Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Nguyên Trường. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Nguyên Trường. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018
Nhà nước giám sát của Trung Quốc đe dọa từng người dân
Anna Mitchell & Larry Diamond
Phạm Nguyên Trường dịch
Hãy thử xem một nhà nước kiểm soát người dân đến tận từng lỗ chân lông như thế mà tên cầm đầu lại có tham vọng sẽ đuổi kịp và vượt qua Mỹ để trở thành kẻ đưa ra những chuẩn mực cho nhân loại noi theo thì sẽ như thế nào? Hắn tưởng thế giới này chỉ rặt những bầy cừu mà các loại chủ chăn tay vấy đầy máu dân chúng, đầu đặc quánh những nguyên lý bạo lực và chuyên chính của họ Mao họ Xít, có thể tha hồ muốn làm gì thì làm sao? Nói thật, cái gã họ Tập này tuy cũng có thớ đấy nhưng y chưa học được một phần nghìn túi khôn của loài người tích lũy trong hàng vạn năm nay đâu. Những ý tưởng gọi là tốt đẹp mà y rêu rao chỉ đủ lót đường cho y nhanh chóng xuống gặp “bác Mao đồ tể” mà y đang phất cờ nối gót thôi. Xem ra cái ngón “thao quang dưỡng hối” của Đặng còn đứng trên y đến một cái đầu. -- Bauxite Việt Nam
Trung Quốc đang hoàn thiện mạng lưới gián điệp kỹ thuật số cực kì rộng lớn, coi đấy là phương tiện kiểm soát xã hội – đang gây ra những ảnh hưởng đối với chế độ dân chủ trên toàn cầu.
Hãy tưởng tượng một xã hội, trong đó bạn bị Chính phủ đánh giá về mức độ đáng tin của bạn. “Điểm số công dân” của bạn đồng hành cùng bạn mọi lúc, mọi nơi. Điểm số cao cho phép bạn truy cập vào dịch vụ internet tốc độ cao hơn hoặc được cấp chiếu khán tới châu Âu nhanh chóng hơn. Nhưng nếu bạn đăng trực tuyến những bài viết mang tính chính trị mà chưa được phép, hoặc chưa hỏi hay trái ngược với quan điểm của Chính phủ về những sự kiện đang diễn ra, thì điểm số của bạn sẽ giảm. Để tính toán điểm số, các công ty tư nhân làm việc cho Chính phủ liên tục rà soát số lượng lớn các phương tiện truyền thông xã hội và dữ liệu mua sắm trực tuyến của bạn.
Vừa bước chân ra ngoài là hành động của bạn liền bị đưa vào mạng lưới săn lùng tội phạm: Bằng các Video Camera đặt trên từng con phố và khắp thành phố, Chính phủ thu thập một lượng thông tin khổng lồ. Nếu bạn phạm tội – hay chỉ đơn giản là qua đường một cách thiếu thận trọng – chương trình nhận dạng sẽ so sánh khuôn mặt của bạn với ảnh của bạn trong cơ sở dữ liệu căn cước công dân quốc gia. Chẳng bao lâu sau cảnh sát sẽ xuất hiện trước cửa nhà bạn.
Thứ Tư, 30 tháng 12, 2015
Gary Feuerberg/Phạm Nguyên Trường dịch - Trung Quốc: Thiếu vắng niềm tin và sự tử tế
Trong cuốn sách do Brookings Press mới xuất bản
gần đây, một vị giáo sư Trung Quốc, ông He Huaihong đề xuất một nền đạo đức xã
hội mới cho cái xã hội mà nhiều nhà quan sát, cả bên trong lẫn bên ngoài Trung
Quốc, cho là đang ở trong tình trạng khủng hoảng về mặt đạo đức.
Nhà sử học, đạo đức học, phê bình xã hội, và người bảo vệ không
khoan nhượng Nho giáo, giáo sư He đưa ra khuôn khổ trí tuệ nhằm định hướng hành
vi của người dân và khôi phục lại nền đạo đức xã hội để Trung Quốc có thể giành
được vị trí của mình trong cộng đồng các quốc gia khác mà không phải xấu hổ.
Giáo sư He nói tại Viện Brookings vào ngày 06 tháng 11, nhân dịp xuất bản cuốn
sách mới của mình: “Đạo đức xã hội ở nước Trung Quốc đang thay đổi: Suy đồi đạo
đức hay sự thức tỉnh về đạo đức?”
Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014
Phạm Nguyên Trường dịch - THOMAS A. BASS – RỪNG SÁT: VỀ VIỆC BỊ KIỂM DUYỆT Ở VIỆT NAM (4)
Bài
liên quan:
Phạm Thị Hoài - Cuốn sách về một điệp
viên không hoàn hảo
Thomas A. Bass - Rừng
Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Thomas A. Bass - Rừng
Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
ĐIỆP
VIÊN HOÀN HẢO?
Cho đến
nay, đã có sáu cuốn sách viết về Phạm Xuân Ẩn, ba cuốn bằng tiếng Việt, một
cuốn bằng tiếng Pháp, và hai cuốn bằng tiếng Anh. Tiểu sử “chính thức” do ông
kể, cuốn Điệp viên hoàn hảo, được xuất bản ở Mĩ năm 2007 và một năm sau
đó thì được dịch sang tiếng Việt. “Chúng tôi đã bôi đỏ cả cuốn sách”, một người
am hiểu về xuất bản ở Việt Nam cho biết. Nói cách khác, các nhà kiểm duyệt Việt
Nam đã tô đậm thêm màu yêu nước trong bức chân dung đã được chọn lọc của một
anh hùng dân tộc.
Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014
Phạm Nguyên Trường dịch - THOMAS A. BASS – RỪNG SÁT: VỀ VIỆC BỊ KIỂM DUYỆT Ở VIỆT NAM (2)
Bài liên
quan:
Phạm Thị Hoài – Cuốn sách
về một điệp viên không hoàn hảo
KHÔNG
ĐÁNG BỊ GIẾT
Qui
trình kiểm duyệt ở Việt Nam được nhà báo Phạm Đoan
Trang viết trên blog vào tháng 6 năm 2013 và được tạp chí The
Irrawaddy Magazine dịch lại một vài đoạn. Phạm Đoan
Trang giải thích là hàng tuần, “ở Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam và ở Thành phố Hồ Chí Minh thì bộ phận phía Nam của ban này lại
triệu tập một cuộc họp ‘định hướng’ với lãnh đạo của những tờ báo lớn trong nước”.
Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014
Phạm Nguyên Trường dịch - THOMAS A. BASS – RỪNG SÁT: Về Việc Bị Kiểm Duyệt ở Việt Nam
Đó là những ngày đen tối ở Việt Nam, khi các nhà văn, nhà báo, các blogger, và tất cả những người dám chỉ trích nhà cầm quyền đều bị tuyên án tù nhiều năm. Thời nở rộ ngắn ngủi của văn học Việt Nam, sau khi Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 – giai đoạn được gọi là Đổi mới – đã qua từ lâu. Sau hai mươi năm bút đỏ và nhà tù, các nhà kiểm duyệt đã xóa sổ cả một thế hệ nhà văn Việt Nam, đẩy họ vào cõi im lặng hay chốn lưu vong.
Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014
Jamie Metzl - Trở lại tương lai ở Ukriane và châu Á
![]() |
Hình: internet |
Phạm Nguyên Trường dịch
Cùng với việc quân đội Nga chiếm đóng lãnh thổ Ukraina và Hải quân Trung Quốc thả neo ở vùng lãnh hải Philippines trong biển Nam Trung Hoa [biển Đông – ND], thế giới hiện đang bước vào giai đoạn nguy hiểm.
Về mặt địa chính trị, Nga và Trung Quốc đang tái lập các tiêu chuẩn của thế kỉ XIX, đấy là khi các quốc gia cạnh tranh với nhau bằng cách tích lũy sức mạnh cứng trong hệ thống của chủ nghĩa dân tộc không kiềm chế và chủ quyền quốc gia cứng nhắc. Thật vậy, Tổng thống Nga Vladimir Putin dường như đang tìm cách tái lập bản đồ thế kỷ XIX của thời Sa hoàng, bằng cách nắm chặt Crimea, Abkhazia, Nam Ossetia, và những khu vực khác của đế chế cũ bằng mọi giá.
Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014
Jamie Metzl - Trở lại tương lai ở Ukriane và châu Á
![]() |
Jamie Metzl |
Phạm Nguyên Trường dịch
Cùng với việc quân đội Nga chiếm đóng lãnh thổ Ukraina và Hải quân Trung Quốc thả neo ở vùng lãnh hải Philippines trong biển Nam Trung Hoa [biển Đông – ND], thế giới hiện đang bước vào giai đoạn nguy hiểm.
Về mặt địa chính trị, Nga và Trung Quốc đang tái lập các tiêu chuẩn của thế kỉ XIX, đấy là khi các quốc gia cạnh tranh với nhau bằng cách tích lũy sức mạnh cứng trong hệ thống của chủ nghĩa dân tộc không kiềm chế và chủ quyền quốc gia cứng nhắc. Thật vậy, Tổng thống Nga Vladimir Putin dường như đang tìm cách tái lập bản đồ thế kỷ XIX của thời Sa hoàng, bằng cách nắm chặt Crimea, Abkhazia, Nam Ossetia, và những khu vực khác của đế chế cũ bằng mọi giá.
Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013
The Economist - Chủ nghĩa tư bản nhà nước ở Việt Nam
Một thỏa thuận thương mại do Mỹ dẫn dắt có giúp gì cho các nhà cải cách Việt Nam hay không?
The Economist, Oct 19th 2013
Phạm Nguyên Trường dịch -
Một số người cho rằng, nền kinh tế Việt Nam đang chuyển động khá nhanh. Tốc độ lạm phát với hai con số trong năm 2011 đã đã bắt đầu hạ nhiệt, còn kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may và hàng điện tử thì đang gia tăng nhanh chóng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 36% mỗi năm, đấy là theo đánh giá của cơ quan xếp hạng, có tên là Fitch.
Nhưng, GDP lại gia tăng khá chậm: năm ngoái chỉ đạt 5%, thấp nhất kể từ năm 2009. Rắc rối phần lớn là do đảng Cộng sản cầm quyền thất bại trong việc ép các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tuân thủ kỷ luật và không xử lý được những khoản nợ xấu trong trong các ngân hàng. Cũng như nước láng giềng Trung Quốc, các ông trùm trong đảng và đàn em của họ không muốn thay đổi hiện trạng vì nó có lợi cho họ.
Nhưng, muốn có tính hợp pháp thì chính phủ phải cải thiện được cuộc sống của người dân trong cái đất nước có tới 90 triệu người này. Trong mấy tháng gần đây, các quan chức bắt đầu tung ra kế hoạch cải cách kinh tế quan trọng. Dấu hiệu đáng khích lệ gồm có Nghị quyết của Bộ Chính trị hồi tháng Tư, coi hội nhập kinh tế là ưu tiên hàng đầu; và những cuộc tranh luận gần đây của các nhà làm luật của Việt Nam về biện pháp "cổ phần hóa" hay tư nhân hóa một phần doanh nghiệp nhà nước. Tháng 9 vừa rồi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cam kết sẽ xử lý 1.300 doanh nghiệp nhà nước như các công ty tư nhân và tăng mức cổ phần trong các ngân hàng mà các nhà đầu tư ngoại quốc có thể sở hữu lên từ 30% đến 49%.
Một nhà ngoại giao phương Tây nói rằng hiện nay vấn đề không phải là có cải cách hay không mà là cải cách sẽ diễn ra nhanh đến mức nào. Nếu đúng như thế thì tốc độ thay đổi có thể phụ thuộc vào Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), tức là phụ thuộc vào Thỏa thuận thương mại tự do của hơn một chục nước do Mỹ lèo lái, đang được trù liệu. Ngoài những vấn đề khác, TPP sẽ yêu cầu các thành viên kiềm chế những hành động thái quá của doanh nghiệp nhà nước.
Việc TPP tập trung chú ý vào doanh nghiệp nhà nước tạo ra vỏ bọc chính trị cho các nhà lập pháp có tinh thần cải cách của Việt Nam, để họ có thể theo đuổi chương trình nghị sự của mình, một nhà kinh tế học là ông Phùng Đức Tùng nói như thế. Họ sẽ đi xa đến đâu vẫn là một câu hỏi mở, nhưng ông Tùng cho rằng tư nhân hóa hầu hết các DNNN sẽ thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế và tạo được nền tảng thuế khóa vững chắc hơn.
Doanh nghiệp nhà nước, chiếm 40 % sản lượng kinh tế, đang có nguy cơ gắn chặt với các ngân hàng quốc doanh – tức là gắn với những người cho vay từng tài trợ cho việc tham gia vào thị trường bất động sản đầy rủi ro trong vụ bùng nổ kèm theo việc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007.
Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước đang tích cực "tái cơ cấu", báo chí do nhà nước kiểm soát nói như thế. Không có người nào tin rằng những khoản tín dụng khổng lồ sẽ tái diễn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước vẫn hoạt động không hiệu quả, một số nợ nần chồng chất đến nỗi không có tiền trả lương cho nhân viên.
Không có gì tốt đẹp cho hàng trăm ngàn thanh niên đang bước vào thị trường lao động thiếu sinh khí của Việt Nam, những người đang chán ngấy nạn tham nhũng và bất bình đẳng còn đáng buồn hơn thế. Cùng với tâm trạng thất vọng về hệ thống giáo dục, y tế và chính sách về quyền sử dụng đất, những vấn đề đó có thể là nhiên liệu cho một vụ bùng nổ xã hội trong một ngày nào đó.
Trong khi đó, các nhà đàm phán trong lĩnh vực thương mại của Mỹ đang nóng lòng muốn kết thúc những cuộc đàm phán TPP. Sự hấp dẫn đối với Việt Nam là một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như may mặc và giày dép sẽ dễ tiếp cận hơn với thị trường Mỹ. Nhưng đại sứ Mỹ ở Việt Nam, ông David Shear, nói rằng nước này cần phải thể hiện "sự tiến bộ rõ ràng" về nhân quyền để có thể giúp cho dư luận Mỹ ủng hộ họ tham gia vào TPP. Về mặt này, việc luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân bị phạt tù vì tội danh trốn thuế giả mạo sẽ chẳng giúp được gì. Mặc dù vậy, rất có thể hai bên sẽ ký thỏa thuận trong năm tới.
Nguồn: economist.com
Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013
Phạm Nguyên Trường - Sự vặn vẹo của công lí – Ngải Vị Vị nói về phiên tòa thế kỉ ở Trung Quốc
Phạm Nguyên Trường dịch
Phiên tòa xử Bạc Hi Lai vừa kết thúc sẽ được nhớ đến như cột mốc chính trị quan trọng nhất trong lịch sử đương đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiều năm sau khi Mao Trạch Đông mất vào năm 1976, những phiên tòa có tính trình diễn là chuyện bình thường. Do vai trò của họ trong Cách mạng Văn hóa, “bè lũ bốn tên” bị quy kết và kết án đơn giản là “hoạt động chống Đảng”. Nhưng bây giờ, một vụ án chính trị phải xem xét nhiều yếu tố hơn.
Khi Trung Quốc gánh vác vai trò quan trọng hơn trong các hoạt động quốc tế và quảng bá về sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của mình trong suốt 30 năm qua, giới lãnh đạo đất nước này tìm cách tạo cho mình uy tín trong việc trị quốc theo tinh thần pháp trị. Với phiên tòa xử Bạc Hi Lai như một phép thử, ban lãnh đạo mới đã nỗ lực giữ ảo tưởng đó và để có thể xuất hiện một cách cởi mở và tự tin trước nhân dân nước mình. Nhưng cuối cùng, cố gắng của họ đã thất bại.
Các nhà lãnh đạo Đảng hẳn phải coi trường hợp của Bạc là một khối u phát triển ngay cạnh động mạch cảnh – chữa trị thì quá nguy hiểm mà để đó thì nó lại lớn quá nhanh. Tất cả những người dính líu tới vụ này đều là thành viên của nhóm tinh hoa, cả trên phương diện xã hội lẫn chính trị, bắt đầu từ cựu Ủy viên Bộ Chính trị Bạc; vợ ông ta, bà Cốc Khai Lai; Giám đốc Công an Trùng Khánh, người có thể là nhân tình của bà Cốc; một doanh nhân người Anh đã bị hạ sát; các doanh nhân hàng đầu của Trung Quốc và nước ngoài; thậm chí ngay cả cậu con trai của Bạc, có bằng tốt nghiệp Harvard’s Kennedy School.
Một vở kịch bị xuyên tạc
Nhằm trình diễn sức mạnh và chứng tỏ Đảng đứng trên những âm mưu nhỏ nhen, chính quyền quyết định đưa ra một bản tường thuật “trực tiếp” – nhưng rõ ràng là bị kiểm duyệt – về phiên tòa. Bản tường thuật này chắc chắn đã cung cấp cho chúng ta một món giải trí khá thú vị; không có kịch bản định trước nào có thể soạn cho một vở kịch bị xuyên tạc thú vị đến thế.
Nhưng khi đưa ra một bản tường thuật đã bị kiểm duyệt, các quan chức lại tạo ra nhiều câu hỏi hơn lời đáp. Còn công chúng thì biết rằng họ không được thấy toàn bộ bức tranh, họ chỉ có thể suy đoán về những phần chính của câu chuyện bị che giấu. Thậm chí phản ứng của họ cũng bị kiểm duyệt: trong vòng một ngày, Tòa án Tế Nam nhận được hơn 4.000 bình luận trên mạng Weibo – một phiên bản Twitter của Trung Quốc – nhưng chỉ có 22 bình luận được phép hiển thị.
Kiểm duyệt vẫn là phản ứng đương nhiên của chế độ trước mọi bùng phát của dư luận xã hội. Thí dụ như vụ này, đấy là khi cần minh bạch thì các nhà lãnh đạo Trung Quốc không thể thực sự cởi mở, hoặc làm sao để được dân chúng hiểu và có cảm tình với mình. Không những thế, chính quyền tìm cách giữ bản tường thuật phiên tòa trong giới hạn sao cho không làm lung lay nền tảng của Đảng.
Có lẽ chế độ nghĩ rằng có thể tránh những câu hỏi khó chịu bằng cách tập trung vào những cáo buộc có tính hình sự đối với Bạc, như thể đây là một phiên tòa bình thường, được tổ chức theo đúng quy định của pháp luật. Nhưng đây là một trò hề mà không một người Trung Quốc nào tin.
Do quá chú tâm nhằm duy trì ảo tưởng, các công tố viên đã có những sai lầm rõ ràng về mặt thủ tục, họ sử dụng những bằng chứng gian lận và đưa ra tòa các nhân chứng rõ ràng đã bị ép phải làm chứng. Được tiến hành theo cách tự chuốc lấy thất bại như thế, cả mục đích cũng như kết quả cuối cùng của phiên toà đều trở thành lố bịch. Người dân Trung Quốc sẽ không bao giờ tin rằng Bạc được xử một cách công bằng, vì họ biết rằng người ta chỉ đưa ra một phần sự thật mà thôi.
Có thể Bạc quả thật mắc tội tham nhũng và lạm dụng quyền lực, như tòa tin chắc. Nhưng một phần công lí không phải là công lí. Chỉ có thể có công lí hoặc chẳng có tí công lí nào. Ngay cả một trò chơi đơn giản nhất cũng cần những quy định rõ ràng. Nếu không, cuộc chơi chỉ có thể được coi là “điên rồ”, như Bạc nói về lời khai trên băng video của vợ mình.
Nếu chế độ đã không thể truyền tải được thông điệp như dự kiến về phiên tỏa xử Bạc thì thông điệp nào đã được truyền đi? Các cán bộ phải biết rằng hối lộ sẽ bị trừng phạt, dù chức vụ có cao đến mức nào. Tuy nhiên, phiên tòa chẳng những không khuyến khích đảng viên phải trung thực hoặc chăm chỉ mà lại dạy cho họ rằng trước hết phải làm tất cả để có thể đứng chung hàng ngũ với ban lãnh đạo hiện nay. Hiến pháp và pháp luật, thậm chí những đánh giá về mặt đạo đức, khó có chỗ trong những tính toán của họ.
Không an toàn
Kết quả là tất cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc, từ cấp làng xã đến Bộ Chính trị đều cảm thấy bất an. Với luật pháp tùy tiện như vậy, Đảng đang nuôi dưỡng não trạng ngầm phá hoại việc đưa ra những quyết định có tính xây dựng và khả năng thay đổi. Chính khách ở Trung Quốc có địa vị đáng buồn.
Người dân bình thường cũng không khá hơn. Bạc xuất thân từ một gia đình có nguồn gốc cách mạng lâu đời và ngay trước khi bị bắt, ông ta là một ngôi sao sáng trên bầu trời chính trị Trung Quốc – một trong những nhân vật ủng hộ Mao nổi tiếng và hoạt động khá tích cực, gọi là “Thế hệ đỏ thứ hai.” Ông ta là người đại diện cho toàn bộ tư duy của ban lãnh đạo hiện nay; còn phong cách, kinh nghiệm, năng lượng, niềm đam mê và lập trường của ông ta lại là những nhân tố quyết định giá trị cốt lõi của “Giấc mơ Trung Hoa”. Ngay cả một người như ông ta mà cũng bị tước mọi chức vụ như thế thì công dân bình thường còn hi vọng gì? Khi các giá trị như quyền con người, tự do ngôn luận và công bằng trong lĩnh vực tư pháp đều phải hi sinh vì quyền lợi của nhóm chóp bu nắm quyền thì chẳng ai có thể an toàn.
Nhận thức đó giúp giải thích vì sao vụ bắt giữ tôi năm 2011 thu được sự chú ý như thế. Tôi bị bắt và bị tra hỏi vì tội lật đổ chính quyền, nhưng khi tôi được thả thì chính quyền không kết án tôi vì bất cứ tội hình sự nào. Không những thế, họ còn kết án công ty nơi tôi làm việc là phạm tội kinh tế. Vì các quan chức không bao giờ có ý định điều tra công ty này về những tội như thế, họ đã phạm mấy sai lầm và tạo ra một vụ án vô nghĩa.
Họ không lường trước sự quan tâm của dư luận khi tôi đưa vụ này ra công khai. Rất nhiều người đã nhận ra rằng họ cũng là những người bị chính quyền đối xử một cách tùy tiện như thế. (Chế độ cũng không ngờ rằng tôi sẽ kiện họ.) Cuối cùng, họ quyết định không theo đuổi vụ này nữa và im lặng bỏ qua toàn bộ trò hề này.
Mất niềm tin
Hiện nay người Trung Quốc đã có hiểu biết nhiều hơn và chưa bao giờ họ mất niềm tin vào chính quyền đến như thế. Đáng lẽ phải thừa nhận và giải quyết thực trạng đó thì chế độ lại không chịu hợp tác với người dân của mình. Trong tài liệu gọi là “Văn thư số 9”, bị rò rỉ ra ngoài trong thời gian vừa qua, các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản đã liệt kê “7 mối đe dọa”, nói rõ rằng “Chế độ dân chủ phương Tây” và “các giá trị phổ quát” là những mối nguy hiểm đối với xã hội.
Vì chính quyền Trung Quốc khước từ bầu cử thật sự, nên xã hội không bao giờ có cơ hội thể hiện ý kiến của mình về ban lãnh đạo. Nền tảng cho bất kì cuộc giao tiếp, thảo luận hay tranh luận – những đòi hỏi bắt buộc cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội hiện đại – chưa bao giờ được thiết lập. Cả về đạo đức lẫn tư tưởng, Đảng Cộng sản đều quá yếu để đối đầu với công luận.
Xã hội Trung Quốc bị cái yếu kém đó làm cho biến dạng. Thật thú vị là ngay lập tức, người Trung Quốc đã biến cử chỉ của Bạc trong một bức hình chụp tại phòng xử án, với ba ngón tay như thể một lời chào, thành một biểu tượng cảm xúc. Trong những xã hội mà bạn không thể nói lên sự thật thì biểu tượng, ám chỉ và so sánh tràn đầy. Điều đó chỉ xảy ra dưới chế độ độc tài và ngôn ngữ cũng như văn hóa Trung Hoa từ xưa đến nay đều như vậy.
Người Trung Quốc đánh giá cao những hòn đá nhân tạo và những cây bonsai có hình thù vặn vẹo, coi chúng như những ẩn dụ về nền chính trị Trung Quốc. Khi điều kiện sống khắc nghiệt tước đoạt không gian phát triển tự nhiên thì cuộc đấu tranh giành quyền sống sẽ tạo ra những hình thức cong queo, vặn vẹo như thế.
Trong những năm sắp tới, có khả năng là chính quyền cộng sản rốt cuộc sẽ phải đối mặt với những câu hỏi thực sự về tính chính danh của mình và phải nhận ra rằng họ chỉ có thể cầm quyền dựa trên hiến pháp và pháp trị chân chính. Nếu không, nếu tiếp tục loại bỏ vai trò của công luận khỏi quá trình đưa ra quyết định và hi vọng đánh lạc hướng người Trung Quốc bằng những vở kịch như kiểu vụ xử Bạc thì chế độ chỉ tự lao nhanh đến chỗ cáo chung. Phiên tòa Bạc Hi Lai có thể sớm kết thúc, nhưng chế độ vẫn tiếp tục đứng trước vành móng ngựa.
Nguồn: “Ai Weiwei on China’s Trial of the Century”, Bloomberg, 27-8-2013. Nhan đề bổ sung của pro&contra
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Nguyên Trường & pro&contra
Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013
Victor Devis HANSON - Tại sao những xã hội đã từng có thời thành công lại trở nên xơ cứng và suy tàn?
Victor Devis HANSON
Phạm Nguyên Trường dịch
Chia cái bánh ngày càng nhỏ hơn, rồi sau đó sụp đổ
Có hàng trăm lý do được đưa ra nhằm giải thích cho sự sụp đổ của La Mã và sự cáo chung của chế độ cũ ở Pháp vào thế kỷ XVIII. Từ lạm phát và chi tiêu hoang phí đến sự suy kiệt nguồn tài nguyên, rồi những cuộc xâm lăng của ngoại bang. Các nhà khoa học đã tìm cách giải thích sự sụp đổ bất thình lình của những vương quốc của người Mycenae (Hy Lạp cổ đại – ND), người Aztec (thổ dân ở Mexico – ND) và cả Hy Lạp đương đại nữa, như thế đấy. Theo các tác giả, từ Catullus đến Edward Gibbon, thì không phải là nghèo đói và tình trạng kiệt quệ mà chính là sự sung túc và nhàn cư – nhất là những người hưởng phần lớn cả hai thứ này – đã làm suy sụp nền văn minh.
Victor Devis HANSON
Một đề tài thường được nhắc đi nhắc lại trong sách báo bàn về Athens trước khi thành phố này bị người Macedon xâm chiếm: mâu thuẫn xã hội trước việc chia cái bánh đang ngày càng nhỏ đi. Những bài diễn văn của người Athens thời đó thường nhắc tới những vụ kiện tụng về tài sản và quyền thừa kế, trốn thuế và việc làm giả giấy tờ để hưởng trợ cấp. Sau khi nước cộng hòa La Mã sụp đổ, những người cầm bút theo phái phản động như Juvenal, Petronius, Suetonius và Tacitus đã nhấn mạnh vấn đề “bánh mì và hí trường” cũng như sự giàu sang quá mức, nạn tham nhũng và bộ máy nhà nước quá cồng kềnh.
Theo Gibbon và những học giả người Pháp sau này thì từ “Byzantine” đã trở thành từ mang tính miệt thị nhằm mô tả bộ máy quản lý quá cồng kềnh của Hy Lạp, thuế thu từ những người sản xuất ngày càng ít đi, không đủ để nuôi số quan chức ngày càng gia tăng. Trong thời cổ đại, để thanh toán các khoản nợ của nhà nước, người ta thường cho đúc thêm tiền, đồng tiền vì thế mà bị mất giá. Còn luật pháp thì thường bị bóp méo nhằm giải quyết những đòi hỏi của quần chúng chứ không còn được dùng để bảo vệ công lý nữa.
Sau Thế chiến II đa số các trung tâm quyền lực hiện nay – Trung Quốc, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga và Đài Loan – đều hoặc là bị tàn phá hoặc là còn trong thời tiền công nghiệp. Chỉ có Hoa Kỳ và Anh quốc, những nước có nền kinh tế hiện đại, là tránh được sự tàn phá của chiến tranh mà thôi. Cả hai nước đều sẵn sàng cung cấp cho thế giới đã bị tàn phá những chiếc tàu thủy, ô tô, máy cái và phương tiện viễn thông.
So với Frankfurt, năm 1945 các nhà máy ở Liverpool phần lớn vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng Anh đã bỏ lỡ cơ hội và phải nhường chỗ cho thần kỳ kinh tế Đức thời hậu chiến. Một phần là vì người Anh, bị rã rời sau những thiếu thốn của thời chiến tranh, đã quay sang với cuộc chiến tranh giai cấp và quốc hữu hóa những ngành công nghiệp chính, chẳng bao lâu sau những ngành này đã mất sức cạnh tranh.
Sự xuống dốc từ từ của xã hội thường là quá trình tự kích nhằm đáp ứng thói “được voi đòi tiên” (dịch thoát ý cụm từ ever-expanding appetites – ND) chứ không phải là không có khả năng sản xuất được lương thực, thực phẩm và nhiên liệu như trước hay không đảm bảo được quốc phòng. Người Mỹ chưa bao giờ được bảo đảm về công ăn việc làm và được chăm sóc y tế tốt như hiện nay – cũng chưa bao giờ có nhiều người tàn tật, sống bằng trợ cấp như hiện nay.
Đội quân người Persic lên đến 250.000 người, cả thủy thủ và lính bộ binh, của hoàng đế Xerxes vào năm 480-479 (trước Công nguyên) đã không hạ gục được nước Hy Lạp nghèo nàn. Nhưng 150 năm sau, lực lượng ít hơn từ phía Bắc, dưới quyền chỉ huy của Philip II của Macedon, đã áp đảo được hậu duệ giàu có của những người Hy Lạp từng chiến thắng trong trận đánh ở Salamis.
Những đơn vị kém hẳn về quân số của nước cộng hòa La Mã bé nhỏ và nghèo nàn đã từng chiến thắng nhiều cuộc xâm lăng của ngoại bang trong suốt nhiều thế kỷ. Nhưng mấy trăm năm sau, những bộ tộc người Goths, người Visigoths, người Vandals và người Huns đã tàn phá đế chế La Mã rộng lớn, chạy dài suốt từ đầu này đến đầu kia của Địa Trung Hải.
Với món nợ quốc gia khủng khiếp hiện nay – gần 17 ngàn tỉ USD và còn đang tăng – nhiều người nói rằng Mỹ đang suy sụp, mặc dù chúng ta chưa giáp mặt với những thảm họa, với nạn hủy diệt của chiến tranh hạt nhân hay thiếu thốn lương thực và dầu khí.
Người Mỹ chưa bao giờ giàu có đến như thế – ít nhất là nếu đo sự giàu có bằng số lượng điện thoại cầm tay, bằng số lượng TV màn hình lớn, đường hàng không giá rẻ và thức ăn nhanh. Bệnh béo phì chứ không phải thiếu ăn là mối đe dọa chủ yếu đối với sức khỏe của dân tộc. Đám đông chen lấn vào các cửa hàng bán đồ điện tử chứ không phải là cửa hàng thực phẩm. Người Mỹ chi cho kem Botox, kem dưỡng da và hút mỡ bụng nhiều tiền hơn là cho những căn bệnh đã từng hành hạ nhân loại trong nhiều thế kỷ như bệnh bại liệt trẻ em, bệnh đậu mùa và bệnh sốt rét.
Nếu người trên sao Hỏa mà nhìn thấy những ngôi nhà bé như những cái hộp, những gia đình chỉ có một chiếc ô tô và những món hàng tiêu dùng thô thiển hồi những năm 1950 thì chắc chắc họ sẽ nghĩ là Mỹ là nước nghèo, mặc dù ngân sách năm 1956 vẫn còn cân đối. So với lúc đó, những người ở hành tinh khác sẽ thấy nước Mỹ đang ngập trong nợ nần hiện nay dường như đang bơi trong biển tiền bạc, nơi những người tiêu dùng giành giật nhau từng chiếc iPhones đời mới nhất.
Dùng bất cứ thước đo nào để đo thì tương lai của người Mỹ cũng chưa bao giờ tươi sáng đến như thế. Nước Mỹ có tất cả: tìm được những mỏ dầu khí mới mà trước đây không ai dám mơ tới, Mỹ là nhà sản xuất lương thực thực phẩm lớn nhất thế giới, công nghệ tiên tiến thường xuyên xuất hiện, dân số phát triển vững chắc, quân đội hùng mạnh và ổn định về thể chế.
Nhưng chúng ta không nói chuyện một cách tự tin về việc sử dụng và mở mang nguồn lực tự nhiên và tài sản mà chúng ta được thừa kế. Thay vào đó, người Mỹ chúng ta đang cãi nhau về những khoản trợ cấp, trong khi quốc gia tiếp tục thâm hụt hàng tỉ đô la. Quyền bình đẳng được tạo ra bằng áp lực chứ không phải là quyền tự do lựa chọn đã trở thành một tôn giáo mới của cả nước. Đơn thuốc là cắt bớt các khoản trợ cấp của chính phủ dường như là còn tệ hơn chính căn bệnh, mà bệnh ở đây là vay tiền của những thế hệ chưa ra đời để trả cho những khoản trợ cấp hiện nay.
Tháng 8 năm 1945, Hiroshima là một thành phố đổ nát, trong khi Detroit là một trong số những thành phố tân tiến và giàu có nhất thế giới. Hiroshima hiện nay trông như thành phố Detroit phát đạt của năm 1945; trong khi một số khu vực của Detroit lại trông như vừa bị ném bom cách đây vài chục năm vậy.
Lịch sử đã chứng tỏ rằng việc nhà nước tham gia phân phối số của cải ngày càng teo đi chứ không phải là doanh nghiệp trong lĩnh vực tư nhân sản xuất được nhiều của cải hơn có thể gây ra tai họa lớn hơn cả những kẻ thù tàn bạo nhất.
V.D.H.
Victor Davis Hanson là nhà sử học, làm việc tại Stanford University’s Hoover Institution. Tác phẩm mới nhất của ông The Savior Generals sẽ được xuất bản trong mùa xuân năm nay.
Bản dịch từ BVN
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012
Bùi Mẫn Hân - Thay đổi chế độ ở Trung Quốc?
Bùi Mẫn Hân
Phạm Nguyên Trường dịch
Một câu hỏi cần phải hỏi về Đảng cộng sản Trung Quốc, một đảng vừa thực hiện xong việc luân chuyền ban lãnh đạo, là bài tậpđược dàn dựng một cách công phu này có giống như việc sắp xếp lại bàn ghế trong boong tàu Titanic hay không. Lễ nhậm chức của ban lãnh đạo mới có thể chẳng có mấy ý nghĩa vì ngày tàn của Đảng cộng sản Trung Quốc vừa có thể dự đoán được, vừa có nhiều khả năng là sẽ xảy ra.
Nhiều nhà quan sát có thể cho rằng lời khẳng định đó là sai. Họ bảo rằng Đảng cộng sản Trung Quốc đã chứng tỏ được sức sống của nó sau sự kiện Thiên An Môn vào năm 1989 và sự sụp đổ của chế độ cộng sản ởLiên Xô vào năm 1991. Vậy thì tại sao hiện nay lại phải xem xét những dự báo vềsự sụp đổ của Đảng cộng sản Trung Quốc một cách nghiêm túc?
SV bị giết ngày 4/6/1989 tại Thiên An Môn
Quân đội chiếm giữ quảng trường Thiên An Môn sau ngày 4/6/1989
Trong khi tương lai của Trung Quốc là điều không thể dự đoán được, nhưng có thể đánh giá được sự bền vững của chế độ hậu-toàn trị của nó với độ tin cậy nào đó. Trung Quốc có thể là một đất nước độc đáo vềnhiều mặt, nhưng chế độ độc đảng khó mà là một ngoại lệ. Thực ra, chế độ chính trị của nước này cũng đang bị những lực tự hủy tấn công, đấy cũng là những lực lượng đã đưa các chế độ độc tài sang thế giới bên kia.
Trong số những khiếm khuyết của chế độ độc tài thì sự thoái hóa ở trên đỉnh kim tự tháp quyền lực, được thể hiện bởi những nhà lãnh đạo yếu kém chưa từng thấy, là hiện tượng ngày càng thể hiện rõ và không thể nào cứu chữa được. Bản chất đóng và không chấp nhận những nhân tố mới, theo mô hình kế vị, tức là tưởng thưởng cho lòng trung thành về mặt chính trị chứkhông phải khả năng - cản trở, không cho nhiều người có tài leo lên những chức vụ cao trong chính phủ. Trên thực tế, những nhà cầm quyền độc tài thường ủng hộnhững người kế nhiệm ít tài năng vì dễ lèo lái và kiểm soát khi họ bước trênđường tiến đến quyền lực.
Sự thoái hóa càng gia tăng khi chế độ độc tài bước vào giai đoạn già cỗi và quan liêu hơn. Khi các cá nhân leo lên những nấc thang cao hơn trong bộ máy quyền lực thì ô dù và tìm kiếm người bảo trợ là những tác nhân quan trọng nhất trong việc quyết định cơ hội thăng tiến của họ. Hậu quả là chế độ đó càng ngày càng trở nên sơ cứng khi họ lựa chọn các nhà lãnhđạo với những bản sơ yếu lý lịch sáng chói nhưng lại chẳng có mấy thành tích thực sự.
Căng thẳng chết người nhất của sự thoái hóa lãnhđạo là hiện tượng ăn thịt lẫn nhau đang ngày càng gia tăng trong giới tinh hoa chính trị. Triệu chứng dễ nhìn thấy nhất là nạn tham nhũng, nhưng nguyên nhân lại là bản chất của chế độ độc tài. Thường thì, những người cách mạng thuộc thếhệ đầu tiên là những người có sự gắn bó mạnh mẽ về tư tưởng và tình cảm với một số lý tưởng nào đó, mặc dù đấy có thể là những lý tưởng sai lầm. Nhưng giới tinh hoa hậu cách mạng lại là những kẻ cơ hội, chẳng còn tin gì lý tưởng nữa. Và giống như những nhà đầu tư, họ tìm kiếm lợi nhuận, càng cao càng tốt.
Khi các thế hệ lãnh đạo trước dùng quyền lực kiếm tiền bất hợp pháp thì những kẻ kế nhiệm lại được thúc đẩy bằng động cơ vừa muốn cướp bóc thậm chí còn nhiều hơn, lại vừa sợ là đến lượt mình sẽ chẳng còn gì. Đấy là cơ chế thúc đẩy nạn tham nhũng ở Trung Quốc hiện nay. Trên thực tế,có thể dễ dàng nhìn thấy hậu quả của sự thoái hóa lãnh đạo: kinh tế trì trệ và tốc độ phát triển thấp, căng thẳng xã hội gia tăng và mất niềm tin vào chính phủ.
Vấn đề là vì sao cả logic về sự tự hủy của chế độ độc tài lẫn những bằng chứng về hiệu năng kém của chế độ ở Trung Quốc vẫn không thuyết phục được phần lớn những nhà quan sát am tường rằng sự cáo chung của Đảng cộng sản Trung Quốc là một khả năng không thể nghi ngờ.
Rõ ràng đấy là do cách tư duy thông thường. Các chế độ cầm quyền lâu đời – thí dụ như chế độ Đảng cộng sản Liên Xô, của Shuharto ở Indonesia, của Hosni Mubarak ở Ai Cập – thường được cho là vững nhưbàn thạch, thậm chí ngay trước khi chúng sụp đổ người ta vẫn nghĩ như thế.Nhưng những người tin rằng Đảng cộng sản Trung Quốc có thể thách thức được cảcơ chế thoái hóa từ bên trong lẫn ghi nhận của lịch sử về những chế độ độc đảngđã sụp đổ có thể đọc Leon Trotsky, người đã từng biết một cái gì đó về những cuộc cách mạng. Trước khi sụp đổ, tất cả các chế độ độc tài đều được coi là bất khả chiến bại, Trotsky nhắc chúng ta như thế, nhưng sự cáo chung của chúng lạiđược coi là không thể tránh được ngay khi chúng bị lật đổ.
Lý do thứ hai là sợ tư duy về điều chưa biết. Chính quyền của Đảng cộng sản có thể không thể tồn tại mãi, nhưng thay vào đó –sự sụp đổ của nhà nước và sự hỗn loạn xã hội – có thể còn xấu hơn rất nhiều so với hiện trạng. Nhưng ghi nhận về những cuộc chuyển hóa dân chủ từ năm 1974 tới nay cho thấy rằng sự thay đổi chế độ ở Trung Quốc có thể không phải là một tai họa. Tác nhân quyết định là liệu nó có được giới tinh hoa cầm quyền khởi động và lãnh đạo, như đã từng xảy ra ở Đài Loan, Mexico, Brazil và Tây Ban Nha, hay không. Những cuộc chuyển hóa có lãnh đạo tạo ra những nền dân chủ ổn định hơn. Nếu một quá trình như thế diễn ra ở Trung Quốc thì Đảng cộng sản Trung Quốc có thể tự chuyển hóa thành đảng chính trị lớn, cạnh tranh với những đảng phái khácđể giành quyền lực, như những đảng độc tài trước đây đã từng làm ở Đài Loan và Mexico.
Nhưng ngay cả khi sự chuyển hóa chế độ có xảy ra một cách hỗn loạn thì những chấn thương và lộn xộn diễn ra trong ngắn hạn cũng có thể tạo ra một hệ thống tốt đẹp hơn là chế độ độc tài, tham nhũng, hà khắc và trì trệ. Chế độ dân chủ mới của Indonesia có thể là chưa hoàn hảo, nhưng là chế độ thịnh vượng mặc dù ban đầu đã có viễn cảnh tồi tệ. Tương tự như thế,nước Nga của Putin, một chế độ độc tài lai ghép rất không hoàn hảo, nhưng vẫn là chỗ sống tốt hơn nhiều lần Liên Xô trước đây.
Nếu có một bài học cần phải học từ lịch sử của những cuộc chuyển hóa dân chủ trong suốt 38 năm qua thì đấy là: khi giới tinh hoa và xã hội vất bỏ chế độ độc tài, họ sẽ làm hết sức mình để cho hệ thống mới hoạt động. Nếu cuộc chuyển hóa như thế xảy ra ở Trung Quốc thì cũng không có lý do gì để nghĩ rằng quá trình và kết quả sẽ khác hoàn toàn.
Bùi Mẫn Hân 裴敏欣là Giáo sư về quản trị tại Claremont MacKenna College và thành viên không thường trú của của Quỹ Marshall Đức ở Hoa Kỳ.
Nguồn bản gốc: http://www.project-syndicate.org/commentary/the-inevitable-degeneration-of-chinese-autocracy-by-minxin-pei
Nguồn bản dịch từ Bauxite Việt Nam
Thứ Tư, 24 tháng 10, 2012
Đặng Duật Văn - Mười vấn đề nghiêm trọng trong di sản chính trị của Hồ – Ôn
Đặng Duật Văn
Phạm Nguyên Trường dịch
pro&contra – Đầu tháng Chín vừa rồi, ông Đặng Duật Văn (邓聿文, Deng Yuwen), Phó Tổng biên tập tờ Học tập Thời báo (学习时报) của Trường Đảng Trung ương ĐCS Trung Quốc đăng một tiểu luận nhan đề “Di sản chính trị của Hồ – Ôn” trên tờ Tài Kinh (财经, Caijing) gây nhiều chú ý. Tiểu luận này nhanh chóng bị rút xuống, song hiện nay cả bản gốc tiếng Trung và một phần bản dịch tiếng Anh đều đã có trên mạng. Bản dịch tiếng Việt dưới đây dựa theo bản tiếng Anh trên tạp chí The China Story.
_____________
Lời giới thiệu của Geremie. R. Barmé trên tạp chí The China Story
Tháng 4 năm 1956 Mao Trạch Đông đọc trước Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc bài diễn văn với nhan đề “Bàn về mười quan hệ lớn” (论十大关系). Đấy là giai đoạn có tính quyết định đối với nước Trung Hoa mới. Công cuộc quốc hữu hóa ban đầu nhằm đưa nền công nghiệp và nông nghiệp của đất nước vào tay nhà nước đã biến thành làn sóng của chủ nghĩa xã hội cực đoan sẽ chiếm thế thượng phong trong hai thập kỉ tới. Muốn đẩy nhanh sang giai đoạn tiếp theo, Mao cho rằng quan trọng là cần phải nêu ra những vấn đề mà nước cộng hòa non trẻ đang phải đối mặt. Ông ta liệt kê mười vấn đề quan trọng trong chính sách xã hội, kinh tế, khu vực và dân tộc; trên thực tế, ông ta nêu ra những thách thức mà cuộc thí nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong quá trình cải tạo nước Trung Hoa sẽ gặp.
Nhận xét nói chung về sự bất định chính trị ở Trung Quốc đều cho rằng khi “bọn thày bói độc mồm độc miệng xuất hiện khắp nơi là dấu hiệu cáo chung”. Ở đâu chúng ta cũng thấy những lời cảnh báo đáng sợ do phái phê bình tả khuynh của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thí dụ như từ Hội Những Người con của Diên An (延安儿女) hay gần đây là những người chính thống của Nhóm Không tưởng, đưa ra. Trong mấy ngày gần đây, một biên tập viên tờ Học tập Thời báo cho đăng bài báo dài, trong đó ông ta đưa ra mười vấn đề nghiêm trọng của Trung Quốc.
Trong năm chuyển tiếp 2012-2013 – diễn ra mười năm một lần – sẽ có sự thay đổi ban lãnh đạo Đảng-nhà nước, các cán bộ tuyên truyền của Đảng Cộng sản đã lên giọng và yêu cầu các phương tiện thông tin đại chúng kỉ niệm một cách ồn ào “mười năm vàng son” dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch nước/Tổng Bí thư Đảng Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo (Xin đọc bài “Những lí do của mười năm quang vinh của Trung Quốc” trên tờ Nhân dân Nhật báo, bài “Từ thắng lợi tới thắng lợi” trong Niên giám 2012 của tạp chí này [1], đấy chỉ là vài ví dụ). Đây là giai đoạn cực kì căng thẳng và đặt cược cao, là giai đoạn Trung Quốc trực diện với những quyết định chính trị quan trọng không phải chỉ cho mấy năm trước mắt, mà quan trọng cho một thời gian dài trong tương lai, nhiều người nghĩ như thế. Tại thời điểm này, một đảng viên có địa vị thấp kém hơn vị chủ tịch đã quá cố [2] đưa ra phiên bản của ông ta về những vấn đề mà dân tộc cứng đầu cứng cổ và chia rẽ này đang phải đối mặt.
“Mười vấn đề nghiêm trọng” (十大问题) là phần thứ hai trong loạt bài có tên “Di sản chính trị của Hồ-Ôn” (胡温的政治遗产) do Đặng Duật Văn viết, được đăng trên trang mạng của tờ Tài Kinh hồi cuối tháng 8 đầu tháng 9. Mặc dù vẫn phụ họa theo đường lối chính thức của Đảng và tán dương những thành tựu có một không hai của mười năm dưới quyền cai trị của Hồ – Ôn, Đặng Duật Văn cũng phê phán những vấn đề xã hội, kinh tế, khu vực, chính trị và tư tưởng căn bản của Trung Quốc. Ông ta trình bày chúng như là những vấn đề cực kì quan trọng, những vấn đề đã phát triển cả về quy mô lẫn sức nặng vì chính phủ – bị ám ảnh bởi sự ổn định, bên dưới vỏ bọc của sự đồng thuận – đã để cho những vấn đề cấp bách mưng mủ. Đấy là những vấn đề quan trọng sống còn không chỉ cho đảng cầm quyền Trung Quốc mà còn cho toàn thế giới. “Mười vấn đề nghiêm trọng” vừa là bản cáo trạng đối với sự uể oải của nền chính trị, vừa là chương trình nghị sự buộc những nhà lãnh đạo Đảng-nhà nước sắp tới phải lập tức để tâm chú ý.
“Mười vấn đề nghiêm trọng” chỉ là một trong những biểu hiện của sự bất bình công khai của hệ thống độc đảng của Trung Quốc. Trong những lần khủng hoảng và chuyển giao lãnh đạo trước đây, các nhà tư tưởng, hay nói theo lối cũ là các chiến lược gia, bao giờ cũng có vai trò quan trọng. Kha Khánh Thi (柯庆施, Ke Qingshi), Trần Bá Đạt (陈伯达, Chen Boda), Diêu Văn Nguyên (姚文元, Yao Wenyuan) và Trương Xuân Kiều (张春桥, Zhang Chunqiao) là những người nổi bật trong những năm 1960; sau đó đến lượt Hồ Kiều Mộc ( 胡喬木, Hu Qiaomu) và Đặng Lực Quần (邓力群, Deng Liqun) cùng với những người khác đã tạo được ảnh hưởng trong những năm 1970 và đầu 80, tức là dưới trào Đặng Tiểu Bình. Cuối những năm 1980 là các nhà tư tưởng như Hà Tân (何新, He Xin), Vương Quân Đào (王军涛, Wang Juntao) và Trần Tử Minh (陈子明, Chen Ziming). Trong lần chuyển giao quyền lực này, khởi động từ năm 2007, các cá nhân và các nhóm ganh đua với nhau nhằm cung cấp lời khuyên về mặt chiến thuật và trí tuệ cho những kẻ đang tranh đoạt quyền lực. Dưới chiêu bài “lo lắng cho Trung Quốc”, những nhà trí thức này đang đấu tranh nhằm định hình tương lai cho Đảng hay nói đúng hơn Đảng-nhà nước, trong khi rèn đúc sự nghiệp mang lại mục tiêu cao quý là người đầu tiên có tiếng nói cuối cùng, hay sử dụng cách nói truyền thống là kinh bang tế thế.
Việc tranh giành ảnh hưởng giữa các nhà tư tưởng Trung Quốc càng trầm trọng thêm vì nhiều người cho rằng cuộc khủng hoảng hiện nay tương tự như cuộc khủng hoảng hồi cuối những năm 1980, tức là giai đoạn “khủng hoảng ý thức”. Trong một bài viết cho hãng Reuters, Chris Buckley nói rằng ông Tập Cận Bình, người được cho là sẽ nắm chức Tổng Bí thư Đảng và Chủ tịch nước, đã nhận thấy, thậm chí tìm cách trấn an trước khả năng sự phản bội của các giáo sĩ theo kiểu Trung Quốc, tạo ra một loạt sự kiện không thể lường trước được. (Những người vận động cả phái tả lẫn phái hữu đều kêu gọi phải có những hành động quyết liệt trong việc bài trừ nạn tham nhũng, một số người khác lại cảnh cáo rằng bất kì một hành động có phối hợp nào trong lĩnh vực này không những sẽ gặp sự chống đối nghiêm trọng mà còn báo trước, thậm chí kích hoạt sự bất ổn chính trị-xã hội từ trên xuống).
“Mười vấn đề nghiêm trọng” trong tiểu luận của Đặng Duật Văn có thể là bảng liệt kê những thất bại chính trị tồi tệ nhất của giai đoạn Hồ-Ôn từng xuất hiện trên báo chí Hoa lục. Mặc dù đã bị cảnh sát mạng ngăn chặn, nhưng nó vẫn được lưu hành rộng rãi và đã làm bùng lên những cuộc tranh luận. Nội dung tóm tắt của tiểu luận này đăng trên Chinese Elections and Governance, còn nguyên bản tiếng Trung trên Political China.
Bản dịch phần tiểu luận này là của Eric Mu trên trang Danwei.
____________________
Mười vấn đề nghiêm trọng trong di sản chính trị của Hồ – Ôn
Phần đầu của tiểu luận này đã xem xét, theo quan điểm lịch sử, những thành tựu của chính quyền Hồ-Ôn trong mười năm qua. Nói chung, Trung Quốc đã có tiến bộ đáng kể. Nhưng, như đã nói bên trên, phía sau thành công cũng còn nhiều vấn đề. Nói một cách thẳng thắn, những vấn đề phát sinh và phát triển trong mười năm gần đây có thể che mờ các thành tựu. Đối với Đảng Cộng sản, vấn đề lớn nhất và cấp bách nhất cần phải giải quyết là trong quá trình đưa nhân dân tới một xã hội sung túc và thịnh vượng, Đảng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng về tính chính danh của nó: không giải quyết được khoảng cách giàu nghèo đang ngày càng gia tăng, nạn tham nhũng ngày càng gia tăng, không đạt được sự thống nhất xã hội và không đáp ứng được đòi hỏi của xã hội về mở rộng dân chủ.
Ngoài ra, chính quyền Hồ-Ôn không đạt được tiến bộ – nói cho ngay, có thể còn thụt lùi trong một số lĩnh vực liên quan đến hiện đại hóa Trung Quốc:
Không có tiến bộ trong việc tái cấu trúc nền kinh tế Trung Quốc. Không xây dựng được nền kinh tế hướng vào nhu cầu trong nước, không thực thi được chính sách hiệu quả nhằm cải cách việc phân phối của cải và ngăn chặn sự mở rộng khoảng cách trong thu nhập. Mặc dù đã đưa ra một số quy định về quản lí thị trường bất động sản, kết quả vẫn chưa rõ ràng. Hệ thống an sinh xã hội đã được thiết lập nhưng vẫn còn thô sơ. Chưa cải tạo được hệ thống hộ khẩu để nó không còn phụ thuộc vào địa bàn công tác của người dân, đến lượt nó, điều này cản trở, không tạo điều kiện cho người nhập cư hòa nhập vào các thành phố, mặc dù tốc độ đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng.
Những vấn đề liên quan đến người già càng trầm trọng thêm và chính sách dân số còn có khoảng cách rất xa so với hiện thực xã hội. Ô nhiễm môi trường gia tăng và chưa thấy dấu hiệu cải thiện nào. Không hình thành được nền “văn minh sinh thái học”. Hệ thống giáo dục càng ngày càng quan liêu hơn và cần phải cấp bách tư duy lại một cách căn bản triết lí giáo dục. Nghiên cứu khoa học đã giành được một số thành tựu to lớn, nhưng có ít thành tựu độc đáo hay nằm trong những môn khoa học căn bản. Đạo đức suy đồi: những giá trị căn bản của xã hội càng ngày càng bị lờ đi. Sự phân tầng trong xã hội càng ngày càng cứng nhắc và được định chế hóa. Các cuộc xung đột giữa chính quyền và nhân dân càng ngày càng quyết liệt hơn. Khả năng của chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ công và quản lí vẫn còn ở mức thấp. Không khuyến khích và không phát triển được tầng lớp trung lưu, v.v…
Sau đây tôi xin giải thích một số vấn đề quan trọng nhất:
Vấn đề nghiêm trọng số 1: Không có sự phát triển đột biến trong tái cấu trúc kinh tế và xây dựng nền kinh tế hướng vào người tiêu dùng nội địa
Mặc dù hiện nay Trung Quốc có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, nhưng nó bị méo mó về cơ cấu và kém về chất lượng. Dễ bị tổn thương vì những dao động của môi trường kinh tế bên ngoài, mô hình phát triển hiện nay là trở ngại cho sự thịnh vượng trong dài hạn. Trung Quốc phải chuyển từ mô hình hiện nay, tức là mô hình tập trung vào đầu tư và xuất khẩu và tiêu thụ nhiều nguồn lực sang nền kinh tế kĩ thuật cao, hướng vào người tiêu thụ nội địa cũng như phải giải quyết vấn đề tái cân bằng nội tại của nền kinh tế. Nhưng, do bị những nhóm lợi ích, trong đó có chính quyền địa phương cản trở, chưa làm được bao nhiêu trong lĩnh vực này. Đặc biệt là, theo sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ưu tiên đã chuyển từ cải cách và tái cấu trúc sang giữ vững tốc độ phát triển.
Vấn đề nghiêm trọng số 2: Không khuyến khích và không phát triển được tầng lớp trung lưu
Lịch sử các nhà nước hiện đại cho thấy rằng tầng lớp trung lưu là nền tảng của thịnh vượng và ổn định xã hội. Nhưng phải tạo được một số điều kiện nhất định nhằm giúp tầng lớp trung lưu phát triển: tầng lớp trung lưu phải là trụ cột của cơ cấu giai cấp và chính phủ cần phải bảo đảm cho sự phát triển của tầng lớp trung lưu thông qua chính sách liên quan tới điều tiết thu nhập, nhà ở và an sinh xã hội. Trong thập kỉ gần đây, nhờ thu được lợi nhuận từ bùng nổ kinh tế, số người thuộc tầng lớp trung lưu đã gia tăng. Nhưng tốc độ phát triển lại thua xa tốc độ phát triển kinh tế nói chung, đấy là do không có cơ chế khuyến khích tầng lớp trung lưu. Nói về phân phối thu nhập, cải cách đã bị trì trệ, dẫn đến sự gia tăng chưa từng thấy khoảng cách giàu nghèo. Các gia đình có thu nhập thấp thậm chí còn khó tiến lên tầng lớp trung lưu hơn trước. Giá nhà quá cao xói mòn hết khả năng chi tiêu, làm cho họ không thể nào với tới được mức sống của tầng lớp trung lưu. Thị trường chứng khoán giảm giá, hút kiệt những khoản tiết kiệm của người dân, lại không cho họ nhận lãi suất. Đấy là những lĩnh vực đáng lẽ ra chính phủ phải làm tốt hơn.
Vấn đề nghiêm trọng số 3: Khoảng cách giữa nông thôn và thành thị gia tăng
Hệ thống hộ khẩu thường được dùng như là phương tiện chủ yếu nhằm kiềm chế việc di dân vào thành phố, nhất là việc di cư của những người nông dân. Trong thập kỉ vừa qua, mặc dù số người di cư gia tăng, hệ thống hộ khẩu tiếp tục cột người ta vào nơi công tác và có ảnh hưởng tới thuế thu nhập của các chính quyền địa phương cũng như tốc độ phát triển kinh tế địa phương vì vậy mà ít có sự khuyến khích cải cách. Một số thành phố đã nới lỏng mức độ kiểm soát, nhưng rào cản thì vẫn còn lớn và những người lao động di cư vẫn khó thích nghi với cuộc sống ở đô thị và khó nhận được chứng minh thư ở đô thị. Chậm trễ trong việc cải cách hệ thống hộ khẩu còn làm cho xung đột giữa nông thôn và đô thị thêm căng thẳng, làm trầm trọng thêm việc bán đất của chính phủ và những người nông dân không có ruộng đất rơi vào tình trạng tồi tệ hơn. Quyền lợi của người nông dân bị chà đạp, cơ cấu hai thành phần thị dân-nông dân chuyển hóa thành cơ cấu ba thành phần công nhân đô thị, công nhân nông thôn và nông dân.
Vấn đề nghiêm trọng số 4: Chính sách dân số không theo kịp hiện thực
Dân số đang già đi nhanh chóng. Sinh đẻ là quyền cơ bản của con người, nhưng trong thập kỉ vừa qua nhà nước vẫn tiếp tục chính sách một con cứng rắn. Chính sách này không chỉ đóng góp vào sự già hóa dân cư và suy giảm tỉ lệ người trẻ mà còn ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, giảm tiền trợ cấp cho người về hưu, làm cho nhiều gia đình chỉ có một con bị mất con càng đau khổ thêm, làm trầm trọng thêm sự mất cân đối tỉ lệ nam nữ ngay từ khi sinh, cũng như những vấn đề xã hội khác. Chính sách hạn chế sinh đẻ chà đạp lên quyền của rất nhiều người.
Vấn đề nghiệm trọng số 5: Quan liêu hóa và khuyến khích về mặt vật chất các cơ sở giáo dục và nghiên cứu khoa học chưa cho thấy có sự cải thiện và tiếp tục bóp nghẹt sáng kiến.
Giáo dục và nghiên cứu khoa học là nền tảng của quốc gia. Trong thập kỉ vừa qua, mặc dù có nhiều thành tích to lớn, người ta đã chú ý nhiều hơn tới số lượng, thay vì chất lượng. Ít nhà khoa học lớn xuất hiện, những kết quả độc đáo còn hiếm hoi. Tất cả những điều đó cản trở việc thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước sáng tạo. Việc quan liêu hóa hệ thống giáo dục càng tiến xa hơn. Triết lí giáo dục càng ngày càng hướng tới việc tìm kiếm lợi nhuận, còn các trường đại học và các viện nghiên cứu thì được đánh giá trên cơ sở số bài báo được công bố, điều đó đã gây thiệt hại về mặt tinh thần và khả năng đổi mới của người dân.
Vấn đề nghiêm trọng số 6: Ô nhiễm môi trường tiếp tục tồi tệ hơn
Không có cải thiện nào trong việc bảo vệ môi trường. “Phát triển kinh tế thô” thường phải trả giá đắt về mặt môi trường, đấy là giá người ta phải trả cho phát triển kinh tế. Trong thập kỉ vừa qua, nhiều dự án tiêu thụ nhiều năng lượng, gây ô nhiễm nặng, được khởi động; điều đó làm cho đất nước của chúng ta bị tổn thất nhiều thêm, chất lượng sống giảm sút hơn nữa. Sự thịnh vượng và đời sống bị nạn ô nhiễm đe dọa. Ngoài ra, xung đột và mâu thuẫn xảy ra thường xuyên hơn và gay gắt hơn, thử thách ngay chính quan niệm về xây dựng “nền văn minh sinh thái”.
Vấn đề nghiêm trọng số 7: Chính phủ không thiết lập được hệ thống cung cấp năng lượng ổn định
Mô hình phát triển kinh tế hiện nay của Trung Quốc chỉ đứng vững được nhờ có nhiều năng lượng mà thôi. Nguồn năng lượng dự trữ tính trên đầu người ở Trung Quốc rất thấp, việc cung cấp năng lượng phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu. Kết quả là, nếu Trung Quốc không giữ được nguồn cung cấp năng lượng ổn định và đa dạng thì sẽ phụ thuộc vào lòng tốt của các nước khác và kế hoạch dài hạn sẽ bị đe dọa. Trong thập kỉ vừa qua, mặc dù Trung Quốc đã tích cực tìm cách mở rộng thị trường ở nước ngoài và phát triển những công nghệ sản xuất năng lượng mới, nhưng nước này đã không xây dựng được mạng lưới cung cấp năng lượng ổn định hoặc không có sức mạnh quân sự cần thiết để bảo vệ cho mạng lưới đó, trong khi việc phát triển những công nghệ sản xuất năng lượng mới vẫn còn ở trong tình trạng sơ khai.
Vấn đề nghiêm trọng số 8: Suy thoái đạo đức và sụp đổ ý thức hệ. Chính phủ không xây dựng được một hệ thống giá trị có hiệu quả và có sức thuyết phục, được đa số dân chúng chấp nhận
Nếu xã hội không thể ngăn chặn được sự suy thoái của các tiêu chuẩn đạo đức, và nếu các thành viên của nó không bị kiềm chế bởi bất cứ tiêu chuẩn đạo đức nào, không có cảm thấy xấu hổ, không có mục đích sống nào khác ngoài lợi nhuận thì chẳng mấy chốc xã hội đó sẽ tụt xuống ngang với rừng rú. Trong thập kỉ vừa qua, trong khi kinh tế phát triển nhanh chóng thì đạo đức lại xuống dốc. Đấy cũng là lúc mà tiêu chuẩn đạo đức cũ đã suy sụp, hệ tư tưởng trong thời cách mạng phá sản, còn hệ thống đạo đức hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị trường và nền văn minh thương mại thì không lấp đầy được khoảng trống đó. Kết quả là không còn những nguyên tắc dẫn đạo cho xã hội nữa. Thương tổn đối với tinh thần của nhân dân và hậu quả của cuộc khủng hoảng niềm tin diễn ra một cách từ từ và khó thấy. Trong thập kỉ vừa qua xu hướng này hầu như vẫn giữ nguyên.
Vấn đề nghiêm trọng số 9: Phong cách ngoại giao theo lối “chữa cháy” và “giữ ổn định” thiếu tầm nhìn và tư duy chiến lược cũng như những biện pháp đặc biệt
Nhà nước không tận dụng được những cơ hội diễn ra cùng với sự dịch chuyển trong trật tự quốc tế. Trung Quốc tự xếp mình vào vị trí thụ động. Trong thập kì vừa qua, mặc dù Trung Quốc đã giành được sức mạnh khi nước này tham gia giải quyết những vấn đề quốc tế và đưa ra một bộ nguyên tắc và mục tiêu liên quan tới trật tự thế giới, nhưng lại không biến được tiềm năng thành hiện thực. Nguyên do là nền ngoại giao Trung Quốc chỉ có những nguyên tắc và mục tiêu, nhưng lại không có khả năng lập kế hoạch chiến lược và đưa ra chương trình nghị sự, hay đúng ra là không có đủ ý chí để thực hiện chúng. Theo thuật ngữ của nguyên tắc ngoại giao thì đấy là nhà nước không có khả năng điều chỉnh công tác đối ngoại cho phù hợp với những thay đổi trong tình hình quốc tế và sức mạnh của chính Trung Quốc. Thay vì thế, lại tự giới hạn trong triết lí [của Đặng Tiểu Bình] “Ẩn mình chờ thời”. Kết quả là nền ngoại giao Trung Quốc không thể hiện được sức mạnh đã gia tăng của nó, điều đó được thể hiện trong phong cách ngoại giao “chữa cháy” và “giữ ổn định” trong khi giải quyết những vấn đề quốc tế. Điều đó làm xấu đi địa vị quốc tế của Trung Quốc và xói mòn niềm tin của nhân dân Trung Quốc.
Vấn đề nghiêm trọng số 10: Không cố gắng thúc đẩy cải cách chính trị và khuyến khích chế độ dân chủ
Phải đi một con đường dài trước khi đến được lí tưởng là trao quyền lực về cho nhân dân. Đây là vấn đề lớn nhất và thách thức nhất. Từ kinh nghiệm hiện đại hóa của các nước khác, có thể thấy rõ ràng là vấn đề không thể giải quyết một lần là xong. Phải thực hiện một cách có phương pháp và với sự thận trọng. Nhưng, ít nhất, nhà nước cũng phải có một số hành động chứng tỏ rằng Đảng chân thành trong những cố gắng nhằm tạo niềm hi vọng cho nhân dân, chứ không phải là lưỡng lự trước những khó khăn. Trong thập kỉ vừa qua, mặc dù chính quyền Hồ-Ôn nhấn mạnh đến dân chủ, tự do, pháp quyền và cải cách chính trị, nhưng chưa có mấy tiến bộ trong lĩnh vực dân chủ hóa. Trên thực tế, giải pháp cho tất cả những vấn đề này nằm trong cải cách hệ thống chính trị, và mức độ sâu sắc của cải cách chính trị. Cho nên chính phủ phải dũng cảm và tiến những bước vững chắc nhằm thực hiện công cuộc cải cách chính trị và dân chủ ở Trung Quốc.
Một thời đại đang sắp cáo chung và một thời đại mới đang bắt đầu. Vì những lí do khác nhau, Hồ và Ôn đã không thực hiện được những tiến bộ tích cực trong những lĩnh vực vừa nói bên trên. Cách thức giải quyết những vấn đề này của những người kế tục họ sẽ quyết định liệu Trung Quốc có phát triển một cách hòa bình cũng như tốc độ phát triển của nó và thậm chí có tiếp tục phát triển được hay không.
Chúng ta cảm thấy khủng hoảng là vì lí do đó.
Nguồn: Dịch theo bản tiếng Anh trên tạp chí The China Story ngày 8-9-2012
Bản tiếng Việt © 2012 Phạm Nguyên Trường & pro&contra
[1] China Story Yearbook 2012: Red Rising, Red Eclipse
[2] Ý nói Mao – Người dịch
Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2012
Phạm Nguyên Trường dịch - Đừng say bằng rượu rẻ tiền
Murakami Haruki
Phạm Nguyên Trường dịch
Sách của Mạc Ngôn chắc chắn bán chạy hơn ở Nhật sau khi ông giành Giải Nobel Văn chương năm nay. Nhưng nếu một ứng viên sáng giá khác, nhà văn Nhật Murakami Haruki, trúng giải, điều tương tự sẽ không xảy ra tại Trung Quốc. Trong bối cảnh của vụ xung đột Trung – Nhật liên quan đến chủ quyền tại Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) và Takeshima (Độc Đảo), người Trung Quốc rầm rộ biểu tình chống Nhật, nói “Không” với hàng Nhật và tẩy chay cả văn hóa, nghệ thuật Nhật. Phim Hồng Kông rút khỏi một Liên hoan phim Quốc tế tại Tokyo. Sách của Murakami bị loại khỏi các nhà sách ở Đại lục. Ông Lâm Thiểu Hoa (林少华), người đã dịch 33 tác phẩm của Murakami sang tiếng Trung và góp phần không nhỏ làm nên danh tiếng của nhà văn này tại Trung Quốc, tuyên bố trên trang Vi Bác (Weibo) của mình rằng ông ủng hộ việc đình chỉ lưu hành tác phẩm của nhà văn Nhật, và tuy điều đó ảnh hưởng đến sở thích văn học của cá nhân ông, nhưng lợi ích dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Chủ nghĩa dân tộc, mẫu số chung của những người Trung Quốc khác nhau nhất, dường như là một đại lượng tinh thần tuyệt đối không cần bàn cãi.
Đối lại với không khí cuồng nộ đó, 1300 văn nghệ sĩ và trí thức Nhật Bản, trong đó có văn hào Ōe Kenzaburo, Giải Nobel Văn chương 1994, đã lên tiếng kêu gọi cả hai bên tự kiềm chế. Trong bài tiểu luận đăng trên tờ Asahi Shimbun ngày 28-9-2012, nhà văn Murakami Haruki đã trực tiếp phát biểu về chủ đề gay cấn này.
Xung đột biển đảo Việt – Trung nằm trong một bối cảnh khác xung đột Trung – Nhật, không những về lịch sử mà trước hết về những ràng buộc chính trị hiện tại. Nhưng quan điểm và thái độ của Murakami rất đáng cho những người Việt quan tâm suy ngẫm.
Phạm Thị Hoài
Giữa thời điểm những cuộc biểu tình liên quan đến xung đột ở Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) đang diễn ra một cách dữ dội và căng thẳng thì tin tức về việc các tác phẩm Nhật Bản đang bị loại khỏi các nhà sách Trung Quốc làm người viết bài này cảm thấy sửng sốt. Tuy nhiên, hiện nay còn chưa rõ hành động này là một phần của chính sách cấm vận do chính phủ Trung Quốc đưa ra hay do các nhà sách tự ý tiến hành. Vì thế tạm thời tôi sẽ không đưa ra ý kiến của mình về vấn đề này.
![]() |
Nhà văn Nhật Murakami Haruki (Nobuyoshi Araki for The New York Times) |
Trung thành với những giá trị và luật lệ được mọi người chia sẻ, hiện nay chúng ta có thể hoạt động mà không ăn cắp bản quyền đến mức làm người ta phải kinh ngạc như đã từng xảy ra trước đây (hay ít nhất cũng đã giảm được ảnh hưởng của nó!). Khái niệm trả bản quyền và “ứng trước” cho công việc sáng tạo đã được mọi người ở châu Á công nhận, và ở nước nào chúng ta cũng có thể tự do trao đổi theo lối tiền-hàng một cách hợp pháp và công bằng.
Từ kinh nghiệm của tôi trong lĩnh vực này mà nói, đấy là một đoạn đường dài và phải mất khá nhiều thời gian chúng ta mới đến được vị trí như ngày nay. “Thị trường Đông Á”, như chúng ta gọi hiện nay, đã trải qua giai đoạn thụ thai, thai nghén và trưởng thành khá dài. Không muốn đổ thêm dầu vào lửa (có nguy cơ gây thêm khó chịu, trong khi căng thẳng đã quá cao rồi!) tôi sẽ tránh nhắc tới những ví dụ quá cụ thể, nhưng cái thị trường mà chúng ta, những người Đông Á, đang cùng nhau sống trong đó, là một thực thể hoàn toàn khác so với hai mươi năm trước đây và đã được cải thiện khá nhiều. Nó đã ổn định hơn rất nhiều. Vẫn còn một số vấn đề nhỏ, nhưng hầu như mọi người đều có thể xem, đọc hầu hết các bộ phim, tác phẩm văn học, nhạc và chương trình truyền hình một cách tự do và hợp pháp.
Đấy đúng là một thành tựu tuyệt vời mà chúng ta đã đạt được cho chính mình.
Xin lấy mức độ phổ biến không thể tin nổi của các chương trình truyền hình Hàn Quốc làm ví dụ, thông qua phương tiện thông tin đại chúng này, người dân Nhật Bản càng ngày càng trở nên quen thuộc với dân tộc lân bang và thái độ đối với đất nước đó cũng thay đổi rất nhiều; nói ngắn, Hàn Quốc không còn quá xa lạ như trước đây nữa. Hơn thế nữa, nhờ tình cảm thân mật mới hình thành với đất nước này mà trong thời gian gần đây số người Nhật học tiếng Hàn cũng gia tăng vùn vụt. Trong khi đó, người Hàn Quốc cũng quen dần với cách suy nghĩ của chúng ta và hiện nay họ cũng có nhiều cơ hội tiếp xúc với nhiều hình thức của văn hóa và phương tiện truyền thông Nhật Bản hơn là trước đây.
Trong thời gian làm việc ở một trường đại học Mĩ, tôi được gặp nhiều sinh viên Trung Quốc và Hàn Quốc, nhiều người trong số họ nói rằng đã làm quen với tác phẩm của tôi. Những thanh niên này thường đến văn phòng của tôi, và nhờ những trải nghiệm mà chúng tôi cùng chia sẻ trong lĩnh vực văn học, chưa lần nào chúng tôi phải đánh nhau để thảo luận. Bất chấp những đường biên giới quốc gia và rào cản ngôn ngữ, vẫn có tình bằng hữu và sự tin cậy.
Việc thiết lập được môi trường văn hóa tự do giao lưu như thế ở châu Á là kết quả của nhiều năm hay công sức của biết bao nhiêu người, trong đó có tôi, những người đã dành hết trái tim và khối óc của mình cho công việc sáng tạo. Mặc dù có nhiều việc chưa thể làm, tôi vẫn kiên trì. Sau khi đã có những thành quả như thế – tạo ra môi trường, trong đó văn hóa và tư tưởng có thể được trao đổi một cách tự do – cùng với sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, tôi tin rằng những vấn đề xảy ra gần đây giữa các nước chúng ta sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng.
Muốn chia sẻ và cảm nhận văn hóa của nhau, đầu tiên và quan trọng nhất là chúng ta phải công nhận sự kiện là tất cả chúng ta đều là con người. Và dù nói bằng ngôn ngữ nào đi nữa, tất cả chúng ta đều trải nghiệm và được thúc đẩy bởi cùng những tình cảm như nhau. Những tình cảm đó là cái tạo ra và định hình chính chúng ta. Mục tiêu của chúng ta – thông qua trao đổi văn hóa – là thúc đẩy khái niệm này. Việc trao đổi giữa những nền văn hóa của chúng ta cũng giống như gửi tâm hồn của chúng ta qua biên giới và biển cả để người dân các quốc gia khác có thể trải nghiệm và tìm hiểu văn hóa của chúng ta, cũng như chúng ta có thể tìm hiểu văn hóa của họ vậy.
Là một người Nhật, đồng thời cũng là một nhà văn, tôi sợ rằng những tranh cãi gần đây về quần đảo Điếu Ngư và thậm chí những rắc rối liên quan tới Quần đảo Takeshima (Độc Đảo), sẽ phá hủy cái thế giới văn hóa mà tất cả chúng ta phải vất vả bao nhiêu năm trời mới tạo dựng được, và sẽ đào tung cái con đường mà chúng ta đã xây dần dần, bằng từng viên gạch một.
Đáng tiếc là, trong khi cái gọi là biên giới quốc gia vẫn còn tồn tại, những vấn đề và những cuộc tranh chấp về lãnh thổ và quyền sở hữu có lẽ là không thể tránh khỏi. Đấy là những vấn đề thực tế mà chúng ta phải đối mặt. Những vấn đề đó đòi hỏi và phải được giải quyết bằng những giải pháp thực tế và không bao giờ được nghĩ khác. Khi những vấn đề như thế xuất hiện, bản chất của vấn đề rất dễ bị bỏ qua và niềm tự hào dân tộc thường bị dính líu vào. Những vết thương cũ dễ bị moi ra và tình cảm bị tổn thương, nhưng nếu những luận cứ như thế được đưa ra thì chúng ta sẽ thấy mình đã lạc vào khu vực nguy hiểm, không dễ tìm được đường ra.
Những tranh cãi được bơm bằng nộ khí kiểu này có khác gì say bằng những loại rượu rẻ tiền – chúng ta sẽ bị ngộ độc rất nhanh, giọng của chúng ta sẽ to lên, còn ngôn ngữ thì khó nghe hơn. Hành vi của chúng ta có thể trở thành bạo lực, còn tư duy của chúng ta, mặc dù thường là bình tĩnh và đầy lí trí, trở thành đơn giản và chỉ còn dựa vào bản năng thấp hèn mà thôi. Chúng ta bắt đầu tập trung vào những tình cảm và ước muốn thầm kín nhất, lặp đi lặp lại chính mình và không còn chỗ cho tư duy logic nữa.
Nhưng khi những vụ nổi loạn chấm dứt và tiếng hò hét lặng đi thì còn lại với chúng ta chỉ là cơn liệt rượu hoành hành.
Chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ mình, không để các chính khách kích động. Chúng ta cũng phải cảnh giác như thế khi gặp những anh chàng cứ muốn chuốc cho chúng ta những loại rượu rẻ tiền, những kẻ luôn mồm hò hét và khuyến khích chúng ta làm những việc như họ, chúng ta phải giữ vững lí trí và không để người khác kích động. Trong suốt những chiến dịch trong những năm 1930, trong khi tranh luận về kết quả cuối cùng, Adolf Hitler, mang theo thông điệp rằng cơ sở hành động của đảng của ông ta là giành lại những vùng lãnh thổ đã mất trong Thế chiến I và trở lại với địa vị vinh quang, xứng đáng trước kia. Và tất cả chúng ta đã biết kết cục của chuyện đó như thế nào… Cuộc tranh cãi hiện nay về Quần đảo Senkaku phải được tiến hành một cách bình tĩnh và bằng một cái đầu sáng suốt, chúng ta phải xem xét một cách thận trọng mình đã rơi vào tình huống này như thế nào, vì sao mà chúng ta đã để cho tình hình trở thành không kiểm soát được như thế.
Các viên chức chính phủ và những nhà bình luận chính trị rất có tài trong việc đưa ra những bài diễn văn có tính chất xúi giục và cảm động, những lời bình luận đánh trúng vào tình cảm của nhân dân, nhưng trên thực tế, họ không bao giờ phải chịu rủi ro. Chính chúng ta, chính nhân dân mới là những người phải đi vào những nơi có xung đột và cuối cùng là phải chịu đau khổ.
Trong cuốn tiểu thuyết Biên niên kí chim vặn dây cót của tôi, tôi đã dựa vào những sự kiện có thật trong thời kì Nhật chiếm đóng Mãn Châu trong Thế chiến II. Những trận đánh ở đây, dù tương đối ngắn nhưng rất tàn bạo, đã làm chết hơn 20 ngàn người Nhật, người Nga và người Mông Cổ. Tất cả chỉ vì biên giới và lãnh thổ.
Sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết, tôi đã đến những khu vực xảy ra chiến trận để tự mình nhìn thấy vùng đất đó. Đứng giữa hoang mạc cằn cỗi và rộng lớn đó, nơi vẫn còn vương vãi vỏ đạn, thùng đựng đạn dược và đồ dùng của binh sĩ, tôi cảm thấy mình thật là yếu đuối. Một ý nghĩ cứ trở đi trở lại trong tâm trí tôi: “Vì sao lại có nhiều người đến cái vùng đất hoang vu, chẳng có gì như thế này và giết nhau một cách vô tâm đến như thế?”
Như tôi đã nói ngay từ đầu bài viết, tôi không định bình luận về việc sách Nhật bị loại khỏi các nhà sách ở Trung Quốc. Đấy là vấn đề mà người Trung Quốc phải tự giải quyết, và sẽ là như vậy cho đến khi mọi chuyện kết thúc. Nhưng là một nhà văn, dĩ nhiên là tôi cảm thấy rất buồn, nhưng tôi chẳng thể làm được gì. Điều tôi có thể nói là tôi xin mỗi người trong các bạn hãy tự kiềm chế, và đừng tham gia vào bất kì hành động trả đũa nào. Ngay khi chúng ta trả đũa hay chuẩn bị có hành động như thế là chúng ta tự làm hại chính mình. Khi chúng ta hành động một cách vội vã là chúng ta gây ra vấn đề cho chính mình và chính chúng ta sẽ phải giải quyết hậu quả.
Nhưng nếu chúng ta tỏ ra kiềm chế và thể hiện một cách điềm tĩnh rằng chúng ta đánh giá cao, chúng ta tôn trọng và tiếp tục yêu mến những gì chúng ta đã đạt được sau nhiều năm lao động cần cù thì chắc chắn là cuối cùng chúng ta sẽ được tưởng thưởng. Điều này, thưa các quý bà và quý ông, là hoàn toàn trái ngược với say bằng loại rượu rẻ tiền.
Say xỉn vẫn xảy ra. Nhưng chúng ta không được ngăn chặn việc trao đổi tâm hồn, tức là giao lưu văn hóa. Chúng ta không được phá hủy những con đường mà biết bao người đã bỏ nhiều công sức mới xây dựng được. Từ nay trở đi, dù có bị thương tổn đến mức nào, chúng ta cũng phải tìm cách giữ lấy con đường này và tiếp tục để cho nó mãi phong quang.
Nguồn: Dịch theo bản tiếng Anh của Philip Kendall
Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra
Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2012
Dương Kế Thằng – Nền chính trị hại dân của Mao trong thời kì Đại Nhảy vọt ở Trung Quốc: Lời nói đầu cho cuốn “Bia mộ” (3)
Bùi Xuân Bách,
Phạm Nguyên Trường,
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Trong hệ thống cực quyền, những nấc thang bên trên có đặc điểm là quyền lực tập trung vào tay chỉ một số người, điều đó không chỉ tước đoạt quyền của người dân mà còn biến các quan chức cấp cao của chính phủ trung ương thành những người thừa hành của một lãnh tụ tối cao. Những nấc thang thấp lại mang đặc điểm là nô bộc tuyệt đối. Từ đỉnh xuống đáy, hoàn toàn không có sự độc lập về tính cách và tư duy, tất cả đều phải ngoan ngoãn quy phục những kẻ có quyền trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng áp dụng cơ cấu quyền lực theo kiểu kim tự tháp như Tần Thủy Hoàng vậy. Trên đỉnh tháp chỉ có một nhúm người, đấy là Ban Thường vụ Bộ Chính trị Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, mà Mao Trạch Đông chính là đầu não. Mao có quyền quyết định tất cả mọi vấn đề, trên thực tế, ông ta có địa vị rất giống với địa vị của một hoàng đế. Ngoài chức vụ là người lãnh đạo Đảng và đứng đầu nhà nước, ông ta còn là Chủ tịch Quân ủy Trung ương, điều đó tạo điều kiện cho ông ta kiểm soát lực lượng vũ trang và có quyền lực cực kì lớn. Những người khác trên đỉnh kim tự tháp quyền lực kính trọng và sợ Mao và thường xuyên lo lắng làm sao giữ được chức vụ của mình. Thế là, chế độ chuyên chính vô sản của Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành chế độ chuyên chính của cá nhân Mao Trạch Đông.
Mặc dù về danh nghĩa Mao Trạch Đông là người lãnh đạo nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhưng trên thực tế ông ta chính là vị hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc, mà lại là vị hoàng đế quyền lực nhất trong số những vị hoàng đế đã từng cai trị Trung Quốc. Trong thời kì ở Diên An, đã có lần Mao hỏi người phiên dịch tiếng Nga của mình là Sư Triết (師哲) về sự khác nhau giữa Tổng thống và Hoàng đế. Sư Triết trình bày một cách có hệ thống, trên cơ sở kiến thức chính trị của ông, nhưng Mao cười lớn và nói: “Trên thực tế, cũng chỉ là một thôi!”. Năm 1951, người ta đã trình Mao danh sách những khẩu hiệu chào mừng ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5 để ông ta phê duyệt, ông ta tự mình thêm vào câu: “Mao Chủ tịch muôn năm!” Rõ ràng là ông ta đã tự coi mình là một hoàng đế rồi.
Năm 1955, theo mong muốn của Mao, chính sách kinh tế chuyển sang “tiến nhanh” được thể hiện bằng chỉ tiêu sản lượng cao với tốc độ lớn, kết quả là tạo ra áp lực chung trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Việc thu mua quá nhiều ngũ cốc đã làm nhiều nông dân chết đói ngay từ năm 1956. Chu Ân Lai, Trần Vân và những người khác ban đầu không có ý định chống lại Mao, nhưng do những yêu cầu của thực tiễn công tác, họ đã áp dụng những biện pháp sửa sai nhằm “chống lại sự nóng vội trong phát triển kinh tế” (gọi là “phản mạo tiến” – 反冒進). Mao nổi đóa, Chu Ân Lai suýt bị mất chức. Năm 1958, khi Mao trở nên cuồng tín, những quan chức khác đã theo đuôi ông ta và chỉ mãi đến cuối năm 1958, đầu năm 1959, sau khi xảy ra những hậu quả cực kì trầm trọng họ mới chịu áp dụng những biện pháp sửa sai. Tuy nhiên, khi bị Bành Đức Hoài phê bình ở hội nghị Lư Sơn, Mao lập tức quay ra chống lại Bành; ông ta không những bác bỏ những biện pháp sửa sai mà còn tăng cường thúc đẩy những chính sách sai lầm của năm 1958. Kết quả là những chính sách đã từng làm nhiều nông dân chết đói tiếp tục kéo dài thêm ba năm nữa.
Trong thời gian đó, cả nước chỉ có một nhà tư tưởng, một người có thẩm quyền về mặt lý luận, đấy chính là Mao Trạch Đông. Tư tưởng của Mao là hệ tư tưởng lãnh đạo cả nước và toàn thể nhân dân. Là người nắm được quyền lực tối thượng cả về chính trị lẫn quân sự, đồng thời là “ánh sáng” tư tưởng, Mao là hiện thân của nền chính trị thần quyền thế tục, hợp nhất trung tâm của quyền lực với trung tâm của chân lí. Mọi ý kiến bất đồng đều bị coi là tà đạo, còn nói gì đến hi vọng có đảng đối lập. Người dân không chỉ không dám phê phán chính sách của nhà nước, mà nếu có sự bất mãn ở trong đầu thì nỗi khiếp sợ cũng làm họ kìm nén ngay thái độ phê phán trước khi nó phát ra ở đầu môi. Sự “thống nhất” về mặt tư tưởng diễn ra như thế đấy, “tất cả mọi người cùng cười, khóc và chửi bới cùng một giọng”.[i]
Sự sợ hãi và dối trá do chế độ toàn trị gây ra còn là những điều kiện căn bản để hệ thống có thể tiếp tục hoạt động. Sợ hãi gây ra dối trá. Chính phủ có quyền trừng phạt và tước đoạt của người ta bất cứ thứ gì. Trừng phạt và tước đoạt gây ra sợ hãi. Người càng có nhiều thì càng sợ nhiều vì trừng phạt sẽ làm cho anh ta mất mát nhiều hơn. Quan chức và trí thức có nhiều hơn người dân thường và kết quả là họ thậm chí còn sợ hãi hơn và thể hiện “lòng trung thành” với hệ thống hơn. Nhằm thỏa mãn và tự vệ, họ tham gia vào cuộc ganh đua một mất một còn về khả năng nói dối và giả vờ tin vào những điều dối trá. Những phát biểu của các quan chức, các ngành khoa học xã hội, nghệ thuật, phương tiện truyền thông đại chúng, trường học, thậm chí khẩu hiệu dán trên mọi bức tường, tạo ra và truyền bá những điều dối trá từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, tiếp tục lừa dối và nô dịch quần chúng nhân dân.
Cơ cấu tổ chức giống hệt nhau như thế thịnh hành trên tất cả các địa phương của Trung Quốc và cùng thực hiện những chính sách rập khuôn. Mỗi người đều sống trong một tổ chức do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, cùng hô những khẩu hiệu như nhau, cùng sử dụng những câu cửa miệng về chính trị như nhau, cùng tham gia những hội nghị có nội dung như nhau vào cùng một thời điểm giống nhau. Sự đồng nhất hóa của xã hội Trung Quốc có nghĩa là bất cứ thảm họa nào do chính sách sai lầm gây ra cũng có thể ảnh hưởng tới cả nước, và không nạn nhân nào có thể thoát được. Trong những chương sau độc giả sẽ thấy những hoàn cảnh tương tự tại những tỉnh cách xa nhau cả ngàn dặm, đấy là kết quả không thể tránh khỏi của chính sách đồng nhất hóa về mặt chính trị.
Trong cái kim tự tháp quyền lực này, các quan chức ở mọi tầng nấc đều là nô lệ của tầng trên và tìm mọi cách nịnh hót họ bằng mọi phương tiện sẵn có, đồng thời lại hành động như những ông chủ chuyên chế đối với tầng dưới. Vì tất cả đều muốn tiến lên nấc thang cao hơn, nhưng nỗi sợ mất vị trí hiện thời của họ, dù là nô lệ, còn lớn hơn nữa. Họ tin tưởng một cách mù quáng vào lãnh đạo, sùng bái quyền lực, ngả theo những xu hướng đang giữ thế thượng phong và cam chịu mọi thứ xảy ra với mình. Quyền lực càng tập trung thì đấu đá trong nội bộ càng mạnh. Đấu đá càng mạnh thì Mao Trạch Đông càng sợ mối đe dọa của những người xung quanh ông ta và những vụ thanh trừng của ông ta lại càng dữ dội hơn. Trong cuộc tranh giành quyền lực khốc liệt và tàn nhẫn này người ta sẵn sàng nói dối và bán đứng đồng đội nhằm thăng tiến và bảo vệ chính mình.
Trong quá trình quản lí, ý của cấp trên ở mỗi nấc tiếp theo lại được nâng dần lên, tiếng nói của cấp dưới càng lên cao càng bị đè nén thêm. Càng lên cao sai lầm của cấp trên càng bị buông lỏng cho nên hậu quả của chúng cũng tai hại hơn. Tình hình thực tế ở cấp thấp nhất lại được những tầng nấc bên trên che đậy, mỗi tầng phủ lên thêm một lớp, kết quả là những người lập chính sách cấp cao hoàn toàn không nắm được sự thật. Bằng cách đó, những chính sách sai lầm bị gia tăng bởi cả ý kiến phản hồi tích cực và tiêu cực và chỉ bị phát hiện khi thảm họa đã xảy ra. Việc sửa chữa những sai lầm này lại không được làm gây phương hại tới uy tín của lãnh tụ, cho nên sửa sai không bao giờ đạt được hiệu quả mong muốn. Nông dân là người gánh chịu tai họa.
Trong hệ thống phong kiến trước đây, người dân có quyền im lặng. Hệ thống toàn trị tước đoạt cả quyền đó. Trong hết phong trào chính trị này đến phong trào chính trị khác, trong những cuộc họp và hội nghị đủ mọi cấp và mọi kích cỡ, mỗi người buộc phải “thể hiện quan điểm”, “trình bày suy nghĩ” và “trải lòng ra” với Đảng. Mỗi người phải mở toang những chỗ thầm kín nhất trong lòng mình cho Đảng kiểm tra. “Trình bày quan điểm” trong tình hình chính trị căng thẳng buộc người ta phản bội lại chính lương tâm của mình và đánh mất khả năng kiểm soát đối với phần còn lại cuối cùng trong tâm hồn mình. Sự tự hạ nhục được lặp đi lặp lại như thế đã đưa người ta đến việc chà đạp liên tục lên những thứ mà họ coi trọng nhất và tâng bốc những thứ mà trước đây họ khinh bỉ nhất. Bằng cách đó, hệ thống toàn trị đã tạo ra sự thoái hóa đặc tính dân tộc của người Trung Quốc. Tình trạng điên rồ và sự tàn nhẫn mà người dân thể hiện trong “Đại nhảy vọt” và “Đại Cách mạng Văn hóa” là kết quả của sự thoái hóa đó và cũng là “thành tựu” vĩ đại của hệ thống toàn trị.
Chế độ không coi cái giá phải trả hoặc áp bức là quá lớn trong khi thực hiện những lí tưởng cộng sản, mục tiêu tối cao của toàn dân. Nông dân chịu gánh nặng chủ yếu của quá trình thực hiện những lí tưởng này: họ gánh trên vai chi phí của công nghiệp hóa, tập thể hóa, bao cấp cho các thành phố và thói xa xỉ của các cán bộ trên mọi tầng nấc.
Phần lớn cái giá này được áp đặt thông qua sự độc quyền mua và bán của nhà nước. Nông dân phải bán sản phẩm của mình cho chính phủ với giá không thể bù đắp được chi phí sản xuất. Ngũ cốc do nông dân sản xuất trước hết và trên hết là để đáp ứng nhu cầu của dân thành thị đang gia tăng một cách nhanh chóng. Việc hệ thống này sử dụng những biện pháp hành chính nhằm áp đặt bằng bạo lực quá trình công nghiệp hóa đòi hỏi sự gia tăng nhanh chóng dân cư trong thành phố và sản phẩm nông nghiệp dành cho xuất khẩu để đổi lấy máy móc. Vì vậy mà không thể để nông dân ăn no được và thu mua chính là ăn cướp ngũ cốc của nông dân. Lưu Thiếu Kỳ đã có lần công nhận một cách thẳng thắn như sau:
"Hiện nay có mâu thuẫn giữa số lượng ngũ cốc mà nhà nước cần với số lượng ngũ cốc mà nông dân muốn bán, và đây là mâu thuẫn cực kì nghiêm trọng. Nông dân muốn bán cho nhà nước số ngũ cốc dư thừa sau khi họ đã được ăn no. Nếu chính phủ chỉ thu mua sau khi nông dân đã ăn no thì những người khác sẽ không đủ ăn: đấy là công nhân, giáo viên, các nhà khoa học và những người thành thị khác. Nếu những người này không đủ ăn thì sẽ không thể công nghiệp hóa được và sẽ phải giảm bớt quân đội đi, không thể xây dựng nền quốc phòng được".[ii]
Lưu Thiếu Kỳ nói đúng, và điều đó chứng tỏ rằng trong hệ thống này, chính phủ không muốn cho nông dân ăn no. Sự thiếu hụt ngũ cốc sau khi nông dân đã bán “phần thặng dư” của họ cho chính phủ là một trong những nguyên nhân làm nhiều người chết đói đến như thế.
Trong khi ở thành phố tiến hành quốc hữu hóa thì ở nông thôn tiến hành tập thể hóa. Tài liệu chính thức gọi đây là “phong trào hợp tác hóa nông nghiệp”. Trên thực tế “hợp tác” và “tập thể” là hai thứ khác nhau. Hợp tác được xây dựng trên cơ sở lợi ích cá nhân, còn tập thể thì tước đoạt lợi ích của người ta. Hợp tác là các bên cùng có lợi và giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở sở hữu tư nhân, còn tập thể thì xóa bỏ sở hữu tư nhân vì lợi ích của sở hữu công cộng. Trung Quốc tiến hành không phải là phong trào hợp tác hóa mà là tập thể hóa. Tập thể hóa nông nghiệp đã tước đoạt các quyền và lợi ích của nông dân. Cơ sở kinh tế cho việc thiết lập chế độ toàn trị là phủ nhận quyền sở hữu tư nhân và phủ nhận lợi ích cá nhân. Không có phong trào tập thể hóa nông nghiệp thì hệ thống toàn trị không thể tồn tại được ở Trung Quốc.
Tập thể hóa nông nghiệp đưa vào tập thể tất cả các phương tiện sản xuất. Nông dân và cán bộ đội sản xuất không có quyền quyết định trồng cây gì, diện tích trồng là bao nhiêu và bằng phương tiện gì. Trong quá trình hợp tác hóa, nông dân được giữ lại một ít đất, đủ để trồng rau cho gia đình sử dụng, nhưng vào năm 1958 mảnh đất nhỏ này cũng bị tập thể hóa nốt. Tất cả sản phẩm nông nghiệp, trong đó có lương thực thực phẩm, bông và dầu ăn đều bị nhà nước mua hết. Đảng ủy và chính quyền cấp trên của xã quyết định mỗi người nông dân được sử dụng bao nhiêu ngũ cốc và loại ngũ cốc nào. Buổi sáng dân làng tập trung lại để nghe lãnh đạo đội phân công lao động, họ làm việc cùng nhau dưới sự lãnh đạo của đội trưởng.
Khi độc quyền của nhà nước trong việc mua và bán đã trở thành hiện thực thì tất cả các mặt hàng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của cả dân thành thị lẫn nông thôn đều được cung cấp qua hệ thống tem phiếu của nhà nước. Những tờ tem phiếu này chỉ được đổi lấy hàng hóa tại khu vực mà người sở hữu đăng kí hộ khẩu mà thôi. Hệ thống đăng kí hộ khẩu rất chặt chẽ, muốn rời khỏi khu vực, dù trong một thời gian ngắn, cũng phải có giấy thông hành do chính quyền địa phương cấp, lại phải mang theo tem lương thực, phiếu dầu ăn cùng các loại tem phiếu khác. Khi đến nơi còn phải trình giấy tờ cho công an địa phương để đăng kí thì mới được ở và được sử dụng tem phiếu để mua lương thực và dầu ăn. Tem phiếu có hai loại: tỉnh và toàn quốc. Tem phiếu toàn quốc được sử dụng bên ngoài tỉnh mà người đó cư trú, muốn nhận loại tem này thì phải trình giấy thông hành do Sở/Ty Công an tỉnh cấp.
Ngoài nông nghiệp, nông dân không được làm bất cứ việc gì khác, muốn rời khỏi làng phải được phép của đội trưởng sản xuất. Như vậy là, công việc và đời sống của người nông dân bị chính quyền giới hạn chặt chẽ trong khuôn khổ. Nhu yếu phẩm thì được tập thể (Công xã Nhân dân), nằm dưới sự quản lí chặt chẽ của chính quyền, cung cấp. Nếu xảy ra sai lầm trong chính sách làm cho tập thể không thể cung cấp được những món hàng nhu yếu phẩm này thì người nông dân bị trói chân trói tay, chỉ có chết, không có lối thoát nào khác.
Công xã Nhân dân là từ hợp tác xã nông nghiệp mà ra, đây là chế độ toàn trị đã phát triển trên một tầng cao mới. Sự hợp nhất của bộ máy quản lí chính quyền và quản lí làng xã trong các Công xã Nhân dân tạo ra bộ máy quản lí hành chính cơ sở của nhà nước và xã hội dựa trên sự hợp nhất về mặt xã hội. Quá trình này không chỉ hợp nhất bộ máy quản lí nhà nước với bộ máy quản lí sản xuất mà còn làm cho tất cả các hoạt động kinh tế đều phụ thuộc vào mục tiêu chính trị, làm cho tất cả tài sản đều nằm dưới quyền kiểm soát của quan chức nhà nước và đem cơ cấu tổ chức của chính phủ thay thế cho gia đình, tôn giáo và tất cả những hình thức tổ chức xã hội khác.
Khi các Công xã Nhân dân vừa được thành lập, người ta đã áp dụng hệ thống phân phối liên kết việc cung cấp và hệ thống tem phiếu với tiền lương. Hệ thống tem phiếu là phương tiện “cung cấp” cho người dân thường, thông qua các quan chức tất cả các cấp, những món nhu yếu phẩm mà họ cần dùng mỗi ngày. Đây là điều kiện để các quan chức kiểm soát không chỉ tài sản của công xã mà thông qua nhu yếu phẩm, họ còn kiểm soát cả các thành viên của công xã nữa. Nếu các quan chức không “cung cấp” thì thành viên công xã không thể nào sống được. Vì chính phủ không có đủ lượng hàng hóa cung cấp cho nên hệ thống tem phiếu chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Nhưng nó đã gây ra lãng phí khủng khiếp, đặc biệt là về lương thực thực phẩm.
Trong năm 1958 có một giai đoạn khi bộ đội được đưa về sống cùng với dân, gọi là quân sự hóa tổ chức, áp dụng chiến thuật tác chiến vào sản xuất và tập thể hóa đời sống hàng ngày. Công việc của cả đàn ông lẫn đàn bà trong Công xã Nhân dân được tổ chức song song với luyện tập quân sự như là cách kết hợp hoạt động quân sự. Thông qua những dự án lớn như “Sản xuất thép đại trà”, “Đại thủy nông” và “Sản xuất nông nghiệp đại trà”, các quan chức sắp xếp, tập trung và chỉ huy nông dân theo lối nhà binh.
Nhà ăn tập thể và nhà trẻ biến cách sống truyền thống với gia đình là đơn vị thành cách sống tập thể với đội sản xuất là đơn vị. Mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ gia đình. Sau khi chức năng kinh tế của gia đình, như một đơn vị kinh tế và phương tiện tồn tại đã bị xóa bỏ, người nông dân không còn có thể dựa vào lao động của mình để tìm kiếm thức ăn từ tự nhiên được nữa, mà phải dựa hoàn toàn vào nhà nước, dựa vào nhà ăn của công xã, đấy là nơi cung cấp cho họ đồ ăn, thức uống.
Nhà ăn công xã là nguyên nhân chính làm nhiều người chết đói. Quá trình hình thành nhà ăn công xã diễn ra đồng thời với việc xóa bỏ đơn vị gia đình và cướp bóc tài sản của nông dân. Bếp trong từng gia đình bị đập bỏ, dụng cụ nấu nướng, bàn và ghế thì bị đưa vào nhà ăn công xã. Tất cả lương thực thực phẩm và củi đun được đưa về nhà ăn công xã, tất cả gia súc, gia cầm và rau xanh đều do thành viên công xã thu hoạch. Một số nơi, chỉ có nhà ăn công xã mới được xây ống khói.
Thiệt hại đầu tiên do nhà ăn công xã gây ra là mất mát lương thực. Trong hai tháng hoạt động đầu tiên, tất cả các thành viên công xã, không phụ thuộc vào đóng góp của họ trong quá trình sản xuất, đều ăn ở nhà ăn công xã. Lúc đó lo lắng của Mao và các nhà lãnh đạo khác về việc “sẽ làm gì nếu có quá nhiều lương thực” được truyền xuống tới tận quần chúng. Nông dân cảm thấy rằng Trung Quốc có nhiều lương thực và khi số lương thực hiện nay hết thì chính phủ sẽ cung cấp thêm. Một số công xã sử dụng hết số lương thực mà họ có ngay từ cuối năm 1958 và chờ nhà nước bổ sung, nhưng chẳng bao giờ có.
Nhà ăn công xã đẩy các thành viên vào hoàn cảnh cực kì tồi tệ. Người xếp hàng rất dài, ai đến chậm thì nhịn. Trong các khu vực miền núi, nơi cư dân sống rải rác, nhà ăn nằm rất xa, mang được về đến nhà thì thức ăn đã nguội hết. Chất lượng thức ăn thật là khủng khiếp. Khi lương thực cạn kiệt, thành viên công xã mang rau dại đến nhà ăn để nấu, những món này còn tệ hơn nữa. Tình hình này làm cho nạn đói còn tệ hại hơn. Nhưng nhà ăn công xã lại trở thành nơi chứa chấp đặc quyền đặc lợi của cán bộ; họ bao giờ cũng tìm cách ăn cho no, nạn tham nhũng hoành hành cùng với việc tịch thu một cách bất hợp pháp số lương thực thực phẩm vốn đã ít làm cho các thành viên công xã đã đói càng đói thêm.
Chức năng quan trọng nhất của nhà ăn công xã là áp đặt “chuyên chính vô sản” lên dạ dày của mỗi người. Khi nhà ăn công xã bắt đầu hoạt động, đội trưởng sản xuất liền trở thành đội trưởng của cả nhà ăn, những người tỏ ra bướng bỉnh có thể bị tước luôn khẩu phần. Trên thực tế, nhà ăn công xã buộc dân làng phải đưa thìa xúc thức ăn của họ cho lãnh đạo, và bằng cách đó, đưa mạng sống của mình vào tay lãnh đạo; không còn được cầm thìa múc lấy thức ăn, dân làng mất ngay quyền kiểm soát chính mạng sống của mình. Ở một số chỗ trong tác phẩm này, tôi đã tìm được bằng chứng về sự kiện làm thế nào mà việc tịch thu lương thực thực phẩm tại một số địa phương đã làm người dân chết đói. Hàng ngàn người đã chết một cách oan ức vì bị cán bộ cơ sở đánh đập hoặc ngược đãi. Dương Úy Bình (楊蔚屏), ủy viên Ban Thư kí Tỉnh ủy Hà Nam, trong “Báo cáo về sự kiện ở Tín Dương” đề ngày 15 tháng 10 năm 1960, đưa ra những số liệu cụ thể như sau: 2.104 người ở huyện Cận Quang Sơn (僅光山) và huyện Hoàng Xuyên (潢川) bị đánh cho đến chết, 254 người ở huyện Hoàng Xuyên bị đánh đến mức trở thành tàn phế. Không chỉ dân làng mà cả những cán bộ địa phương có thái độ bất hợp tác cũng bị giết và bị đánh. Ở làng quê, cái gọi là chuyên chính vô sản, trên thực tế, đã trở thành chế độ chuyên chế của cán bộ, những kẻ có quyền lực lớn có thể đối xử rất tàn tệ với người dân và thuộc cấp dưới quyền.
Trong quá trình công xã hóa, có chiến dịch gọi là chống lại “báo cáo láo về sản lượng và phân phối lén lút” và tổ chức nhà ăn công xã, những người có thái độ lừng chừng, những người lén lút ăn hạt giống của công xã vì đói quá, những người không đủ sức tham gia vào những dự án thủy lợi lớn, bị trừng phạt rất dã man. Có hàng chục biện pháp trừng phạt khác nhau, trong đó có treo lên xà nhà rồi đánh, quỳ trong một thời gian dài, đưa đi diễu trên đường phố, bắt nhịn ăn, đứng dưới nắng hay ngoài trời lạnh, cắt tai hay biện pháp gọi là “đậu xào” (nạn nhân bị những người đứng xung quanh thay nhau xô đẩy và đánh đập). Tất cả đều khủng khiếp, đều không thể nào chịu đựng nổi.
Ở công xã Bành Tân (彭新), huyện La Sơn (羅山), địa khu Tín Dương, 16 đảng viên dự bị tham gia đánh người đã được “trả công” bằng việc chính thức kết nạp vào Đảng. Một người không được kết nạp vì không chịu tham gia vụ đánh người nói trên. Một số chương và phần trong tác phẩm này có trình bày bằng chứng rằng có nhiều trường hợp bị chết vì bị đánh đập tại một số tỉnh. Cần phải nói rằng những trường hợp này được đưa ra ánh sáng trong chiến dịch sửa sai diễn ra vào năm 1961. Đa số trường hợp xảy ra ở những đội sản xuất “lạc hậu” “hạng ba”, và không phải đội sản xuất nào cũng xảy ra những vụ bi kịch như thế. Dẫu sao, cái gọi là những đội sản xuất “lạc hậu”, theo Mao, chiếm tới một phần ba tổng số đội trong cả nước, một tỉ lệ phải nói là quá cao.
Trong những điều kiện bình thường, khi nạn đói xảy ra, dân chúng thường kêu gọi sự trợ giúp từ bên ngoài hay chạy sang những vùng khác. Nhưng trong hệ thống chính quyền của Trung Quốc lúc đó, dân làng không có quyền tìm kiếm sự giúp đỡ hay chạy đi nơi khác. Các quan chức mọi cấp sử dụng mọi phương tiện họ nắm trong tay nhằm ngăn chặn tin tức về nạn đói để nó không lan truyền ra thế giới bên ngoài. Sở Công an kiểm soát tất cả thư từ và giữ lại những bức thư gửi ra những khu vực khác. Thị ủy Tín Dương buộc bưu điện địa phương giữ lại 12.000 bức thư kêu gọi trợ giúp từ bên ngoài. Nhằm ngăn chặn, không cho tin tức về nạn đói lan truyền ra ngoài, cả làng bị đặt trong tình trạng nội bất xuất ngoại bất nhập, người dân bị cấm không được ra khỏi nhà. Những người tị nạn, tức là những người đã tìm cách trốn được, bị dẫn đi diễu hành trên đường phố, bị đánh hay trừng phạt bằng những biện pháp khác như những kẻ “lang thang”.
Đa số chịu đựng, một ít người chống đối hệ thống đã bị nó nghiền nát. Trước một hệ thống chính trị tàn nhẫn như thế, quyền cá nhân đơn giản là không tồn tại. Hệ thống giống như một cái khuôn đúc; kim loại dù có rắn đến mức nào, nhưng một khi đã bị đun chảy và đổ vào khuôn thì sẽ có hình dạng giống như nhau cả. Dù là ai, sau khi đi qua hệ thống toàn trị, tất cả đều trở thành một người có hai bộ mặt nhìn vào hai hướng khác nhau: bạo chúa hay nô lệ, tùy thuộc vào vị trí của anh ta với cấp trên hay cấp dưới của mình. Mao Trạch Đông là người làm ra cái khuôn đó (nói một cách chính xác hơn, ông ta là người kế tục và hoàn thiện mô hình chuyên quyền độc đoán), và chính ông ta, ở khía cạnh nào đó, cũng là đày tớ của chính cái khuôn đó. Trong khuôn khổ của hệ thống này, hành động của cá nhân Mao là hành động có ý thức, nhưng ở mức độ nào đó những hành động này lại nằm ngoài tầm kiểm soát của ông ta. Không ai, thậm chí cả Mao, có đủ sức chống lại hệ thống. Mặc dù ông ta đã sớm nhận thức được những vấn đề nổi lên vào năm 1958 và đã đưa ra một số chỉ thị nhằm chỉnh đốn lại, nhưng không có kết quả. Theo logic của thời đó và trong khuôn khổ thịnh hành lúc đó, những cái hiện nay là vô lí rành rành thì lúc đó lại là có lí và là chuyện thường ngày.
Chế độ toàn trị là chế độ lạc hậu nhất, dã man nhất và phi nhân nhất so với tất cả những chế độ khác trong thế giới hiện đại. Vài chục triệu người vô tội chết trong một nạn đói kéo dài ba năm là hồi chuông báo tử cho hệ thống này. Phong trào giáo dục xã hội chủ nghĩa và Cách mạng Văn hóa diễn ra sau đó đã không những không cứu được hệ thống mà còn làm cho nó trở thành vô phương cứu chữa.
Sau hơn 20 năm cải cách kinh tế, hệ thống toàn trị đã trở nên linh hoạt hơn; các Công xã Nhân dân đã bị giải tán từ lâu, độc quyền của nhà nước trong việc mua và bán cũng đã bị bãi bỏ, và người dân đã có quyền tìm kiếm và phát triển cách sống của mình thông qua thị trường. Trung Quốc đã trải qua một cuộc chuyển hóa cực kì to lớn. Nhưng vì hệ thống chính trị vẫn không thay đổi, những thay đổi ngoạn mục trong lĩnh vực kinh tế và xã hội chỉ làm tăng thêm mâu thuẫn giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng kinh tế mà thôi. Biểu hiện rõ nhất của mâu thuẫn này là việc phân phối một cách bất bình đẳng thành quả và giá phải trả của công cuộc cải cách. Những người phải trả giá đắt nhất cho công cuộc cải cách lại là những người được hưởng lợi ít nhất, và trong một số trường hợp còn trở thành thành viên của tầng lớp bị thua thiệt nữa. Những người phải trả giá ít nhất cho công cuộc cải cách lại là những người hưởng lợi nhiều nhất và trở thành thành viên của giai cấp đặc quyền đặc lợi. Những vụ lạm dụng đan xen với nhau trong nền kinh tế thị trường chỉ nhằm thu lợi nhuận và quyền lực không hạn chế của chế độ toàn trị đã gây ra vô vàn bất công và làm gia tăng sự bất bình trong đa số thuộc tầng lớp dưới.
Trong thế kỉ mới, tôi tin rằng những người cầm quyền cũng như người dân thường đều nhận thức một cách thực tâm rằng hệ thống toàn trị đã đi tới giai đoạn cáo chung rồi. Vấn đề bây giờ là làm sao giảm thiểu được những biến động xã hội và thiệt hại khi hệ thống thay đổi. Đây là vấn đề cần phải xem xét. Tôi tin rằng nếu mỗi người đều tiếp cận vấn đề không phải từ quyền lợi cá nhân hay quyền lợi của nhóm mà vì quyền lợi của xã hội rộng lớn hơn và tiến hành lựa chọn một cách có ý thức nhằm thực hiện công cuộc cải cách thì chúng ta có thể tìm được biện pháp nhằm giảm đến mức tối thiểu cú sốc và thiệt hại mà nó gây ra. Cơ sở của nền kinh tế thị trường đã tạo ra nền tảng kinh tế vững chắc cho hệ thống chính trị dân chủ, còn xã hội toàn trị thì đã nới lỏng thành xã hội hậu toàn trị rồi. Thị trường phát triển cùng với quá trình dân chủ hóa. Tôi tin chắc rằng một ngày nào đó Trung Quốc sẽ chứng kiến chế độ toàn trị được thay thế bằng chế độ dân chủ. Và ngày đó sẽ chẳng còn xa nữa.
Bằng tác phẩm này, tôi đã dựng trước bia mộ cho ngày tàn của hệ thống toàn trị, để cho các thế hệ sau biết rằng trong giai đoạn chuyển tiếp của lịch sử, tại một số nước người ta đã từng thiết lập nên một hệ thống nhân danh “giải phóng nhân loại” nhưng kết quả thực sự lại là sự nô dịch con người. Hệ thống này tự quảng bá là “Đường lên thiên đàng” nhưng trên thực tế lại là “Đường tới diệt vong”.
Nguồn: Tạp chí “Trung Hoa đương đại” (2010), số 19 (66), tháng 9, trang 755-776). Bản tiếng Anh.
Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra; © 2012 Bùi Xuân Bách, Phạm Nguyên Trường, Phạm Vũ Lửa Hạ
___________________
Lời cảm tạ: Chúng tôi, những người dịch, xin chân thành cám ơn những người bạn thân đã cổ vũ và giúp đỡ rất nhiều, chẳng hạn như tìm giúp cho bản tiếng Hán, bớt thời gian quý báu của mình đọc trước bản dịch và đóng góp nhiều ý kiến xác đáng.
Lưu ý về chú thích:
- Chú thích của tác giả sẽ viết tắt là TG.
- Chú thích của người dịch bản tiếng Anh sẽ viết tắt là TA.
- Chú thích của người dịch bản tiếng Việt sẽ viết tắt TV.
- Tên riêng nào (chỉ còn có hai cái) chúng tôi chưa tra được nguyên văn tiếng Hán, đành phỏng đoán sát nhất và đánh dấu hoa thị (*).
____________________
[i] TA: Trong những trang sau tác giả gán trích dẫn này cho tác phẩm Luật pháp (The Laws) của Plato, được Karl R. Popper dẫn lại trong Xã hội mở và những kẻ thù của nó (The Open Society and Its Enemies).
[ii] TG: Lưu Thiếu Kỳ, “Diễn văn tại Hội nghị công tác mở rộng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, 27 tháng 1 năm 1962, in trong Tuyển tập Lưu Thiếu Kỳ, tập 2 (Bắc Kinh: Nhân dân xuất bản xã, 1985), trang 441–442
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)