Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Thị Kim Phụng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Thị Kim Phụng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2022

Bilahari Kausikan: Tập đã mắc 3 sai lầm trong chính sách đối ngoại (Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng)

Nguồn: Ken Moriyasu, “Xi’s China has made 3 foreign policy mistakes: Bilahari Kausikan,” Nikkei Asia, 12/10/2022

Cựu quan chức ngoại giao hàng đầu Singapore nói rằng Bắc Kinh đã tính toán sai về sự suy yếu của Mỹ.

Tại đại hội toàn quốc của Đảng Cộng sản Trung Quốc khai mạc vào ngày 16/10, Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ cố gắng kéo dài nhiệm kỳ của mình với tư cách là nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước.

Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã thay đổi đáng kể sau 10 năm cầm quyền của ông, chuyển sang một lập trường tự tin và quyết đoán hơn so với những người tiền nhiệm.

Nikkei Asia vừa có cuộc trò chuyện với cựu đại sứ Bilahari Kausikan, nguyên thư ký thường trực Bộ Ngoại giao Singapore, về phong cách của nhà lãnh đạo Trung Quốc và diễn biến tình hình căng thẳng Mỹ-Trung trong những năm tới.


Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2022

Gideon Rachman: Cuộc chiến ở Ukraine đã đi đến bước ngoặt ( “The Ukraine war has reached a turning point,” Financial Times, 12/09/2022. Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng)

Sau khi người Nga thất thế, một giai đoạn mới và nguy hiểm hơn trong cuộc xung đột đã bắt đầu.

Cảnh tượng quân đội Nga rút lui thành hàng dài ở Ukraine là điều đáng chú ý – nhưng không có gì đáng ngạc nhiên.

Đối với Nga, cuộc chiến này đã đi theo hướng tồi tệ ngay từ những ngày đầu. Vladimir Putin đã không đạt được chiến thắng chớp nhoáng mà ông mong muốn vào ngày 24/02. Đến tháng 4, người Nga đã buộc phải rút lui trong nhục nhã sau khi tìm cách chiếm đóng Kyiv.

Những lợi ích hạn chế mà Nga đạt được trong sáu tháng qua đã phải trả giá rất đắt. Lực lượng ban đầu do Điện Kremlin tập hợp có khoảng 200.000 quân. Tháng trước, Mỹ ước tính rằng 70.000-80.000 người trong nhóm này đã bị giết hoặc bị thương kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược.

Không muốn thừa nhận rằng Nga đang có chiến tranh, Putin đã từ chối áp dụng chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Ngược lại, Ukraine đã huy động toàn bộ dân số nam giới ở độ tuổi trưởng thành. Kết quả là, Ukraine hiện có nhiều binh sĩ trên chiến trường hơn Nga.

Người Ukraine cũng có lợi thế về tinh thần chiến đấu và vũ trang. Họ đang chiến đấu để bảo vệ đất nước của mình. Nguồn cung cấp vũ khí tiên tiến từ Mỹ và châu Âu – đặc biệt là tên lửa tầm xa chính xác – có nghĩa là họ hiện đang được trang bị tốt hơn so với Nga.

Viễn cảnh Nga bị đánh bại là có thật và đáng để phấn khởi. Nhưng những bước tiến của Ukraine cũng mở ra một giai đoạn mới và nguy hiểm hơn trong xung đột.

Hình ảnh dân thường khóc nức nở ôm hôn binh sĩ Ukraine khi họ giải phóng các thị trấn và làng mạc khỏi tay quân Nga đã nhấn mạnh mục đích của cuộc chiến. Nếu bị Nga chiếm đóng vĩnh viễn, người ta sẽ mất đi tự do chính trị, và sẽ bị cưỡng chế bằng các vụ giết người, tra tấn, và trục xuất.

Một chiến thắng dễ dàng của Nga ở Ukraine cũng sẽ mở ra cánh cửa để tiếp tục gây hấn với các nước láng giềng – bao gồm Moldova, và có lẽ cả các thành viên NATO như Estonia, Latvia, và Litva. Khả năng đó đủ đáng báo động để thuyết phục Phần Lan và Thụy Điển xin gia nhập NATO.


Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2022

Jeffrey Sonnenfeld và Steven Tian: Mổ xẻ 9 hiểu lầm về tình hình kinh tế Nga ( “Actually, the Russian Economy Is Imploding,” Foreign Policy, 22/07/2022 Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng)

Diễn giải chín hiểu lầm về tác động của các lệnh trừng phạt và việc các tập đoàn rút khỏi Nga.

Đã năm tháng kể từ khi Nga xâm lược Ukraine, nhưng nhiều nhà hoạch định chính sách và nhà bình luận phương Tây vẫn thiếu hiểu biết đến mức đáng kinh ngạc về khía cạnh kinh tế trong cuộc xâm lược của Tổng thống Vladimir Putin, và ý nghĩa của nó đối với vị thế kinh tế của Nga ở trong và ngoài nước.

Dù nhiều người cho rằng chúng không hiệu quả hoặc gây thất vọng, nhưng thực ra các lệnh trừng phạt quốc tế và việc nhiều tập đoàn tự nguyện rút lui khỏi Nga đã có tác động tàn phá nền kinh tế nước này. Nền kinh tế suy thoái đóng vai trò là một đòn giáng mạnh mẽ, dù không được đánh giá cao, bổ sung cho bối cảnh chính trị tồi tệ mà Putin phải đối mặt.

Việc những hiểu lầm này vẫn tồn tại không hoàn toàn đáng ngạc nhiên, nếu xét đến tình trạng thiếu dữ liệu kinh tế. Trên thực tế, nhiều phân tích, dự báo, và dự đoán lạc quan về kinh tế Nga được phổ biến trong những tháng gần đây đều có chung một lỗ hổng phương pháp luận quan trọng: phần lớn – hoặc toàn bộ – số liệu bằng chứng của các phân tích này đều đến từ những báo cáo định kỳ do chính phủ Nga ban hành. Những con số do Điện Kremlin công bố từ lâu đã bị coi là không đáng tin, nhưng còn có một số vấn đề khác.

Thứ nhất, báo cáo kinh tế của Điện Kremlin là những báo cáo có chọn lọc – chứa đựng thông tin rời rạc và không đầy đủ, chủ động loại bỏ các chỉ số đo lường bất lợi. Chính phủ Nga đã giữ lại ngày càng nhiều các số liệu thống kê quan trọng, những thứ vẫn được cập nhật hàng tháng trước khi chiến tranh nổ ra, bao gồm tất cả dữ liệu ngoại thương. Trong nhóm này có số liệu thống kê liên quan đến xuất nhập khẩu, cụ thể là với châu Âu; sản lượng dầu mỏ và khí đốt hàng tháng; số lượng hàng hóa xuất khẩu; dòng vốn vào và ra; báo cáo tài chính của các công ty lớn mà trước đây các công ty này bắt buộc phải công khai; dữ liệu cơ sở tiền tệ của ngân hàng trung ương; dữ liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài; dữ liệu tiền vay và khởi tạo tiền vay; cùng các dữ liệu khác liên quan đến tín dụng sẵn có. Ngay cả Rosaviatsiya, hãng hàng không liên bang, cũng đột ngột ngừng công bố dữ liệu về lượng hành khách của các chuyến bay và tại sân bay.

Vì Điện Kremlin ngừng cập nhật số liệu, hạn chế lượng dữ liệu kinh tế sẵn có mà các nhà nghiên cứu có thể thu thập, nên nhiều dự báo kinh tế lạc quan quá mức đã ngoại suy một cách phi lý, sử dụng các thông tin kinh tế công bố trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược, thời điểm mà các lệnh trừng phạt và hoạt động tự nguyện rút lui chưa có hiệu lực đầy đủ. Ngay cả những số liệu thống kê có chọn lọc đã được công bố cũng không rõ ràng, nếu xét đến áp lực chính trị từ phía Điện Kremlin nhằm phá hủy tính toàn vẹn của số liệu.


Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2022

The Economist: Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO làm lập luận của Putin sụp đổ (Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng)


Sự mở rộng của liên minh không phải là nguyên nhân dẫn tới cuộc chiến của Tổng thống Nga ở Ukraine.

Quyết định của Phần Lan và Thụy Điển nộp đơn xin gia nhập NATO là một hành động thẳng thừng bác bỏ tầm nhìn chiến lược của Tổng thống Nga, Vladimir Putin. Hai quốc gia từng tự hào về lịch sử không liên kết quân sự lâu đời của mình đã nhận định rằng, rủi ro làm mất lòng nước láng giềng không quan trọng bằng sự trợ giúp an ninh bổ sung mà họ có được khi tham gia một liên minh chuyên chống lại sự xâm lược của Nga. Đó là kết quả trực tiếp của việc Nga xâm lược Ukraine, mà theo Putin là để ngăn chặn NATO mở rộng.

Nó cũng là một lời bác bỏ đối với những người lập luận rằng NATO có lỗi vì đã dẫn tới cuộc chiến. Putin không phải là người duy nhất cho rằng việc liên minh mở rộng sang Trung và Đông Âu sau Chiến tranh Lạnh là điều khiến người Nga không thể dung thứ. Nhiều học giả phương Tây đồng tình với lập luận đó. Tuy nhiên, sự lựa chọn của Phần Lan và Thụy Điển cho thấy họ có quan điểm ngược lại. Hai nước tìm cách tham gia NATO vì họ bị Nga đe dọa, chứ không phải để chống lại nước này.

Tin tức từ Phần Lan và Thụy Điển được công bố ngày 15/05, khi các ngoại trưởng của NATO đang nhóm họp để thảo luận về Ukraine và về chiến lược mới của liên minh, trong giai đoạn chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh vào tháng tới. Bất chấp những than phiền từ Thổ Nhĩ Kỳ, việc gia nhập của Phần Lan và Thụy Điển nhiều khả năng sẽ là chính thức. Khi tham gia, cả hai sẽ mang lại khả năng vũ trang đáng kể, đặc biệt là nếu có chiến tranh ở Bắc Cực, và, trong trường hợp của Phần Lan, là lực lượng pháo binh lớn nhất châu Âu. Những lực lượng này có thể nhanh chóng được tích hợp vào cấu trúc chỉ huy của NATO. Tư cách thành viên của hai nước cũng sẽ giúp chiều dài biên giới của liên minh với Nga tăng lên gấp đôi (xem bản đồ). Nó còn củng cố các nước thuộc khu vực phía bắc, đặc biệt là các quốc gia vùng Baltic, nơi sẽ dễ được tiếp tế hơn, và là những nước mà Thụy Điển và Phần Lan sẽ cam kết bảo vệ nếu họ trở thành thành viên NATO.

Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2022

Katsuji Nakazawa: Sự tự tin của Tập vào hàng không mẫu hạm Trung Quốc bị lung lay (Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng)


Hồi ký của một sĩ quan Nga trên soái hạm của Hạm đội Baltic thuộc Đế quốc Nga, chiếc Knyaz Suvorov, đã mô tả một cách sinh động hồi kết của con tàu trong Trận Tsushima.

Cuốn sách của Vladimir Semenoff, The Battle of Tsushima, tả lại cảnh ông đi về phía mũi tàu, chỉ để thấy rằng các tháp pháo cỡ nhỏ đã bị thổi bay hoàn toàn.

Trận chiến diễn ra ở Biển Nhật Bản vào ngày 27 và 28 tháng 05 năm 1905, chính thức kết thúc Chiến tranh Nga-Nhật.

Đảo Tsushima, một phần của tỉnh Nagasaki, vẫn mang những dấu ấn của trận hải chiến. Một bức phù điêu khổng lồ dựng trên một ngọn đồi, mô tả cảnh người chỉ huy bị thương của Hải đội Thái Bình Dương Thứ hai, Zinovy Rozhdestvensky, đang được Heihachiro Togo, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp của Nhật Bản, đến thăm tại một bệnh viện hải quân ở Sasebo.

Đó là một cảnh cảm động. Một giai thoại nổi tiếng khác được lưu truyền qua nhiều thế hệ là câu chuyện về những chiếc thuyền cứu sinh chở 143 thủy thủ bị thương của Hạm đội Baltic đến Tsushima sau khi giao tranh kết thúc. Các thủy thủ đã được cư dân trên đảo chào đón, được phép ở trong nhà của họ, và được các bác sĩ điều trị.

Vụ chìm tàu Moskva ở Biển Đen vào tuần trước là thiệt hại về soái hạm trong chiến tranh đầu tiên của Nga kể từ khi mất tàu Knyaz Suvorov.

Kể từ sau Thế chiến II, chỉ có duy nhất một vụ việc tương tự. ARA General Belgrano, một tàu tuần dương của hải quân Argentina, đã chìm trong Chiến tranh Falklands năm 1982, giữa Argentina và Vương quốc Anh.

Điều đáng chú ý là vụ chìm tàu Moskva có tác động không nhỏ đến suy nghĩ của các quan chức an ninh Trung Quốc.


Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2022

Katsuji Nakazawa (Nikkei Asia): Nếu đi sai nước cờ, Tập có nguy cơ ngã ngựa cùng Putin (Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng)

Nếu Nga thất bại ở Ukraine, sẽ nảy sinh nhiều câu hỏi về lãnh đạo độc tài lâu dài.

Liên minh cá nhân giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Putin đang cản trở đường lối ngoại giao của Trung Quốc. Điều đó đang được thể hiện ngày càng rõ khi cuộc chiến ở Ukraine tiếp diễn.

Cả hai người đã đặt xong nền móng để duy trì quyền lực của mình cho đến giữa thập niên 2030. Cả hai đều có tham vọng lãnh thổ: Putin muốn tái lập vùng ảnh hưởng của Liên Xô cũ, còn Tập muốn có Đài Loan.

Nhưng mối dây liên kết này đi kèm với rủi ro đáng kể.


Cách đây vài tuần, các quan chức an ninh và đối ngoại Trung Quốc còn vô cùng rạng rỡ tự tin. Sau khi Tập và Putin gặp nhau tại thủ đô Trung Quốc vào ngày 04/02 và hứa hẹn về một tình bạn không giới hạn, Trung Quốc dần nhận thức được rằng một chiến dịch ở Ukraine đã gần kề. Họ đã thu thập thông tin tình báo thông qua các mối quan hệ ở Nga, cả chính thức lẫn không chính thức, vốn đã được thiết lập từ nhiều năm qua.

Nhưng Trung Quốc đã mong đợi Nga sẽ kiềm chế hành động quân sự cho đến khi Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh bế mạc vào ngày 13/03. Nhận định này dựa trên trao đổi của Putin với Tập trong một cuộc trò chuyện riêng.

Những kỳ vọng của Trung Quốc nay đã được chứng minh là không thực tế. Putin hóa ra chỉ quan tâm nửa vời đến chủ nhà Olympic. Cuộc xâm lược Ukraine bắt đầu sau khi Thế vận hội Mùa đông bế mạc vào ngày 20/02, nhưng trước khi Thế vận hội Dành cho Người khuyết tật bắt đầu vào ngày 04/03.

Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn hy vọng cuộc tấn công sẽ diễn ra nhanh chóng, và khi Paralympic khai mạc, lực lượng Nga đã thiết lập được quyền kiểm soát ở Ukraine.

Thế nhưng, nhiều điều bất ngờ đã xuất hiện, và thay vì tạo ra sự chia cắt giữa Mỹ và châu Âu, cuộc xâm lược của Nga lại củng cố tình đoàn kết của phương Tây. Washington sẽ không sa lầy ở Đông Âu, và sẽ không có sóng gió địa chính trị để Bắc Kinh tận dụng.


Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2022

Francis Fukuyama dự báo: Nga nên chuẩn bị cho thất bại ở Ukraine (Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng)

Nguồn: Francis Fukuyama, Preparing for Defeat, American Purpose, 10/03/2022.

Tôi viết bài này khi đang ở Skopje, Bắc Macedonia, nơi tôi vừa đến hồi tuần trước, để giảng dạy một trong các khóa học của Học viện Lãnh đạo về Phát triển (Leadership Academy for Development). Việc theo dõi cuộc chiến Ukraine ở nơi này thực ra không khác gì về mặt thông tin, ngoại trừ việc tôi đang ở múi giờ liền kề với chiến trường, và thực tế là có nhiều sự ủng hộ hơn dành cho Putin ở khu vực Balkan, so với các khu vực khác của châu Âu. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ Serbia, và việc nước này cho phép vận hành trang tin Sputnik của Nga.

Dưới đây tôi mạnh dạn đưa ra một số tiên lượng của cá nhân tôi về cuộc chiến:

1. Nga đang hướng tới một thất bại hoàn toàn trước Ukraine. Kế hoạch của người Nga đơn giản là không phù hợp, dựa trên một giả định sai lầm, rằng người dân Ukraine sẽ đứng về phía Nga, và quân đội của họ sẽ sụp đổ ngay lập tức sau khi bị xâm lược. Rõ ràng là lính Nga đã mang theo quân phục cho lễ duyệt binh mừng chiến thắng ở Kyiv, chứ không phải mang thêm đạn dược và thức ăn. Putin lúc này đã tập trung phần lớn lực lượng của mình vào chiến dịch Ukraine – và sẽ chẳng còn lực lượng dự trữ lớn nào để ông ta có thể điều đến hỗ trợ chiến trường. Quân đội Nga đang mắc kẹt bên ngoài nhiều thành phố khác nhau của Ukraine, nơi họ phải đối mặt với các vấn đề lớn về tiếp tế hậu cần, và liên tục hứng chịu các đợt tấn công của Ukraine.

2. Thất bại của người Nga có thể đột ngột và thảm khốc, thay vì từ từ, qua một cuộc chiến tiêu hao. Đoàn quân đang chiến đấu rồi sẽ đi đến một thời khắc không còn có thể tiếp viện, mà cũng chẳng thể tháo lui, và tinh thần binh sĩ cứ thế bốc hơi. Điều này ít nhất đúng ở miền bắc Ukraine. Người Nga đang làm tốt hơn ở miền Nam, nhưng họ khó lòng trụ nổi nếu miền Bắc sụp đổ.

3. Không có giải pháp ngoại giao nào cho cuộc chiến là khả dĩ trước khi những điều trên đây xảy ra. Không có thỏa hiệp nào mà cả Nga và Ukraine đều có thể chấp nhận, nếu xét đến những tổn thất của cả hai bên tính đến thời điểm này.