Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Kỳ Đăng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Kỳ Đăng. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013
Phạm Kỳ Đăng - Thôi là yếu tố rủi ro
Phạm Kỳ Đăng
Cùng một lúc hiện đại hóa quân đội, thời gian qua Trung Quốc liên tục đe dọa và xâm lấn lãnh hải và địa phận lân bang. Lời nói và hành động của nhà cầm quyền Bắc Kinh tiền hậu bất nhất, dựa trên lối hành xử biến báo, như kế sách có giời biết đường nào mà lần của họ đã trở thành một thứ nguyên tắc, tựu trung đều phục vụ một dã tâm tham lam về của cải và quyền lực. Các nước ASEAN, dường như đuối sức đương đầu, cơ bản nhất, phân rã trong nỗ lực tìm tiếng nói chung ngăn cản cỗ máy càn Trung Quốc, đã hướng về người đồng minh đàn anh cách đó vài thập kỷ từng tung hoành ngang dọc ở Biển Đông.
Biến diễn mới đã khiến Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ, đang trong tình thế sa sút về kinh tế so với siêu cường đang lên kia, bằng một nước đi chậm rãi nhưng trên qui mô rộng khắp đã quay trở lại Châu Á-Thái Bình Dương. Sau chiến tranh Việt Nam, từ khi tháo xích cho Trung Quốc lao vào thị trường tự do cho đến hôm nay, hẳn Mỹ hẳn không chờ và không ngờ một Trung Hoa cộng sản với tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế vượt xa khỏi tầm kiểm soát, có một thị trường đầy sản phẩm hàng nhái gây ô nhiễm, lại hoàn thiện một thể chế chính trị độc tài với nền đối ngọai cướp bóc như vậy. Từ sau chuyến thăm Bắc Kinh của tổng thống Richard Nixon năm 1972, Mỹ luôn có phần rộng rãi và cả nể với Trung Quốc, bởi hy vọng tới lúc nào đó sẽ thuần phục được nhà nước này, đưa siêu cường mới non nớt vào quỹ đạo cùng Mỹ chia sẻ lợi ích và trách nhiệm giải quyết những vấn nạn cấp bách trên hoàn cầu. Đối nghịch lại sự trông chờ đó, những cuộc xâm lấn gần đây của Trung hoa, cướp bãi đá Gạc Ma, cắt cáp tàu Bình Minh, đưa phi cơ vào quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) v.v., khiến cho Mỹ và cả thế giới tự do không khó dự cảm thấy mục tiêu thực dân – bá quyền của nhà nước Trung hoa. Chiến lược và chiến thuật của Trung Quốc sau hàng ngàn năm vẫn tỏ ra khó đoán định như chính sách Tiên Tần. Duy có điều, mục đích theo đuổi vẫn chẳng khác xưa hoàn toàn vị lợi ích hẹp hòi của quốc gia, lại rất xa lạ với mục tiêu của cộng đồng xã hội dân sự, với văn minh nhân lọai. Sự hiếu chiến ngang ngược của Trung Quốc đã dọn đường, và như vậy, vô hình chung hợp thức hóa sự đi lại của Hải quân Mỹ trên Biển Đông. Có thể nói thái độ bạo liệt của Trung Nam Hải đã biện hộ cho sự tái xuất giang hồ của Mỹ, quốc gia tự rút khỏi vai trò cầm chịch ở khu vực này sau chiến tranh Việt Nam, vừa trở lại êm thấm và khéo thích nghi những liên kết đồng minh từ sau chiến tranh lạnh với những thách thức mới.
Sự thiếu vắng đồng minh, sự hụt hẫng về quyền lực, ảnh hưởng và uy tín, mục tiêu theo đuổi đê mạt đến lúc nào đó sẽ đẩy Trung Quốc vào một gọng kìm vô hình sẳn sàng khép lại, một mai đây khi Trung hoa manh động gây chiến tranh trong khu vực. Quốc gia hung hăng này sẽ quẫy cựa, sẽ áp sát mặt Mỹ trong thời gian vài thập kỷ. Tuy nhiên xét về trung hạn, Trung Quốc khó qua được mặt Mỹ, không thay thế được Mỹ ở vai trò siêu cường lãnh đạo, ở phạm vi thế giới và phạm vi khu vực.
Không có nhà nước nào tuyệt đối chí công vô tư vì quyền lợi nước khác, Hoa Kỳ không là một ngọai lệ. Nhưng hiện nay không có một siêu cường nào giành được thiện cảm nhiều hơn Mỹ. Mỹ, quốc gia, sau đại chiến đã vực nhiều kẻ thù của mình đứng dậy, giúp đỡ phát triển tột bậc, nay cũng như vậy không hề có nhu cầu gì về lãnh thổ lãnh hải của các nước khác. Mỹ có đóng quân đất lạ, cũng thuê mướn đàng hoàng.
Chính sách gây ảnh hưởng và giành ảnh hưởng của Mỹ luôn đạt được bởi đồng thuận, sự thuyết phục và sự phối hiệp. Đó là điểm khác biệt rất lớn, nếu so sánh với một chính sách tham vọng về quyền lực và của cải, tài nguyên của Trung hoa. Để thỏa mãn tham vọng và quyền lực, Trung Quốc sẽ thực thi một lọat những đe dọa, lấn áp, cưỡng ép, ăn vạ và bức hiếp.
Hiện nay Biển Đông sục sôi như nồi nước nóng và Châu Á đang lên xét rộng ra tựa một bãi mìn. Bên các thế lực kinh tế cũ, với sự xuất hiện của nhiều thế lực kinh tế mới như Trung Hoa, Ấn Độ, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Singapore, rõ ràng trong thế kỷ 21 Châu Á đóng vai trò đầu tàu kéo nền kinh tế thế giới mới, nếu sự phát triển đó mang tính hòa bình và bền vững.
Nhưng hẳn nhiên hòa bình, ổn định và công lý không tự nhiên mà có. Những giá trị này chỉ có thể đạt được bởi sự cố gắng của mọi nước trong khu vực. Vậy vai trò Việt Nam sẽ ra sao?
Trong lịch sử hiện đại, Việt Nam đã từng là bãi sa trường thuê mướn cho cuộc chiến tranh của hai phe hình thành sau chiến tranh lạnh xung đột vì ý thức hệ, và cuộc chiến tranh này là cuộc chiến ủy thác của hai siêu cường. Mẫn cán trong vị trí người lính tiền đồn, miền Bắc Việt Nam đã huy động sức người sức của thực hiện sứ mạng “cũng vì ba ngàn triệu trên đời” nhưng thực tế đánh nhau cho Liên Xô và Trung Quốc. Ở vào thời điểm lịch sử nào đó, khi chủ nghĩa xã hội với tư cách là lý thuyết xã hội và thực thể tồn tại còn mê hoặc nhiều lực lượng cánh tả ở phương Tây, cuộc chiến tranh Việt Nam – ở đây có sự đồng lòng đánh đuổi xâm lược của người Việt trên hai miền đất nước – đã gây ra bức xúc trong dư luận thế giới. Cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc thu hút được sự ủng hộ của nhiều lực lượng ở nhiều nước cộng với sự phản chiến chống Mỹ quyết liệt ngay trong lòng nước Mỹ.
Các nước Đông Nam Châu Á, ít nhiều đều đắc lợi bởi cuộc chiến này. Nhiều nước xung quanh chiến trường Việt Nam tạo ra được xuất phát điểm cho kinh tế cất cánh. Xã hội dân sự và chế độ đại nghị khai sinh ở nhiều nuớc có cùng xuất phát điểm kém như miền Bắc Việt Nam, và tại các quốc gia Đông Nam Á lần đầu tiên giá trị về nhân quyền được khai sáng. Trước thái độ ngày một hiếu chiến của Trung hoa, giả sử không có Việt Nam, các nước đó sẽ tìm được tiếng nói chung trong các xung đột Biển Đông.
Ở đây cũng cần nhắc lại rằng, trên đà tiến công, miền Bắc Việt Nam với vị thế tự phong vì nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhiều lần đã lấn lướt trong cư xử với các nước thuộc mô hình Liên bang Đông Dương, từng làm cao đòi kẻ thù là Mỹ phải bồi thường chiến tranh, từng hung hăng với vài nước trong khu vực. Nhưng không chỉ có thế, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiều thập kỷ chịu nỗi uất ức của người bị bán rẻ. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là quân tốt trong ván bài của Trung Quốc trên hội nghị Génève và Hòa đàm Paris. Sau chiến tranh, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của đói rét xích xiềng bị cô lập khắp nơi khi người dân phải dựng ván đóng thuyền vùi thân biển cả. Người nữ ca sĩ nổi tiếng Joan Baez, hồ hởi hát bên mâm pháo cho các chiến sĩ Bắc Việt Nam mùa xuân năm nào, năm 1979 đốt nến dẫn đầu cuộc biểu tình gồm 12.000 người tới Nhà Trắng, đã viết thư ngỏ gửi chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tố cáo sự vi phạm trắng trợn quyền tự do và phẩm giá con người, đăng trên năm nhật báo lớn của Mỹ.
Khi Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, cơ hội hòa nhập vào thế giới dân chủ lần nữa lại đến với Việt Nam. Trung Quốc đưa xe tăng tắm máu Thiên An Môn mang bộ mặt gớm ghiếc. Chính lúc đó, các lãnh đạo Việt Nam, vừa lấy được chút sinh khí Đổi Mới lại tìm đến Thành Đô cầu hòa. Con tốt tưởng đã sang sông quay đầu về xin đắc tội lầm đường lạc lối.
Như vậy ở thời điểm hiện tại, nhìn từ giác độ đồng minh xung quanh Mỹ, Trung Quốc như một hư số khó đoán thì Việt Nam, khu xử kỳ cục với Trung Hoa như vậy, là một ẩn số khó lường. Dẫu sao chủ sòng điên Trung Quốc, dù lấy bất lường làm quy luật, luôn đi những nước cờ chủ động, bài bản. Còn Việt Nam, nói đúng ra là nhà cầm quyền Việt Nam, hành xử bị động và lệ thuộc luôn ngẩn ngơ như một con tốt lú.
Thời thế của ưu lực tuyệt đối dành riêng cho Mỹ và phương Tây đã qua ở Châu Á. Nhưng với sự trỗi dậy phá họai hòa bình của Trung Hoa cộng sản, sự có mặt và vai trò lãnh đạo của Mỹ trong đồng minh ngăn cản chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc, trong bối cảnh hiện thời, có thể vẫn phải coi là phương sách thiết yếu duy nhất. Đương nhiên trong biến diễn thay đổi quyền lực ở Châu Á, các nước chia nhau Biển Đông không thể bỏ qua Việt Nam. Ngay cựu kẻ thù của nhà nước Việt Nam hiện tại, thận trọng trong giao tiếp dần có những bước xúc tiến cùng Việt Nam tập trận, đặc biệt qua việc viếng thăm Hà Nội của nữ ngọai trưởng Hillary Clinton trong vai trò thuyết khách xin ghé qua hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã gửi thông điệp nào đó đến chính quyền Hà Nội.
Một nước Mỹ, hậu thuẫn bởi Ấn Độ, Úc và nhiều quốc gia ASEAN, v.v, tiếp tục dấn thân vì dân chủ, ổn định và hòa bình, tuy nhiên sẽ không chấp nhận một nhà nước độc đảng cai trị, đàn áp nhân quyền, tù đày những người con ưu tú của đất nước này (Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải, Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Linh mục Nguyễn Văn Lý…) vì phúc họa của xứ sở này đã một lần lên tiếng.
Gần đây nhất chính vị Tổng Bí thư bảo thủ và giáo điều này đã lên đường thăm Liên minh Châu Âu.
Mọi việc sẽ không trôi chảy, nếu Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, từ lâu sập bẫy Trung Quốc và luôn bị đòn roi Trung Quốc, không trả lời cho rõ về vấn đề nhân quyền. Đến lúc nào đó chính quyền Hà Nội không thể coi việc cản trở cũng như tước đọat nhân quyền là giá để mặc cả trong thương lượng theo chiều hướng: chà đạp càng nhiều lên nhân quyền thì giá mặc cả càng cao. Mỹ và Phương Tây còn có thể đợi gì khác hơn ngoài những giá trị như vậy nhằm xác lập điều ước đồng minh với các nước còn cố khước từ dân chủ. Nếu một lần nữa, nếu không bỏ qua chứng kiêu ngạo cộng sản luôn bề làm cao, Hà Nội sẽ lại đứng đường lơ ngơ như mất sổ gạo. Thật đáng lo khi gần đây Trung Quốc thẳng thừng tuyên bố chuẩn bị chiến tranh và đã tiến hành diễn tập thâm nhập trong vùng rừng núi thuộc tỉnh Vân Nam nhằm tăng cường kỹ năng chiến đấu. Cuộc diễn tập này có đích là Việt Nam chứ không là nơi nào khác, chiến tranh sẽ bắt đầu bằng xâm lược Việt Nam.
Những tội ác gây đau khổ, đến một lúc nào đó không thể được biện hộ là sai phạm do giáo điều, chủ quan và ấu trĩ, nếu bên thắng cuộc không nhìn nhận lại hằng số sai phạm trong lịch sử để tổ chức hiện tại. Chỉ có quyết bước mạnh dạn vào thế giới dân chủ, và chỉ qua bước đó Việt Nam mới trở thành đối tác quan trọng tiềm năng.
Bởi thể chế đại nghị tôn trọng nhân quyền sẽ chế ngự tham nhũng, sẽ không bao giờ phải dồn tiền của quá mức chi phí cho an ninh trấn áp, vào việc sắm vũ khí dư thừa và điều này mới là quan trọng, không bắt nhân dân phải tiêu tốn sức lực cùng chống kẻ thù chiến lược. Trong thế bị o ép, xa lánh, việc xác định kẻ thù và đồng minh chiến lược sẽ là một hạ sách. Với cách xác định kẻ thù như vậy, chính quyền chỉ có thể chĩa ánh mắt tìm kẻ thù hướng vào nhân dân. Họach định kẻ thù và đồng minh chiến lược, xét cho cùng, hoàn toàn thừa vì quốc sách này gây tai hại trong thế giới văn minh, nhất là khi Việt Nam, như các lãnh đạo Đảng tuyên bố, muốn làm bạn với mọi người. Quá khứ cách mạng đã cho biết ai là đồng chí, khi đánh nhau cho Trung Quốc, Liên Xô, khi nuôi nấng lãnh đạo Khmer đỏ. Loay hoay xác định bạn thù đã đẩy Việt Nam vào thế bị cô lập, suy kiệt tới mức rất dễ tổn thương. Rủi ro là vì thế. Nếu không cẩn thận Việt Nam sẽ không thể là nhân tố ổn định, mà còn là yếu tố rủi ro cho hòa bình và bền vững Đông Nam Châu Á. Một nhà nước kiến thiết theo hướng dân chủ sẽ tự điều chỉnh và hoàn thiện chiến lựợc phát triển cho mình trong giao lưu với các quốc gia văn minh và thịnh vượng. Có nên để cho một mini-thiểu số kém về dân trí, khi dân, ghét trí thức đưa tiền đồ của dân tộc vào đánh cược cho những toan tính thiển cận, tù mù và ích kỷ. Lời tuyên bố của ông Tổng Bí thư trả lời phỏng vấn mới đây “Đảng vững mạnh thì dân tộc ta sẽ mãi trường tồn”, minh chứng cho não trạng đặt Đảng trên Dân tộc.
Sao ông Tổng Bí thư không chịu hiểu rằng sự tồn vong của Đảng không có nghĩa lý gì khi so sánh với sự tồn vong của Dân tộc. Sao ông không hiểu những Điều 4 và Điều 17-18 của Hiến pháp, và điều 88 của Bộ luật Hình sự, mới là mối đe dọa sự tồn vong của Đảng. Có thảo luận góp ý về Hiến pháp, cứ cho là không có điều gì cấm như ông Phan Trung Lý giảng giải, cũng nên theo hướng hủy bỏ những điều này sao cho tránh đổ vỡ, để hướng nội tạo cơ hội đề ra chế định đảm bảo cho sự tồn tại của Đảng bên các tổ chức đảng phái khác, và bảo vệ sinh mạng công dân, trong đó có các đảng viên nữa.
Để Việt Nam hướng ngọai thoát thế cô, đáng tin cậy trong một liên minh bảo toàn nền độc lập.
Và thôi là một yếu tố rủi ro cho nhân dân và cho các nước ở khu vực quanh mình.
P.K.Đ
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012
Phạm Kỳ Đăng - Nên theo Việt Nam
Phạm Kỳ Đăng
Bài nói chuyện của đại tá Trần Đăng Thanh tiết lộ khá nhiều về suy nghĩ âu lo kín đáo của giới lãnh đạo tầng cao nhất, và nếp tư duy này không chút mấy thay đổi từ khi những người cán bộ tuyên huấn tiếp thu học thuyết giáo điều về giai cấp và chuyên chính vô sản, ở phạm vi trong nước được nâng lên thành luận lý lớp lang từ thời chiến tranh lạnh. Lối tư duy bùng nhùng trong những phạm trù vón cục đơn nguyên – tương phản như “ta > <địch” , “thù > < bạn”, “trắng> < đen”, “chính nghĩa>
Trong quá khứ, khi xảy ra những tình huống cần có tiếng nói biểu lộ độc lập và chủ quyền dân tộc như dạo tháng Mười năm 1962, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bỏ phiếu ủng hộ Trung Quốc xua quân đội nước này tràn qua biên giới Ấn Độ, và đớn đau thay gửi công hàm tán thành Trung Quốc tuyên bố hải phận (1958), cũng như sau này (1974) không phản đối chính quyền Mao Trạch Đông – Chu Ân Lai đánh chiếm Hòang Sa của Việt Nam Cộng hòa. Vào năm 1978, CHXHCN Việt Nam tán thành LBCHXHCN Xô Viết đổ quân vào Afghanistan. Trong khi cố công loay hoay xác định kẻ thù chiến lược, nhà nước Việt Nam nhiều khi cực đoan coi “thù của thù” là bạn, từng giao hảo với nhiều nhà nước độc tài ngang ngược bị cô lập trên thế giới. Ngày nay Việt Nam có nguy cơ tự đẩy mình xuống đứng chung chiến hào với nhiều nhà nước khét tiếng như CHDCND Triều Tiên, Haiti, Cuba, Iran. Cũng như CHDCND Trung Hoa, nhà nước Việt Nam không có đồng minh thực sự. Việt Nam đang lẻ loi đứng đơn thương độc mã hơn bao giờ hết.
Chính quyền Mỹ cũng như nhiều nước khác thực hiện chính sách đối ngoại xuất phát trước hết từ quyền lợi dân tộc của họ. Nước Mỹ, trong quá khứ, đặt chân đến Việt Nam trong bối cảnh viễn chinh đối đầu với nguy cơ lan rộng của phong trào cộng sản. Phát động cuộc chiến Việt Nam, nhà nước Mỹ, cho đến khi bỏ rơi miền Nam và Việt Nam, đã để lại gánh nợ máu xương với nhân dân hai miền. Ở thời điểm cuộc chiến đến độ cao trào, một phong trào chống chiến tranh đòi quân đội Mỹ rút về nước lan rộng khắp nơi.
Chính quyền Mỹ từng bị thao túng bởi những lực lượng hiếu chiến, và cao trào chống cộng quá khích, ngụy tạo xung đột, gây đảo chính hay đưa quân tham chiến, gây đổ máu vô nghĩa ở nhiều nước, trên xương máu của cả con em mình. Người dân Mỹ không phải hôm nay đây mới biết chính phủ của họ chuốc thù chuốc oán quá nhiều.
Nhưng những gì nước Mỹ mang lại cho văn minh nhân loại không đơn thuần là những giá trị đong đếm tầm thường mà một ông đại tá ngạch tuyên huấn có thể trông thấy được. Nước Mỹ đóng vai trò lớn trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, và sau đó đi đầu trong cuộc chiến khuất phục chế độ tòan trị thắng phát xít nhưng tàn bạo không kém. Văn hóa Mỹ, giá trị Mỹ ảnh hưởng lên nhiều quốc gia. Người Mỹ gieo mầm và đỡ đầu cho nền dân chủ tại Đức và Nhật – những nước có quá khứ phát xít và quân phiệt, tạo điều kiện để các quốc gia này đi tới hùng cường. Trong lòng nước Đức hôm qua, trong khi nhiều người ác cảm với Mỹ kéo xuống đường ra mặt phản đối chiến tranh Việt Nam, chống cuộc can thiệp quân sự của Mỹ tại Irắc, biểu tình đòi Mỹ ký Thỏa thuận về Môi trường và Khí thải, thì cũng vẫn như xưa, hôm nay vẫn có nhiều hiệp hội, nhiều tổ chức chào đón, bênh vực nước Mỹ nhiệt thành. Có người bạn Đức nói với tôi rằng thế giới cần có nhiều nước Mỹ như vậy, bởi nếu châu Âu bị một nhà nước Hồi giáo cực đoan hoặc một quân đội khủng bố tấn công bằng quân sự, ai sẽ lại đứng ra bảo vệ châu Âu, nếu không phải là Mỹ? Đấy, thái độ và tình cảm của người dân ở nhà nước dân chủ phức hợp như vậy, mà thế đâu phải là dở. Và ngay tại nước Mỹ, nhân sĩ trí thức, sinh viên cũng như công dân ở mọi tầng lớp chẳng đã hơn nghìn lần xuống đường phản đối chính quyền nước họ vì thực thi những chính sách sai trái.
Tuy nhiên trên tinh thần đề cao dân chủ, nhà nước Mỹ luôn có đồng minh tin cậy. Dù có nhiều khác biệt trong thái độ của các lực lượng đảng phái, Liên minh châu Âu, Nhật, và nhiều nước trong khối Asean sẽ đứng cùng với Mỹ mà không cần gì đến những thứ bùa ngải làm con tin kiểu Mười sáu chữ vàng và Bốn tốt.
Nhà nước Trung Hoa hiện nay đang thực thi một chủ nghĩa dân tộc bá quyền không chia sẻ lợi ích gì với xóm giềng và mọi quốc gia trên thế giới. Với đà tăng trưởng kinh tế vượt bực, Trung quốc xây dựng một quân đội hùng mạnh, đáng tiếc không góp phần vào sự ổn định khu vực. Mũi tấn công quân đội chĩa hết sang các quốc gia lân bang kèm theo những yêu sách tréo ngoe về chủ quyền lãnh thổ, trong đó mũi độc nhất hướng tới Việt Nam.
Ngay từ khi thành lập nhà nước CHDCND Trung Hoa, chính quyền này đã gầm ghè ăn cướp, sách nhiễu với mọi nhà nước có chung biên giới. Tuy vậy người khổng lồ Trung quốc hôm nay luôn hở sườn, luôn lộ gót asin dù có hiện đại hóa quân đội mấy đi chăng nữa, bởi Trung quốc không có đồng minh. Cả một biên giới dài rộng hàng nghìn cây số tiếp giáp Mông Cổ, Nga và Ấn Độ dư thừa địa hình để cho đối phương lập căn cứ cách vài trăm km có thể tấn công Bắc Kinh trong chớp nhoáng. Về đối ngoại, nhà nước Tàu hung hăng ngang ngược. Chính sách đối nội thù địch với nhân dân, áp bức nhiều sắc tộc, nên tiềm ẩn nguy cơ xung đột và nội chiến. Nguy hiểm hơn, trong ý thức người dân Trung Hoa đang say sưa với tinh thần dân tộc được kích động giải tỏa ẩn ức, chưa xuất hiện những luồng suy nghĩ phê phán độc lập. Lớp nhân sĩ trí thức Trung Hoa, thời hiện đại vốn đã yếu ý thức nhân văn, nay thiếu vắng hẳn tiếng nói mạnh mẽ lên án nhà cầm quyền ngạo mạn ăn cướp Hoàng Sa -Trường Sa hay đưa ra yêu sách độc chiếm biển Đông.
Chẳng lẽ bao bà mẹ trẻ em chết trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979 không đáng được nhắc tới như nhiều nạn nhân của đợt ném bom B52 vào Hà Nội, trong những ngày kỷ niệm “Điện Biên Phủ trên không” rầm rộ trên báo chí? Hồn tử sĩ Việt Nam trên mồ biên giới đòi cơn chẳng thể là gì khác hơn là yêu cầu thanh tóan ngay cho xong ơn huệ?
Luẩn quẩn trong chiến lược xác định bạn thù, Việt Nam đã bỏ qua nhiều vận hội lịch sử. Sau khi từ chối lần đầu gia nhập khối Asean, Việt Nam tự cho là bên thắng cuộc, bần cùng phải cầu hòa ở Thành Đô, bất đắc dĩ nhận thấy nhu cầu hòa nhập.
Câu hỏi đặt ra sẽ là Việt Nam cần hội nhập vào thế giới, hay thế giới cần hội nhập vào Việt Nam?
Trong bối cảnh ngày càng bị chèn ép về chủ quyền và lãnh thổ, chúng ta không nhất nhất phải kích động và lôi kéo theo lề lối “theo ai/chống ai”, bởi vị thế với nền kinh tế èo uột không đủ sức cho Việt Nam hành xử phi thường như vậy. Vấn đề mấu chốt là Việt Nam hôm nay rất cần đồng minh thực thụ. Các nhà lãnh đạo thường xuyên tuyên bố Việt Nam muốn kết bạn giao hảo với mọi người cũng như đang nỗ lực xây dựng nhiều mối quan hệ, như họ nói, mang tầm chiến lược. Nhưng e rằng mối giao hảo nặng thù tạc này thực ra chỉ chiến lược với nhà nước Việt Nam thôi. Các quốc gia dân chủ, thực tâm đều rất mong một Việt Nam giàu mạnh có vị thế ở Đông Nam Á, tuy rằng cũng nói về tầm chiến lược, thực tế không một ai đứng ra che chắn, vì họ nhìn Việt Nam e dè như nhìn chính quyền Trung Quốc, chừng nào các nhà nước này chưa đại diện cho ý chí rất khác nhau của mọi tầng lớp và thành phần nhân dân của họ. Chúng ta thử nghĩ mà xem, nhà nước nào trên thế gian này sẽ tôn trọng nhà nước Việt Nam nếu chính nhà nước Việt Nam không tôn trọng người dân để cho họ tự do bầu cử hoặc xuống đường biểu tình vì chủ quyền lãnh thổ, nếu một nhà nước ra khỏi nhà không có vị thế đàng hòang của người chính chủ. Cave không chính danh có thể đi lang chạ khắp nơi, đáng buồn chẳng ai nặng lòng yêu cave cả. Cho nên tốt nhất chính quyền trên hết thẩy nên theo ViệtNam, tức thể theo nguyện vọng của đồng bào, theo ý nguyện của dân tộc ViệtNam.
P.K.Đ.
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)