Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Quang Dy. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Quang Dy. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2022

Nguyễn Quang Dy: Lý giải chuyến thăm Đài Loan của bà Nancy Pelosi

 “Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng phương tiện khác” (War is the continuation of politics by other means) - Carl Von Clausewitz.  

Trong chuyến thăm 4 nước Châu Á (Singapore, Malaysia, Nam Hàn, Nhật Bản) từ 1-6/8/2022,  Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi (82 tuổi) đã bất ngờ đến thăm Đài Loan (2/8). Bà là quan chức cao cấp nhất của Mỹ đến thăm Đài Loan kể từ năm 1997. Đây là một chuyến thăm gây tranh cãi và đầy kịch tính, có thể kích hoạt cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ 4, làm cho quan hệ Mỹ-Trung căng thẳng như “bên miệng hố chiến tranh”(brinkmanship). Để giải mã sự kiện bất thường này, cần phân tích nó trong bối cảnh mới.

Bối cảnh mới

Bà Pelosi đã dự kiến đi thăm Đài Loan từ 4/2021, nhưng phải hoãn vì đại dịch. Đây không phải lần đầu Chủ tịch Hạ viện Mỹ thăm Đài Loan. Ông Newt Gingrich đã đến thăm Đài Loan năm 1997, nhưng chuyến thăm của bà Pelosi đã diễn ra trong một bối cảnh mới, không chỉ có ý nghĩa tượng trưng (symbolic) mà còn có nhiều hàm ý khác. Bà Pelosi đã giải thích trong một bài viết đăng trên báo Washington Post. (Nancy Pelosi: Why I’m leading a congressional delegation to Taiwan, Nancy Pelosi, Washington Post, August 2, 2022).

“Luật quan hệ Đài Loan” (Taiwan Relations Act 1979) khẳng định cam kết của Mỹ và lời thề long trọng phải bảo vệ Đài Loan. Nay Trung Quốc tuyên bố chuẩn bị thống nhất Đài Loan bằng vũ lực, Mỹ không thể đứng ngoài. Chuyến thăm của phái đoàn quốc hội Mỹ là một minh chứng rõ ràng là Mỹ đang sát cánh với Đài Loan để bảo vệ chủ quyền và tự do. Mỹ đoàn kết với Đài Loan lúc này có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết, không chỉ vì 23 triệu dân Đài Loan mà còn vì hàng triệu người khác đang bị Trung Quốc áp bức và đe dọa.

Bắc Kinh đã vứt lời hứa “một nước, hai chế độ” vào sọt rác, không chỉ ở Hong Kong mà còn ở tây Tạng và Tân Cương. Ở Tây Tạng, họ đã triển khai chiến dịch xóa bỏ ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo và đặc tính Tây Tạng. Ở Tân Cương, họ đã tiến hành diệt chủng người Hồi giáo và các sắc tộc thiểu số khác. Thế giới đứng trước sự lựa chọn giữa độc tài và dân chủ. Mỹ không thể đứng ngoài khi Bắc Kinh đe dọa Đài Loan, nhưng Mỹ cũng không thay đổi chính sách “một Trung Quốc”, theo “Luật Quan hệ Đài Loan” và “Thông cáo Chung”.


Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2022

Nguyễn Quang Dy: Nên hiểu thế nào về hiện tượng Kissinger

 “Nếu muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh” (Si vis pacem, para bellum).

Henry Kissinger là một cây đại thụ trong lịch sử ngoại giao Mỹ suốt năm thập kỷ qua, đã sống gần 100 tuổi nhưng không chịu ngồi yên. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (Davos, 23/5/2022), ông đã một lần nữa làm dư luận dậy sóng khi khuyên Ukraine nhượng đất cho Nga để đổi lấy thỏa thuận hòa bình. Nên hiểu thế nào về hiện tượng Kissinger? Liệu cây đại thụ Kissinger còn minh mẫn hay đã lỗi thời? Phải chăngKissinger định bắt chước Neville Chamberlain (thủ tướng Anh, 1937-1940) khi “nhân nhượng” Adolf Hitler (9/1938)?     

Chamberlain đã ngây thơ tin rằng nếu đối xử với Hitler “một cách thực tế và nghiêm túc” thì có thể thuyết phục được Hitler về hiệu nghiệm của hòa bình. Chamberlain cấm BBC và các báo đưa tin về chủ trương “nhân nhượng” (appeasement). Đó là biện pháp mà Nixon và Kissinger cũng áp dụng. Chamberlain vẫn ảo tưởng khi Đức chiếm Austria (3/1938). Tại Munich (9/1938), Anh và Pháp đã ép Czechs đầu hàng Đức. Ông không thông báo hay đề nghị nội các chấp thuận và không tham vấn Quốc hội trước khi đàm phán với Hitler. 

BBC đã cấm Winston Churchill và những người phản đối nhân nhượng không được lên sóng. Với đa số của Đảng Bảo thủ tại Hạ viện, Chamberlain cố dập tắt sự chống đối tại Quốc hội với lập luận ai chống đối là phản quốc. Khi Hitler xâm lược Ba Lan (9/1939), Chamberlain không còn lựa chọn nào khác nên phải tuyên bố chiến tranh với Đức, nhưng chỉ chiến tranh giả vờ (phony war) cho đến khi từ chức để Winston Churchill lên thay (10/5/1940). Cùng ngày, Hitler đã tấn công Tây Âu bằng đòn chớp nhoáng (blitzkrieg). 

Bài học xưa và nay

Cũng như nhiều người khác, tôi đã từng ngưỡng mộ Henry Kissinger với các tác phẩm kinh điển như “Ý nghĩa của Lịch sử” (the Meaning of History, 1950) và “Một Thế giới được Phục hồi” (A World Restored, 1957). Nhưng sau khi thấy rõ những gì ông ấy đã làm trong chiến tranh Việt Nam và nội chiến Bangalis, tôi đã phải nhìn nhận lại. Kissinger đúng là một cây đại thụ trong lịch sử ngoại giao Mỹ đã từng làm đảo lộn thế giới, nhưng bàn tay ông ấy đã nhúng chàm diệt chủng (genocide). Sẽ nguy hiểm và ảo tưởng nếu người ta nghe theo ông ấy với trò chơi realpolitik để một lần nữa làm đảo lộn thế giới (in reserse).


Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2022

Nguyễn Quang Dy: Thách thức và cơ hội sau Ukraine

Thế giới vẫn chưa thoát khỏi đại dịch Covid-19 thì cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine đã ập tới như một thảm họa kép, với những hệ quả khó lường. Sau hơn một tháng chiến tranh đẫm máu, nhiều thành phố Ukraine đã bị hủy diệt, làm hàng vạn người chết và vài triệu người phải chạy ra nước ngoài tị nạn. Nhưng chính phủ Zelensky vẫn dũng cảm chiến đấu và đứng vững trước một đổi thủ mạnh hơn nhiều lần, làm thế giới phải khâm phục. Mỹ và các đồng minh NATO gắn kết hơn bao giờ hết, đang cấm vận Nga và viện trợ cho Ukraine.

 

Nga và Trung Quốc

Theo Richard Haass (Foreign Affairs) trên thực tế có hai cuộc chiến tranh: một cuộc chiến tranh của Nga chủ yếu nhằm hủy diệt các thành phố Ukraine, và một cuộc chiến tranh của quân đội Ukraine chống lại quân đội Nga. Nếu Nga thắng cuộc chiến thứ nhất, thì Ukraine đang thắng cuộc chiến thứ hai. Tất cả phụ thuộc vào liệu Putin có thắng được canh bạc này hay không, và liệu cái giá mà Putin phải trả có vượt quá cái mà ông thu được hay không (The early winners and losers in Putin’s war, Richard Haass, ASPI, April 1, 2022).

Sau hơn một tháng, lực lượng hùng mạnh của Nga với 150 ngàn quân vẫn không chiếm được Kiev, bị tổn thất nặng nề, đang bị sa lầy, nay phải điều chỉnh chiến lược. Nga đã mất khoảng 15 ngàn quân với 6 sỹ quan cấp tướng, bộc lộ nhiều điểm yếu phải mất nhiều năm để xây dựng lại. Phương Tây cấm vận chưa từng có, đang làm cho kinh tế Nga bị kiệt quệ. Đến nay, hàng vạn người đã phải “bỏ phiếu bằng chân” rời bỏ nước Nga. Làn sóng phản chiến ngày càng lan rộng, làm cho Putin ngày càng bị cô lập về đối nội và đối ngoại.


Thứ Năm, 19 tháng 8, 2021

Nguyễn Quang Dy: Ngoại giao Phó tổng thống - Điều hành quan hệ của Mỹ ở Châu Á

Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris có kế hoạch thăm Singapore ngày 22/8 và Việt Nam ngày 24/8. Đây là lần đầu tiên một phó tổng thống Mỹ đương nhiệm sang thăm Việt Nam, tiếp theo chuyến thăm thành công của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin tới Singapore, Việt Nam, và Philippines vào cuối tháng bảy. Tổng thống Joe Biden dự kiến có thể tham gia các hội nghị thượng đỉnh ASEAN và Đông Á vào cuối năm nay.

Tại sao Việt Nam và Singapore?


Trong sáu tháng đầu năm, trong khi tiếp tục cổ vũ cho tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, chính quyền Biden đã tập trung vào các khu vực khác. Trong sáu tháng cuối năm, khu vực này chắc sẽ được chú ý hơn với nhiều chuyến thăm cấp cao. Nhưng tại sao đoàn Austin và Harris đến thăm Singapore và Việt Nam hai lần trong một tháng, mà không chú ý tới Indonesia và Thailand là hai nước đối tác khác cũng quan trọng?

Tuy các quan chức cấp cao không thể đến mọi nơi trong một chuyến đi, nhưng việc lựa chọn đến đâu, vào lúc nào là có ý nghĩa. Chuyến thăm của Harris vào cuối tháng tám sẽ làm rõ vai trò của Đông Nam Á nói chung là một phần thiết yếu của “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Tự do và Rộng mở” để đẩy lùi Trung Quốc, trong khi đặc biệt nhấn mạnh tiềm năng của Việt Nam và Singapore là hai đối tác chiến lược của Mỹ trong khu vực.

Với bờ biển dài hơn 3000km, Việt Nam có vị trí thuận lợi để ngăn chặn Trung Quốc tiến xuống Đông Nam Á. Căn cứ hải quân ở vịnh Cam Ranh có vị trí chiến lược đặc biệt đối với Biển Đông. Trong khi đó, Singapore kiểm soát vị trí yết hầu tại eo biển Malacca nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Năm 2019, Singapore đã gia hạn cho Mỹ sử dụng căn cứ hải quân và không quân ở Changi thêm 15 năm tới 2035.

Thứ Tư, 11 tháng 8, 2021

Nguyễn Quang Dy: Quan hệ Mỹ-Việt trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung

Mấy năm qua, tuy quan hệ Mỹ-Việt đã có những bước tiến dài, nhưng phải đặt quan hệ song phương trong bối cảnh an ninh khu vực và bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung. Không phải ngẫu nhiên mà tàu sân bay Mỹ đã đến thăm Đà Nẵng hai lần, và Mỹ đã chuyển giao cho Việt Nam hai tàu tuần duyên lớp Hamilton, nhằm nâng cao năng lực hàng hải. Đó mới chỉ là bước đầu. Vai trò trung tâm của ASEAN và vai trò trụ cột của “Bộ Tứ” (Quad) ngày càng quan trọng trong cơ chế an ninh khu vực, theo tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Trong sáu tháng đầu năm 2021, tuy Mỹ nhấn mạnh tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhưng đã chú trọng nhiều hơn đến khu vực Châu Âu, Trung Đông, và Đông Bắc Á, trong khi có phần coi nhẹ Đông Nam Á. Vì vậy trong sáu tháng cuối năm, Washington phải tăng cường quan hệ với các nước ở khu vực này. Đó là bối cảnh chuyến thăm Singapore và Việt Nam của Phó tổng thống Kamala Harris trong tháng 8, tiếp theo chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin tới Singapore, Việt Nam, và Philippines cuối tháng 7 vừa rồi.

Theo người phát ngôn Nhà Trắng, Phó tổng thống Kamala Harris sẽ thăm chính thức Singapore và Việt Nam từ ngày 20 đến ngày 26/8/2021. Đây là lần đầu tiên một phó tổng thống đương nhiệm của Mỹ thăm Việt Nam. Chuyến thăm của bà Harris sẽ tập trung vào bốn vấn đề lớn. Một là nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ hợp tác toàn diện và đối tác chiến lược trong chính sách đối ngoại của chính quyền Biden. Hai là cam kết của Mỹ đối với các nỗ lực đảm bảo an ninh khu vực. Ba là thúc đẩy quan hệ đối tác giữa Mỹ và các nước ASEAN. Bốn là bảo vệ những giá trị của Mỹ như dân chủ và nhân quyền.

Ngoại trưởng Antony Blinken phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ-ASEAN ngày 4/8, đã khẳng định cam kết của Mỹ đối với vai trò trung tâm của ASEAN và ủng hộ Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Ngoại trưởng Blinken và các ngoại trưởng ASEAN đã thảo luận những thách thức cấp bách trong khu vực và trên thế giới, bao gồm ứng phó với đại dịch Covid-19, hành động mạnh mẽ chống biến đổi khí hậu, tăng cường phát triển nguồn nhân lực, và hành động cấp thiết đối với tình hình Myanmar.

Thứ Ba, 22 tháng 6, 2021

Nguyễn Quang Dy: Dân trí, xã hội dân sự, và văn hóa ứng xử trên mạng

Đợt bùng phát thứ tư của Coronavirus chủng mới không chỉ buộc người dân phải dãn cách mà còn làm thay đổi tư duy và văn hóa ứng xử. Coronavirus không chỉ đẩy lùi các chỉ tiêu kinh tế lạc quan đưa ra đầu năm, mà còn làm xã hội phân hóa khó lường. Sau bài Thánh chửi, thần y, danh hài, và các ngôi sao đang lặn (27/5/2021), bài này đề cập không chỉ thực trạng về dân trí, mà còn về các nhân tố mới làm thay đổi cuộc chơi (game changers).

Thực trạng xã hội


Trong mọi xã hội, dù đã phát triển (như Mỹ) hay đang phát triển (như Việt Nam), quá trình phân hóa đang diễn ra với các biến động khó lường, như một quy luật trước bước ngoặt của lịch sử. Tại các xã hội đang chuyển đổi (transitional) như Việt Nam, quá trình đó càng quyết liệt. Muốn tránh rủi ro và đổ vỡ thì dân trí phải cao, và xã hội dân sự phải mạnh. Nhưng đáng tiếc là đúng lúc này thì cả hai yếu tố cơ bản đó còn yếu và thiếu ở Việt Nam.

Cách đây hơn một thế kỷ, cụ Phan Châu Trinh đã nhận ra điều đó và kêu gọi “khai dân trí”. Nhưng đáng tiếc là trong khi người Nhật đã khai dân trí để canh tân Nhật Bản thành cường quốc, thì Việt Nam vẫn còn dậm chân tại chỗ ở ngã ba đường “không chịu phát triển”. Thời trước, các trí thức Việt thường kiêu ngạo vì “hủ nho” chỉ “ngâm thơ uống rượu”. Ngày nay, họ thường tự hào vì “truyền thống”, chỉ ham cãi nhau và “chém gió”.

Trong khi đổi mới “vòng một” (chủ yếu về thể chế kinh tế) đã hết đà và nghẽn mạch, thì đổi mới “vòng hai” (chủ yếu về thể chế chính trị) chưa diễn ra, chậm chân hơn các nước khác, làm cho quá trình dân chủ hóa (democratization) và xã hội dân sự (civil society) bị kìm hãm. Trong khi “sức mạnh cứng” (hard power) của đất nước còn yếu trước sự trỗi dậy và đe dọa của Trung Quốc, thì “sức mạnh mềm” (soft power) của dân tộc bị suy yếu.

Thời xưa, Việt Nam tuy nhỏ bé và yếu hơn Trung Quốc, nhưng người Việt (thời Lý và Trần) đã đoàn kết một lòng (national consensus) đánh bại quân xâm lược phương Bắc. Lý Thường Kiệt đã chủ động ra tay trước (forward defense), đem quân đánh Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu (1075-1076) tiêu diệt quân Tống trước khi rút về phòng tuyến Như Nguyệt. Trần Hưng Đạo đã lãnh đạo người Việt ba lần đánh thắng quân Nguyên (1258-1288).

Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2021

Nguyễn Quang Dy: Thánh chửi, thần y, danh hài, và các ngôi sao đang lặn

Gần đây, dư luận ồn ào về câu chuyện “thần y” Võ Hoàng Yên đang bị “thánh chửi” Nguyễn Phương Hằng (CEO của Đại Nam, vợ đại gia “Dũng Lò Vôi”) tố cáo dùng bùa ngải để lừa đảo hòng chiếm đoạt tài sản. Theo bà Phương Hằng, 14 năm qua ông Yên đã hành nghề “lang băm”, lừa đảo nhiều người cả trong và ngoài nước, làm họ “tiền mất tật mang”. Bà còn tố cáo một số “nghệ sỹ” đã ẩn danh nói xấu mình để bênh vực cho ông Yên.

Bà Phương Hằng cũng lên án “danh hài” Võ Hoài Linh, không chỉ vì đồng bóng, mà sáu tháng qua đã ỉm đi gần 14 tỷ VNĐ mà những người hảo tâm đã ủng hộ đồng bào bị lũ lụt. Về pháp lý, phải chờ cơ quan chức năng điều tra làm rõ sự thực, nhưng nếu sự thực được phanh phui thì đây là tiếng chuông cảnh tỉnh về một nhóm lợi ích có bóng dáng một giáo phái tà đạo mà chính bà ấy là nạn nhân, nay đang làm thay đổi cuộc chơi (game changer).

Các loại siêu lừa


Tuy lừa đảo không chỉ có ở Việt Nam mà nước nào cũng có, nhưng ở các nước văn minh, họ thường lừa đảo “chuyên nghiệp hơn”. Siêu lừa Bernie Madoff bị bắt vào tháng 12/2008, sau khi công ty quản lý tài sản mà ông ta điều hành ở Manhattan (New York) bị cáo buộc lừa đảo bằng “mô hình kim tự tháp” (Ponzi), với số tiền lên tới 65 tỷ USD. Nhưng ở Việt Nam, họ thường lừa đảo dân chúng một cách “thô thiển hơn”, như một đặc thù riêng.

Hai năm trước, siêu lừa Lê Xuân Giang (Chủ tịch HĐQT Công ty Liên Kết Việt) đã bị tuyên án tù chung thân. Theo Viện Kiểm sát, từ tháng 3/2014 đến tháng 11/2015, Lê Xuân Giang và các đồng phạm đã sử dụng mạng lưới bán hàng đa cấp gồm 34 chi nhánh và đại lý tại 27 tỉnh/thành, chiếm đoạt 2.090 tỷ VNĐ của hơn 68.000 người. Giang và đồng bọn đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gây ngộ nhận rằng Liên Kết Việt là công ty của Bộ Quốc phòng, và tổ chức lễ đón nhận bằng khen (giả) của Thủ tướng chính phủ (Lao động, 23/12/2020).

Thứ Ba, 19 tháng 1, 2021

Nguyễn Quang Dy: Câu chuyện đầu năm 2021 - Chuyển giao quyền lực

Mỗi lần năm mới tới, tôi hay viết “câu chuyện đầu năm” để cập nhật và dự báo chuyện gì đang đến. Như một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nước Mỹ và Việt Nam đều bầu cử và chuyển giao quyền lực vào cuối tháng giêng. Thời điểm sau Tết Dương lịch và trước Tết Âm lịch là lúc giao mùa, khi mùa đông giá lạnh đang suy tàn và mùa xuân ám áp đang đến.

Câu chuyện nước Mỹ


Tại nước Mỹ, sau một năm biến động khó lường, do hệ quả của đại dịch Covid-19 làm khoảng 24,5 triệu người mắc dịch và hơn 407 ngàn người bị chết (gấp nhiều lần thương vong thời chiến tranh Việt Nam). Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung và đại dịch Covid-19 đã làm cho kinh tế Mỹ đình đốn và xã hội Mỹ phân hóa sâu sắc, như thời nội chiến.

Tổng thống đắc cử Joe Biden đang ráo riết sắp xếp nhân sự, chuẩn bị tuyên thệ nhậm chức (ngày 20/1), sau hai tháng khủng hoảng chính trị vì Donald Trump không thừa nhận thất bại. Trump và các nghị sỹ cơ hội (như Ted Cruz, Josh Hawley) cùng các luật sư theo Trump (như Rudy Giuliani) đã xúi giục đám đông quá khích (như Proud Boys) chống lại kết quả bầu cử.

Ngày 6/1 đã đi vào lịch sử nước Mỹ khi đám đông quá khích tấn công Nhà Quốc hội (Capitol) là biểu tượng của nền dân chủ, đòi treo cổ Mike Pence. Bạo loạn như giọt nước tràn li đã làm người Mỹ phẫn nộ. Trump như một “kẻ đốt đền”, không chỉ thách thức Hiến pháp và nền dân chủ Mỹ, mà còn vô tình thiêu trụi cả vốn liếng chính trị của mình.

Cách đây bốn năm, sau khi đắc cử và giành được Nhà Trắng với thông điệp của chủ nghĩa dân túy, (làm nhiều người ngỡ ngàng), nay Chính quyền Trump thất cử và sụp đổ ngày 6/1 với vụ bạo động tại Nhà Quốc hội (làm nhiều người kinh hoàng). Điều gì đã xảy ra làm Mỹ đứng trước sự chia rẽ và đổ nát mà chính quyền mới khó lòng khắc phục?

Thứ Ba, 10 tháng 11, 2020

Nguyễn Quang Dy: Những thách thức sau bầu cử Mỹ năm 2020

“Trời còn để có hôm nay / Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời” (Kiều)

Sau bốn năm như “đến hẹn lại lên”, nước Mỹ và thế giới lại chứng kiến trận chung kết giải thi đấu đặc biệt của nền dân chủ Mỹ, để khẳng định ai là chủ Nhà Trắng trong bốn năm tiếp theo. Nhưng năm 2020, sự kiện chính trị này kịch tính và khó lường hơn, do hệ quả bốn năm dưới chính quyền Trump và một năm bị đại dịch Covid-19. Trong khi thế giới càng bất an thì nước Mỹ càng phân hóa, không chỉ giữa hai chính đảng mà còn trong cộng đồng và các gia đình. Vậy sau bầu cử, nước Mỹ và thế giới phải đối mặt với những thách thức gì?

Kịch tính và khó lường


Cách đây bốn năm, bầu cử cũng kịch tính và diễn biến khó lường, nhưng đến nửa đêm (giờ Mỹ) ta có thể biết ai là người thắng cuộc. Nhưng năm nay, điều đó đã thay đổi vì số cử tri tham gia bỏ phiếu tăng kỷ lục và số người bỏ phiếu bằng thư qua bưu điện rất lớn (do đại dịch), làm quá trình kiểm phiếu kéo dài, dẫn đến những hệ lụy phức tạp tại các bang “chiến địa”. Đến nửa đêm (3/11), Joe Biden mới được 224 phiếu, và Donald Trump được 213 phiếu. 

Ba ngày tiếp theo, cả hai đối thủ vẫn chưa đủ 270 phiếu (cử tri đoàn) nên quá trình kiểm phiếu vẫn tiếp tục, với kết quả sát nút tại một số bang “chiến địa” đầy kịch tính và căng thẳng như trong phim hành động (suspense). Một số nơi phải tạm dừng để kiểm phiếu lại (recount) do nghi ngờ “gian lận” (fraud). Dù đó là tin đồn hay sự thật, nó phản ánh tâm trạng bức xúc và đối địch trong cộng đồng như “thùng thuốc súng”, làm đầu độc tâm lý người Mỹ. 

Có nhiều nguyên nhân. Một là hệ quả bốn năm dưới chính quyền Trump làm xã hội phân hóa thành phe “cuồng Trump” và phe “chống Trump”, gây chia rẽ trong cộng đồng và gia đình. Hai là hệ quả của đại dịch năm nay làm gần 10 triệu người Mỹ bị lây nhiễm và gần 237 ngàn người chết, gây tâm lý hoang mang lo sợ. Ba là những biến động về dân số trong cộng đồng làm xung đột sắc tộc biến thành bạo loạn và khủng hoảng (như phong trào BLM).

Thứ Ba, 3 tháng 11, 2020

Nguyễn Quang Dy: Đằng sau chuyến thăm Việt Nam của ông Mike Pompeo

Người ta nói rằng tháng 10 có nhiều bất ngờ (October surprise), không chỉ vì thông tin gây sốc trong laptop của Hunter Biden, mà còn chuyến thăm bất ngờ của Ngoại trưởng Mike Pompeo đến Việt Nam (29-30/10). Chuyến thăm này diễn ra trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ có vài ngày (3/11) và trước Đại Hội Đảng XIII của Việt Nam vài tháng (Quý I/2021). Trước các đồn đoán về chuyến thăm này, hãy thử lý giải ý nghĩa đằng sau sự kiện đó. 

Chuyến thăm Việt Nam có bất ngờ?


Theo thông lệ ngoại giao, chuyến thăm chính thức của quan chức cấp cao (như ngoại trưởng) thường được thông báo trước hàng tháng. Chuyến thăm Châu Á của ông Mike Pompeo tới Ấn Độ, Sri Lanka, Maldives, và Indonesia (26-30/10), lúc đầu không có Việt Nam. Việc thăm chính thức Việt Nam chỉ được quyết định bổ sung thêm vào phút chót, khi Diễn đàn Doanh nghiệp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPBF) được khai mạc tại Hà Nội (28/10).

Cùng ngày 28/10, Bộ Ngoại giao Việt Nam mới thông báo về chuyến thăm của Ngoại trưởng Mike Pompeo (29-30/10) theo lời mời của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh, để “kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ”. Ngày hôm sau (29/10), Bộ Ngoại giao Mỹ mới thông báo về chuyến thăm chính thức Việt Nam của Ngoại trưởng Mike Pompeo “nhằm ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập”, và nhấn mạnh Mỹ và Việt Nam cùng chung tầm nhìn về khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Tự do và Rộng mở.

Dư luận bất ngờ về một chuyến thăm bất thường, chắc phải có lý do đặc biệt nào đó, trong khi bầu cử Tổng thống Mỹ đầy kịch tính chỉ còn vài ngày, cuộc họp thượng đỉnh Đông Á chỉ còn vài tuần, và Đại hội Đảng XIII của Việt Nam chỉ còn vài tháng. Trước tình hình Biển Đông và Biển Hoa Đông đang căng thẳng do thái độ hung hăng của Trung Quốc, bàn cờ địa chính trị “Indo-Pacific Tự do và Rộng mở” (FOIP) đang biến chuyển nhanh hơn. 

Đây có phải là chuyến thăm “đột xuất” hay nằm trong một kế hoạch từ trước, nhưng được giữ kín tới phút chót để Việt Nam tránh phản ứng của Trung Quốc? Chuyến thăm của Mike Pompeo tới năm nước Châu Á tiếp theo chuyến thăm của tân Thủ tướng Nhật Suga Yoshihide tới Việt Nam và Indonesia (18-21/10), và cuộc họp ngoại trưởng Bộ tứ (Quad) tại Tokyo (6/10). Mỹ và Nhật chắc sẽ phối hợp thúc đẩy chiến lược FOIP và “Bộ Tứ mở rộng” (Quad plus). Trong khi Nhật và Việt Nam thỏa thuận hợp tác quân sự và chuyển giao công nghệ quốc phòng, Mỹ và Việt Nam cũng thỏa thuận hợp tác về năng lượng và an ninh quốc phòng. 

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2020

Nguyễn Quang Dy: Việt Nam trước một thế giới bất an và bất định

Để lý giải thế giới hiện tại trong cuốn “21 bài học cho thế kỷ 21” (21 lessons for the 21st century, 2018) Yuval Noah Harari trước đó đã viết hai cuốn “Lược sử loài người” (Sapiens: A Brief History of Humankind, 2014), và “Lược sử tương lai” (Homo Deus: A Brief History of Tomorrow,2016). Chúng ta đang sống trong một thế giới rất phức tạp, đầy bất an và bất định. Vì vậy, muốn hiểu thế giới hiện tại, phải hiểu quá khứ và tương lai.

Thế giới cũ đã qua 


Trong nửa đầu của thế kỷ trước, dân tộc Việt Nam cũng như nhiều dân tộc khác, đã chịu hệ quả (trực tiếp hay gián tiếp) của hai cuộc đại chiến thế giới (WWI: 1914-1918 và WWII: 1939-1945) và một cuộc chiến tranh cục bộ tại Triều Tiên (1950-1953). Trong ba cuộc chiến tranh thông thường và tổng lực đẫm máu đó, các cường quốc đã trực tiếp tham chiến, trong khi thế giới hình thành hai phe (như phe “đồng minh” chống lại phe “trục phát xít”). 

Trong nửa cuối của thế kỷ trước, Mỹ và Liên Xô đã đối đầu trong cuộc chiến tranh lạnh (dựa trên ý thức hệ). Trật tự thế giới đã hình thành theo khuôn khổ Liên Hợp Quốc (do Mỹ dẫn đầu). Các nước thuộc “thế giới thứ ba” đã tập hợp lại trong phong trào “Không Liên kết” (do Ấn Độ và Trung Quốc dẫn dắt). Trong bối cảnh đó, Việt Nam bị mắc kẹt vào một cuộc “chiến tranh ủy thác” (proxy war) mà thực chất là nội chiến (huynh đệ tương tàn).

Chiến tranh Việt Nam tuy là chiến tranh cục bộ nhưng kéo dài hơn (1965-1975) và đẫm máu hơn, với tổng số bom đạn và phương tiện chiến tranh lớn hơn so với các cuộc chiến tranh trước đó. Vết thương chiến tranh (về vật chất và tinh thần) đến nay vẫn chưa hàn gắn, vì hệ quả của nó quá lớn và tiềm ẩn. Bóng ma chiến tranh vẫn còn sống trong tâm thức nhiều người, và hận thù giữa hai cộng đồng người Việt (Bắc-Nam) vẫn chưa được hòa giải.

Thứ Ba, 20 tháng 10, 2020

Nguyễn Quang Dy: Chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Suga Yoshihide

Ngày 16/9/2020, ông Suga Yoshihide (chủ tịch đảng LDP) đã chính thức trở thành thủ tướng Nhật Bản (với kết quả bỏ phiếu là 314/462). Ông là thủ tướng thứ 99 của Nhật Bản (đến tháng 9/2021 sẽ phải bầu cử lại). Có thể nói, chính phủ Suga là sự nối tiếp của chính phủ Abe mà không có Abe. Ông Suga sẽ tiếp tục chính sách kinh tế của ông Abe (Abenomics) và chính sách đối ngoại của chính phủ Abe: Nhật là đồng minh số một của Mỹ ở Đông Á, có quan hệ gắn bó với ASEAN theo tầm nhìn Indo-Pacific, và có quan hệ nhạy cảm với Trung Quốc. Cũng như ông Abe, ông Suga cũng chọn Việt Nam là nước đầu tiên để đến thăm (18-20/10) với cương vị Thủ tướng. Nhưng tại sao Tokyo lại chọn Việt Nam và Indonesia?

Thứ nhất, ông Suga không thể đi thăm Mỹ vào lúc này khi có đại dịch và cuộc tranh cử đầy kịch tính bước vào giai đoạn cuối (showdown). Đi thăm ASEAN là lựa chọn tốt nhất lúc này, khi đối đầu Mỹ-Trung tại Biển Đông tăng lên. Việt Nam là chủ tịch ASEAN, có vị trí chiến lược quan trọng và nhạy cảm tại Biển Đông, trong khi Indonesia là nước lớn nhất ASEAN, và thành viên nhóm G-20. Việt Nam và Indonesia có vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất trong ASEAN. Hai nước này là cái đê ngăn Trung Quốc bành trướng xuống phía Nam. 

Thứ hai, chuyến thăm này của ông Suga tiếp theo cuộc họp ngoại trưởng bốn nước “Bộ Tứ” (Quad) tại Tokyo (6/10) tập trung bàn về tình hình căng thẳng ở khu vực Indo-Pacific và trật tự quốc tế sau đại dịch Covid-19. Cuộc họp không có tuyên bố chung vì quan điểm các nước khác nhau, và “Bộ Tứ” chưa có cơ chế làm việc chính thức (informal). Đây là cuộc họp ngoại trưởng “Bộ Tứ” lần thứ hai, sau cuộc họp lần đầu tại Washington (9/2019). 

Trong bối cảnh các nước phải tập trung đối phó với đại dịch, Trung Quốc tranh thủ thời cơ để tăng cường gây sức ép tại Biển Đông. Các nước Mỹ, Canada (Bắc Mỹ) Anh, Pháp, Đức (Tây Âu), Nhật, Ấn Độ, Úc, Hàn Quốc (Châu Á) đang liên kết để đối phó với đại dịch, và hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn cung của Trung Quốc. Trong khi Mỹ triển khai chủ trương “tách đôi” (decoupling) thì Nhật cũng đa dạng hóa chuỗi cung ứng (supply chain).

Thứ Ba, 6 tháng 10, 2020

Nguyễn Quang Dy: Thế giới đang ở ngã ba đường

Sau 75 năm chiến tranh và cách mạng liên miên (kể từ 1945), Việt Nam vẫn ở ngã ba đường ý thức hệ, nay lại bị mắc kẹt trong cuộc đối đầu chiến lược Mỹ-Trung, buộc phải đối phó bằng cách giữ thăng bằng (như hedging game). Nhưng không chỉ Việt Nam mà thế giới cũng đang ở ngã ba đường. Cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung và đại dịch Covid-19 đang xô đẩy nhiều nước đến bên bờ vực của điểm bùng phát (tipping point). Trong khi thế giới biến đổi quá nhanh và khó lường, thì tư duy con người lại đổi mới quá chậm nên không theo kịp, làm bộc lộ các mâu thuẫn tiềm ẩn, và làm cho quá trình phân hóa càng thêm trầm trọng.  

Mỹ và bước ngoặt mới

Trong bối cảnh đó, bầu cử tổng thống Mỹ vào cuối năm (3/11/2020), chứng kiến sự phân hóa ngày càng lớn. Đó là khủng hoảng lãnh đạo Mỹ và toàn cầu. Điều đó không chỉ vì các nhân vật lãnh đạo gây tranh cãi, mà nó còn phản ánh thực trạng nước Mỹ, với các xu thế mới đang xô đẩy nước Mỹ và thế giới đến một bước ngoặt mới. Xu thế toàn cầu hóa và chủ nghĩa đa phương đang thoái trào trước xu thế biệt lập và chủ nghĩa quốc gia và dân túy. Trật tự thế giới do Mỹ đứng đầu đang bị Trung Quốc trỗi dậy thách thức trên nhiều lĩnh vực.   

Bài diễn văn của Ngoại trưởng Mike Pompeo Communist China and the Free world’s Future (23/7/2020) là bài cuối trong bốn bài diễn văn như “xa luân chiến” của các quan chức chủ chốt trong chính quyền Trump, gồm Cố vấn An ninh Quốc gia Robert O’Brien nói về ý thức hệ (26/6), Giám đốc FBI Chris Wray nói về gián điệp Trung Quốc (7/7), và Bộ trưởng Tư pháp William Barr nói về kinh tế (16/7). Tiếp theo là diễn văn cứng rắn của Tổng thống Donald Trump tại lễ kỷ niệm 75 năm Liên Hiệp Quốc ra đời (22/9). Trump thẳng thừng lên án Trung Quốc là nguyên nhân chính, và kêu gọi thế giới nhìn thẳng vào sự thật.   

Trong cuộc đấu khẩu thứ nhất (29/9) như một bi hài kịch, ông Trump và ông Biden đã cướp lời để đối phó với nhau mà không đưa ra được cái gì mới đáng kể. Các nhà bình luận có thể cho rằng các bài diễn văn nói trên chủ yếu nhằm giúp Trump lấy điểm để tranh cử


Thứ Tư, 2 tháng 9, 2020

Nguyễn Quang Dy: Thủ tướng Shinzo Abe từ chức và vai trò của Nhật ở khu vực 

28/8, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã tuyên bố từ chức sớm một năm vì “không muốn sức khỏe đang xấu đi của ông làm ảnh hưởng đến các quyết sách quan trọng”. Ông Abe có tiền sử viêm đường ruột từ lâu, năm 2007 đã đột ngột từ chức thủ tướng vì lý do sức khỏe, sau một năm cầm quyền. Trong khi nhiều người ca ngợi tư cách lãnh đạo của ông Abe, những người khác coi việc ông từ chức vào lúc này là đáng tiếc cho tầm nhìn Indo-Pacific.

Đảng cầm quyền LPD vẫn nắm đa số vững chắc trong Quốc Hội, nên ai được bầu làm chủ tịch đảng (dự kiến trong tháng 9) sẽ mặc nhiên trở thành Thủ tướng Nhật để kế nhiệm ông Abe. Vì vậy, bây giờ là lúc cần đánh giá lại trong tám năm cầm quyền, ông Abe đã làm được những gì cho nước Nhật và khu vực, và để lại gia tài gì cho người kế nhiệm.

Abenomics hay đối ngoại


Ông Abe là thủ tướng Nhật cầm quyền lâu nhất (tám năm). Tuy không được lòng dân Nhật, nhưng ông Abe có vai trò quốc tế nổi bật. Dù chưa thành công về kinh tế, nhưng ông đã làm cho nước Nhật mạnh hơn và độc lập hơn về quốc phòng và đối ngoại. Người kế nhiệm ông Abe chắc phải theo đường lối của ông vì hòa bình và ổn định ở Đông Á. (The Japan Shinzo Abe leaves behind, Bill Emmott, ASPI/Project Syndicate, August 31, 2020).

Kể từ khi Mỹ kết thúc chiếm đóng Nhật Bản (năm 1952) không có thủ tướng Nhật nào dám nghĩ đến việc hạ thấp quan hệ với Mỹ. Nhưng ông Abe đã nhìn nhận nước Mỹ dưới thời Tổng thống Trump không còn là một đồng minh đáng tin cậy và dễ hợp tác như trước, nên đã chuẩn bị cơ sở để Nhật Bản có tiếng nói độc lập hơn, trong khi xây dựng một mạng lưới các đối tác của Nhật trên thế giới, theo một chiến lược có tầm nhìn mới lâu dài hơn.

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2020

Nguyễn Quang Dy: Nhìn lại kinh tế ngầm ở Việt Nam

Phần 1: Giải mã hiện tượng kinh tế ngầm


Kinh tế ngầm là một chủ đề khó, không chỉ với những người ngoại đạo mà còn với các chuyên gia kinh tế và quản trị kinh doanh. Trong khi tài liệu tham khảo về kinh tế ngầm còn thiếu, quan niệm về kinh tế ngầm có nhiều bất cập. Điều đó phản ánh bản chất phức tạp và khó nắm bắt của kinh tế ngầm. Gần đây các chuyên gia tuy đề cập nhiều hơn đến quy mô và tầm quan trọng của kinh tế ngầm, nhưng vẫn còn nhiều tranh cãi về động cơ và phương pháp thống kê. Bức tranh về kinh tế ngầm vẫn còn nhiều ẩn số, cần được giải mã để làm rõ hơn. 

Quan niệm về “System D” 


Trong bất kỳ nền kinh tế nước nào cũng có kinh tế ngầm, nhất là tại các nước đang phát triển có một nền kinh tế chuyển đổi, có thể chế lỗi thời và thói quen làm việc “du kích” như Việt Nam. Hiện nay, người ta thường gọi hệ thống kinh tế ngầm là “System D”. Đó là chữ cái của từ tiếng Pháp “debrouille”. Từ này có nghĩa gần giống như “manage” hay “make do” trong tiếng Anh, có nghĩa là có thể xoay sở và tồn tại được, bất chấp mọi khó khăn.

Trước đây, “System D” được biết đến chủ yếu tại các nước nói tiếng Pháp ở Châu Phi và vùng Caribbean. Ngày nay “System D” là thuật ngữ để chỉ năng lực thực dụng biết thích nghi nhanh và biến báo hiệu quả trước mọi tình huống khó khăn để đạt được mục đích. Trong kinh tế học, “System D” thường được hiểu là “kinh tế ngầm” (shadow economy) có đóng góp ngày càng lớn cho kinh tế thế giới. Theo các chuyên gia, GDP của “System D” là $10 trillion. (“The Shadow Superpower”, Robert Neuwirth, Foreign Policy, 28/10/2011).

Robert Neuwirth cho rằng không phải Trung Quốc, mà “System D” mới là siêu cường kinh tế lớn thứ hai thế giới, với GDP khoảng $10 trillion (mười ngàn tỷ USD) trong khi GDP của Mỹ khoảng $14 trillion và GDP của Trung Quốc khoảng $8 trillion (năm 2011). Đến nay chắc bức tranh kinh tế ngầm toàn cầu đã khác trước rất nhiều, vì “System D” có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới, thu hút một nửa tổng số nhân công trên toàn cầu.

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2020

Nguyễn Quang Dy: Nghịch lý phát triển của Việt Nam

“Cơ đồ ta xây dựng 75 năm nay sụp đổ hay không cũng do mình, ta không làm tốt thì tự ta lật đổ ta”. (Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí thư, 25/12/2019). 

Phát triển là một nhu cầu khách quan và tất yếu của xã hội loài người. Nhu cầu đó càng cấp bách tại các nước đang phát triển như Việt Nam. Sau khi đổi mới “vòng một”, Việt Nam phát triển với tốc độ cao vào loại “nhất nhì khu vực”. Theo báo chí tuyên truyền, Việt Nam có nhiều thành tích đứng đầu, làm thế giới khâm phục. Phải chăng đó là bệnh thành tích? 

Việt Nam càng phát triển nhanh thì đất nước càng tụt hậu, mà vẫn chưa công nghiệp hóa. Trong khi tài nguyên thiên nhiên bị khai thác đến cạn kiệt và môi trường bị xâm hại nặng nề thì Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”. Trong khi một số đại gia đã trở thành tỷ phú thì đa số người dân nghèo đi. Phải chăng đó là nghịch lý phát triển?

Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, Việt Nam theo “mô hình không chịu phát triển”. Nói cách khác, phát triển ở Việt Nam không theo đúng quy luật. Đây là một vấn đề cần đặt ra không chỉ cho các chuyên gia kinh tế hay các quan chức chính phủ, mà còn cho toàn xã hội. Muốn phát triển bền vững, Việt Nam phải đổi mới thể chế. Trong khi chờ các chuyên gia kinh tế lý giải về nghịch lý phát triển của Việt Nam, hãy điểm qua vài vấn đề nổi cộm.

Đà Nẵng là “thành phố đáng sống”?


Công bằng mà nói, ông Nguyễn Bá Thanh có công phát triển Đà Nẵng nhưng chủ yếu là “hạ tầng cứng”, chứ chưa phải là “hạ tầng mềm”. Ông ấy có ý tưởng biến Đà Nẵng thành “nơi đáng sống”. Nhưng dự án định biến Làng Vân thành một “Little Ma Cao” không thành. Ông ấy có kế hoạch định kết nghĩa với thành phố Yokohama của Nhật để xây dựng Đà Nẵng theo mô hình “thành phố xanh” (green city) như thành phố Cebu của Philippines.

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2020

Nguyễn Quang Dy: Vì sao Covid -19 bùng phát tại Đà Nẵng tháng 7/2020

Với dân số 97 triệu người, liền kề Trung Quốc, Việt Nam đã kiểm soát được đại dịch Covid-19. Trong hơn ba tháng đến gần cuối tháng Bảy, Việt Nam không có ca lây nhiễm mới trong cộng đồng, và trong số hơn 450 ca lây nhiễm ở Viêt Nam, không có có ca nào chết. Nhưng thành tích đầy ấn tượng đó đã kết thúc ngày 25/7 khi có ca lây nhiễm mới. Đến 2/8, đã có 142 ca lây nhiễm mới, và có ba ca chết, trong tổng số 586 ca lây nhiễm tại Việt Nam.

Theo ông Nguyễn Thanh Long (Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế), có khoảng 1,4 triệu du khách đã đến Đà Nẵng trong vòng một tháng (từ ngày 1 đến 29/7). Dịch Covid-19 bùng phát ở Đà Nẵng đã được xác định là virus chủng thứ 6, từ ngoài xâm nhập vào, xuất hiện lần đầu ở Việt Nam từ đầu tháng 7/2020, và đang lan nhanh ra cả nước gồm Hà Nội và Sài Gòn.

Ông Long nhấn mạnh “dịch lần này tốc độ lây nhiễm cao hơn lần trước. Đó là lý do khiến Bộ Y tế đã hành động quyết liệt như vậy”. Ngay sau khi phát hiện ổ dịch bùng phát ở Đà Nẵng, Bộ Y tế đã cử ba đoàn cán bộ tinh nhuệ, có nhiều kinh nghiệm chuyên môn về lĩnh vực xét nghiệm, truy vết, điều tra dịch tễ, truyền nhiễm, và điều trị, do một Thứ trưởng đứng đầu, để tăng cường cho Đà Nẵng. Đây là một quyết định ứng phó “chưa từng có tiền lệ”.

Theo truyền thống, nhiều người Việt tin rằng tháng Bảy âm lịch “là tháng cô hồn”. Cuối tháng Bảy dương lịch đã có nhiều chỉ dấu báo hiệu điềm không lành cho cuối năm, sau thành công ban đầu đến cuối tháng Bảy. Nay Việt Nam lại phải bắt đầu lại “chống dịch như chống giặc”. Nhưng vì sao dịch lại bùng phát ở Đà Nẵng, và tại sao lại vào tháng Bảy?

***

Đà Nẵng không chỉ là thành phố lớn nhất Miền Trung, mà còn là một địa bàn chiến lược được các nước lớn (như Mỹ, Nga, Trung Quốc) chú ý. Năm 1965, Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng để bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam. Năm 2018, tàu sân bay USS Carl Vinson cập bến Đà Nẵng, không chỉ là hình ảnh tượng trưng mà còn có ý nghĩa chiến lược.

Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2020

Nguyễn Quang Dy: Lập trường của Mỹ về Biển Đông ngày càng cứng rắn  

Sáng 14/7 (giờ Viêt Nam) Bộ ngoại Giao Mỹ đã phát tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo về tranh chấp ở Biển Đông. Lập trường cứng rắn của Mỹ được dư luận rất chú ý. Trong khi Đại sứ quán Trung Quốc ở Mỹ phản đối (14/7), thì người phát ngôn BNG Viêt Nam hoan nghênh (15/7). Bài này sẽ phân tích lập trường cứng rắn hơn của Mỹ hiện nay.

Lập trường cứng rắn hơn


Trong một phát biểu trên mạng (ngày 29/6), ông Pompeo đã báo trước: “Trung Quốc không được coi Biển Đông như vương quốc biển của họ. Chúng tôi sẽ sớm có phát biểu thêm về vấn đề này”. Vì vậy, tuyên bố của ông không phải nhất thời phản ứng trước các diễn biến gần đây, mà nhất quán với chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc ở Biển Đông.

Sáng 14/7 (giờ Mỹ), Trợ lý Ngoại trưởng David Stilwell đã đọc bài tham luận (keynote speech) tại hội thảo hàng năm về Biển Đông do CSIS tổ chức. Stilwell làm rõ hơn tuyên bố của Pompeo và đề cập đến khả năng trừng phạt. Về hình thức, đó là tuyên bố với báo chí (press statement) nhưng về thực chất, đó là một tuyên bố chính sách (policy statement).

Lần đầu tiên, Mỹ công khai bênh vực các nước “đồng minh và đối tác” ở khu vực, đặc biệt là bốn nước “ASEAN Four”, chống lại sự bắt nạt của Trung Quốc. Lần đầu tiên, Mỹ công khai bác bỏ và lên án Trung Quốc đòi chủ quyền phi pháp (unlawful) ở Biển Đông, vi phạm luật quốc tế, cụ thể là UNCLOS và phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế (PCA).

Tuyên bố tuy ngắn gọn (chỉ có 770 từ) nhưng những người soạn thảo đã dùng ngôn ngữ rõ ràng và chính xác, trong đó có đoạn còn mở ngoặc giải thích rõ thêm để tránh hiểu lầm. Tuyên bố đã đề cập khá đầy đủ và chi tiết đến ba khu vực đang tranh chấp ở Biển Đông mà Mỹ quan tâm như điểm nóng, cần được ưu tiên cao như “làn ranh đỏ” (redline).

Thứ Ba, 14 tháng 7, 2020

Nguyễn Quang Dy: Cơ hội và Thách thức cho Việt Nam & ASEAN năm 2020

Năm 2020 tuy có nhiều biến động khó lường, nhưng Việt Nam đã kiểm soát được dịch Covid-19 một cách đầy ấn tượng. Thủ tướng Việt Nam đã chủ tọa Hội nghị Cấp cao ASEAN Đặc biệt về Covid-19 họp trực tuyến (14/4). Sau hai tháng bị hoãn, Thủ tướng Việt Nam đã chủ tọa Hội nghị Cấp cao ASEAN 36 họp trực tuyến (26/6). Tuyên bố cứng rắn của Chủ tịch ASEAN về tranh chấp ở Biển Đông được dư luận đánh giá cao, phản ánh đoàn kết cao hơn của ASEAN cũng như vai trò lớn hơn của Việt Nam khi làm Chủ tịch ASEAN năm 2020.

Lập trường cứng rắn hơn của ASEAN


Theo báo chí quốc tế, tuyên bố của Chủ tịch ASEAN năm 2020, “đã khẳng định nguyên tắc UNCLOS 1982 là cơ sở duy nhất để phán quyết về quyền lợi hàng hải, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích chính đáng tại các vùng biển”. (ASEAN finally pushes back on China’s sea claims, Richard Javad Heydarian, Asia Times, June 30, 2020).

Lần đầu tiên, tuyên bố của Hội nghị Cấp cao ASEAN đã làm rõ lập trường cứng rắn về tranh chấp ở Biển Đông. Với vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam cam kết đảm bảo vai trò trung tâm của ASEAN và tương quan về chiến lược. Tuyên bố cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì và thúc đẩy một môi trường thuận lợi cho đàm phán về COC, và hoan nghênh các biện pháp làm giảm căng thẳng và tránh sự cố rủi ro, hiểu lầm hay tính toán sai.

Theo Collin Koh (Rajaratnam School) “ASEAN đã đoàn kết hơn dưới sự dẫn dắt của Việt Nam” (BBCNews, 10/7). Lập trường cứng rắn hơn của ASEAN về Biển Đông là do Việt Nam làm Chủ tịch đã vận động các nước đoàn kết giải quyết tranh chấp. Tuy đại dịch đã cản trở ASEAN họp cấp cao theo truyền thống để các nhà lãnh đạo làm việc trực tiếp, nhưng Tuyên bố của ASEAN vẫn là một điểm sáng của Hội nghị Cấp cao ASEAN 36.

Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN, Thủ tướng Việt Nam đã gián tiếp chỉ trích Trung Quốc về “những hành động vô trách nhiệm, vi phạm luật quốc tế”. Trung Quốc và Mỹ đã tập trận quy mô lớn tại Biển Đông vào đầu tháng 7/2020. Tranh chấp khu vực tại Biển Đông đang tiến gần hơn tới xung đột giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc. (US and China inch closer towards a conflict at sea, Richard Javad Heydarian, Asia Times, July 6, 2020).

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2020

Nguyễn Quang Dy: Việt Nam có thể biến nguy thành cơ


Cho đến cuối tháng 5/2020, Việt Nam đã thành công trong việc “chống dịch như chống giặc”, như thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nói, với 328 ca lây nhiễm và không có ca nào tử vong, trong khi cả thế giới vẫn đang vận lộn với dịch.

Nhưng có một nguy cơ khác đang lởn vởn ở Biển Đông, là không gian sinh tồn không chỉ với Việt Nam mà còn với nhiều nước khác. Để đối phó với nguy cơ đó, Việt Nam bắt đầu công khai hợp tác với “Bộ Tứ”, trên danh nghĩa để đối phó với dịch Covid-19. Nhưng Mỹ, Nhật, Úc, Ấn, đã lập ra “Bộ Tứ” năm 2007 để đối phó với một Trung Quốc trỗi dậy.

Đối với Việt Nam, Trung Quốc là nguy cơ trước mắt. Tàu HD-8 của Trung Quốc, được nhiều tàu tuần duyên vũ trang hộ tống, đã bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính từ tháng 7 đến 10/2019, và gần đây đã quay lại. Sau khi đi qua vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam tại Biển Đông, tàu Trung Quốc định bắt nạt chính phủ mới của Malaysia.

Trong khi đó, nhóm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh đã hoạt động gần bãi ngầm Macclesfield cho đến ngày 25/4 khi nhóm tác chiến của Mỹ gồm tàu USS America đã rời đi nên cuộc đối đầu tạm dừng. Biển Đông có thể là chiến trường được Trung Quốc chọn để tập trận nhằm nâng cao kinh nghiệm chiến đấu, như một chuyên gia của RAND đã phân tích.