc Symphony Việt Nam 1975 dòng chữ này: “Niềm hãnh diện của người Việt sau 30 năm ly hương: Symphony Vietnam 1975 đã thành tựu.”
Tôi nghĩ đó là một câu nói rất đúng để chỉ về một biến cố trong tháng Tư năm 2005 này. Biến cố này không phải là một cuộc xuống đường rầm rộ, một buổi meeting đông người, hay một hình thức nào như cộng đồng của chúng ta vẫn thường làm liên quan đến việc tưởng niệm ngày mất miền Nam vào tay cộng sản 30 tháng Tư 1975. Đã nhiều năm qua chúng ta tưởng niệm trong sự ân hận, đau buồn, nhưng năm nay, như câu của tờ flyer mà tôi vừa trích dẫn, chúng ta cảm thấy một sự hãnh diện. Một niềm hãnh diện rất chính đáng, cho tất cả mọi người, vì những nỗi niềm sâu kín của tập thể tị nạn chúng ta đã được một người nói hộ một cách trọn vẹn, bằng một phương tiện nghệ thuật rất cao, là nhạc cổ điển Tây phương. Đó là Giao hưởng khúc 1975 của nhạc sĩ Lê Văn Khoa.
Từ biến cố 1975 đến nay là 30 năm. Trước đó 30 năm là chiến tranh. Từ 1945 đến nay là 60 năm, trong đó Việt Nam trải qua 30 năm chiến tranh, 30 năm hòa bình. Chúng ta đang đứng trước những con số rất tròn trịa. Từ thời điểm này, chúng ta có thể đưa mắt nhìn về quá khứ để xem với những biến cố lớn lao như vậy, đất nước Việt Nam đã có sản sinh ra những tác phẩm nghệ thuật nào, về văn, về thơ, về nhạc, về họa tương xứng với tầm vóc của các biến chuyển lịch sử mà chúng ta đã sống hay không. Xứng đáng với tầm vóc của lịch sử, kiểu như cuốn trường thiên tiểu thuyết Chiến Tranh và Hòa Bình của Leon Tolstoi vẽ nên một bức bích họa vĩ đại của đất nước và dân tộc Nga thời kỳ đầu thế kỷ 19 trước sự xâm lăng của Napoleon, hay là bản Giao hưởng Ouverture 1812 của Tchaikowsky mô tả cụ thể về biến cố này, hoặc cuốn tiểu thuyết Cuốn Theo Chiều Gió của Margarete Mitchell nói về cuộc chiến tranh Nam Bắc của nước Mỹ vào giữa thế kỷ 19 cùng tác phẩm điện ảnh quay theo tiểu thuyết này. Hoặc xa hơn về quá khứ của nước Trung Hoa, thời Tam Quốc sở dĩ còn lưu lại trong trí nhớ của biết bao thế hệ chính là nhờ bộ tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, hoặc chuyến du hành thỉnh kinh có một không hai sang Ấn Độ của nhà sư Trần Huyền Trang đời nhà Đường mãi mãi còn sống động đến bao đời sau chính là nhờ bộ trường thiên tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân.
Phạm Phú Minh: Đọc Tuyển Tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa Của Ngô Thế Vinh
Thời gian bắt đầu thế kỷ 21, tác giả Long Ân trong một bài nhận định về cuốn sách mới nhất của Ngô Thế Vinh hồi đó, đã viết:
“Ở cuốn sách mới nhất của anh Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông dậy sóng, người đọc đã thấy những hóa thân Ngô Thế Vinh biến thái liên tục theo từng trang mở rộng. Ngô Thế Vinh con người xanh của môi sinh, Ngô Thế Vinh con người chính trị nhân bản, Ngô Thế Vinh con người phiêu lưu trong khu rừng già địa lý chính trị, Ngô Thế Vinh con người tiên tri lịch sử...”
Đây là một nhận định rất tinh tế và chính xác về con người viết lách của bác sĩ Ngô Thế Vinh, cho đến thời điểm 2001. Ngày nay, 16 năm sau, chúng ta có thể thêm vào các dòng chữ trên: Ngô Thế Vinh con người của văn học nghệ thuật và tình cảm bạn hữu. Ít ra, đây sẽ là những đặc tính mà người đọc sẽ tìm thấy khi đọc cuốn sách mới nhất của anh: Tuyển Tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa.
Cho đến năm 2001, nhà văn Long Ân đã nhìn thấy một Ngô Thế Vinh trên “tầm vóc vĩ mô” của những vấn đề lớn như địa lý chính trị, số phận của một dòng sông dài chảy qua nhiều nước, những vận động đa quốc gia để giữ gìn sinh thái cho cả một vùng Đông Nam Á v.v... với một hùng tâm hùng khí không bao giờ lùi bước và một tài năng sắc bén cùng một tấm lòng thiết tha không lay chuyển. Nhưng 16 năm sau, vào cuối năm 2017, với tác phẩm mới nhất của mình, có thể nói Ngô Thế Vinh đã lần đầu tiên đưa ngòi bút vào lãnh vực “vi mô” : chân dung văn học nghệ thuật và văn hóa của từng con người cụ thể với tất cả các nét tế vi của lãnh vực này.
Thứ Sáu, 18 tháng 2, 2022
Phạm Phú Minh: Phỏng Vấn Nhà Văn Thảo Trường
Ảnh trên đây trích từ đoạn phim truyền hình ghi cuộc phỏng vấn nhà văn Thảo Trường do Phạm Phú Minh thực hiện vào tháng Chín năm 2008, đã được đăng cùng bài phỏng vấn trên tạp chí Phụ Nữ Diễn Đàn số 294, xuất bản tại Little Saigon California, tháng Chín 2008.
Dưới đây là nguyên văn bài phỏng vấn được sao chép lại.
Phạm Phú Minh- Thưa nhà văn Thảo Trường, chúng tôi nhận được tin vui là anh vừa in xong Tuyển Tập của anh, xin được chúc mừng anh. Sau một thời gian dài cầm bút, nay in Tuyển Tập thì chắc là anh có ý định tạm thời làm tổng kết cho việc viết lách của mình ? Tính đến bây giờ thì anh đã viết văn trong bao nhiêu năm, và đã xuất bản được bao nhiêu tác phẩm ?
THẢO TRƯỜNG- Tôi bắt đầu thích thú với công việc viết văn làm thơ từ thời đi học, tức thời trước năm 1954 tại thành phố Nam Định. Lúc đó tôi học trung học, và có một ông thầy là cụ Trần Văn Hào, tôi đã được nghe thầy giảng mấy trăm bài Đường thi và truyện Kiều cùng rất nhiều ca dao tục ngữ. Từ thời ấy tôi đã ao ước trong đời tôi sẽ làm một điều gì đó giống như những điều mình đã học. Mới 15, 16 tuổi mà tôi đã tính… ra một tờ báo !
Sau đó vào Nam tôi thất bại trong việc học hành, vì tôi đi có một mình, ông cụ tôi mất và mẹ tôi lại ở lại miền Bắc. Sau khi rớt Tú Tài, tôi đi vào quân trường Thủ Đức. Ra trường Thủ Đức tôi đóng ở Quảng Trị, vùng vĩ tuyến 17, thời gian này tôi bắt đầu cầm bút, và cuốn truyện đầu tiên của tôi là tập Thử Lửa, viết cách đây hơn 50 năm.
Thứ Sáu, 11 tháng 2, 2022
Phạm Phú Minh: Làm báo - nghề và nghiệp
Gs. Nguyễn Văn Binh và một nhóm học sinh Đệ Tam C Petrus Ký niên khóa 1957-58. |
Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2021
Phạm Phú Minh: Học Triết Với Thầy Trần Bích Lan
Giáo sư Trần Bích Lan |
Chủ Nhật, 16 tháng 5, 2021
Phạm Phú Minh: Tình Bạn Lâu Năm
Chủ Nhật, 28 tháng 3, 2021
Phạm Phú Minh: Thăm Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ Trong Mùa Đại Dịch
Từ trái, hàng ngồi : Trần Dạ Từ, Doãn Quốc Sỹ, Đỗ Quý Toàn Hàng đứng : Nhã Ca, Hà Dương Thị Quyên, Trần Huy Bích, Phạm Phú Minh |
Chủ Nhật, 14 tháng 3, 2021
Phạm Phú Minh: Đọc ‘Mùa Hạ Năm Ấy’ Của Nguyễn Tường Thiết
Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2021
Phạm Phú Minh: Họa sĩ Thái Tuấn và báo Thế Kỷ 21
Một số các bức tranh bản gốc họa sĩ Thái Tuấn gửi cho báo Thế Kỷ 21 |
Chủ Nhật, 8 tháng 11, 2020
Phạm Phú Minh: Từ Bình Sơn đến Đông Bàn (Tiếp theo và tạm hết)
Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2020
Phạm Phú Minh: Từ Bình Sơn tới Đông Bàn
Thứ Năm, 1 tháng 10, 2020
Phạm Phú Minh: Tết Trung Thu - Xem Tranh Thiếu Nhi, Tìm Lại Sự Trong Sáng Đã Đánh Mất
LTS. Trong dịp Tết Trung Thu năm 2003, một cuộc thi vẽ thiếu nhi đã được tổ chức tại báo Người Việt, thành phố Westminster, miền Nam California. Từ đó mỗi dịp Trung Thu cuộc thi vẽ này lại được tổ chức, tạo nên một sinh hoạt rất có ý nghĩa cho con em của cộng đồng tị nạn Việt Nam tại miền Nam California. Rất tiếc, kể từ năm 2016, sau 13 năm hoạt động, vì những điều kiện khách quan không thuận lợi, cuộc thi vẽ này không còn tiếp tục nữa.
Sau đây mời quý độc giả xem lại bài viết của người sáng lập và là trưởng ban tổ chức cuộc thi đầu tiên vào ngày 7 tháng 9, 2003, như là một đúc kết ý nghĩa cũng như các kết quả của cuộc thi năm ấy. Bài này đã được đăng trên báo Thế Kỷ 21 số 174, tháng Mười, 2003.
![]() |
Hình ảnh cuộc thi vẽ tại báo Người Việt |
Tổ chức thi vẽ thiếu nhi, và hơn nữa, chấm giải tranh thiếu nhi, là một kinh nghiệm đặc biệt hiếm hoi và thú vị cho tôi. Vốn ham thích cái đẹp – của người, của vật, của thiên nhiên – tôi trước sau chỉ là một người thưởng ngoạn chứ không đóng góp được gì để tạo ra cái đẹp cống hiến cho đời. Và thưởng ngoạn với một trực giác rất chủ quan chứ chẳng được đào tạo “chính quy” trong một môn nghệ thuật nào.
Ý nghĩ tổ chức một cuộc thi vẽ cho các em thiếu nhi nhân dịp Tết Trung Thu năm nay đến với tôi bất chợt vào một lúc đêm khuya chỉ hơn một tháng trước rằm tháng Tám, vào đúng khoảnh khắc tôi bấm delete một bức thư e-mail. Khi bức thư đang biến đi trên màn ảnh máy điện toán thì tôi thoáng thấy ba chữ “vẽ thiếu nhi” và lập tức trong đầu bừng lên ý nghĩ: tại sao báo Người Việt lại không tổ chức một cuộc thi vẽ cho các em nhỏ của cộng đồng mình vào dịp Tết Trung Thu năm nay? Tôi không chắc lắm ba chữ “vẽ thiếu nhi” là từ bức thư đang bị xóa đi, có thể đó chỉ là một ảo giác do thức khuya mang lại, hoặc hiểu đó là một nhắc nhở của một ai đó từ một cõi xa xôi nào, thì cũng được... Tôi vẫn tin thỉnh thoảng có nhận được các tín hiệu như vậy từ những người bạn đã qua đời, như Lộc, như Điểu.
Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020
Phạm Phú Minh: Thanh Tuệ Và An Tiêm
Ông Thanh Tuệ (phải) và tác giả tại Little Saigon đầu tháng Tám 2004. (hình lấy từ báo Thế Kỷ 21, Sept 2004) |
Thứ Bảy, 18 tháng 7, 2020
Phạm Phú Minh: Người Mở Đường Cho Văn Chương Quốc Ngữ
![]() |
Diễn giả Phạm Phú Minh |
Cụ Trương Vĩnh Ký được coi như là người viết văn xuôi đầu tiên bằng chữ quốc ngữ. Đáng kể nhất, có thể coi là tiêu biểu, là hai quyển Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi và Chuyện Đời Xưa. Cuốn Chuyến đi Bắc kỳ là một du ký, ghi chép mọi chuyện trong chuyến đi, với một lối văn khá bình thường, không quá địa phương khiến người vùng khác hoặc người đời sau phải có chỗ khó hiểu. Có thể nói với du ký này, Trương Vĩnh Ký đã đạt đến lối viết tiêu chuẩn của tiếng Việt, không mấy khác với cách viết của thời nay. Nhưng cuốn Chuyện Đời Xưa thì khác hẳn. Cụ viết theo lối kể chuyện và tạo nên một văn phong riêng, với cách dùng từ ngữ riêng. Giáo sư Phạm Thế Ngũ đã nhận xét về cuốn này : “Về hình thức có thể coi đây là bước đầu lối truyện ngắn, nhất là bước đầu của văn xuôi quốc ngữ. Ý tác giả muốn viết như người ta nói (...) ông muốn viết câu nói annam ròng, diễn câu nói trơn tuột ở cửa miệng bình dân.” Điều này đúng, chuyện đời xưa là để kể, và lời kể dù viết xuống thành chữ cũng nên giữ phong cách kể chuyện và dùng những từ ngữ rất bình dân rất phổ biến của địa phương mình. Và TVK đã giữ được điều đó. Gs Phạm Thế Ngũ nhận xét đó là “lối văn lủng củng, khi cộc lốc nhát gừng, khi lôi thôi lòng thòng”, nhưng đối với riêng tôi TVK đã thể hiện đúng cách nói của người kể chuyện theo giọng Nam Kỳ. TVK đã đem vào văn viết kỹ thuật của người kể chuyện bằng lời, với một số người ngồi quanh lắng nghe. Qua lối viết này, tôi có cảm tưởng TVK là người có tài kể chuyện, biết ngắt câu để tạo sự hồi hộp, biết cách viết câu kết ngắn gọn rất duyên dáng để tạo một cảm giác kết thúc thấm thía nơi người nghe. Và cũng từ các cố gắng của Trương Vĩnh Ký cùng với nhóm những người cộng tác với cụ, mà đã phát sinh một nền văn xuôi bằng quốc ngữ đầu tiên tại miền Nam, làm tiền đề cho cả nền văn học mới của toàn cõi Việt Nam trong thế kỷ 20. Muốn hiểu hiện tượng này, ta phải hình dung tình hình Việt Nam thời ấy. Từ đầu thế kỷ 17 (1600), cuộc phân tranh Bắc Nam giữa chúa Trịnh (miền Bắc) và chúa Nguyễn (miền Nam) chính thức nổ ra, miền Nam coi như độc lập với miền Bắc. Một chính quyền mới do chúa Nguyễn lập nên để cai quản từ sông Gianh trở vào Nam, gọi là Đàng Trong. Các chúa Nguyễn một mặt kháng cự với chúa Trịnh, và về sau với cả nhà Tây Sơn nữa, một mặt liên tục mở mang bờ cõi vào phía Nam. Sau suốt hai thế kỷ 17 và 18 nội chiến liên miên, ở phía Nam dân Việt Nam đã chiếm hết Thủy Chân Lạp của nước Cao Miên lập nên vùng Lục Tỉnh trên châu thổ của hai con sông Tiền và sông Hậu là hai nhánh của sông Mekong. Từ nhiều thế hệ, công việc của đám dân tiên phong này là luôn luôn phải lo chiếm đất, canh tác, kiếm sống để tạo nên một đời sống vật chất ổn định trên đất mới, có thể là êm đềm với sông nước và đồng ruộng mênh mông nhưng cũng đầy bất trắc hiểm nguy “hùm tha sấu bắt”. Cuộc sống trên đất mới là một cuộc phấn đấu không ngừng, phải vận dụng cả sức mạnh của tâm trí lẫn của bản năng để tồn tại và ổn định. Và cuối cùng Gia Long đã thống nhất đất nước và lên ngôi năm 1802, mở ra triều đại nhà Nguyễn cho đến năm 1945. Như vậy, sau hai thế kỷ chia rẽ bởi phân tranh và nội chiến, chúng ta có thể thấy với đám lưu dân định cư tại miền Nam, ảnh hưởng về mặt văn hóa từ miền Bắc hầu như không có gì, vì đã bị cắt đứt từ lâu. Ký ức về gốc gác của họ có khi trở nên rất mù mờ, đến nỗi trong dân gian miền Nam vào giữa thế kỷ 20 vẫn còn nghe câu nói này : “Người ngoài Huế không giống như người mình.” Người mình đây là dân Nam Kỳ, mới chỉ Huế mà họ đã coi là một nước khác rất xa xôi, nói gì đến Thăng Long, Hà Nội ! Lịch sử nội chiến đã biến những lưu dân miền Nam thành một tập thể độc lập, từ đó họ có tập quán riêng, nếp sống riêng, và nhất là ngôn ngữ riêng dù vẫn nói tiếng Việt. Và chính từ thứ tiếng Việt riêng của dân Nam Kỳ mà đã thành hình các câu văn xuôi đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, họ viết ra một cách tự nhiên như họ nói, chưa có và cũng không biết đến cái gọi là văn chương văn vẻ. Nhưng người miền Nam chính là những người Việt Nam đầu tiên sáng tác văn học bằng văn xuôi, hoàn toàn không bị ảnh hưởng của ngôn ngữ miền Bắc hay miền Trung, các cuốn tiểu thuyết đầu tiên đó có dấu ấn duy nhất là ngôn ngữ miền Nam, từ cuối thế kỷ 19 đến ngày nay dấu ấn ấy vẫn không phai mờ. Chúng ta hãy đọc một đoạn văn của Hồ Biểu Chánh trong truyện Con Nhà Nghèo, để thấy cái đặc trưng trong ngôn ngữ miền Nam : “Xóm Đập Ông Canh nằm dựa bên Gò Công qua Mỹ Tho, ngang qua ngã ba tẻ vô Ụ Giữa, bây giờ nhà chen rất đông đảo, cây đua mọc sum suê. Cái nhà việc cũ sùm sụp của làng hồi trước đã đổ bao giờ mà cất lại một toà nhà mới, nền cao khoảng khoát, nóc phơi đỏ lòm. Vài cái nhà lá tum hùm, cửa xịt xạc, vách tả tơi, hồi trước ở rải rác chung quanh đó cũng điêu tàn bao giờ mà nhường chỗ lại cho hơn chục cái nhà khác, tuy cũng lợp bằng lá dừa, song cột kê táng, vách đóng be, coi rất đẹp đẽ thơ thới”. (Người viết bài này nhấn mạnh bằng chữ đậm) Chúng ta có thể đi ngược thời gian tìm lại Trương Vĩnh Ký để thấy sự độc lập về ngôn ngữ ấy đã bắt đầu như thế nào. Tờ Thông Loại Khóa Trình là tờ báo đầu tiên do một ng |