Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Trung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Trung. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2020
Nguyễn Trung: Suy nghĩ về thế giới và nước ta thời hậu đại dịch covid-19
Viết nhân dịp 25 năm bức thư của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt: 09-08-1995/2020
Dựa vào quan sát thế giới và những phân tích thu thập được, theo tôi, từ hơn một thập kỷ nay, nhất là từ khi Trung Quốc Tập (2012) và nước Mỹ Trump (2016) xuất hiện như một nhân tố có vai trò chi phối mang tính quyết định, thế giới đã sang trang đi vào một thời kỳ phát triển mới để rồi sẽ hình thành nên một trật tự quốc tế khác trong khung khổ những thể chế mới sẽ đến. Đại dịch covid-19 lay động tất cả, bắt buộc tất cả các quốc gia và từng con người phải thay đổi đến tột cùng, càng làm rõ thêm những đặc trưng mới của thời kỳ sang trang này.
PHẦN MỘT
Phải chăng có thể nêu lên một số nhận xét khái quát sau đây:
1 - Mâu thuẫn Mỹ - Trung, hình thành với những lý do đã biết, mang tính đối kháng lớn nhất và triệt để nhất kể từ sau chiến tranh thế giới II, giữa một bên là Mỹ quyết bảo vệ vai trò số một thế giới và những giá trị đã làm nên nước Mỹ, và một bên là đế chế Trung Hoa trỗi dậy và cho rằng thời cơ đã đến để thực hiện giấc mộng Trung Hoa bá quyền thế giới. Trên nhiều phương diện, tính đối kháng của mâu thuẫn Mỹ - Trung hôm nay vượt xa tính đối kháng của mâu thuẫn Mỹ - Xô thời chiến tranh lạnh I.
Sự thật là thế giới đang đi vào thời kỳ biến động quyết liệt nhất kể từ sau tranh thế giới II, với những nguy cơ chiến tranh ngày càng nhiều ở những quy mô khác nhau, có thể bắt đầu nổ ra ở trận địa nước bên thứ ba trước khi lan rộng hoặc trở thành chiến tranh thế giới, hoặc chủ yếu chỉ diễn ra trên trận địa nước bên thứ ba, hoặc cuốn hút những nước bên thứ ba vào cuộc... Như một hệ quả tất yếu, quá trình này gây ra những tập hợp lực lượng mới và làm phân rã hay thay, đổi đáng kể những tập hợp lực lượng đang có (thái độ nhiều mầu sắc khác nhau của EU đối với vấn đề Trung Quốc là một trong những ví dụ điển hình).
Thứ Tư, 18 tháng 3, 2020
Nguyễn Trung: Sức mạnh của chúng ta là dám đối mặt với sự thật
Đấy là kết luận quan trọng nhất tôi rút ra được từ cuộc chiến gần ba tháng nay nhân dân ta gồng mình lên chống dịch bệnh covid-19 và cứu kinh tế, cứu chính mình, tất cả với tinh thần “Chống dịch như chống giặc!”
“Chúng ta” ở đây tôi hiểu là cả nước không phân biệt một ai – từ người dân bình thường hưởng ứng kêu gọi của Chính phủ, đang thực hiện mọi cố gắng quyết liệt nhất có thể trong tình hình khẩn cấp hiện nay, vừa chống dịch vừa cứu kinh tế, tự bảo vệ mình.., cho đến toàn thể các chiến binh đang trực tiếp ở tuyến đầu chống dịch – từ các nhà khoa học, những thầy thuốc và đội ngũ y tế, đến các quân nhân và các đơn vị quân đội, toàn bộ các cán bộ công nhân viên chức đang trực tiếp tham trận.., từ những nông dân trên đồng ruộng và công nhân trong mọi xí nghiệp, cho đến những người làm khoa học kỹ thuật, những người điều hành các đơn vị kinh tế, những thành viên thuộc giới chủ mọi tập đoàn kinh tế tư nhân hoặc quốc doanh, những cán bộ viên chức nhà nước.., cho đến các thành viên Chính phủ mà người đứng đầu là Thủ tướng!
Sẽ không phải là đại ngôn, nếu nói rằng: Gần ba tháng nay, 24/24 giờ, chúng ta như thế trong cả nước đã vào trận, quyết chống dịch với tất cả ý chí và nghị lực có thể, và đã thu được thắng lợi bước đầu:
Cho đến nay nước ta cơ bản vẫn đang kiểm soát được dịch bệnh covid-19 với kết quả cao nhất có thể, hạn chế được thiệt hại ở mức thấp nhất, và cũng là nước đang thành công nhất so với hơn 100 nước đang phải cùng nhau chống đại dịch toàn cầu (pandemic) hiện nay!
Thắng lợi bước đầu này cho chúng ta niềm tin và củng cố hơn nữa ý chí của chúng ta tiếp tục quyết chống đại dịch, cứu kinh tế, gìn giữ đất nước, bảo vệ bản thân mình trong cơn chấn động toàn cầu này! Quan trọng hơn thế nhiều lần, thắng lợi bước đầu này gặt hái cho chúng ta bài học sống còn của chính mình:
Có được thắng lợi này, nguyên nhân hàng đầu là chúng ta có ý chí dám đối mặt với sự thật, bởi vì đại dịch là thực tế khách quan, để sống sót chúng ta chỉ có sự lựa chọn duy nhất phải dám đối mặt với nó, quyết chống lại nó!
Nguyễn Đình Cống: Hưởng ứng Nguyễn Trung
![]() |
Giáo sư Nguyễn Đình Cống |
Vừa qua ông Nguyễn Trung viết bài: “Sức mạnh của chúng ta là dám đối mặt với sự thật”. Ngoài việc đăng báo mạng (Viet-Studies ngày 13/3) ông còn gửi cho các lãnh đạo cao cấp. Bài gồm 3 đoạn:
+ Đoạn 1- Về việc chúng ta đối mặt với sự thật trong công cuộc chống đại dịch Covid 19.
+ Đoạn 2- Một số đề xuất với ĐCSVN nhân dịp họ chuẩn bị ĐH 13.
+ Đoạn 3- Về tự do cho nhân dân.
Tôi không bàn gì về đoạn 1, chỉ đề cập đến đoạn 2 và 3.
![]() |
Ông Nguyễn Trung |
Ông Nguyễn Trung là người rất quan tâm đến vận mệnh đất nước, đã từng có nhiều bài gửi lãnh đạo, trong đó có những ý kiến sắc sảo, chính xác, tâm huyết. Lần này ông đề xuất một số vấn đề khi ĐCS chuẩn bị ĐH 13. Trong đó có một số ý như sau:
Đoạn 2:
+ Bài học đối mặt với sự thật trong chống đại dịch cần áp dụng cho ĐH 13.
+ Sự thật trong hơn 30 năm qua, tuy kinh tế có phát triển, nhưng người dân chủ yếu đi làm thuê, đất nước trở thành thứ cho thuê. Con đường XHCN là chệch hướng. ĐCSVN phải chịu trách nhiệm về hiện tình yếu kém của đất nước.
+ Khi ĐCS dám đối mặt với sự thật, dám cải cách thể chế chính trị, giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ, Đảng sẽ được toàn dân khoan dung và ủng hộ.
+ Chất lượng cán bộ là quan trọng, nhưng liệu ĐH 13 có tạo ra được nó không?+ Ông Nguyễn Phú Trọng định viết văn kiện ĐH 13 như văn bia. Sẽ có bia, nhưng là bia vinh quang hay chỉ là cột mốc trên con đường tha hóa?
Thứ Ba, 3 tháng 3, 2020
Nguyễn Trung: Cùng với thời hậu đại dịch COVID-19 sẽ còn là thời hậu sự thật của nó
Hiện nay hãy còn quá sớm để nói đến thời hậu đại dịch COVID-19, bởi lẽ SARS COVID-19 hiện còn đang ngấp nghé có thể trở thành đại dịch toàn cầu (pandemic) hay không? Và nếu con người bất lực để cho pandemic này xảy ra, chưa ai nói được thế giới chúng ta đang sống hôm nay sẽ là gì. Song tư duy để chuẩn bị cho phía trước thì không được phép chờ đợi. Chức năng của tư duy cũng có nhiệm vụ như vậy.
Dựa vào những bài viết, những ý kiến của giới nghiên cứu và giới báo chí nước ngoài cũng như trong nước tôi tiếp cận được, tôi đi đến kết luận: Cùng với thời hậu đại dịch COVID-19, sẽ là thời hậu sự thật của đại dịch này – hiểu theo tinh thần của Yuval Harari.
Trong cuốn “21 bài học cho thế kỉ 21”, xuất bản 08-2018, Harari đã nêu ra đòi hỏi những vấn đề toàn cầu hôm nay phải có câu trả lời mới, và cho rằng chúng ta đang sống trong thời kỳ hậu sự thật – hàm ý: Mọi sự lừa dối và tin giả dù gian ác hay xảo quyệt đến mức nào, do bất kể quyền lực hay tham vọng nào thực thi, cuối cùng – như kinh nghiệm trong lịch sử của con người (ở đây Harari muốn nói đến lịch sử của Homo Sapiens) đã chỉ ra – hệ quả của mọi tội ác và lừa dối sớm muộn sẽ tự chính nó sẽ phơi bầy ra sự thật. Trong thời đại của tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày nay, lừa dối và tin giả mang những độ lớn với những tốc độ và chiều kích chưa từng có, gây ra những tội ác mới tương ứng chưa từng có, và chính hệ lụy của những tội ác này – cũng với tốc độ và chiều kích chưa từng có – sẽ vạch ra sự thật phũ phàng… [Trong phần này, Harari có một lưu ý đầy trào phúng: Nếu người nào còn nghi ngờ thực tế này, có lẽ anh ta chỉ có may mắn nếu sống chung với những người vượn tinh tinh!]. Đại dịch COVID-19 đang thừa nhận cách suy nghĩ của Harari.
Trước hết xin điểm qua thế giới suy nghĩ gì về đại dịch COVID-19.
Thứ Tư, 25 tháng 9, 2019
Nguyễn Trung: - Nếu Việt Nam không tự cứu mình, sẽ không một ai cứu được Việt Nam – kể cả chúa trời! - Nếu Việt Nam quyết tự cứu mình, cả thế giới sẽ xúm lại bênh vực và giúp Việt Nam bảo vệ được tổ quốc mình!
Bình luận của Tuổi trẻ ngày 22-09-2019 về phát ngôn của Cảnh Sảng – Bộ Ngoại giao Trung Quốc – đã nói lên sự thật:
Trung Quốc vừa ăn cướp vừa la làng!
Thật không còn gì trắng trợn hơn khi người phát ngôn Cảnh Sảng ngày 18-09-2019 nhân danh Bộ Ngoại giao CHNDTH nói rằng: “Kể từ tháng 5 năm nay, phía Việt Nam đã đơn phương thực hiện việc khoan tìm khí đốt ở vùng nước ở Wan'an Tan (Bãi Tư Chính) của Trung Quốc, điều này đã vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của Trung Quốc. Nó cũng vi phạm thỏa thuận song phương về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, điều 5 của Tuyên bố chung của các bên ở Biển Đông (DOC), và các điều khoản liên quan trong UNCLOS (Công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc). Việt Nam nên ngay lập tức dừng các hoạt động vi phạm đơn phương để lập lại sự yên tĩnh tại vùng nước liên quan...”
Trong khi đó qua những hành động tại bãi Tư Chính, phía Trung Quốc đã vi phạm toàn bộ những thỏa thuận cấp cao song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, những cam kết của Trung Quốc trong khung khổ hợp tác ASEAN-Trung Quốc, đồng thời chà đạp thô bạo luật pháp quốc tế về gìn giữ hòa bình và các mối quan hệ giữa các quốc gia trong cộng đồng quốc tế - trong đó đặc biệt là Trung Quốc đã xâm phạm trắng trợn UNCLOS 1982.
Sự thật hiển nhiên là vùng biển ở bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa và nằm bên trong vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, không mảy may liên quan đến bất kỳ một vùng tranh chấp nào – kể cả so với các vùng của 7 đảo và bãi của vùng đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc đã xâm lược và hiện nay đang chiếm đóng trái phép kể từ năm 1988.
Thứ Năm, 19 tháng 9, 2019
Nguyễn Trung: - Hãy làm cho cả nước là một chiến tuyến thống nhất bảo vệ tổ quốc! - Hãy làm cho cả nước dốc lòng xây dựng đất nước sớm giầu mạnh!
Mấy tháng nay cả thế giới lo lắng theo dõi: Chỉ cần một phát súng định mệnh nổ ra trên Biển Đông – dù vô tình, hay vì chủ ý, do bất kể nguyên nhân gì, từ phía nào… (vì phải tự vệ, hay do khiêu khích…) – trong những đợt quần rượt, xua đuổi nhau, giữa một bên là các lực lượng bảo vệ bờ biển của Việt Nam xua đuổi những kẻ xâm phạm đến từ phía Trung Quốc, và một bên là các lực lượng hải quân và cảnh sát biển Trung Quốc hộ tống tầu hải dương địa chất HD8 và tầu cần cẩu khủng Lam Kình liên tục mấy tháng nay ngang nhiên tiến hành những hành động chỉ có thể đặt tên là xâm lược – nhiều lúc xảy ra tại những điểm rất sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam – có khi chỉ cách đường cơ sở của Việt Nam 11 hải lý, và cách đảo Lý Sơn 30 Hải lý (vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam có chiều rộng là 200 hải lý tính từ đường cơ sở)…
Giới nghiên cứu quân sự của NATO, EU.., hoặc của những tổ chức có tên tuổi như RAND Corporation, Học viện Hải quân (Mỹ)… cho rằng phía TQ rất cần một tia thuốc súng như thế cháy lên ở Biển Đông, để có cớ cho họ chủ động ráng cho lực lượng bảo vệ biển của Việt Nam đòn chí mạng, và xúc tiến luôn thể một số việc đã rồi khác! Trung Quốc đang theo đuổi đến cùng mục tiêu này!.. V… v…
Cho đến nay, phát súng định mệnh này chưa nổ ra trên Biển Đông – về phía VN rõ ràng là do sự tự kiềm chế đến buốt gan buốt óc, với sự kiên định tới cùng còn nước còn tát vì hòa bình![i] – còn về phía TQ, như trong tình trạng đất nước họ ở thời điểm này (bao gồm cả vấn đề Hongkong và vấn đề Đài Loan đang rất nóng bỏng) cho thấy, có lẽ cũng không đơn giản lắm nếu lúc này chủ động khiêu khích cuộc chiến trên biển!..
Song ai dám nói trước điều gì về sự hành xử của TQ?!..
Thứ Ba, 3 tháng 9, 2019
Nguyễn Trung: Xin mỗi chúng ta cùng nhau chia sẻ mối lo - Tổ quốc đang bị thách thức nghiêm trọng!
Từ ngày 03-07-2019 đến nay (30-08-2019) tầu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc với sự hộ tống của các tầu chiến cỡ lớn của lực lượng cảnh sát biển và lực lượng hải quân Trung Quốc ngang nhiên vào hoạt động phi pháp vùng đặc quyền kinh tế trên thềm lục địa tại vùng Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam (200 hải lý tính từ bờ biển, ước khoảng 370 km). Có lúc Trung Quốc đã huy động cả máy bay ném bom và máy bay chiến đấu để hỗ trợ cho hoạt động của tầu khảo sát địa chất Hải Dương 8 và những tầu chiến khác của họ[1], và đồng thời uy hiếp những hoạt động ngăn cản tại chỗ của lực lượng hải cảnh và lực lượng hải quân Việt Nam. Bất chấp sự phản đối quyết liệt của phía Việt Nam bằng con đường ngoại giao cũng như bằng những hoạt động ngăn cản, xua đuổi tại chỗ của các tầu chiến thuộc lực lượng hải cảnh và lực lược hải quân Việt Nam, cho đến nay Trung Quốc vẫn chưa chấm dứt những hoạt động phi pháp này của mình. Thậm chí đã có lúc tầu Hải Dương 8 còn tiến sâu vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cụ thể là chỉ cách đảo Phú Quý 102 km và cách Phan Thiết 182 km[2].
Toàn bộ những hành động phi pháp nêu trên của phía Trung Quốc mang tính mở đầu một giai đoạn xâm lược mới của Trung Quốc đối với Việt Nam trên Biển Đông, nhằm tiếp tục xúc tiến chiến lược hoàn tất độc chiếm Biển Đông.
Nhưng nghiêm trọng hơn nữa, bước đi nêu trên còn được Trung Quốc tính toán như một mũi phản công chiến lược, trên cơ sở tận dụng thế mạnh áp đảo tại chỗ, một mặt nhằm giáng trả những đòn của Mỹ trong chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đang diễn ra (được coi như thời kỳ mở màn của đối đầu mang tính đối kháng thế kỷ giữa Trung Quốc và Mỹ), mặt khác phục vụ mục tiêu chiến lược đẩy Mỹ ra khỏi khu vực Châu Á - Ấn Độ Dương (tham khảo thêm tuyên bố của bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mark Esper 21-08-2019). Thực tế này có nghĩa Trung Quốc đặt Việt Nam vào điểm nóng trên trận tuyến đối đầu Mỹ - Trung, quyết lấy việc xâm lược trên Biển Đông và khuất phục Việt Nam để phát huy thế mạnh tại chỗ của Trung Quốc nhằm đẩy ảnh hưởng của Mỹ ra khỏi khu vực. Bước đi này của Trung Quốc trực tiếp thách thức Việt Nam: Hoặc là Việt Nam phải chịu khuất phục trước những hành động xâm lược và những ý đồ tranh giành bá quyền thế giới của Trung Quốc; hoặc là nếu Việt Nam cưỡng lại thì sẽ bị Trung Quốc khuất phục!
Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2018
Nguyễn Trung: Về quyết định 19-12-2018 của Trump
Ngày 19-12-2018 Trump tuyên bố rút 2000 quân Mỹ khỏi Syrie và sẽ rút tiếp đại bộ phận của 7000 quân tại Afghanistan, đúng như quan điểm của Trump trong khi tranh cử cho đến hôm nay: Mỹ không thể cứ nai lưng làm mãi cảnh sát cho thế giới![i] Tuy thế, quyết định này là một cú sốc lớn ngay trong nội bộ chính giới Mỹ - tới mức tổng trưởng quốc phòng J Mattis và đặc sứ B McGurk (dẫn đầu liên minh của phương Tây chống khủng bố) từ chức. Quyết định này đồng thời tác động mạnh vào Tây Âu và cả thế giới còn lại. Lý do Trump đưa ra cho quyết định rút quân là: Đã hoàn thành nhiệm vụ chống khủng bố IS, mọi vấn đề có liên quan còn lại là công việc của nước sở tại và các nước liên quan, Mỹ không có trách nhiệm phải ở lại mãi mãi những nơi này...
Dư luận báo chí Mỹ và nhiều nước khác cho quyết định của Trump tính toán theo kiểu con buôn: Có lợi thì làm, không có lợi thì vứt bỏ theo kiểu đem con bỏ chợ - dù là ai đi với Mỹ (trong trường hợp này là bộ tộc người Kurd ở Syrie đã 4 năm xả thân chiến đấu bên cạnh quân Mỹ ở Syrie chống khủng bố IS và chống chính quyền Bashar al-Assad). Ai cũng biết vấn đề IS và Al Qaeda đã kéo dài gần 2 thập kỷ nay – tính từ 2001, và chưa biết đến bao giờ mới giải quyết được. Ít nhiều có tính toán của Trump bỏ vấn đề IS cho Nga và Thổ. Hơn nữa sự thật là từ thời Obama đến nay Mỹ không thể đảo ngược được chỗ đứng của Nga ở Syrie. Trước mắt, được lợi trong quyết định này của Trump là Nga và Thổ.
Hãy để thời gian làm rõ những gì liên quan đến quyết định 19-12-2018 rút quân 2 nơi của Trump.
Có mấy điều đáng lưu ý sau đây:
Thứ Năm, 23 tháng 8, 2018
Nguyễn Trung: Bối cảnh của khu vực và đòi hỏi của đất nước hôm nay không có chỗ đứng cho 3 đặc khu kinh tế (Tham luận)
Trong thư ngỏ ngày 08-06-2016 gửi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và toàn thể Bộ Chính trị, tôi đã trình bầy các lý lẽ nên hoãn, tốt nhất là nên hủy bỏ dự án về 3 đặc khu kinh tế. Tham gia tọa đàm của CODE hôm nay với chủ đề “xây dựng luận cứ khoa học cho dự án ba đặc khu kinh tế”, tôi xin trình bầy thêm một số ý kiến bổ sung sau đây.
BỐI CẢNH KHU VỰC:
Trong khu vực châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, đặc khu kinh tế theo như mô hình nêu trong dự án đã trình Quốc hội ngày nay đã trở nên lỗi thời.
Trong quá trình làm dự án 3 ĐKKT của ta, đặc khu Thâm Quyến được ca ngợi (đúng và sai) hết lời, và được coi như hình mẫu chủ yếu để biện minh cho lý lẽ ra đời 3 ĐKKT của VN. Song trong quá trình lập luận, nhiều chi tiết rất quan trọng đã bị bỏ qua. Trước hết, đặc khu Thâm Quyến ra đời năm 1980, lúc đó TQ mới có 2 năm cải cách kinh tế (bắt đầu năm 1978) nên có rất nhiều bỡ ngỡ và khó khăn ban đầu. Hơn nữa, Thâm Quyến có khu tô nhượng Hongkong rất phát triển ngay sát nách làm chỗ dựa. Trên thực tế những thập kỷ ban đầu Thâm Quyến là một khu kinh tế chủ yếu phục vục (hay khai thác) nền kinh tế Hongkong để tồn tại và phát triển. Thực tế này hôm nay về cơ bản vẫn như vậy. Nói cách khác, không có Hongkong ngay sát nách, Thâm Quyến chắc chắn không tồn tại được. Dẫn chứng cụ thể là đồng thời ra đời với Thâm Quyến còn 3 đặc khu nữa được xây dựng tại các vùng khác nhau của TQ, song cả 3 đặc khu này đều chết yểu – vì TQ chỉ có 1 Hongkong!
Trong vòng 3 – 4 thập kỷ nay, tôi chưa tìm thấy ở đâu trên thế giới một đặc khu kinh tế nào thành công theo kiểu Thâm Quyến, ở châu Á càng không, kể cả ở Châu Mỹ Latinh. Thậm chí phần lớn những ĐKKT đã ra đời trong những thập kỉ trước đây hoặc đã thất bại, hoặc ngày nay đều phải biến dạng thành những cái gì khác, hoặc không còn tồn tại nữa. Đơn giản vì mô hình ĐKKT đã hoàn toàn lỗi thời.
Trong khi đó tại một số nước phát triển thường có một số đặc khu hay tiểu vùng có những phát triển đặc thù cho những sản phẩm riêng rất đặc thù của nó. Ví dụ, đấy là những thành phố, vùng, hay khu vực của công nghiệp nhẹ, của công nghiệp nặng, sản phẩm dệt, sản phẩm công nghiệp hóa chất, sản phẩm công nghiệp tin học, sản phẩm thực phẩm hay đồ uống cao cấp, đặc khu dịch vụ tài chính, v… v… hoặc rất độc đáo như là cái nôi của phát triển công nghệ mới như thung lũng Silicon Valley – Hoa Kỳ… Song tất cả những nơi này, rất phát triển, rất đặc thù, dựa trên sự phát triển chung của quốc gia của chúng, và không mảy may có bất kỳ cái gì liên quan đến những vấn đề như chúng ta đang bàn về 3 đặc khu kinh tế như đang định xây dựng ở nước ta!
Thứ Ba, 19 tháng 7, 2016
Nguyễn Trung*: Thư ngỏ
*nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Hà Nội, ngày
18 tháng 7 năm 2016
Kính gửi:
Quốc hội khoá 14 của nước Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Quốc hội khoá 14 của nước Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Đồng kính gửi các quý vị
- Nguyễn Phú Trọng,
Tổng bí thư ĐCSVN,
- Trần Đại Quang,
Chủ tịch nước CHXHCNVN,
- Nguyễn Xuân Phúc,
Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCNVN,
- Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch
Quốc hội khoá 14
Xin
thưa,
Vì những thảm
hoạ môi trường đã, đang xảy ra và những hệ luỵ đang uy hiếp sự tồn vong của đất
nước, tôi là công dân Nguyễn Trung, xin trân trọng đề nghị Quốc Hội khoá 14 tiến
hành trưng cầu ý dân cho ba (ba) vấn đề sau đây:
1. Đóng cửa và xoá bỏ khu công
nghiệp Vũng Áng Formosa đang tồn tại và hoạt động theo giấy phép hiện hành.
2. Chuyển cảng biển Sơn Dương với
tính chất là một bộ phận cấu thành của khu công nghiệp Vũng Áng Formosa thành cảng
biển BT (Build and Transfer – xây dựng và chuyển giao) của nước Cộng
Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, do chủ thể Khu công nghiệp Vũng Áng Formosa xây
dựng và chuyển giao cho phía Việt Nam theo luật pháp của nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam dành cho thể thức “xây dựng & chuyển giao (BT)”.
3. Quốc hội khoá 14 ra lời kêu gọi
nhân dân đứng lên đoàn kết bảo vệ môi trường: Toàn dân dốc sức cứu môi trường bị
xâm hại như cứu hoả cho đất nước, đồng thời nỗ lực bảo vệ, tôn tạo môi trường
hiện còn gìn giữ được; cùng nhau hậu thuẫn, thúc đẩy và giám sát trong cả nước
việc thực thi pháp luật và các chủ trương chính sách đã ban hành liên quan đến
bảo vệ môi trường; tham gia sửa đổi hệ thống luật pháp và các chủ trương chính
sách hiện hành liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong tình hình mới của
đất nước; tranh thủ mọi sự giúp đỡ có thể của cộng đồng thế giới cho việc cứu
và bảo vệ môi trường của đất nước.
Thứ Ba, 16 tháng 2, 2016
Nguyễn Trung - Đại hội XII, một thất bại chung của Việt Nam!
1.
Đấy là nhận xét của tôi, - đứng tại góc độ nhìn nhận một Việt Nam với Đại hội
XII của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thế giới hôm nay sẽ được gì, mất gì? Sẽ mạnh
lên hay yếu đi?..
Đơn giản vì
thế giới hôm nay nói chung, và nhất là (a) xu thế trên thế giới muốn có một Việt
Nam mạnh đứng vững trên đôi chân của mình mà hòa bình và sự phát triển của thế
giới hôm nay đang cần, hoặc là (b) xu thế muốn có một Việt Nam tiếp tục suy yếu
để khai thác tốt hơn nữa sự lệ thuộc của nước này cho khát vọng giấc mộng Trung
Hoa.., các xu thế khác (c) .., (d) .., (e) … vân vân.., tất cả những xu thế này
trên thế giới không quan tâm đến mức mất ăn mất ngủ chuyện ai ở ai đi của Đại hội
XII…
Các xu thế
này trên thế giới quan tâm nhiều hơn đến chuyện ai ở ai đi đã được định hình tại
Đại hội XII như vậy hứa hẹn sẽ dẫn tới một Việt Nam nào trong thế giới hôm nay
và những năm tới? Sẽ có lợi hay bất lợi cho ai?.. Với một Việt Nam sau Đại hội
XII như thế sẽ có những hệ quả gì trên bàn cờ khu vực, bàn cờ quốc tế?.. vân
vân...
Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014
Nguyễn Trung - Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy
Chẳng lẽ đốn đời đến mức phải nói lời cảm ơn với cái giàn khoan HD
981 hả trời đất!? Tôi cảm thấy xấu hổ trong lòng về ý nghĩ này, và quả thực
trong bụng có lúc tôi đã nghĩ như vậy!
Sự thật là không ít các bạn đồng niên của tôi cũng có cách nghĩ
như thế trước một thực tế đau lòng: Hàng chục năm nay, chí ít là từ khi anh
Trần Quang Cơ trong cuốn Hồi ức và suy nghĩ (2001) của mình đã giấy
trắng mực đen cảnh báo rành rành trước cả nước về mối họa Thành Đô. Nhưng tất
cả cứ như nước đổ đầu vịt! Các lời cảnh báo khác qua mấy khóa đại hội đảng cũng
thế…
Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013
Nguyễn Trung - Câu chuyện Myanmar
Nguyễn Trung
Tướng Thein Sein nhậm chức tổng thống Myamar chưa đầy hai năm. Dưới quyền ông, Myanmar từ bóng tối của chế độ quân phiệt đẫm máu đang bước ra ánh sáng của một thể chế chính trị dân chủ. Bạn bè gần xa của Myanmar đến hôm nay vẫn chưa hết ngỡ ngàng về bước phát triển này.
Bóng tối vừa qua ở Myanmar bắt đầu từ cuộc đàn áp đẫm máu ngày 08-08-1988 do nhóm các tướng lĩnh trong Hội đồng Quốc gia phục hồi Luật pháp và Trật tự (SLORC) chỉ huy quân đội thực hiện, nhằm đàn áp cuộc nổi dậy của nhân dân đòi dân chủ. Hàng trăm sinh viên, các nhà sư và những người chống đối khác đã bị giết, hàng nghìn người bị cầm tù. Bất chấp tình hình này, bất chấp lãnh tụ của Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) – bà Aung San Suu Kyi – đã bị giam giữ tại nhà từ tháng 7-1989, đảng NLD trong cuộc bầu cử 05-1990 do chính quyền của SLORC tiến hành, vẫn giành được 329/491 ghế trong Quốc hội. SLORC đã ra lệnh hủy bỏ kết quả bầu cử này và trực tiếp chiếm quyền.
Tháng 7-1997 SLORC đổi tên thành Hội đồng quốc gia vì Hòa bình và Phát triển (SPDC), tháng 5-2008 thông qua hiến pháp mới theo chế độ lưỡng viện và đa đảng. Song trên thực tế, hiến pháp thừa nhận quyền lực bất khả xâm phạm của quân đội bằng việc quy định quân đội được giữ cố định 110/440 ghế của Quốc hội và 56/224 ghế của Nghị viện liên bang; chính quyền tiếp tục củng cố quyền lực của các tướng lĩnh, loại bỏ các đảng đối lập – trong đó có NLD, vận dụng Luật Hình sự 1996 để đàn áp tiếp. Đất nước ngày càng tiêu điều mọi mặt vì độc tài và tham nhũng. Trong khi đó hầu như không thể chấm dứt được chiến tranh xung đột sắc tộc và nguy cơ ly khai của một số bang. Sự lũng đoạn của Trung Quốc về kinh tế và chính trị ở mức nguy hiểm. Cái nghèo và lạc hậu càng gay gắt thêm do sự cấm vận kéo dài của phương Tây – vì các lý do đàn áp 1988, đảo chính 1990 xóa bỏ kết quả bầu cử và vì vi phạm nhân quyền (tàn sát và bỏ tù nhiều người chống đối, có quá nhiều lính là trẻ em, lao động trẻ em…). Lại thêm sự hoành hành của cơn siêu bão Nargis tháng 5-2008 cướp đi gần 140 nghìn sinh mạng người dân Myanmar… Tất cả dìm đất nước xuống bùn đen…
Tình hình chỉ bắt đầu thay đổi kể từ khi có cuộc bầu cử tháng ngày 07-11-2010 với thắng lợi của đảng Liên minh vì đoàn kết và phát triển (USDP) của tướng Thein Sein và việc bà Aung San Suu Kyi được trả lại tự do ngày 13-11-2010.
Ngày 30-3-2011 tổng thống Thein Sein nhậm chức, với cam kết trung thành với hiến pháp 2008 và thực hiện Lộ trình dân chủ 7 bước (đã có từ thời Than Swe làm tổng thống, nhưng nằm chết trên giấy), nhằm xây dựng Myanmar dân chủ và hiện đại.
Bước đi đầu tiên của tổng thống Thein Sein là giải thể SPDC (thực chất là hội đồng tướng lĩnh đầy quyền lực, có tiền thân là SLORC), ban bố các biện pháp cải cách.
Tuy nhiên, bước ngoặt có ý nghĩa quyết định có lẽ là sự kiện tổng thống Thein Sein ngày 19-08-2011 chính thức tiếp bà Suu Kyi và thừa nhận tính hợp pháp của NLD. Trong cuộc họp này cả hai bên cam kết thực hiện hòa giải dân tộc, hợp tác và thúc đẩy quá trình cải cách ở Myanmar. Để có được sự kiện này, cả hai bên đều phải vượt qua nhiều trở ngại. Trở ngại lớn nhất về phía tổng thống là nỗi lo chấp nhận NLD sẽ dẫn tới không kiểm soát được toàn bộ phe đối lập. Còn phía đối lập vừa sợ, vừa nghi ngại; nhiều ý kiến cho rằng bước đi này của Thein Sein chỉ là thủ đoạn chính trị để mua điểm, cho là bà Suu Kyi hoặc là mắc mưu, hoặc là ham danh vọng… Cuối cùng, nhiều hiềm nghi lẫn nhau đã lần lượt vượt qua được. Sự hợp tác trở thành nguyên nhân cơ bản thúc đẩy cải cách đồng bộ và toàn diện.
Có thể đo sự tiến triển của cách chính trị trong 20 tháng đầu tiên kể từ khi tổng thống Thein Sein nhậm chức bằng các sự việc đã diễn ra. Đấy là những bước cải cách nối tiếp nhau hoặc lồng ghép vào nhau. Mọi biện pháp cải cách đều được thực hiện rất thận trọng, đi dần từng bước, có bài bản kết hợp hài hòa giữa các vấn đề kinh tế và chính trị khác nhau. Đặc biệt quan trọng là thực hiện được nói đi đôi với làm. Thực tế này tạo ra sự tín nhiệm của nhân dân dành cho tổng thống, trở thành nguyên nhân trực tiếp góp phần đẩy mạnh nhịp độ và quy mô cải cách. Nhờ vậy cải cách ngày càng có điều kiện đi vào những vấn đề cốt lõi: Thực hiện sâu hơn các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Trước hết đấy là các đợt thả tù chính trị, từng bước nới lỏng dần một số kiểm soát dân sự chiểu theo Luật Hình sự năm 2008, nới lỏng việc tụ tập đông người, giảm dần việc kiểm duyệt báo chí, từng bước mở rộng tự do ngôn luận...
Sau khi một số đợt thả tù chính trị đầu tiên diễn ra suôn sẻ, ngày 03-12-2011 chính quyền ban bố luật biểu tình, sau đó tiến hành tiếp các đợt thả tù chính trị, và hoàn tất việc này trước khi tiến hành cuộc bầu cử bổ sung tháng 4-2012.
Tiến triển của tình hình cải cách đã khiến chính quyền ngày 20-08-2012 tuyên bố bãi bỏ việc kiểm duyệt báo chí. Một thời gian sau đó tiếp theo, ngày 24-01-2013, chính quyền tuyên bố xóa bỏ nốt cơ quan kiểm duyệt báo chí và coi như hoàn tất việc thực hiện tự do báo chí. Đây là lần đầu tiên sau 48 năm Myanmar có tự do báo chí. Điều duy nhất trên 200 báo chí tư nhân ở Myanmar bây giờ phải tuân thủ là những mục tiêu quốc gia và những giá trị dân tộc đã được ghi trong Hiến pháp.
Ngày 16-01-2013 tổng thống Thein Sein tuyên bố bãi bỏ luật đàn áp những người chống chế độ được ban hành từ năm 1996, với lời giải thích luật này đã quá lỗi thời, không thể sửa được. Tổng thống kêu gọi mọi người bất đồng chính kiến ở trong nước hay đã ra nước ngoài cùng chung tay xây dựng đất nước.
Ví dụ tiêu biểu cho tiến triển của quá trình dân chủ hóa ở Myanmar có lẽ là cuộc bầu cử bổ sung tháng 4-2012, nhằm bầu tiếp 46 ghế còn trống trong Quốc hội và Nghị viện liên bang. Có khoảng 35 đảng tham gia tranh cử, tất cả đều làm theo đúng những quy định của pháp luật. Tại tất cả những nơi bỏ phiếu, cuộc bầu cử được tiến hành tự do, công khai, dưới sự giám sát trực tiếp của đại diện các đảng tranh cử và của các quan sát viên nước ngoài được mời – bao gồm cả đại diện các đại sứ quán tại Myanmar. Hết giờ bỏ phiếu, hòm phiếu được kiểm đếm ngay tại chỗ và làm biên bản kết quả bỏ phiếu trước sự hiển diện của tất cả những người tham gia giám sát. Cuộc bầu cử trung thực và rất thành công này nói lên nhiều điều về những gì đang diễn ra trong lòng đất nước Myanmar, nhân dân hồ hởi. Đảng NLD của bà Aung San Suu Kyi chiếm được 42/46 ghế. Đây thực sự là một thắng lợi lớn, hé mở một tương lai rất hứa hẹn của đất nước này.
Ngày 29-09-2012 trả lời phỏng vấn của BBC, tổng thống Thein Sein nói: Bà Aung San Suu Kyi góp phần quan trọng vào cải cách Myanmar, bà có thể trở thành tổng thống..., nếu được nhân dân Myanmar bầu, ông ta cũng sẽ chấp nhận… Còn giới báo chí Myanmar và quốc tế đánh giá: Tổng thống Thein Sein đã vượt qua được nỗi sợ phe đối lập và giới truyền thông, những nỗ lực cải cách của ông ta là chân thành và cả quyết, nhất là những quyết định của ông liên quan đến quân đội…, ông ta làm tất cả vì đất nước Myanmar... Sự chân thành và quyết tâm cải cách của tổng thống đã tranh thủ được lòng dân, tạo ra hậu thuẫn quan trọng của dân cho những quyết đinh của chính quyền, nỗi sợ của dân đối với chính quyền dần dần được vượt qua…
Quyết định 09-2012 của tổng thống Thein Sein hủy bỏ hợp đồng thủy điện Myitsone 3,6 tỷ USD do một số nhóm trong quân đội đã ký với Trung Quốc là một ví dụ nữa về ý chí kiên quyết và về quan điểm đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Quyết định này được nhân dân Myanmar nhiệt liệt hoan nghênh, vì nó đã cứu được vùng đất tâm linh của nhân dân trong vùng và tránh được cho Myanmar một thảm họa môi trường sẽ không thế khắc phục được. Trung Quốc đã phản đối quyết liệt, nhưng không đảo ngược được tình hình. (Hiện nay những nỗ lực đảo ngược quyết định của tổng thống vẫn đang tiếp tục).
Một ví dụ khác: Đi vào cải cách kinh tế, Myanmar vấp phải tình trạng tỷ giá đồng tiền quốc gia “Kiat” cao hơn 100 lần giá trị thực của nó so với các đồng ngoại tệ mạnh, ví dụ so với đồng USD. Việc này chính quyền Myanmar giải quyết gọn ghẽ trong vòng vài tháng, thúc đẩy kinh tế đất nước mình phát triển. Nhớ lại thời bao cấp ở nước ta cũng có vấn đề tương tự, bước vào thời đổi mới nước ta phải chật vật khá nhiều năm mới giải quyết được vấn đề này.
Một nền kinh tế nghèo trong quá trình cải cách có hàng núi vấn ðề, chýa nói ðến những hậu quả do bị cắt ðứt mọi liên hệ với bên ngoài vì bị bao vây cấm vận quá lâu. Song nhờ rất nhiều giải pháp thông minh, những tiến bộ Myanmar đạt được trong 20 tháng đầu tiên của nhiệm kỳ Thein Sein thực sự đã khiến cho kinh tế Myanmar khởi sắc – có thể đo được bằng mọi chỉ số như tăng trưởng GDP, tăng trưởng xuất/nhập khẩu, tốc độ thu hút FDI, sự xuất hiện những ngành nghề và sản phẩm mới, sự hồi phục các trường đại học…
Chông gai còn rất nhiều ở phía trước trên con đường đi lên của Myanmar. Chuyện nóng bỏng nhất là vấn đề xung đột sắc tộc đã dịu hẳn đi trong những năm gần đây. Bây giờ, giữa lúc cải cách đang tiến triển, xung đột sắc tộc đột nhiên nóng trở lại ở một vài nơi nguy hiểm, đặc biệt là tại bang Rakhine. Tháng 11-2012 xảy ra vụ đàn áp có đổ máu của cảnh sát chống lại nhân dân và các nhà sư phản đối việc khai thác mỏ đồng Letpedaung; dự án này trị giá 1 tỷ USD, do một số công ty của quân đội và Trung Quốc liên doanh. Tổng thống Thein Sein phải cử bà Suu Kỵ đi can thiệp... Việc xử lý những “tác động phụ” của các dòng vốn FDI từ Trung Quốc, từ Thái Lan… chảy vào Myanmar cho thấy không đơn giản chút nào… Ngay cả hiến pháp hiện hành (Hiến pháp 2008) còn nhiều điểm chưa ổn, nhất là vấn đề quân đội được dành vĩnh viễn 25% số nghế tại Quốc hội và tại Nghị viên Liên bang. Chính vì lý do này, sau khi thắng cử bà Suu Kyi đã chần chừ mãi không chịu tuyên thệ trung thành với Hiến pháp, sau đó bà đành nhượng bộ… Vân vân.
Ngày nay, khả năng của chính quyền dân sự Myanmar kiểm soát quân đội bền vững như thế nào? Cuộc đàn áp đẫm máu năm 1988 và việc quân đội thẳng tay xóa bỏ thắng lợi vang dội của NLD trong cuộc bầu cử 05-1990 để chiếm quyền vẫn là những câu chuyện khó quên. Di sản 20 năm của chính quyền quân phiệt và sự lũng đoạn từ phía Trung Quốc rất nặng nề. Ông Thein Sein và bà Suu Kyi năm nay đều 67 tuổi, những gương mặt nào sẽ có triển vọng là những nhân vật kế tục lãnh đạo sự nghiệp cải cách?... Vân vân. Bất chấp những câu hỏi còn bỏ ngỏ này, vẫn có thể hy vọng cải cách ở Myanmar là không thể đảo ngược. Bởi vì xã hội đạo Phật ở Myanmar còn gìn giữ được nhiều giá trị cao quý, nhân dân Myanmar sau những thập kỷ sống dưới chế độ quân phiệt đã tạo ra cho mình sự giác ngộ mới, giới trí thức Myanmar đang ngày càng lấy lại được vai trò của mình, bối cảnh quốc tế và khu vực vừa thuận lợi vừa thúc đẩy nhân dân Myanmar dấn thân trên con đường cải cách dân chủ.
Trong chuyến đi thăm Myanmar tháng 5-2012 với tính cách là người đi du lịch, tôi may mắn được đại sứ quán ta thu xếp cho gặp nhà báo Thet Win, Tổng Giám đốc hãng truyền hình Sky Net – hãng truyền hình tư nhân lớn nhất của Myanmar. Những gì tôi mắt thấy tai nghe được trên đất nước Myanmar trong chuyến đi ngắn ngủi này, và những gì tôi được nghe trong hai giờ nói chuyện với Thet Win, càng củng cố niềm tin của tôi vào triển vọng cải cách ở Myanmar.
Hỏi (đại ý): Nguyên nhân gì quyết định nhất cho sự thành công đến nay của cải cách?
Thet Win (đại ý): Quyết tâm chính trị của những người trong các tầng lớp tinh túy (elite) của xã hội Myanmar trong và ngoài chính quyền – bao gồm cả phái đối lập. Sự hòa giải và thống nhất với nhau coi lợi ich quốc gia Myanmar là tối thượng. Vai trò trí thức được phát huy.
Hỏi (đại ý): Vì sao có được kịch bản, lộ trình, cách thực hiện rất khôn ngoan của cải cách? Vì sao có được nhiều giải pháp kinh tế rất thông minh, sáng tạo và hữu hiệu?
Thet Win (đại ý): Giúp tổng thống Thein Sein và nội các là hàng trăm trí thức các loại cho mọi vấn đề của đất nước. Họ không tham gia chính quyền, nhưng vai trò tư vấn của họ vô cùng quan trọng.
Hỏi (đại ý): Những trở ngại lớn nhất cho tương lai của cải cách là gì?
Thet Win (đại ý): Một là làm sao mọi người phải tuân thủ pháp luật. Hai là làm sao thực hiện được công khai minh bạch. Ba là không để cho khoảng cách giàu/nghèo hủy hoại tiến trình cải cách. Bốn là phải chống tham nhũng có hiệu quả.
Tôi cố gợi ông Thet Win nói thêm về những khó khăn và thách thức từ bên ngoài đối với tiến trình cải cách. Trước sau chỉ được câu trả lời (đại ý): Giải quyết tốt bốn thách thức nêu trên, Myanmar chẳng có gì để sợ. Khi chia tay nhau, ông Thet Win tha thiết: Myanmar và Việt Nam đều cần nhau lắm!
Tôi chỉ tiếc mình không có máy ghi âm để thuật lại toàn văn cuộc gặp này!
Sau chuyến đi này, câu hỏi trong tôi “làm thế nào Myanmar có thể tiến hành được cải cách như vậy” ngày một vỡ vạc ra: Vượt lên nỗi sợ, bắt đầu từ chữ tín, hòa giải, không bạo lực, tất cả vì đất nước Myanmar.
Thế nhưng khi đặt chân xuống sân bay Nội Bài, câu hỏi cũ quằn quại lên trong tôi gấp bội: Myanmar làm được, tại sao Việt Nam ta không làm được?
Trí tuệ và dân chủ – có lẽ đấy là hai thứ đất nước ta lúc này đang cần nhất.
Hà Nội, ngày 25-02-2013
N. T.
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013
Nguyễn Trung - Cuộc chiến biên giới Việt - Trung nhìn từ phía bên kia
Nguyễn Trung (VOA)
Tiến sỹ Lý Tiểu Binh nhận định rằng thời gian tới Việt Nam và Trung Quốc 'sẽ lại trải qua những thăng trầm trong mối quan hệ'.
Tiến sỹ Lý Tiểu Binh
Trên các trang mạng xã hội hôm 17/2 đồng loạt xuất hiện hình ảnh hoa sim tím để tưởng nhớ các chiến sĩ Việt hy sinh trong chiến tranh biên giới năm 1979. Trong khi đó, báo chí trong nước hầu như không đề cập tới cuộc chiến mà con số thương vong vẫn còn gây tranh cãi giữa hai nước láng giềng từng được coi là có mối quan hệ ‘môi hở răng lạnh’. Còn tại Trung Quốc, Tiến sỹ Lý Tiểu Binh của Đại học Central Oklahoma cho VOA Việt Ngữ biết rằng giới chức quân sự nước này vẫn sử dụng cuộc xung đột xảy ra hơn 30 năm trước để khích lệ tinh thần dân tộc nhằm huy động sự hậu thuẫn chính trị. Trước hết, ông Binh nói về những bất hạnh mà chiến tranh biên giới gây ra cho cả Trung Quốc và Việt Nam.
Tiến sỹ Lý Tiểu Binh: Hai nước hiểu lầm ý định của nhau cũng như có những tính toán sai lầm trong hoạt động quân sự. Vì thế, cả hai bên đều chịu tổn thất nặng về về sinh mạng trong cuộc chiến ngắn ngủi.
Chỉ trong có 4 tuần, Trung Quốc thiệt hại nhân mạng là 23 nghìn người, tức là mỗi ngày có 1.300 người chết. Còn phía Việt Nam là 34 nghìn người. Con số thương vong quá lớn. Đó là một cuộc chiến thảm khốc đối với cả hai phía.
VOA: Khi phát động cuộc chiến, Trung Quốc muốn dạy Việt Nam ‘một bài học’, nhưng trong cuốn ‘Lịch sử Quân đội Trung Quốc Hiện đại’, ông viết rằng Hà Nội cũng tin là đã dạy cho quân đối phương một bài. Đó là những bài học gì, thưa ông?
Tiến sỹ Lý Tiểu Binh: Chúng hàm ý nhiều điều. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc, trong đó có Đặng Tiểu Bình, muốn ngăn không cho Việt Nam mở rộng ảnh hưởng sang các quốc gia láng giềng như Campuchia, nhất là khi Việt Nam đưa 200 nghìn quân vào chiếm đóng nước này năm 1977 và 1978.
Chính phủ Việt Nam khi ấy cũng có các chính sách hung hăng trên biên giới với Trung Quốc không những trên đất liền và còn ngoài biển khơi thuộc biển Nam Trung Hoa (tức biển Đông) cũng như các chính sách đối với các Hoa Kiều ở Việt Nam. Ông Đặng muốn chấm dứt tất cả những điều đó.
Nhưng theo tôi, quân đội Việt Nam cũng đã dạy cho đối phương Trung Quốc một bài học. Quân đội Trung Quốc khi ấy thì ngoài lỗi thời còn đánh giá thấp khả năng chiến đấu hiệu quả của quân đội Việt Nam. Ngoài ra, họ còn đánh giá sai tinh thần chiến đấu chống sự xâm lăng của người dân Việt. Chính vì lẽ đó, phía Việt Nam nghĩ rằng họ đã dạy cho Bắc Kinh một bài học.
Nhiều người sử dụng hình ảnh hoa sim tím để tưởng nhớ các chiến sĩ Việt hy sinh trong chiến tranh biên giới năm 1979.
VOA: Thưa Tiến sỹ, Trung Quốc thường kỷ niệm cuộc chiến biên giới như thế nào, và báo chí có đưa tin về sự kiện này không?
Tiến sỹ Lý Tiểu Binh: Có. Hiện giờ chính phủ cho phép truyền thông đưa tin về việc quân đội Trung Quốc đã chiến đấu dũng cảm như thế nào để ca ngợi hình ảnh anh dũng của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa và cũng đồng thời sử dụng việc này để cảnh báo dân chúng rằng Việt Nam vẫn còn là một chủ đề tiềm ẩn, nếu ta không muốn nói đến từ vấn đề.
Ngày nay đó không phải là vấn đề trên đất liền, mà xoay quanh quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Họ cũng dùng cuộc chiến biên giới để cảnh báo quần chúng trong nước về khả năng xảy ra một cuộc xung đột trong tương lai giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tôi biết là có những cuộc kỷ niệm quy mô nhỏ trong quân đội cho những vị tướng từng tham gia cuộc chiến biên giới. Dù cuộc chiến kết thúc nhưng xung đột vẫn tiếp diễn tới những năm 80, cho nên thế hệ lãnh đạo quân sự hiện thời ở Trung Quốc là các cựu chiến binh từng chiến đấu ở Việt Nam.
Giờ họ trở thành các chỉ huy hàng đầu. Họ ca ngợi các giá trị của họ cũng như lưu giữ thời kỳ chiến đấu vì đó là cuộc chiến cuối cùng mà Trung Quốc tiến hành với một nước khác. Vì thế họ dùng nó để khuếch trương những gì họ trải qua.
VOA: Từ cuộc chiến biên giới hơn 30 năm trước tới các vấn đề tranh chấp ở biển Đông, theo ông, Việt Nam có nên đặt kỳ vọng vào Trung Quốc?
Tiến sỹ Lý Tiểu Binh: Việt Nam tin rằng họ có sự ủng hộ trên toàn quốc từ người dân cũng như các phương tiện truyền thông. Chính phủ tuyên bố chủ quyền đối với những quần đảo trên vùng biển đó. Chính phủ Việt Nam đã mạnh mẽ lên tiếng chống lại sự hung hăng của Trung Quốc đối với các quần đảo trên biển Đông.
Họ tin rằng phía Trung Quốc sẽ thiết lập một hội nghị, diễn đàn, tôi không muốn dùng từ hợp tác, để bao gồm các nước tranh chấp nhằm giải quyết vấn đề mà không có sự can thiệp của bên ngoài, nhất là ảnh hưởng của Mỹ. Phía Việt Nam đã bắt đầu trao đổi với Trung Quốc nhưng họ không tin là họ được đối xử một cách bình đẳng.
Việt Nam muốn có sự tham gia và ủng hộ của các nước khác như Mỹ và Nhật Bản cộng với sự ủng hộ của các nước khác để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.
VOA: Theo đánh giá của ông, liệu có khả năng Bắc Kinh lại muốn dạy cho Việt Nam một bài học mới nữa không?
Tiến sỹ Lý Tiểu Binh: Tôi nghĩ là có. Vị thế của chính quyền hiện thời ở Trung Quốc khá mạnh. Họ lợi dụng và cổ xúy tinh thần dân tộc để huy động sự hậu thuẫn chính trị nhằm chống lại bất kỳ tuyên bố nào của Nhật Bản đối với quần đảo tranh chấp Senkaku (Điếu Ngư) hay của Việt Nam và Philippines đối với quần đảo Trường Sa.
Họ đã thể hiện và chứng tỏ sức mạnh quân sự bằng cách triển khai cả không lực và lực lượng hải quân, trong đó hàng không mẫu hạm mới tại vùng biển lân cận. Nó cho thấy họ chứng tỏ khả năng quân sự nhằm thị uy để các nước khác không đưa ra thêm các tuyên bố chủ quyền.
Trung Quốc đã thiết lập chủ quyền đối với với các hòn đảo ở biển Đông. Năm 1974 quân đội Trung Quốc tấn công các chiến hạm của quân đội miền Nam Việt Nam và lên chiếm các hòn đảo kể từ đó. Họ nói rằng nếu ai đó đến chiếm các hòn đảo đó, họ sẽ ra tay bảo vệ lãnh thổ của mình.
VOA: Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy của Việt Nam từng nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn với VOA Việt Ngữ rằng với chủ nghĩa bá quyền và ý đồ thâu tóm biển Đông của Bắc Kinh, thì việc đàm phán với Trung Quốc là điều không hiệu quả. Ý kiến của ông ra sao?
Tiến sỹ Lý Tiểu Binh: Đó chỉ là một khía cạnh. Còn có những quan điểm khác nữa. Cả hai chính phủ cần các giải pháp kinh tế cho những khó khăn trong vấn đề tranh chấp lãnh hải. Họ đang tìm kiếm các nguồn lực và các cơ hội mới. Họ từng có kinh nghiệm giải quyết các vấn đề tranh chấp như thương mại vùng biên, nhập cư hay buôn bán vũ khí. Trung Quốc muốn giải quyết tranh chấp thông qua thỏa thuận song phương với Việt Nam.
Trung Quốc có thể thiết lập bàn đàm phán và mời phía Việt Nam, dù tôi cũng không biết liệu việc đó có dẫn tới bất kỳ điều gì hay không. Nhưng đó là cơ hội để họ bàn thảo với nhau về chủ quyền các quần đảo. Tôi nghĩ là Trung Quốc sẽ mở đàm phán với Việt Nam trước khi tiến hành với Nhật Bản và Philippines về vấn đề chủ quyền lãnh hải.
VOA: Ông đánh giá như thế nào về mối quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh nói chung?
Tiến sỹ Lý Tiểu Binh: Mối quan hệ này có những thăng trầm, lên xuống và trải qua cả mặn nồng lẫn chua chát. Họ đều cần tới nhau. Họ đều coi nhau là các chính phủ cộng sản.
Nhưng mỗi nước đều có những lợi ích quốc gia riêng. Cho nên theo tôi, trong thời gian gần, cả hai nước sẽ lại trải qua những thăng trầm trong mối quan hệ, có lúc tranh cãi rồi lại hợp tác.
Theo tôi, chúng ta sẽ không chứng kiến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hay chiến tranh trong tương lai gần vì cả hai nước đều gặp khó khăn về kinh tế và đang trong giai đoạn chuyển đổi chính trị. Họ đều muốn mối quan hệ này có lợi thay vì gây tổn hại cho chính quyền.
Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013
Nguyễn Trung - Thư ngỏ
Thư ngỏ
Hà Nội, ngày 19-02-2013
Kính gửi
- Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,
- Toàn thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
- Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Kính thưa,
Tôi là Nguyễn Trung, 78 tuổi, trú tại 10(60A) ngõ 45A, phố Võng Thị, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội. Với tư cách là một trong những người tham gia Kiến nghị của 72 nhân sỹ trí thức về việc sửa đổi Hiến pháp[1] (gọi tắt: Kiến nghị 72), xin được phép trình bày một số suy nghĩ của tôi liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp đang được lấy ý kiến nhân dân cả nước
Một là, tôi nghĩ rằng sau 37 năm độc lập thống nhất, lần đầu tiên đất nước lại đứng trước nhiều nguy cơ lớn. Đó là:
- Cuộc khủng hoảng toàn diện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa hiện nay đất nước đang lâm vào khoảng một thập kỷ nay trầm trọng đến mức đe dọa sự mất còn chế độ chính trị và Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Điều này cũng có nghĩa cuộc khủng hoảng này đe dọa nghiêm trọng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phải báo cáo tình hình này trước cả nước tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Bộ Chính trị nhận trách nhiệm về mình và đã xin lỗi trước cả nước và toàn Đảng.
- Chủ nghĩa thực dân mới siêu cường Đại Hán đang trở thành vấn đề của cả thế giới - đặc biệt là đối với khu vực Biển Đông, uy hiếp trực tiếp các nước tại đây; đồng thời căng thẳng đang leo thang với nguy cơ có thể xảy ra chiến tranh trên Biển Đông. Sự lũng đoạn của Trung Quốc đối với các nước láng giềng – đặc biệt ở Đông Nam Á – đã tới mức nguy hiểm, trong đó có Việt Nam với tính cách là chướng ngại vật tự nhiên đầu tiên mà Trung Quốc nhất thiết phải khuất phục trên đường vươn ra đại dương. Cần nhìn thẳng vào sự thật là sự lũng đoạn mọi mặt của Trung Quốc hiện nay trên thực tế đã đặt Việt Nam lọt thỏm vào vòng kiềm tỏa nhiều mặt của Trung Quốc. Không ít ý kiến trong nhân dân cho rằng về nhiều mặt Việt Nam trên thực tế đã trở thành một chư hầu kiểu mới của chủ nghĩa thực dân mới siêu cường Đại Hán.
- Hệ thống chính trị của Việt Nam có quá nhiều bất cập để có thể cùng một lúc giải quyết 3 vấn đề lớn nóng bỏng đang đặt ra cho đất nước: (1) cần ổn định kinh tế để tìm đường đi vào một thời kỳ phát triển mới, nhưng hiện nay vẫn chưa có kế sách khả thi nào, nguy cơ kinh tế rơi xuống đáy sâu hơn nữa vẫn là thường trực; (2) chế độ chính trị tha hóa và quá yếu kém; tình hình đã đến mức vô hiệu hóa nhiều nỗ lực cứu chữa đã bỏ ra, tiếp tục kìm hãm sự phát triển của đất nước; trong khi đó hệ thống chính trị vẫn tiếp tục lún sâu hơn nữa vào độc tài toàn trị, để xảy tay có thể dẫn đến đổ vỡ; (3)đất nước vừa cần một sức mạnh bên trong làm nền tảng cho chính sách đối ngoại, vừa cần một đường lối đối ngoại độc lập tự chủ để đứng vững được trong tình hình căng thẳng và rất nhạy cảm hiện nay – đặc biệt là trên Biển Đông; song hiện nay cả hai đòi hỏi này cho mặt trận đối ngoại đều chưa có.
Có thể nói, những yếu kém của đất nước trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và khu vực – nhất là hiện tượng leo thang gây căng thẳng của Trung Quốc, đặc biệt là trên Biển Đông – đang uy hiếp nghiêm trọng độc lập chủ quyền và kìm hãm sự phát triển của đất nước ta.
Hai là toàn bộ tình hình nêu trên đã được hàng nghìn ý kiến cảnh báo trong những kỳ chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ X và lần thứ XI của ĐCSVN, rất tiếc rằng không được lãnh đạo lắng nghe và tiếp thu.
Trong những ý kiến cảnh báo ấy, ý kiến quan trọng nhất là nhận định cho rằng nguyên nhân cơ bản của tình hình đất nước hiện nay là sự tha hóa và bất cập của toàn bộ hệ thống chính trị, bắt đầu từ Đảng. Nhận định này kết luận: Tình hình đòi hỏi phải thực hiện một cuộc cải cách chính trị triệt để và toàn diện để mở lối ra cho đất nước. Song trong thực tế, đòi hỏi vô cùng quan trọng này chẳng những bị gạt đi, mà toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước trong gần một thập kỷ vừa qua ngày càng tiếp tục lún sâu vào bảo thủ, giáo điều, quan liêu; tệ nạn tiêu cực và tham nhũng ngày càng nặng; các quyền tự do dân chủ của nhân dân ngày càng bị xâm phạm. Chính thực trạng này là nguyên nhân gốc làm cho những năm vừa qua là thời kỳ phát triển xấu nhất, nguy hiểm nhất trong suốt 37 năm độc lập đầu tiên của đất nước.
Nói riêng về ĐCSVN, những năm vừa qua cũng là thời kỳ quyền lực Đảng phạm nhiều sai lầm và có nhiều hiện tượng hư hỏng, suy đồi chính trị và đạo đức nhất kể từ khi thành lập.
Ba là, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã phần nào nhận ra thực trạng nguy hiểm nêu trên của đất nước và của Đảng, nhưng lại bất cập không dám nhìn thẳng vào toàn bộ sự thật, do đó chưa nhìn ra được nguyên nhân gốc là lỗi của hệ thống chính trị và của những quan điểm sai lầm của Đảng trong đường lối chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước.
Với cách nhìn sự thật phiến diện như vậy, Hội nghị Trung ương 4 lấy tự phê bình và phê bình kiểm điểm cá nhân là phương thức giải quyết mọi sai lầm và yếu kém hay là bước đột phá đầu tiên; trong khi đó tiếp tục giữ nguyên và xiết chặt hơn nữa hệ thống chính trị theo hướng tăng cường “đảng hóa”, với mục đích tăng cường khả năng đối phó của Đảng với sự bất bình chính đáng đang ngày càng tăng trong nhân dân về mọi vấn đề của đất nước. Điển hình nhất của tình trạng “xiết” này là những hiện tượng: tăng cường “19 điều cấm trong Đảng”, sự kìm kẹp chưa từng thấy đối với trên 700 báo chí các loại của hệ thống chính trị (được gọi là báo chí “lề phải”), xuất hiện cái gọi là “đội ngũ dư luận viên” chưa hề có ở một quốc gia dân chủ nào, thẳng tay trấn áp đối với những người bất đồng chính kiến và đối với những cuộc biểu tình của nhân dân bảo vệ biển đảo của tổ quốc, v.v.
Cũng với cách nhìn sự thật theo kiểu tránh né nguyên nhân gốc như vậy. Hội nghị Trung ương 5 và 6 sau đó lấy chống tham nhũng là mặt trận chính. Quyết định này sai lầm ở chỗ (a) chủ yếu nhằm vào xử lý vụ việc, chứ không phải nhằm vào sửa lỗi hệ thống là chính, (b) đặt vấn đề chống tham nhũng lên trên mọi vấn đề cấp bách khác quan trọng hơn nhiều, nghĩa là rất cảm tính và thiên lệch – ví dụ như vấn đề ổn định kinh tế vỹ mô, trả lại các quyền tự do dân chủ của dân để thực hiện được chủ quyền của nhân dân cho phát huy sức mạnh nội lực, vấn đề tạo ra sự công khai minh bạch trong đời sống mọi mặt của đất nước, đòi hỏi trả lại vai trò phải có cho nhà nước pháp quyền để cả nước – bao gồm cả Đảng – phải tuân thủ pháp luật… Với 2 sai lầm lớn như vậy trong việc đặt ra vấn đề chống tham nhũng, lại thực hiện trong tình trạng Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị có quá nhiều tiêu cực và yếu kém, nên đến nay kết quả thực hiện các nghị quyết của các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6 liên quan đến chủ đề này có nhiều biến tướng rất đáng lo ngại, đến nay có thể nói là thất bại. Chính đồng chí Tổng bí thư không dưới một lần gián tiếp nhưng đã phải công khai thừa nhận như vậy.
Hơn nữa, trong khi tập trung mũi nhọn vào chống tham nhũng một cách phiến diện như vậy, đã xảy ra một số sự việc, một số phát ngôn rất thiếu cân nhắc, thiếu trách nhiệm (đôi khi có cả thứ ngôn ngữ mang đặc tính “anh chị”) của một số người có trọng trách… Những hiện tượng này hình như cho thấy câu chuyện đang diễn ra không phải chỉ có việc chống tham nhũng, mà còn là biểu hiện bên trong của những động cơ, những hiện tượng “đánh nhau”, “đối phó với nhau”… không thèm đếm xỉa đến tác động như thế nào đối với kỷ cương, sự uy nghiêm và mối an/nguy của quốc gia. Những hiện tượng này hoàn toàn không được phép xảy ra với những chính khách chân chính!
Qua các Hội nghi Trung ương 4, 5 và 6, quyền lực của Đảng đang tự mình tiếp tục làm mất thêm uy tín của Đảng và gây thêm nhiều khó khăn nguy hiểm cho đất nước. Đơn giản bởi lẽ “nhóm” nào thắng thì đất nước cũng thua; vì hệ thống chính trị có quá nhiều sai lầm và quyền lực của nó vẫn được bảo toàn nguyên vẹn, thậm chí đang được “xiết” thêm. Trong khi đó trí tuệ và nguồn lực mọi mặt của đất nước không được tập trung vào xử lý những vất đề cấp bách nhất của đất nước; xảy ra quá nhiều hiện tượng “vạch áo cho người xem lưng” làm ảnh hưởng đến an ninh và thể diện quốc gia. Toàn bộ tình hình nhạy cảm này chỉ tăng thêm cơ hội cho sự lũng đoạn của Trung Quốc…
Tình hình mọi mặt hiện nay của đất nước đã đi tới thời điểm không thể trì hoãn cuộc cải cách chính trị toàn diện. Bối cảnh quốc tế vừa đòi hỏi, thách thức, cũng vừa tạo ra những thuận lợi chưa từng có cho một cuộc cải cách chính trị để xây dựng nên một thể chế chính trị dân chủ cho Việt Nam. Đất nước ta hiện nay lại đang đứng trước yêu cầu bức thiết phải sửa đổi Hiến pháp và thực tế đang cho thấy Hiến pháp 1992 dù sửa thế nào cũng không thể đáp ứng những đòi hỏi phát triển mới của đất nước; vì những lẽ này, xây dựng một Hiến pháp mới phù hợp là bước khởi đầu đúng đắn cho tiến hành cải cách chính trị.
Bốn là, tôi xin trình bày một số điểm chính về cải cách chính trị, với tất cả mong muốn thiết tha ĐCSVN không được trốn tránh – (1) vì lẽ: Đảng nợ nhân dân nhiệm vụ lịch sử sau khi đất nước đã được độc lập thống nhất, đó là xây dựng một thể chế chính trị dân chủ để thực hiện những quyền và hạnh phúc của nhân dân như đã ghi trong Tuyên Ngôn Độc Lập 02-09-1945; và (2) còn vì lẽ: ĐCSVN cần tranh thủ cơ hội cuối cùng này để tự giải phóng chính mình khỏi sự nô lệ của quyền lực, giành lại vai trò lãnh đạo dựa vào tính tiền phong chiến đấu của mình như ĐCSVN đã từng có một thời trong cộng đồng dân tộc suốt giai đoạn kháng chiến cứu nước, để trên cơ sở này phấn đấu trở thành đảng cầm quyền trong hệ thống nhà nước pháp quyền dân chủ.
Dưới đây là một số ý kiến cụ thể:
1. Kết thúc Hội nghị Trung ương 6, Bộ Chính trị đã nhận lỗi trước nhân dân và trước toàn Đảng về trách nhiệm đã để cho đất nước gặp nhiều khó khăn và lâm vào hoàn cảnh bị uy hiếp như hôm nay, đã tự giác tuyên bố sẵn sàng nhận kỷ luật của Đảng. Cá nhân tôi đánh giá cao việc nhận lỗi này. Tuy nhiên, tôi xin đề nghị Bộ Chính trị tự đặt ra cho mình mức kỷ luật là: Toàn thể Bộ Chính trị khóa XI hết nhiệm kỳ này sẽ thôi không tham gia vào bất kỳ cấp ủy nào của Đảng dù ở địa phương hay trung ương.
Toàn thể Bộ Chính trị khóa XI cam kết trước cả nước và toàn Đảng sẽ dẹp hết sang một bên mọi khúc mắc riêng tư với nhau, một lòng cùng nhau trong suốt thời gian còn lại của nhiệm kỳ khóa Đại hội XI này đem tất cả tinh thần và nghị lực với ý thức trách nhiệm cao nhất phát huy trí tuệ cả nước và toàn Đảng để
(a) tháo gỡ những khó khăn cấp bách nhất,
(b) thực hiện thắng lợi giai đoạn đầu của cuộc cải cách chính trị;
(c) xây dựng được Hiến pháp mới và thiết lập được thể chế của nhà nước pháp quyền dân chủ.
2. Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN khóa XI cũng phải cùng chịu trách nhiệm với Bộ Chính trị khóa XI về tình hình đất nước hiện nay, cần nhận lỗi trước toàn dân và toàn Đảng. Với tinh thần này, và đồng thời đáp ứng yêu cầu đem lại cho Đảng sức sống mới, toàn thể các đảng viên đã tham gia 2 khóa là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng sẽ thôi không tham gia vào danh sách bầu cử hay tự ứng cử vào BCHTƯ khóa XII nữa; và từ đây trở đi hình thành nguyên tắc không đảng viên nào được tham gia BCHTƯ quá 2 nhiệm kỳ, xóa bỏ hẳn cái “lệ” sống lâu lên lão làng. Từ đây tạo cơ hội thay đổi hoàn toàn việc tổ chức và xây dựng Đảng cho đúng với đòi hỏi phấn đấu trở thành đảng cầm quyền trong một thể chế chính trị dân chủ của nhà nước pháp quyền.
3. Bộ Chính trị khóa XI huy động trí tuệ cả nước và tận dụng kinh nghiệm các nước đi trước cũng như khai thác mọi thành quả của văn minh nhân loại, phát huy bằng được chủ quyền và quyền năng của nhân dân, dấy lên tinh thần đoàn kết – hòa giải dân tộc, cùng nhau xây dựng thành công Hiến pháp mới cho một nước Việt Nam là tổ quốc muôn vàn yêu quý và là quê hương độc lập – tự do – hạnh phúc của mọi người dân Việt Nam. Nước ta sẽ cùng dấn thân với cả loài người tiến bộ cho hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, tất cả cho con người và vì quyền con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ căn cứ vào Hiến pháp mới do dân định này, để xây dựng và tổ chức lại đảng mình, để có được khả năng, ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo trong xã hội dân sự, để từ đó phấn đấu được nhân dân lựa chọn (qua bầu cử trung thực) làm đảng cầm quyền theo những đòi hỏi và quy định của nhà nước pháp quyền (đặc biệt là những quy định về tự do bầu cử, tự do ứng cử và về sự tuyển chọn công chức của nhà nước pháp quyền).
Hiến pháp mẫu 2013 kèm theo Kiến nghị 72 rất đáng được đưa ra thảo luận rộng rãi trong nhân dân; cần khuyến khích có thêm một vài hiến pháp mẫu như thế và trao đổi công khai mọi ý kiến đóng góp khác nhau cho vấn đề Hiến pháp để nhân dân dễ so sánh, đối chứng.., qua đó tối ưu hóa sự lựa chọn của nhân dân.
Xin lưu ý: Chủ quyền tối cao của quốc gia thuộc về nhân dân, kể cả ĐCSVN cũng phải phục tùng và tuân thủ; vai trò lãnh đạo của ĐCSVN phải được thể hiện ở chỗ tạo mọi điều kiện để nhân dân thực hiện đầy đủ chủ quyền này. Đảng phải coi nội dung lãnh đạo như thế là nhiệm vụ tối cao và thiêng liêng nhất của mình trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
4. Đề nghị Quốc hội, Bộ Chính trị và Chính phủ giao nhiệm vụ cho trên 700 báo chí của toàn bộ hệ thống chính trị tìm hiểu, nắm vững những kiến thức tiên tiến nhất của văn minh thế giới về hiến pháp, nhằm tổ chức học tập và quảng bá rộng rãi trong cả nước và trong toàn Đảng những kiến thức mới về xây dựng một chế độ chính trị dân chủ dựa trên kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự. Toàn bộ nguồn lực trí tuệ của cả nước cần được huy động cho việc nâng cao dân trí, nâng cao khả năng của nhân dân thực hiện chủ quyền của mình đối với đất nước và đối với chế độ chính trị, cổ vũ nhân dân tham gia xây dựng Hiến pháp mới, coi đây là nhiệm vụ đầu tiên đặt nền móng cho toàn bộ quá trình cải cách chính trị của đất nước.
Đồng thời Quốc hội, Bộ Chính trị và Chính phủ thả hết những người bất đồng chính kiến đang bị tù tội, chỉ thị cho các cấp và các địa phương phải tôn trọng mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và sự công khai minh bạch phải được bảo đảm trong mọi lĩnh vực của đời sống đất nước.
Cải cách chính trị cần được xem là một quá trình thường trực, lâu dài, để luôn luôn đổi mới, và cần được tiến hành song song – vừa là cứu cánh, vừa là tiền đề – với sự nghiệp canh tân đất nước.
5. Đề nghị Quốc hội, Bộ Chính trị và Chính phủ huy động trí tuệ cả nước, đặc biệt là cố sao mời gọi được trí tuệ của các trí thức có tầm nhìn và tâm huyết với đất nước, hình thành một chiến lược tổng thể và thiết kế các bước đi của một cuộc cải cách chính trị triệt để, nhằm thay đổi đất nước toàn diện và sâu sắc, sao cho quá trình cải cách này diễn ra một cách hòa bình, hài hòa, kinh tế ổn định và có hướng phát triển mới, đồng thời tiếp tục nâng cao vị thế đối ngoại của đất nước. Rất đáng tham khảo kinh nghiệm của Myanmar cho cuộc cải cách chính trị này ở nước ta – đặc biệt là những kinh nghiệm về phát huy chất xám của trí thức, kinh nghiệm thiết kế trình tự và tiến độ rất hợp lý các bước đi, sự lồng ghép các bước đi… trong quá trình thực hiện dân chủ, để vừa giữ được ổn định, vừa từng bước tháo gỡ khó khăn và phát triển kinh tế, tiến hành được cải cách hệ thống nhà nước pháp quyền, đồng thời nâng cao vị thế quốc tế để gìn giữ an ninh quốc gia.
Trong cải cách, cũng như trong khắc phục những sai lầm trên mọi phương diện kinh tế và chính trị, cần chú trọng quan tâm đến khắc phục những lỗi hệ thống và những yếu kém vĩ mô là chủ yếu; cố gắng thực hiện tối đa nguyên tắc khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, không hồi tố; đồng thời nỗ lực hết mức thực hiện hòa giải, cố tránh hết sức có thể việc hình sự hóa các vấn đề… Tất cả nhằm giảm xuống mức thấp nhất mọi tổn thất và đổ vỡ mới, phòng ngừa phát sinh những rạn nứt mới có thể xảy ra trong quá trình cải cách, đồng thời nhờ đó có thể tạo ra sự tin cậy nhau và đồng tâm hiệp lực hướng về phía trước, phát huy tối đa mọi khả năng và nguồn lực cho việc mau chóng chuyển đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới.
Hòa giải, khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, không hồi tố, tránh hết mức có thể việc hình sự hóa – đấy là cách mở lối thoát cho những vấn đề bế tắc hay có thể gây xung đột lớn trong quá trình cải cách, để vĩnh viễn khép lại quá khứ, để giảm xuống mức thấp nhất mọi tổn thất, để bảo tồn và chắt chiu mọi nguồn lực cho nhiệm vụ mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước. Riêng những vấn đề liên quan đến ruộng đất, cần được giải quyết trên cơ sở ưu tiên lợi ích của nông dân.
Toàn bộ bộ máy nhà nước và các lực lượng vũ trang cần được giữ nguyên trong quá trình cải cách để bảo đảm sự vận hành liên tục và thông suốt mọi hoạt động của quốc gia, điều duy nhất phải thay đổi là toàn bộ bộ máy nhà nước và các lực lượng vũ trang từ nay chịu sự điều hành của Hiến pháp và các cơ quan hiến định.
Xây phải được đặt ở vị trí quan trọng hơn chống như trình bày trên trong cải cách chính trị chính là với ý nghĩa: thỏa hiệp chấp nhận sự (đã) trả giá cho thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản hoang dã vừa qua, để từ đây chấm dứt thời kỳ này, để hòa bình và sớm chuyển nhanh một cách hài hòa sang thể chế mới, thời kỳ phát triển mới[2].
Xin lưu ý: Chính quyền của tổng thống Myanmar Thein Sein trong vòng 20 tháng đã hoàn thành được cả 3 việc khó tương tự như ở nước ta là: (1) cải cách chính trị, (2) ổn định và phát triển kinh tế, (3) nâng cao vị thế quốc tế của quốc gia. Đáng chú ý là việc chuyển đổi chính quyền quân phiệt độc tài Myanmar sang thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ, không tốn một phát súng, không mất một nhân mạng. Nguyên nhân thành công chủ yếu là những người nắm quyền lực cao nhất của đất nước này đã thấy được sự cần thiết và đồng lòng nhất trí tiến hành cuộc cải cách có ý nghĩa sống còn này, huy động được chất xám trong lòng dân tộc theo tinh thần hòa giải cho sự thành công của cải cách. Đấy chính là một cuộc cải cách chính trị từ trên xuống và thành công ngoạn mục, mặc dù đấy mới chỉ là những bước đi đầu tiên trên con đường vạn dặm để tiến tới một Myanmar phát triển.
Nhân đây xin cảnh báo: “Đục nước béo cò”, “cướp cờ”, “nguy cơ xuất hiện Lê Chiêu Thống đời mới” (ví dụ nhân danh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN…) luôn luôn là những thủ đoạn các con buôn cơ hội đủ mọi chủng loại, dù là trong nước hay nước ngoài, thường xử dụng để kiếm lợi trên tổn thất và xương máu của đất nước ta vào lúc đất nước ta thực hiện bước ngoặt đi vào cải cách. Mong trí tuệ cả nước đừng bao giờ mất cảnh giác!
Tôi xin nhấn mạnh, việc sửa đổi/soạn thảo Hiến pháp mới nhất thiết phải được coi là bước mở đầu và là nền tảng cho toàn bộ quá trình tiến hành cải cách chính trị và cải cách ĐCSVN. Không cải cách chế độ chính trị và hệ thống nhà nước hiện hành, không cải cách và tổ chức lại ĐCSVN, Hiến pháp được sửa đổi hay Hiến pháp mới dù được viết hay như thế nào cũng sẽ là vô nghĩa, thậm chí sẽ chỉ càng gây thêm hiểm họa mới cho đất nước.
Kính thưa Quốc hội, Bộ Chính trị và Chính phủ,
Khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ và vượt lên nỗi sợ, quyết tâm dựa hẳn vào dân, lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay ngồi lại với nhau thì hoàn toàn có thể cùng nhau hội đủ mọi điều kiện trong tay thực hiện thắng lợi một cuộc cải cách chính trị từ trên xuống để đổi đời đất nước và đổi đời chính ĐCSVN trong hòa bình, mở đầu bằng xây dựng một Hiến pháp mới. Chắc chắn cả nước sẽ một lòng sắt đá với tinh thần Diên Hồng đứng đằng sau một quyết định hòa bình đổi đời như thế của lãnh đạo Đảng và Nhà nước! Như thế có gì mà sợ? Chỉ ở Việt Nam mới có tình huống này. Diễn tiến của lịch sử Việt Nam khách quan tạo ra như vậy. Càng để muộn, cơ hội này có nguy cơ lại vuột đi, như ba lần cơ hội lớn đã vuột đi trong gần bốn thập kỷ vừa qua[3].
Xin cứ ngẫm mà xem, trên cả thế giới này, chỉ một mình Việt Nam mới có những điều kiện đặc thù lịch sử dành cho ĐCSVN khả năng thực hiện một kịch bản hòa bình đổi đời như thế, nhất thiết lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay phải có tâm và đủ bản lĩnh nắm lấy! Đó cũng là kịch bản tối ưu duy nhất, đáng mong muốn nhất cho đất nước và kế thừa được truyền thống vinh quang trước đây của ĐCSVN, là trách nhiệm không thể thoái thác của ĐCSVN trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước. Ở các nước khác mà như ta hiện nay sẽ khó có chuyện này, chí ít thì cũng đã phải xảy ra vài ba cuộc “mùa xuân Ả Rập” rồi! Tuy nhiên cũng phải nhắc nhở: Sự chịu đựng của nhân dân ta đang ở mức báo động đỏ.
Nếu lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay bạc nhược bỏ lỡ kịch bản hòa bình đổi đời này, một kịch bản sụp đổ như ở Liên Xô vào lúc nào đó, sớm muộn sẽ xảy ra ở nước ta, do chế độ chính trị đang ngày càng mục nát bên trong và không đương đầu nổi những thách thức quyết liệt từ bên ngoài. Khác chăng so với Liên Xô hồi ấy là: Ở Việt Nam sẽ rất hỗn loạn và đẫm máu.
Trong cuộc chiến tranh 17-02-1979, Trung Quốc trong cùng một giờ đã cho khoảng nửa triệu quân ào ạt tấn công toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc nước ta; sự việc này cho thấy: Một khi xảy ra sụp đổ chế độ chính trị như thế ở Việt Nam, không loại trừ xuất hiện tình huống vì bất kể lý do gì, quân đội Trung Quốc lúc nào đó sẽ can thiệp… Đất nước ta sẽ đi về đâu? Thế rồi sẽ làm sao tránh khỏi nguy cơ vấn đề Biển Đông là chuyện đã rồi như Hoàng Sa?! Vân vân và vân vân…
Sự nghiệp đất nước độc lập thống nhất phải hy sinh chiến đấu nhiều thế hệ mới giành được làm sao có thể bảo toàn nếu cứ kéo dài mãi tình trạng đất nước èo uột, lệ thuộc như hiện nay?! Lấy gì giữ vững sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia trong tình hình mới? Giữ đại cục mà nhiều yếu kém thế này liệu đất nước có được yên? Giữ đại cục đến mức nào thì là sự đầu hàng trá hình?..
Câu chuyện ngày càng rõ: Ngày nay giữ nước phải có toàn dân tộc và cả thế giới, chứ không phải là giữ Đảng như đang là đảng hiện nay! Ngày nay giữ nước, đất nước càng phải mau chóng trở thành một quốc gia phát triển!
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước cần nghiêm túc nghĩ lại tất cả! Dứt khoát cần thông qua cải cách chính trị xốc toàn dân tộc đứng dậy phát triển đất nước bền vững, xây dựng Việt Nam là một thành trì bất khả xâm phạm, cùng với cả thế giới gìn giữ hòa bình.
Bí quyết thành công của Cách mạng Việt Nam là: Tinh thần yêu nước Việt Nam đã từng đủ bản lĩnh giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ làm nên Cách mạng Tháng Tám và hoàn thành sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, tranh thủ được sự hậu thuẫn của cả thế giới cho sự nghiệp vẻ vang này, và đồng thời đã xác lập được cho quốc gia vị trí quan trọng trên trường quốc tế.
Trước những thách thức mới quyết liệt từ bên ngoài, trước những đòi hỏi phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, hơn bao giờ hết Việt Nam cần tiếp tục giương cao ngọn cờ dân tộc – dân chủ với trí tuệ mới, để xây dựng được đất nước độc lập – tự do – hạnh phúc, để có thể dấn thân cùng đi với cả thế giới. Tinh thần này cần trở thành linh hồn cho một Hiến pháp mới của đất nước bây giờ và mãi mãi về sau.
Bốn cuộc chiến tranh trong vòng một đời người, và biết bao nhiêu thương đau đến hôm nay đất nước vẫn đang còn phải chịu đựng, như thế là quá nhiều rồi! Mà đến hôm nay đất nước vẫn chưa ra khỏi cái nghèo và lạc hậu, có nhiều mặt tiếp tục lạc lõng! Tôi không thể chấp nhận nhân dân ta, đất nước ta lúc nào đó lại một lần nữa sẽ phải trầm luân trong một cuộc bể dâu mới đẫm máu.
Vì vậy tôi cho rằng phải thông qua hòa giải dân tộc để thực hiện cải cách toàn diện, nhờ đó thực hiện sự nghiệp canh tân đổi đời đất nước đến nay vẫn bị bỏ lỡ. Tiến bộ của văn minh nhân loại, của khoa học kỹ thuật và công nghệ, toàn cầu hóa ở nấc thang hiện tại, tất cả vừa tạo cơ hội, vừa thách thức nước ta phải lựa chọn con đường của phát triển, bắt đầu từ thực hiện tự do, dân chủ.
Đúng ra phải nói thật với nhau cải cách chính trị đã để muộn mất 37 năm rồi – ngay sau khi đất nước độc lập thống nhất, chí ít là muộn 23 năm nay rồi – ngay sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và Việt Nam hoàn toàn có thể đứng trên hai chân của mình! Không thể để muộn hơn nữa!
Chính sự chậm trễ này là nguyên nhân gốc làm cho đất nước độc lập mà nhân dân vẫn chưa có tự do, lối ra cho cuộc khủng hoảng đất nước đang lâm vào chưa rõ, mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020 trở thành ảo tưởng.
Chính sự chậm trễ này khiến cho đất nước đang lâm vào tình trạng bị động chiến lược đầy nguy hiểm: Chưa có một tầm nhìn, một lời giải nào thuyết phục cho những thách thức kinh tế và chính trị, đối nội và đối ngoại đất nước đang phải đối mặt trong bối cảnh siêu cường đang lên Trung Quốc trở thành vấn đề của cả thế giới mà Việt Nam ở vào vị trí địa lý tự nhiên, vị trí địa kinh tế và địa chính trị cực kỳ nhậy cảm.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước bây giờ đòi hỏi hơn bao giờ hết phải có toàn dân tộc và cả thế giới, sự chậm trễ này chưa giúp chúng ta trả lời làm như thế nào?!
Vì những lẽ trên, cải cách hệ thống chính trị của đất nước trở thành chuyện sống còn. Đòi hỏi xây dựng Hiến pháp mới đang cho đất nước một cơ hội.
Không có một thế lực nào bên trong hoặc bên ngoài có thể cấm nước ta đi vào một cuộc cải cách chính trị triệt để và toàn diện như thế, chỉ có sự tha hóa của hệ thống chính trị và tình trạng kìm hãm không dám thức tỉnh sự giác ngộ của nhân dân đang cản trở đất nước tiến hành nhiệm vụ này. Tự nhận về mình vai trò lãnh đạo, tại sao ĐCSVN không dám đứng lên tiền phong chiến đấu khắc phục hai trở lực này?
Tuy nhiên, mười bạn của tôi hôm nay, thì có đến chín người nói đòi hỏi ở ĐCSVN hiện nay, đòi hỏi chế độ chính trị này tự mình đổi đời bây giờ là điều không thể. Không ít bạn bè chí cốt và người thân trong nhà mắng tôi tư duy cải cách như thế là kẻ ngu trung, quở trách tôi sao không để cho ngôi nhà đã mục nát sụp đổ quách đi cho nhanh, kéo dài sự đau khổ của đất nước làm gì!? Vậy chỉ còn cách những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay hạ quyết tâm vượt qua điều không thể này.
Tôi nghĩ lãnh đạo Đảng và Nhà nước đang đứng trước cơ hội và có trách nhiệm ràng buộc khởi xướng cuộc cải cách chính trị hòa bình đổi đời đất nước và đổi đời chính bản thân ĐCSVN, bắt đầu từ xây dựng một Hiến pháp mới. Hoặc là để vuột mất cơ hội này và mắc tội đối với đất nước? Tôi không thay đổi được suy nghĩ của mình.
Kính thư,
Nguyễn Trung
Nguồn: Bauxite Việt Nam
[1] Xin gọi tắt là Kiến nghị 72, ngày 04-02-2013 đã được trao chính thức cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
[2] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, tiểu thuyết “Lũ”
http://viet-studies.info/kinhte/kinhte.htm
[3] (1) Cơ hội thực hiện hòa giải và thống nhất dân tộc ngay sau 30-04-1975; (2) Cơ hội độc lập đi với cả thế giới sau khi LXĐÂ sụp đổ; (3) Cơ hội đẩy nhanh quá trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN và gia nhập WTO.
Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012
Nguyễn Trung - Vụ Đoàn Văn Vươn nhắc nhủ lương tri cả nước không được ngủ
Nguyễn Trung
Luồng không khí nhẹ nhõm chút ít do Hội nghị Trung ương 4 đem lại tan biến rất nhanh khi nổ ra tiếng “súng hoa cải” của Đoàn Văn Vươn chống lại các hành vi cưỡng đoạt của nhà cầm quyền nhân danh thực hiện “sự cưỡng chế theo Luật” để thu hồi đất đai.
Khắp nơi trong cả nước đã có nhiều ý kiến phân tích xác đáng sự kiện này.
Có thể coi sự phản kháng của Đoàn Văn Vươn báo động nấc cao nhất người dân có thể làm gì và sẽ làm gì để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Đồng thời, sự “cưỡng chế theo luật” ở Cống Rộc – Tiên Lãng – như một mẫu phẩm sinh thiết cắt ra từ cơ thể chính trị của đất nước, tự nó bóc trần những bất cập, yếu kém và thoái hóa trầm trọng của một cấp chính quyền địa phương (huyện – tỉnh, thành phố) với tính cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta.
Cuộc sống cho thấy một chế độ chính trị dù là ở quốc gia nào, một khi để cho nội tình đất nước diễn biến tới mức chỉ còn nói chuyện được với nhau bằng vũ lực, dù là từ phía người dân hay từ phía chính quyền, chế độ ấy đang hướng tới giờ cáo chung.
Để bào chữa và bảo vệ cho các việc làm sai trái của nhà chức trách dưới cái tên “cưỡng chế theo luật” như đã xảy ra ở Cống Rộc – Tiên Lãng, có thể tùy tiện khai thác đến vô tận rất nhiều “lỗi” nằm ngay trong những bất cập và kẽ hở của hệ thống luật pháp nước ta, nhất là các phần trong Hiến pháp và trong các Luật có liên quan đến vấn đề đất đai, các văn bản dưới Luật… Nhưng xin đừng quên, các “lỗi” như thế là tác phẩm của toàn bộ hệ thống chính trị, nghĩa là người dân chỉ là nạn nhân. Vì vậy, khái niệm “hợp pháp”, hay “phạm pháp” còn phải được xem xét trong bối cảnh người dân bị dồn ép đến mức có lúc họ phải lựa chọn phạm pháp làm giải pháp.
Có thể câu chuyện không liên quan với nhau lắm và mỗi sự việc đều có bối cảnh riêng, song cứ xem xét thuần túy mệnh đề “hợp pháp” và mệnh đề “phạm pháp”, chắc chúng ta có thể hiểu được tiếng bom Sa Điện của liệt sỹ anh hùng Phạm Hồng Thái định ám sát toàn quyền Martial Merlin là hành động chính nghĩa; và đồng thời chúng ta cũng có thể hiểu được vì sao chế độ thực dân Pháp coi hành động của Phạm Hồng Thái là “phạm pháp”; việc chính phủ đô hộ này coi việc kết án ông là “hợp pháp”.
Vì những lý do sinh tử, đất nước ta đang cần có hòa bình, ổn định, song hiển nhiên không phải bằng phương thức dùng lực lượng vũ trang “cưỡng chế theo luật” như đã xảy ra ở Cống Rộc – Tiên Lãng, mà bằng cách gìn giữ lòng tin của người dân đối với chế độ, bằng cách làm cho chế độ trở thành chỗ dựa của từng người dân trong mưu sinh và trong mưu cầu hạnh phúc của họ.
Trong tình hình hệ thống luật pháp còn nhiều “lỗi” của một nhà nước nhận về mình sứ mạng là nhà nước của dân – do dân – vì dân, lẽ ra các công bộc của một nhà nước như thế bắt buộc phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bổ khuyết tối đa có thể những gì mà hệ thống pháp luật hiện hành chưa làm được, để giảm thiểu những bất cập, vả để phục vụ lợi ích của dân. Đặt vấn đề như thế, lại xuất hiện thêm câu hỏi: Vụ Cống Rộc – Tiên Lãng phải được xử như thế nào là hợp pháp, nghiêm minh, thấu tình đạt lý, giữ được lòng dân, được chế độ chính trị?
Không thể trốn tránh được sự thật là sự kiện Đoàn Văn Vươn đặt ra một tình huống khó xử cho quốc gia, cho chế độ chính trị: Không xử nghiêm thì loạn, nhưng nghiêm thì phải theo chuẩn mực pháp lý nào, đạo đức nào và đối với đối tượng nào trong thực tế hệ thống chính trị và hệ thống pháp luật của nước ta có quá nhiều “lỗi” như hiện nay?
Như vậy, rõ ràng không thể nói đơn giản “cứ xử lý nghiêm theo pháp luật!” là mọi chuyện sẽ đâu vào đó. Cuộc sống nhiều quốc gia khác cũng không thiếu những tình huống khó xử như thế; và không hiếm khi xảy ra tình trạng cuộc sống đứng ra tự xử theo luật đời, nghĩa là “cùng tắc biến!”.
Cái “cùng tắc biến” như thế sẽ làm thay những gì mà luật pháp hiện hành ở đó không làm được; lợi cho bên này hay cho bên kia, đúng hoặc sai, cái giá phải trả và ai trả? cái kết cục cuối cùng sẽ ra sao? vân vân.., tất cả tùy thuộc vào tương quan lực lượng của các bên tham gia nằm trong cái “cùng tắc biến” như thế và sự diễn biến tiếp theo. Chung cuộc của cái cùng tắc biến như thế, đất nước thường mất nhiều hơn được.
Rồi đây sự kiện Đoàn Văn Vươn sẽ phải đưa ra xử, và xử những ai, chỉ xử một bên, hay xử cả hai bên bao gồm phía Đoàn Văn Vươn và phía những người thực thi “cưỡng chế theo luật”,xử như thế nào… tất cả đều còn đề để ngỏ. Án lệ đồng Nọc Nạn (Bạc Liêu) năm 1928 (xem:http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_N%E1%BB%8Dc_N%E1%BA%A1n#Th.E1.BA.A3m_k.E1.BB.8Bch_.C4.91.E1.BB.93ng_N.E1.BB.8Dc_N.E1.BA.A1n) cho một ví dụ tốt để tham khảo và đối chiếu.
Trong trường hợp đạt được kết quả xử án đúng, nghiêm minh với pháp luật, thấu tình đạt lý, thu phục được nhân tâm, còn phải thực thi nghiêm túc kết quả xử án mới có khả năng cải thiện được tình hình, lập lại trật tự và lấy lại lòng tin của dân. Kể cả một khi làm được như vậy, trước sau vụ án Cống Rộc – Tiên Lãng vẫn còn nguyên vẹn đối với những người lãnh đạo các cấp và toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước, với nghĩa là từ sự kiện này phải rút ra được những kết luận gì, phải thực hiện những thay đổi nào khả dĩ phòng ngừa được các “sự kiện Đoàn Văn Vươn” mới trong tương lai. Chắc chắn sẽ có nhiều rác rưởi của vụ này phải hót tiếp. Những rác rưởi và những khuyết tật trong toàn bộ hệ thống chính trị cũng như trong hệ thống luật pháp có thể phát hiện ra được qua vụ án này sẽ đặt ra nhiều việc phải làm. Cao xa hơn nữa, giải quyết đúng đắn sự kiện Đoàn Văn Vươn, sẽ tạo ra cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước cơ hội thúc đảy thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI; cơ hội này cần được tận dụng cho khởi xướng cải cách hệ thống chính trị của đất nước.
Trong trường hợp sự kiện Đoàn Văn Vươn không được xử lý trọn vẹn như trình bày trên, sớm muộn sẽ dẫn tới những bùng nổ nguy hiểm mới, lúc nào đó luật đời sẽ đứng ra tự xử theo cái lẽ “cùng tắc biến”.
Rồi đây, theo Luật Đất đai, trong cả nước quyền sử dụng ruộng đất được giao sẽ hết hạn năm 2013. Sự nghiệp phát triển đất nước sẽ còn đòi hỏi rất nhiều đất đai cho xây dựng kết cấu hạ tầng, xúc tiến đô thị hóa, công nghiệp hóa… Vân vân và vân vân… Đường lối chính sách và hệ thống chính trị phải như thế nào để tránh cho đất nước kết cục là tình trạng luật đời sẽ đứng ra tự xử mọi việc.
Một khía cạnh khác:
Cuộc cưỡng chế dân bằng lực lượng vũ trang ở Cống Rộc – Tiên Lãng được một trong những nhân vật điều hành chủ chốt coi là hiệp đồng cực kỳ hay, một trận đánh đẹp, có thể viết thành sách… Một mình câu nói này tự nó đã cho thấy: Chủ trương trấn áp này đến từ đâu, cấp nào, quy mô hình thành ra sao, mức độ nghiêm trọng của sự việc trấn áp… Câu nói này toát lên hơi hướng hay linh hồn của toàn bộ công vụ cưỡng chế theo luật ở Cống Rộc – Tiên Lãng. Riêng một câu nói này, cùng với sự chấp nhận, hưởng ứng, tán thành hay biện minh, bao che… của các cộng sự, còn cho thấy mức độ sa đọa nghiêm trọng về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức và văn hóa của những cán bộ, đảng viên có chức có quyền đã chỉ đạo hay đã nhân danh pháp luật trực tiếp thực thi công vụ này. Sự phấn khích bột phát ra từ câu nói này thật ghê sợ và đáng ngẫm nghĩ.
Không thể không đặt ra câu hỏi: Phẩm chất đảng viên ĐCSVN như thế nào, đạo đức cán bộ là công bộc của dân ra sao nằm trong phát ngôn như vậy?
Cứ coi câu nói ghê sợ đó của đại tá giám đốc công an thành phố Đỗ Hữu Ca là hiện tượng cá biệt, song nó không phải là sản phẩm của công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng cho đảng viên, nhìn xa hơn nữa là của nền giáo dục nước nhà, của sự biến đổi khủng khiếp những giá trị về sơn hà xã tắc đang diễn ra trong nước ta, là sản phẩm trực tiếp của hệ thống chính trị nước ta hiện nay hay sao? Nếu nhìn từ các hiện tượng xấu nghiêm trọng khác đã xảy ra trong cả nước trong những năm gần đây, có thể nói thực trạng tha hóa này lũng đoạn nghiêm trọng đời sống mọi mặt đất nước ta từ lâu rồi, nhưng nó đang bị che lấp. Câu nói ghê sợ của Đỗ Hữu Ca tự xé toạc ra sự thật và thách thức lương tri chúng ta.
Nghĩ như vậy không phải là cố ý bôi đen chế độ hay nghiêm trọng hóa sự việc. Đơn giản là, cũng như nhiều địa phương khác, Hải Phòng có không ít các “vụ cưỡng chế theo luật” trong vấn đề đất đai. Xin đừng quên khổ chủ Đoàn Văn Vươn – bây giờ trở thành bên bị – đã khiếu kiện từ năm 2008, nhưng nước đổ lá khoai, hoặc chính quyền bất lực không giải quyết được. Xin đừng quên, Hải Phòng năm 2006 đã có những vụ tham nhũng đất đai động trời mà tòa án sơ thẩm chỉ xử mức án không có trong Luật Hình sự là “cảnh cáo”. Ngày nay cái tên gọi “vụ xử án sơ thẩm tham nhũng đất đai ở Đồ Sơn” trở thành bia miệng người đời. Xin đừng quên, cũng như nhiều nơi khác, Hải Phòng không thiếu các “con sâu” chỉ bị phê bình, cảnh cáo, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự vì “đã có nhiều cống hiến..”; có dịp, những “con sâu” này vẫn có thể được thuyên chuyển công tác, lên chức, vân vân…
Có lẽ những sự việc cụ thể như vậy đã xảy ra ở Hải Phòng và trong cả nước trực tiếp giải thích tại sao mọi nỗ lực chấn chỉnh và đổi mới xây dựng Đảng 26 năm qua không chặn đứng được xu thế tha hóa trong Đảng. Sự việc Cống Rộc – Tiên Lãng róng thêm một hồi trống mới: Cải cách hệ thống chính trị và đổi mới xây dựng Đảng ngày càng trở thành vấn đề sống còn đối với Đảng.
Cho dù vụ nổ súng hoa cải và mìn bình ga của Đoàn Văn Vươn rồi đây sẽ được xử đúng xử sai như thế nào, nạn nhân-tội phạm Đoàn Văn Vươn đã tự khắc tên mình vào một cột mốc trên chặng đường đau khổ đất nước đang đi hôm nay, nhắc nhủ lương tri cả nước không được ngủ.
Theo blog BVB, rút từ Hội nghị Trung ương 4 – sự kiện Đoàn Văn Vươn và vấn đề sửa đổi Hiến pháp
Nguồn: Blog Quê Choa
Thứ Tư, 12 tháng 9, 2012
Mặc Lâm - Đảng cần tự diễn biến
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
Nguyên đại sứ Nguyễn Trung đã có nhận định rằng "Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải tự diễn biến hòa bình trong nội bộ đảng".
Công nhân chuẩn bị hoa cho Ngày Quốc Khánh 02/9/2012 tại Hà Nội. Ảnh minh họa. - AFP photo
Nhận thức này phá vỡ thành kiến cho rằng cụm từ "diễn biến hòa bình" luôn mang ý nghĩa phá hoại từ bên ngoài mang vào với mục tiêu lật đổ chế độ một cách êm thấm. Mặc Lâm phỏng vấn ông đại sứ Nguyễn Trung để biết thêm chi tiết.
Cần nhìn thẳng vào sự thật
Mặc Lâm: Thưa ông Nghị quyết TW 4 khẳng định "cần nhìn thẳng vào sự thật" trong mục tiêu chỉnh đốn đảng...thời gian đã qua khá lâu nhưng dư luận cho thấy vẫn chưa hoàn toàn đặt niềm tim vào cách mà đảng gọi là "nhìn thẳng vào sự thật". Theo ông dư luận có cái lý của nó hay không?
Đại sứ Nguyễn Trung: Theo tôi đấy là một thái độ lúc nào cũng cần thiết chứ còn nhìn thẳng vào sự thật bao nhiêu thì tôi nghĩ rằng cũng chưa được nhiều. Gần đây nhất Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có nói gần sự thật hơn một chút tức là ông ấy cũng thừa nhận tình hình đã đến mức có những thách thức đến đảng, đến chế độ. Đó là thái độ nhìn thẳng vào sự thật và tôi nghĩ việc nhìn thẳng vào sự thật lúc nào cũng rất cần thiết.
Mặc Lâm: Mới đây ông có bài viết bàn về cụm từ "diễn biến hòa bình" nhưng không phải để chống nó như thường thấy mà lại cho rằng nó là biện pháp cần thiết để thay đổi trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam, xin ông giải thích thêm về lập luận này.
Đại sứ Nguyễn Trung: Tôi chỉ lưu ý một chuyện thôi, trước hết tôi phải nói thế này: đó là lâu nay trong nước vẫn có cách sử dụng khái niệm "diễn biến hòa bình" với một ý nghĩa rất tiêu cực. Thật ra tôi cho rằng "diễn biến hòa bình" nó là sự phát triển tất nhiên. Sự vật thường diễn biến theo hai cách, một là diễn biến hòa bình, hai là diễn biến không hòa bình. Bản thân nó chỉ là một sự vận động chứ không có màu sắc gì cả. Còn nội dung nó như thế nào thì đó là vấn đề quan trọng.
Thứ hai, lâu nay người ta vẫn dùng khái niệm "diễn biến hòa bình" để chỉ những cái gì mà họ cho là phía bên ngoài, phía thù địch họ đưa vào để thay đổi đường lối hay cách nghĩ của đảng của dân. Trên báo chí của đảng, của chính phủ người ta thường dùng cụm từ này để ám chỉ những gì mà họ thấy rằng không phù hợp với đường lối của đảng, của chính phủ thì họ gọi là "diễn biến hòa bình". Tôi thấy nói như thế nó một chiều quá.
Tôi đã dùng lại khái niệm đó và kêu gọi đảng phải quan tâm những "diễn biến hòa bình" của chính mình. Cụ thể ở đây là quá trình tha hóa càng ngày càng trầm trọng mà đảng không nói tới như một sự cần thiết. Cho đến bây giờ ông Tổng bí thư mới nhận định rằng sự tha hóa này nó đã nguy hiểm đến mức đe dọa sự tồn vong của đảng của chế độ. Tôi thấy ông Tổng bí thư đã nêu ra được điều đó thì chính là một cách "diễn biến hòa bình" trong đảng.
Từ một đảng làm nhiệm vụ phục vụ tổ quốc bây giờ chuyển sang một đảng có nhiều sự tha hóa như vậy thì đảng rất cần tự diễn biến chính mình, ý tôi nói là như vậy.
Mặc Lâm: Cũng trong cụm từ đảng viên tha hóa như ông vừa nêu, gần đây xuất hiện một bài viết của tác giả Phóng Viên Quốc Doanh thẳng thắn nhận xét: "Bây giờ, khó tìm thấy tình đồng chí trong sáng và đẹp đẽ, từ cấp lãnh đạo cao nhất. Ngược lại, thấy rất nhiều sự lợi dụng nhau, hại nhau, ở cả lãnh đạo Đảng CSVN đương chức và đã nghỉ hưu, chẳng có được mấy tấm gương cho đảng viên trẻ noi theo" Ông có đồng tình với nhận xét này hay không?
Đại sứ Nguyễn Trung: Tôi không nói cụ thể như thế được vì như anh biết tôi đã nghỉ hưu lâu rồi không tiếp xúc với ai nữa, nhưng tôi tán thành cái nhận định chung nhất, tức là căn cứ những gì đang diễn biến trong xã hội, đời sống kinh tế, cuối cùng là sự xác nhận của ông Tổng bí thư như vậy thì tôi phải nói rằng sự tha hóa như vậy rất đáng lo ngại.
Chất lượng đảng viên sa sút
Ông Phạm Thanh Bình, Cựu Chủ Tịch tập đoàn Vinashin
tại Tòa án Nhân dân Hải Phòng hôm 30/3/2012. - RFA photo
tại Tòa án Nhân dân Hải Phòng hôm 30/3/2012. - RFA photo
Mặc Lâm: Theo ông người đảng viên hiện nay được quần chúng đánh giá ra sao, họ có còn được nhìn bằng đôi mắt của mươi mười lăm năm về trước hay không?
Đại sứ Nguyễn Trung: Tôi nghĩ rằng người đảng viên thì phải luôn luôn làm đúng nhiệm vụ của mình nếu không anh ta không còn tư chất một đảng viên như là điều lệ của đảng đã viết, hay là những gì mà anh ta đã tuyên thệ khi anh ta vào đảng, ví dụ như vậy. Khi người đảng viên mà không đủ phẩm chất thì tôi nghĩ nó sẽ rất vô cùng nguy hiểm.
Mặc Lâm: Ông từng nhận xét rằng sau mỗi lần đại hội Đảng là một lần chất lượng đảng viên lại sa sút. Kỳ đại hội sau kém hơn đại hội trước, nói tóm lại là tư cách đảng viên mỗi ngày một xuống. Ông đưa ra hình ảnh là các vụ khiếu kiện gia tăng, đảng viên mất phẩm cách trong các vụ kiện thưa nhiều hơn...những nhận xét này sau một thời gian vẫn tỏ ra chính xác trong hiện tình xã hội ngày nay, ông có bổ túc gì thêm cho ý kiến này?
Đại sứ Nguyễn Trung: Tôi nhận xét là sau mỗi đại hội thì đảng một yếu đi thì đấy là quan sát của tôi và tôi cũng thẳng thắn nói cái quan sát đó của mình trong nội bộ đảng cũng như là trên báo chí bởi vì tôi thấy cái gì thì luôn luôn tôi nói thẳng. Cái thứ hai tức là bây giờ lấy gì mà xem xét? thì cứ nhìn vào đời sống thật của đất nước. Trong kinh tế, trong chính trị, trong xã hội thì rõ ràng hiện nay những hiện tượng tham nhũng tha hóa của khóa Đại hội X rõ ràng nó nguy hiểm hơn khóa Đại hội IX. Bây giờ khóa XI mới bắt đầu thôi nhưng những vụ việc phải đem ra pháp luật xử lý rất cực kỳ nghiêm trọng. Vì vậy nên tôi rất lo cho tình trạng tha hóa, sa sút như vậy nó còn đang tiếp diễn chứ chưa phải là nó đã được chặn lại.
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông Đại sứ Nguyễn Trung.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)