Thứ Tư, 13 tháng 9, 2023
Nguyễn Mạnh Trinh: Nguyễn Xuân Hoàng, vài nét về tác giả & tác phẩm
![]() |
Một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng |
Thời đại của Nguyễn Xuân Hoàng là một thời thế đặc biệt. Ở đó, đầy những biến cố từ thuở kháng chiến chống Pháp, đến thời đệ nhất, đệ nhị Cộng Hòa, từ những cuộc di cư đến ngày di tản, từ cuộc vượt tuyến di cư vào Nam đến vượt biển tị nạn xứ người. Những biến cố ấy tạo cho cả một thời đại những nét chung mang nhưng lại là những điều riêng biệt trong ký ức mỗi người.
Thứ Bảy, 4 tháng 9, 2021
Trịnh Thanh Thủy: Nguyễn Mạnh Trinh, người "hết lòng" với Văn Học Nghệ Thuật
Tháng Tám chưa qua, hạ chưa hết. Thu còn xa lắc, lá chưa kịp chín vàng, mà ông đã rụng rơi. Nguyễn Mạnh Trinh, nhà thơ, nhà biên khảo và truyền thông đã lên đường, đã thong thả rong chơi về miền phương ngoại (1949-2021).
Tác phẩm Tạp Ghi Văn Nghệ của Nguyễn Mạnh Trinh |
Xuất thân là một quân nhân thuộc binh chủng Không Quân, văn thơ của ông phản ảnh nhiều suy tư, thao thức về cuộc chiến. Ông yêu thi ca, làm thơ và viết rất nhiều bài nhận định trong những lãnh vực văn học nghệ thuật khác nhau. Ông cộng tác và viết thường xuyên cho các báo nhất là ở Úc, Canada và Hoa Kỳ.
Tôi mãi nhớ nụ cười hiền của ông, một Nguyễn Mạnh Trinh nho nhã, điềm đạm. Tôi không quên những lần trò chuyện cùng ông, tuy ít ỏi nhưng đầy ấn tượng và sâu sắc. Tôi cũng sẽ vô cùng tiếc nuối cho sự mất mát của một tài hoa, một ngòi viết hết lòng với văn học nghệ thuật tại hải ngoại. Đôi lần tôi được gặp gỡ ông tại nhà chị Bích Hạnh, Thùy Hạnh. Tuy nhiên, có lẽ lần tôi nói chuyện với ông lâu nhất là lần gặp ở nhà chị Bích Hạnh nhân dịp nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc qua Nam Cali để ra mắt sách (2014). Lần ấy có cả nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc với Nguyễn Mạnh Trinh bàn bạc cùng tôi về sự ra đi của diễn đàn Talawas của nhà văn Phạm Thị Hoài. Chúng tôi tiếc nuối cho sự đóng cửa của một diễn đàn văn học có nhiều bàn luận rất sôi nổi về các đề tài chính trị, văn học và xã hội. Ông có nhắc đến những bài viết gây nhiều tranh cãi của tôi là "Cái chết của một ngôn ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn cũ" và một bài viết khác "Cái hĩm có răng" mà tôi viết để phản biện bài viết "Con cặc" của Nguyễn Hưng Quốc (2003). Chúng tôi vui vẻ bàn luận đến cái thời tôi còn hung hăng con bọ xít, cái thời tôi chưa biết đằm thắm là gì, say mê tranh cãi và coi trời bằng vung.
Nguyễn Mạnh Trinh: Thành Tôn, Thắp Tình Từ Ngưỡng Cửa.
Phỏng Vấn Nhà Văn Ngô Thế Vinh Của Nguyễn Mạnh Trinh
*
Phỏng Vấn Nhà Văn Ngô Thế Vinh Của Nguyễn Mạnh Trinh (Kỳ 2)
Thứ Bảy, 28 tháng 8, 2021
Tưởng Nhớ Nguyễn Mạnh Trinh
Nhà văn NGUYỄN MẠNH TRINH
Sau một thời gian dài bệnh nặng, đã qua đời vào ngày 24 tháng 8 năm 2021 tại tư gia, thọ 73 tuổi.
DĐTK xin chân thành chia buồn cùng chị Nguyễn MạnhTrinh và tang quyến.
Nguyện cầu Hương Linh Nguyễn Mạnh Trinh sớm thảnh thơi nơi Cõi Vĩnh Hằng.
NGUYỄN MẠNH TRINH PHỎNG VẤN TRẦN MỘNG TÚ
Nguyễn Mạnh Trinh: Hình như trước năm 1975 chị đã làm thơ viết văn. Chị có kỷ niệm nào về những ngày đầu tiên ấy không ?Lúc ấy, hình như chị có nhiều thân thiết với nhà văn Mai Thảo, chị có thể kể cho độc giả một vài kỷ niệm.
Trần Mộng Tú: Tôi có thân với anh Mai Thảo từ Việt Nam, không phải trên lãnh vực viết, mà là lãnh vực đọc. Tôi làm việc cho Hãng Thông Tấn The Associated Press, văn phòng ở trên lầu 4 Thương Xá Eden, Nguyễn Huệ. Thỉnh thoảng lại gặp anh Mai Thảo đi xích lô đến mua tạp chí Pháp ở mấy cái sạp báo ngay trước vỉa hè, lối vào của cầu thang máy. Tôi cũng mua báo Văn ở mấy cái sạp đó. Hai anh em làm quen với nhau. Lúc đó vào khoảng 67-69. Sau này, tôi quen và bạn với Du Tử Lê (vì hàng ngày qua bên Chiến Tranh Tâm Lý, lấy bản tin buổi sáng cho AP ). Tôi với DTL, hay một người ngồi xích lô, một người đi Honda cùng đem rượu đến tòa báo cho Mai Thảo (tôi làm ở AP, nên nhờ mấy ông nhà báo Mỹ mua rượu rất dễ). Có khi anh Mai Thảo cho cả tôi và DTL đi ăn trưa.
Thứ Sáu, 14 tháng 5, 2021
Nguyễn Mạnh Trinh: Những hồi ức mẹ
LTS. Trong âm hưởng của Ngày Lễ Mẹ, Diễn Đàn Thế Kỷ thân gửi đến bạn đọc “Những hồi ức mẹ” của Nguyễn Mạnh Trinh, nhân ngày giỗ của thân mẫu nhà văn. Hồi ức về Mẹ có thể nói là loại tình cảm êm dịu nhất, thương mến đằm thắm nhất của con người trên hành tinh này, mà mọi người có thể đều có mối đồng cảm.
Thứ Bảy, 8 tháng 5, 2021
Nguyễn Mạnh Trinh: Nguyễn Đình Thi - Người nghệ sĩ hay kẻ cơ hội?
Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015
Nguyễn Mạnh Trinh - Phỏng Vấn Nhà Văn Thảo Trường (trích)
![]() |
Nhà văn Thảo Trường (hình: VOA) |
Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014
A CONVERSATION BETWEEN NGUYỄN MẠNH TRINH AND THE AUTHOR NGÔ THẾ VINH ON THE BOOK CỬU LONG CẠN DÒNG BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG
![]() |
Tác giả Ngô Thế Vinh |
NGUYỄN MẠNH TRINH nói chuyện với nhà văn NGÔ THẾ VINH về tác phẩm CỬU LONG CẠN DÒNG - BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG
Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013
Nguyễn Mạnh Trinh - Đọc Chỉ là Đồ Chơi
Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012
Nguyễn Mạnh Trinh - Khi thi ca thành tôn giáo: Phạm Công Thiện
Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã
hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ ? Hay là một người lang
thang rong chơi trong cuộc đời? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài
năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời?
Vào những năm thập niên 60 ở Sài gòn, Phạm Công
Thiện xuất hiện như một hiện tượng. Sách vở của ông đã được đón đọc nồng
nhiệt và trong giới sinh viên học sinh đọc sách của ông là một thời thượng.
Họ thích nói về “Ý thức mới trong văn nghệ & triết học”. Họ tán thưởng
“Ngày sinh của rắn”. Có người thú nhận thích đọc ông dù chẳng hiểu bao nhiêu.
Và trong cái gọi là “họ” ấy có tôi. Một cậu sinh viên mê sách vở và tràn ứ mơ
mộng lãng mạn.
Lúc đó, tôi đã nghĩ Phạm Công Thiện là một
người viết phê bình như viết tùy bút và viết tùy bút như viết bằng thơ. Tóm
lại, với tôi, ông là một thi sĩ dù ông làm thơ không nhiều lắm.
Đọc lại những bài viết về những nhà thơ của
ông, tôi thấy điều đó tới bây giờ vẫn còn chính xác. Ông viết về thơ với cả
tâm hồn mình, và với những thi sĩ, ông cũng đồng cảm trong cái chia sẻ không
cùng của những sợi đàn rung cộng hưởng vì chung tần số.
Tôi đọc thử một đoạn viết về Cung Trầm Tưởng để
dẫn tới thơ tình yêu của Appollinaire. Những trang sách cũ đã ố vàng của “Ý
thức mới trong văn nghệ và triết học”.
“... Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung
Trầm Tưởng là ai mà làm thơ tài hoa vậy. Tôi mơ màng. Tôi hình dung những
chiếc lá rơi. Tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi chảy. Kia là tả ngạn
River Gauche… Kia là đường phố Aumont - Thieville và L’ Avenue des Ternes…
Kia là những quán cà phê và những kẻ tứ chiếng giang hồ... Kia là cầu
Mirabeau… Kia là mùa thu mưa rơi… kia là Pont Neuf. Ôi. Paris. Souvenir.
Souvenir. Remember to remember…
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire.
Ừ, chỉ có Appollinaire mới có những dòng thơ bất tuyệt để làm sống lại Paris.
Nói đến Paris là nói đến Kỷ Niệm, là nói đến Nghệ sĩ, là nói đến tình yêu và
tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ chiếng giang hồ, của những
clochards, của những femmes de joie, của những Henry Miller, những Hemingway,
những Gertrude Stein, những Picasso, những Appollinaire…
Mùa thu nơi đâu
Người em mắt nâu Tóc vàng sợi nhỏ Mong em chín dỏ trái sầu.
Cung
Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire:
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en Nous ne nous verrons plus sur terre Odeur du temps Brin de bruyère Et souviens-toi que je t'attends
Cũng vào mùa thu, Cung Trầm Tưởng ngóng chờ
người yêu ”kiên khổ phút giờ” và “chín đỏ trái sầu” ngóng chờ mong đợi như
Appollinaire đã ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi lá cỏ
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Trời đã tối hẳn rồi. Tôi bước vào giường nằm
ngủ, mắt nhắm lại, những dòng thơ của Hàn, của Cung, của Appollinaire chan
hòa thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên...
Viết về thơ, theo như Phạm Công Thiện không
phải là phê bình xếp loại mà phải là ca tụng khen ngợi thơ. Ông khẳng định ”Nói
đến Thơ không khác gì nói đến Thượng Đế. Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh
là blasphème.
Những thi sĩ không phải là loài người họ là
những Thiên Thần, những thánh hoặc những quỉ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được
thì ta phải im lặng; còn nếu chấp nhận họ thì ta phải ca tụng cho hết lời. Ta
không được quyền có thái độ của học giả hoặc giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải
giết hết những nhà phê bình để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết
lúc mới 18 tuổi xanh.
Anh không thể cảm thơ của người ta thì anh hãy
im lặng; còn nếu cảm được thì anh hãy thiết tha ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì
cả. Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ.
Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai cả. Phê bình văn nghệ ư?
Buồn lắm…”
Thi sĩ ca tụng thi sĩ? Đúng quá rồi. Và trong
cái bí nhiệm như của một tôn giáo, thi ca đã làm cho chúng ta luôn luôn mơ
mộng và suy tư.
Như khi nhìn những con sông cạn cợt của quận
Cam…
Không hiểu sao mỗi lần lái xe đi ngang qua
những con sông cạn ở thành phố Westminster hay Santa Ana tôi lại thấy bồi
hồi. Có một liên tưởng nào từ lòng sông tráng xi măng ở giữa chơ vơ một dòng
nước chảy nhỏ nhoi cạn cợt. Cái cảm giác của thiên nhiên bị khuất phục ấy của
một dòng nước mùa nắng nhắc tôi tới nguồn nước ào ào sục sôi sau những cơn
mưa. Một thi sĩ đã viết :
“Ừ, ta bây giờ như sông cạn
Nước vũng làm sao thành biển khơi Chí lớn dưng không thành chuyện vãn Mỉm cười còn mất chuyện muôn đời…”
Có hay không, cái tượng hình của Dịch Kinh, hà
trung vô thủy? Sông mà không có nước, có phải là sông không? Hay chỉ là gợi ý
tới những đi mà không đến. Một câu thơ của Seamus Heaney, thi sĩ giải Nobel
văn chương năm 1995 trong thi tập The Haw Lantern, chỉ có hai câu :
“The riverbed, dried up, half full of leaves.
Us, listening to a river in the trees.
(Lòng sông, cạn khô, một nửa phủ đầy những
chiếc lá
Cho chúng ta, đang lắng nghe một dòng sông chảy trong cây)
Thi sĩ Phạm Công Thiện đã viết như sau về hình
ảnh sông cạn rất thơ mộng này mà chúng ta nhiều khi ít quan tâm khi ngang qua
trong nhịp đời hối hả mỗi ngày :
“… Tiếng nói của thơ là dòng nước tuôn chảy
bất tận, dù lòng sông có cạn khô chăng nữa thì hồn sông vẫn chảy mãi trên
cao… Sông đang chảy trên cây và trong cây lá, và sự lắng nghe ở đây đã nhập
lưu (sơ ư văn trung / nhập lưu vong sở), không phải chúng ta lắng nghe dòng
sông mà chính dòng sông đã chảy vào trong thi nhân, lòng sông khô cạn ở dưới
đã nhập vào con sông chảy trên cây; lòng sông khô cạn nửa đầy những chiếc lá
thả hồn rào rạt với sông lá trên cao (Hồ Dzếnh: ”có một nghìn cây rũ rượi
buồn / Một nghìn sông rét vạn hoàng hôn. Vũ hoàng Chương “Đáy sông bừng dựng
Lầu Thơ? Giấc mơ Hồ Điệp chẳng mơ cũng thành”… Tại sao phải làm thơ? Tại sao
phải lắng nghe một lần như chưa từng biết nghe trọn đời? Tại sao phải nhìn
thấy được một lần duy nhất như chưa từng biết thấy bao giờ? Thi nhân đã một
lần nhìn thấy; còn chúng ta thì hãy lắng nghe một dòng sông chảy bất tận
trong rặng cây rào rạt chiều hôm nay… “
Phạm công Thiện khi viết về kỷ niệm với nhà văn
Võ Hồng, trong tập thơ Ngày Sinh Của Rắn có hai câu thơ, tả cảnh mà tả tình,
đẹp một cách đơn giản như phong vị của những câu Hai-Ku:
“Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông”
Và, hình như từ hai câu thơ này, Võ Hồng đã
viết truyện ngắn ”Hoa khế lưng đồi” như một cách thế đáp tạ người tri kỷ.
Trong một lá thư gửi cho tác giả “Hoài Cố
Nhân”, thiền sư thi sĩ họ Phạm viết:
...”Anh V.H. ạ, anh có cần gì phải thuyết
giảng philo? Tất cả những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm
nhượng kia đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo
nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.
Và một Triệu trang giấy Triết Học cũng không
đáng giá bằng một tiếng đập của con tim. Anh có nghe rõ chưa? Tôi muốn hét to
lên như vậy.
Anh có nghe tim con người đập trong những trang
“Xuất hành năm mới”, trong “Trận đòn hòa giải”? “Xuất hành năm mới” còn cảm
động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất! Những đứa
nhỏ Hằng, Hào, và Thủy trong “Xuất hành năm mới” và “Trận đòn hòa giải” là
những hình ảnh đau thương nhất trên đời, là những hình ảnh tượng trưng cho
tất cả những đứa trẻ ở trần gian này…”.
Phạm Công Thiện tâm sự như thế, dù trong ngôn
ngữ của ông có một chút gì hơi phấn khích nhưng cũng khá thành thật.
Phạm Công Thiện là một khuôn dáng văn chương
rất có ảnh hưởng với những lớp sinh viên học sinh ở miền Nam của thập niên
70, 80. Thời gian ấy, những cuốn sách như “Ý Thức Mới trong Văn Nghệ và Triết
Học”, “Hố Thẳm của Tư Tưởng“, “Ngày Sanh của Rắn “,… là những cuốn sách cầm
tay của giới trẻ. Từ tác phẩm của ông, mở ra nhiều những cánh cửa. Trước hết,
ông là một người sáng tạo nhiều suy tư về cái Mới, về những ngã đường có thể
khá lạ lùng đến khi kỳ dị nhưng hấp dẫn. Văn học sẽ phải có những thay đổi,
nhất là trong hoàn cảnh một đất nước chiến tranh như Việt nam. Ngay cả khi
làm thơ, thi sĩ như người của hành tinh lạ lạc đến, với ngôn từ khá lạ lùng
như đoạn VI của tập “Ngày Sanh của Rắn”
“tôi chấp chới
đắng giọng giữa tháng ngày mơ mộng nốt ruồi của hương hay nốt ruồi của rigvéda tôi mửa máu đen trên nửa đêm Paris tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ mặt trời có thai! Mặt trời có thai! Sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt “
Nếu bảo giải thích từng câu từng chữ thì có lẽ
chính cả tác giả cũng lúng túng. Thơ là những hình ảnh rải rác, thoạt tưởng
không liên quan với nhau nhưng trong trình tự cảm nhận lại có một ý nghĩa nào
len vào bất chợt những liên tưởng. Có người cho rằng những từ ngữ như thủ dâm
thượng đế, giao cấu mặt trời, mặt trời có thai... tạo ra cảm giác tức thì với
hình tượng có hơi dung tục ấy. Đó là một cảm nhận. Nhưng, ngay ở thời điểm
bây giờ, đọc lại câu thơ, chúng ta vẫn có thể bắt gặp được nét khai phá một
cách rõ ràng. Thơ là một cái gì, khác thường lắm, có lúc rất gần cận cuộc
sống mà có lúc lại xa nghìn trùng…
Tôi nhớ có lần nhà thơ Phạm Công Thiện nói
chuyện với tôi về kinh nghiệm đọc thơ của ông. Lúc ấy, đêm đã khuya và ông có
ngôn ngữ của một Lưu Linh đang trong cơn đồng thiếp. Ông đọc thơ Pháp, thơ
Anh, thơ La tinh, thơ Việt Nam tiền chiến và hiện đại. Đọc xong rồi bình,
hình như văn chương đã lôi ông vào một cơn mộng.
Nói về kinh nghiệm để có thể tiếp cận với thơ,
ông đọc một bài thơ thật nhiều lần và sau mỗi lần đọc như thế đều tìm ra
những cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy bắt nguồn từ giây phút rất thiêng liêng
để con người bắt gặp được những sáng ngời lộng lẫy. Sự kiện ấy James Joyce đã
gọi là “a sudden spiritual manifestation” (biểu hiện tâm linh bất ngờ) hay
“epiphany” (sự linh hiện). Tương tự, như Xuân Diệu : “phất phơ hồn của bông
hường / trong hơi phiêu bạc còn vương máu hồng / nghe chừng gió thoáng qua
song... “ đó, chính là hồn của thơ, của những giây phút linh hiện mà chỉ có
những người tài tử cảm nhận được.
Ở Phạm công Thiện, cái chất thơ đã thành nét
đặc thù tinh tế cho văn chương ông. Viết khảo luận, ông mang cái kiến thức
rộng lớn tích tụ từ sách vở cùng với hồn thơ để thành những bước đi lãng mạn vượt
qua những khô khan câu thúc. Là một triết gia, cái nhận thức để thành những
trang giấy cũng có chút thi ca bồng bềnh vào để thành một triết gia thi sĩ.
Cái chất lãng tử trong văn chương là một nét thấy rõ. Phạm Công Thiện viết :
“… tất cả đời sống văn xuôi tẻ nhạt, những
công thức, những danh vọng, những khuôn mòn lối cũ, những địa vị xã hội,
những mẫu mực khuôn xếp đã thụt lùi ra đằng sau, chỉ còn lại nước chảy của
dòng sông và mây chiều của đại dương: mây ở trên cao trôi dưới dòng nước rong
rêu của khe biển nhỏ. Thi nhân từ bỏ tất cả lại đằng sau lưng và bước tới
trước băng qua cây cầu gỗ mong manh…”
Viết về thơ Seamus Heaney, nhưng trong dòng chữ
có cảm khái riêng của một người mà thi ca đã thành máu xương da thịt cho đời
sống. Viết những cuốn sách triết học giữa hồn thơ lai láng, cũng giống như
viết những trang tùy bút mà chữ nghĩa đã thành những trân trọng nâng niu
nhất. Cầm cây bút trong trạng thái tuy phong trần từng trải nhưng vẫn còn sót
nét ngây thơ của một người tin tưởng vào những điều nghĩ rằng cần phải tìm
kiếm được bằng suy tưởng. Với đời thường, ông sống như lạc lõng bất kể. Nhưng
với văn chương, ông là người tinh tế và có can đảm rủ bỏ tất cả để đi lại
những bước khởi đầu.
Nhà thơ Nguyên Sa đã có bài thơ vẽ lại chân
dung của một nhà thơ tiêu biểu cho một phong cách sống đặc biệt của một người
cũng đặc biệt trong một thời kỳ văn học mà sự khao khát những phương trời mới
những vóc dáng mới đã thành động lực mạnh mẽ cho sáng tạo. Bài thơ “Nói
chuyện phải quấy với Phạm Công Thiện:
“Người vào tịnh thất sống ba năm
cất tiếng không lời để nói năng buổi sáng thinh không chiều tới chậm tiền kiếp chen vô cạnh chỗ nằm Ta muốn cùng người một tối nay Đầu sông uống rượu cuối sông say Người từ trên núi ta từ biển Từ giấc mơ nào đã tới đây Dưới bóng tường im, giữa nhạc không Đời như phía trước bỗng mông lung Thơ như hữu thể mà vô thể Có cũng xong mà không cũng xong Sáng dậy ta nhìn tục lụy ta Những đi không tới đến không ngờ Xóa luôn thì dứt nhưng tâm thức Kinh Pháp Hoa nào dậy cách xa? Trong chín ngàn âm có hải triều Còn thêm một kiếp nữa phiêu lưu Này người bỏ sóng sang thuyền tĩnh Nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu…”
Nhưng không phải tất cả thơ ông chỉ chuyên chở
ý tưởng. Mà, còn chuyên chở cảm giác nữa. Thơ để mang tới những giây phút
linh hiện, để người đọc thơ và làm thơ một giây phút tình cờ nào đó gặp nhau
trong giao thoa cảm xúc. Có một bài thơ trong tập thơ mỏng về số trang nhưng
dầy về ý tưởng, Ngày sanh của rắn, VIII, có những hình ảnh nối liền nhau để
thành một chuỗi sinh động liên tưởng luôn biến dịch. Gió, như một cuộc hành
trình đi qua đồi tây, đồi đông, đi qua những chặng thời gian tưởng ngắn như
một sát na nhưng dài vô tận. Thế mà, trong cái lãng đãng tâm thức ấy, ngôn
ngữ nhẹ nhàng như một hồi tưởng để níu kéo cảm nhận của người đọc trong một
cảnh giới mơ hồ :
“Mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy một sớm em về ru giấc ngủ bông trời bay trắng cả rừng cây Gió thổi đồi tây hay đồi đông Hiu hắt quê hương bến cỏ bồng Trong mơ em vẫn còn bên cửa Tôi đứng trên đồi mây trổ bông Gió thổi đồi thu qua đồi thông Mưa hạ ly hương nước ngược dòng Tôi đau trong tiếng gà xơ xác Một sớm bông hồng nở cửa đông”
Với suy nghĩ của tôi, Phạm công Thiện là một
thi sĩ nghệ sĩ. Klhông phải là cung cách một phù thủy chữ nghĩa hoa tay bùa
chú vào hư vô để thành một văn phong khúc mắc khó hiểu. Mà, là một người ôm
tất cả những rộng khắp vào lòng và đi vòng quanh để tìm chân lý. Cái tâm thức
vốn tịch lặng của một người thâm cứu Phật Giáo pha trộn vào ý thức muốn nổi
loạn phá bỏ cung cách cũ khiến văn chương trở thành một hành trình của một
người luôn xông tới đằng trước và không dừng lại. Trong đời sống, phong cách
du tử, làm những điều mình thích khiến ông thành một người luôn thấy đêm ngày
là hoang vu...
Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả
Tác Phẩm“, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người
thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:
“Sinh ngày 1-6-1941 tại Mỹ Tho. Trong gia đình,
Thiện là người anh cả “Người anh không giúp ích gì được cho gia đình, nhìn
thấy mọi người cha mẹ em út đang lâm vào cảnh sa sút túng bấn. Mà mình thì
lận đận lao đao chẳng giúp ích được gì.”
Đó cũng là một lý do, khiến có lúc Thiện bỏ đi
tu ngoài Nha Trang. Thiện đã có lần cùng chúng tôi đem bán từng va ly “Anh
Ngữ Tinh Âm” của anh soạn để lấy tiền ăn bánh mì trong những lúc đói rách
nhất. Mặc dầu lúc đó báo Phổ thông và Dân ta của Nguyễn Vỹ bán chạy, lương
của Thiện trên mười lăm ngàn (bằng khoảng 150 ngàn đồng bây giờ mỗi tháng)
tiền lãnh ra, Thiện đem uống rượu say rồi gọi tất cả đám trẻ nít đánh giày, các
bọn bán báo nghèo đói lại phân phát tất cả cho chúng trong một khắc đã hết
sạch. Qua ngày hôm sau, kiếm lại vài chục uống cà phê là sự thường…”
Có người cho ông là thần đồng, soạn “Anh Ngữ
Tinh Âm“ lúc 16 tuổi. Có người cho ông là một triết gia, tư tưởng gia luôn
luôn vật vã với suy tư. Có người cho ông có hiểu biết rộng, thông hiểu nhiều
ngoại ngữ. Có người cho ông là một người đọc sách chuyên cần với óc thông
minh và nhớ lâu không quên. Cũng như có người gọi ông là lãng tử, là một
người thích gì làm nấy và luôn miệt mài trên con đường độc hành tìm kiếm
những điều bất khả trong cuộc sống…
Với tôi, ông là một thi sĩ và là người viết về
thi ca mà tôi yêu thích. Dù, ông “đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất”
để tìm “ý thức mới trong văn nghệ và triết học“ qua “hố thẳm của tư tưởng“ để
“im lặng hố thẳm“ và, cứ thế hành trình…
|
Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2011
Tản Mạn Văn Học với nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc
Lời Giới Thiệu
Dưới đây là bài "tản mạn văn học" dựa trên cuộc phỏng vấn/nói chuyện—được thực hiện vào ngày 14.1.2011 của nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh và phóng viên Nhã Lan của Hồn Việt Direct TV và Little Saigon Radio, tiểu bang California, Hoa Kỳ—với nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc. Bài phỏng vấn này đã được phổ biến làm hai kỳ trên cả hai phương tiện truyền thông nói trên vào những ngày cuối năm Canh Dần 2010 và đầu năm Tân Mão 2011. Chủ đề của nó nhắm vào một số khía cạnh và sự phát triển của dòng văn học Việt ngoài nước nói chung và, đặc biệt, một số hiện tượng đặc thù của dòng văn học ấy, chủ yếu là trong thời gian năm, mười năm gần đây.
1.
Theo anh, ta nên giới hạn khoảng thời gian như thế nào để anh có thể dễ dàng hơn trong công việc nhận định những nét đặc thù và những hiện tượng của dòng văn học Việt Nam ở hải ngoại?
Thật ra, tuỳ vào mục đích mình nhắm tới mà ta có thể làm một cuộc duyệt xét văn học hải ngoại trong khoảng thời gian nào. Trong buổi nói chuyện ngày hôm nay, tôi nghĩ chúng ta có thể tính trong khoảng năm, mười năm trở lại đây. Dù sao, ở một số khía cạnh, chúng ta có thể mở rộng biên độ thời gian hơn.
Thứ Năm, 1 tháng 7, 2010
Tản Mạn Văn Học với nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc (2)
11.
Trong nhận xét của anh, có sự khác biệt nào giữa các nhà văn đi từ miền Bắc và các nhà văn đi từ miền Nam qua những thời kỳ khác nhau hay không?
Trong nhận xét của tôi, điều rõ ràng nhất là tâm thế viết. Ra đi từ những môi trường sống khác nhau, sống và lớn lên trong những không gian văn hóa khác nhau, và chịu ảnh hưởng (trực tiếp hay gián tiếp) của những bầu khí quyển văn học khác nhau, những người viết ra đi từ hai miền đất nước như thế chắc chắn có những vấn đề, những suy nghĩ khác biệt. Đều là những con người mang tâm thế xa quê, nhưng tâm thế của hai dòng người, dòng văn ấy, ở những mức độ nhất định, tôi nghĩ, có thể mang những đặc chất khác nhau. Sự khác biệt ấy cũng có thể hiện lên mặt chữ qua cách dùng ngôn từ khác biệt, ở một mức độ nào đó. Nhưng sự phổ biến của những trang mạng cả ở trong lẫn ngoài nước trong một số năm qua có thể đã kéo họ lại gần nhau hơn. Cả về vấn đề ngôn ngữ lẫn những vấn đề nóng bỏng và cấp thiết của quê hương. Những điều đó giúp họ chia sẻ nhiều sự quan tâm chung. Những vấn đề của đất nước và con người Việt. Giờ đây, với sự về thăm quê hương tương đối dễ dàng, với sự phát triển của truyền thông cho phép nối kết mọi người Việt trên thế giới vào những trang mạng trên Internet, người Việt khắp nơi có thể theo dõi và biết được nhiều điều xảy ra trên quê hương. Những người viết Việt, bây giờ, dù đã rời xa quê hương từ bất cứ miền nào trên đất nước, cái gốc rễ địa lý ấy, theo tôi, không còn phân biệt họ một cách quá rõ rệt như khoảng một, hai thập niên trước nữa.
Trong cái nhìn của tôi, về mặt văn học, càng ngày họ càng nhích lại gần nhau hơn. Còn về mặt chính trị, xã hội, những di căn từ một cuộc chiến trên 30 năm trước, và những dấu ấn trong giáo dục và văn hóa khác biệt nói chung, từ hai miền Nam và Bắc, cũng vẫn có thể còn để lại những dấu tích trong suy nghĩ và trong thế sống của họ. Về mặt này, nếu có sự khác biệt, tôi hy vọng thời gian sẽ làm tốt công việc của nó: xóa nhòa đi những dị biệt "tiêu cực" và không nên có nơi họ. Còn những nét dị biệt "tích cực" thì, tôi nghĩ, chúng chỉ làm phong phú thêm cái nhìn văn học của chúng ta. Chúng cũng sẽ có tác dụng như những nét khác biệt trước đây giữa các nhà văn từ những vùng miền đất nước khác nhau, đặc biệt, nói một cách tổng quát, từ ba miền Nam Trung Bắc của Việt Nam (và sự khác biệt đó vẫn còn tồn tại, ở một mức độ nào đó, nơi họ bây giờ). Những sự khác biệt đó chỉ làm cho văn học, văn chương thêm phong phú. Cũng như sự khác biệt nhau nơi những con người sáng tạo. Nó không những tích cực mà còn được xem là một sự cần thiết để tạo nên tính đa dạng, đa sắc và đa thanh trong văn học.
12.
Xin anh cho một vài nhận xét về văn chương chống Cộng và không chống cộng ở hải ngoại?
Trong sự nhận xét của tôi, trong khoảng 10, 15 năm đầu, vì những vết thương còn mới, những ấn tượng về chiến tranh, tù đầy còn quá sâu đậm, nên một số ngòi bút đã cho ra đời những tác phẩm chống cộng nổi bật có tính nghệ thuật khá cao. Ta có thể kể đến Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, Thằng Người Có Đuôi của Thế Giang, Cùm Đỏ của Phạm Quốc Bảo, hoặc tập truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Ngọc Ngạn. V.v.... Trong khoảng một, hai thập niên gần đây, tâm thế sống và viết có phần thay đổi, cộng với sự tham dự sâu xa hơn vào cuộc sống hiện tại với những quan tâm và suy nghĩ được mở rộng hơn trên nhiều chiều kích, những tác giả của chúng ta đã mở rộng những đề tài viết của mình, đi sâu hơn vào những vấn đề của cuộc sống mới. Văn chương chống cộng, nói chung, có vẻ như đã làm xong phần việc của nó. Nếu có chống, tôi nghĩ, vấn đề bây giờ có lẽ nằm chủ yếu trong tâm thế viết chứ không còn là trong đề tài viết nữa, cho dù đâu đó vẫn còn những tác phẩm thiên về đề tài này.
13.
Xin anh cho một vài nhận xét về văn xuôi: đặc tính và liệt kê các tác giả, tác phẩm?
Về tính chất của văn xuôi trong dòng văn học ngoài nước: Như đã nói, trong thời gian gần đây, đề tài được mở rộng hơn. Nó nghiêng về sự hoà nhập, hòa lưu và khám phá cuộc sống hiện tại. Mà "cuộc sống hiện tại", "cuộc sống hôm nay" thì bao giờ cũng mang đủ mọi loại vẻ, đủ các cung bậc, gam mầu. Và một trong những gam mầu đậm nét nhất là gam mầu về tình yêu. Cái gam mầu muôn thuở ấy. Ngoài ra, vẫn có những tác phẩm mang tâm thế hoài niệm. Những kỷ niệm đẹp và thiết tha trong cuộc sống cũ vẫn gợi nhắc trong lòng người ta. Những sợi dây nối với quá khứ, với kỷ niệm vẫn luôn là những sợi dây bền chắc neo buộc con người vào một nơi chốn quê hương. Dù sao, trong cái viết của những người viết trẻ hơn, khuynh hướng tìm vào, mô tả và nghiền ngẫm cuộc sống hiện tại, nơi những vùng đất mới, vẫn là một dòng chủ lưu. Ngoài điều đó, những kỹ thuật mới trong việc tổ chức truyện cũng là vấn đề mà tôi quan tâm. Cách kể chuyện của một số người viết trẻ bây giờ có những nét khác với cách viết của thế hệ đàn anh họ. Thế giới văn học có nhiều thay đổi, và cách viết là một trong những thay đổi ấy. Những người viết trẻ của ta đã học tập phong cách của thế giới và đưa ra những cái nhìn, những cách tổ chức truyện khác trước.
Không thể nhớ và kể hết các tác phẩm. Vả lại, sự bừng nở của văn xuôi Việt Nam trong thời gian qua, thật sự, có thể nhìn thấy rõ rệt hơn trên những trang mạng văn học nghệ thuật hơn là qua một số tập sách được in và xuất bản. Người ta để ý đến các tác giả có sự mãnh liệt trong ngòi bút hay trong sức viết như Nam Dao, Miêng, Thuận, Đặng Thơ Thơ, Phùng Nguyễn, Song Thao, Nguyễn Nhật Minh, Hoàng Mai Đạt, Lê Thị Thấm Vân, Hồ Đình Nghiêm, Lê Minh Hà, Trùng Dương, Ngô Nguyên Dũng, Mai Ninh, Trần Vũ, Đoàn Minh Phượng, Nguyễn Thị Thảo An, và nhiều tác giả khác mà ta không thể liệt kê ra hết nơi đây. Ngoài ra, còn những tác giả kỳ cựu hơn như Võ Phiến, Nguyễn Bá Trạc, Kiệt Tấn, Hồ Trường An, Mai Kim Ngọc, Trúc Chi, Giao Chỉ, Phan Lạc Phúc, Phạm Xuân Đài, Nguyễn Mộng Giác, v.v... Dù sao, những tác giả này đang dần dần viết ít đi, hoặc ngưng hẳn lại. Có thể họ đang muốn chọn cho mình một thái độ "tri chỉ", biết ngừng lại khi cần thiết hoặc đúng lúc chăng?
Ngoài ra, ta cũng nên kể đến một số người làm việc trong lĩnh vực dịch thuật như Nguyễn Khánh Long, Nguyễn Thị Hải Hà, Trịnh Y Thư, Hoàng Ngọc-Tuấn, Nguyễn Đăng Thường, Đinh Từ Bích Thúy, Hoàng Ngọc Biên, Lê Đình Nhất Lang, Nguyễn Ước, v.v... Trong buổi nói chuyện này, chúng ta sẽ không thể làm một cuộc tổng kết đầy đủ trên mọi lĩnh vực văn học, nên việc thiếu sót trong việc liệt kê tất cả những nỗ lực và thành tựu của những người cần được kể đến là một điều không thể tránh khỏi. Nhưng ta biết là có những nỗ lực vẫn luôn được gìn giữ để nuôi dưỡng và phát triển cái mạch sống của dòng văn học hải ngoại.
14.
Anh nghĩ gì về những tác phẩm viết về cuộc chiến đã qua?
Như đã có dịp trả lời cho một câu hỏi gần như tương tự, hoặc có những nét gắn bó với nhau, ở trên, tôi nghĩ, trong một hai thập niên trở lại đây, những tác phẩm nói về điều này cũng có, nhưng không nhiều. Dù sao, ta vẫn có thể tìm thấy những cây viết nổi bật. Chẳng hạn, Thảo Trường, Lâm Chương, Phạm Tín An Ninh, và Cao Xuân Huy, v.v... Những trang viết của họ có văn. Và có phong cách. Với tác phẩm của những nhà văn này, người ta không chỉ đọc để biết về những câu chuyện, mà người ta còn đọc nó để thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương. Và ảnh hưởng của nó. Nó cho thấy, dù anh viết về bất cứ vấn đề gì, nghệ thuật chính là cái làm cho anh trụ lại với cuộc đời. Làm cho người đọc nhớ đến anh, và nhớ đến những gì mà anh đã chia sẻ.
15.
Còn về hồi ký của các nhân vật chính trị? Của tù nhân?
Trong thời gian qua, có một số hồi ký đáng được chú ý của một số nhân vật chính trị mà ta nên nhắc tới. Đó là những cuốn của các ông Nguyễn Tiến Hưng ("Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập"), Hà Thúc Ký ("Sống Còn Với Dân Tộc"), Vũ Quốc Thúc ("Thời Đại Của Tôi"), Võ Long Triều ("Hồi Ký Võ Long Triều"). Trước đó, có cuốn của đại sứ Bùi Diễm ("Trong Gọng Kìm Lịch Sử"). Những nhân vật này, vì những vị trí và sự tham gia đặc biệt của họ trong chính trường miền Nam Việt Nam, đã cho người đọc nhìn thấy được những uẩn khúc bên trong của những sự kiện và biến cố quan trọng đã xảy ra dưới các thời Cộng Hòa, cũng như những bí mật trong những quan hệ giữa các bên tham chiến tại VN. Đọc, thấy đau xót và tức tưởi, nhưng cũng thấy được những mặt trái của những cuộc cờ và những lá bài chính trị.
Còn sách của những tù nhân, có thể kể những cuốn của Hà Thúc Sinh, Phạm Quốc Bảo, Trần Huỳnh Châu, v.v... Gần đây hơn là những cuốn hồi ký của những người tù, những người vợ tù... Đọc những cuốn này, ta thấy thương cảm cho thân phận con dân của một nước nghèo và khổ vì chiến tranh. Nhưng trong thế sống và thái độ sống của mỗi người, người đọc cũng thấy được sự can trường và quả cảm của con người Việt. Trong tối đen của cuộc sống tù ngục, người ta vẫn thấy ánh lên những nét sáng và đẹp đầy tính nhân bản. Tất cả đã là những tài liệu quý giá về một thời và một giai đoạn đớn đau của dân tộc. Người ta có thể học được nhiều bài học từ tất cả những cuốn sách đó.
16.
Anh có suy nghĩ hoặc nhận xét gì về những tác phẩm mang khuynh hướng hội nhập?
Trong nhiều tác phẩm xuất hiện trong vòng một, hai thập niên qua, người đọc có thể nhìn thấy những khía cạnh của sự hội nhập trong chữ viết của nhiều tác giả. Hội nhập trên nhiều mặt: chính trị, văn hóa, xã hội, tâm lý, ngôn ngữ, v.v... Và đấy chính là cái cốt lõi để văn chương và văn học lưu vong đang tiếp tục biến mình thành văn chương và văn học di dân. Đó cũng là cái ngòi lửa để văn chương Việt bùng nở. Hay nở hoa, nhìn theo một dạng ẩn dụ khác.
Những chi tiết mang nét hội nhập có thể xét trên bình diện cốt truyện, tâm thế nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả, cách tổ chức cấu trúc văn bản, v.v... Nếu, ở một vị trí nào đó, ở một giác độ nào đó, người ta có thể coi, hoặc muốn coi, những tác phẩm viết bằng những ngôn ngữ không phải Việt Nam của những tác giả gốc Việt trên khắp thế giới vẫn là những tác phẩm phản ánh kinh nghiệm di dân, thì những cuốn sách của Linda Lê, Nam Lê, Monique Truong, Andrew Lâm, Andrew Phạm, lê thị diễm thúy, Lan Cao, Angie Châu, Dinh Linh, v.v... là những tác phẩm mang nét hội nhập rõ rệt. Ở đây, tâm thế của người viết là một tâm thế pha trộn. Việt Nam và thế giới. Đó là những tác phẩm nổi bật vì cá tính của người viết, đồng thời cũng vì những nét đặc sắc của tác phẩm. Nhưng còn bao nhiêu những tác phẩm khác nữa của nhiều tác giả Việt. Đa số đều cho thấy cái hướng đi này của văn chương. Mà tôi nghĩ điều ấy cũng phải. Cuộc sống phải tiếp tục chuyển đổi. Và, văn chương, đó là một tấm gương phản ánh đời sống. Nó không thể đứng yên.
17.
Anh nghĩ gì về thơ? Số lượng, phẩm chất, khuynh hướng?
Trong nhiều năm trở lại đây, thơ là một sản phẩm rất khó tiêu thụ. Thế nên, nhìn một cách chung, sự xuất bản các tập thơ có vẻ èo uột. Dù sao, thơ ca Việt Nam vẫn nở bừng trên các trang mạng văn học nghệ thuật. Ngoài một vài tập thơ được xuất bản như những cuốn sách theo lối truyền thống, người ta cũng thấy có những tập thơ được xuất bản trên mạng. Tựu chung, những tác giả như Nguyễn Xuân Thiệp, Trần Mộng Tú, Du Tử Lê, Viên Linh, Thường Quán, Trần Nguyên Đán, Lưu Diệu Vân, Hoàng Xuân Sơn, Chân Phương, Phan Nhiên Hạo, Đỗ Kh., Đặng Hiền, Đỗ Lê Anh Đào, Nguyễn Lương Vỵ, Lê An Thế, Nguyễn Tiến Đức, Nguyễn Đức Tùng, Khế Iêm, Hải Phương, Nguyễn Đăng Thường, Trịnh Y Thư, Lê Thị Huệ, Đỗ Quyên, Trạch Gầm... là những tác giả được chú ý nhiều. Dĩ nhiên cũng còn những tác giả khác cũng được sự theo dõi của đông đảo bạn đọc.
Thơ bây giờ cũng có nhiều nét khác trước. Có những tác giả vẫn còn đào xới (và nhiều người tiếp tục đào xới thành công) vào những thể loại cũ, theo kiểu của dòng thơ mới trước đây. Nhưng nhiều tác giả khác đã tiến bước khai phá vào những thể loại trước đây ít được sử dụng: thơ tự do, thơ xuôi, theo những thể thức và phong cách khác nhau. Ngoài ra, một số tác giả đang thử khai phá thể thơ tân hình thức theo lối Việt Nam. Trong lĩnh vực này, có những tác giả tương đối thành công với một số bài thơ được người đọc chú ý. Đặc biệt tôi thích Nguyễn Đăng Thường trong những bài thơ tân hình thức đầu tiên của anh. Và một số bài của Khế Iêm nữa.
18.
Anh có thể nói thêm chút ít nữa về Thơ tân hình thức?
Tiếng Anh là New Formalism. Một cái nhìn vắn gọn: đây là một loại thơ, về mặt hình thức, có tính vắt dòng và sử dụng kỹ thuật lặp lại; về mặt cấu tứ, có tính kể chuyện. Nó thuộc loại thơ không vần và mang nhịp điệu cũng như giọng điệu khác lạ hơn những loại thơ mà người Việt ta thường biết trước đây. Nó đem thơ lại gần hơn với cuộc sống đời thường, với những chất liệu ngôn ngữ trên đại thể là không hoa mỹ, không tu từ ẩn dụ hoán dụ gì cả. Nó cặp sát vào đời sống, và, nhiều khi, nhìn vào mặt đời sống với một cái nhìn khá phàm tục, biết rằng cuộc đời này không còn thơ ngây nữa. (Nói theo kiểu của Umberto Eco, vì không thể nói "I love you madly" được trong một thời đại đã không còn thơ ngây, nên người ta sẽ nói là "As Barbara Cartland would put it, I love you madly.'') Trong cái nhìn của tôi, đối với một số nhà thơ Việt Nam, nó là sự thay đổi, để thoát khỏi những lối mòn cũ kỹ mà thơ Việt Nam đã đi qua và vẫn còn sử dụng. Có thể nó chưa có một tác dụng rõ nét trong thẩm thức và trong tiếp nhận của người đọc Việt, nói chung. Nhưng chúng ta cần phải chờ thêm một thời gian nữa để thấy được rõ hơn tác động của nó, nếu có.
19.
Nói về Tân Hình Thức thì có lẽ ta phải nhắc đến Tạp chí Thơ, một tạp chí chuyên luận văn chương khá đặc biệt ở hải ngoại. Anh có ý kiến gì về tạp chí này không?
Vâng, đây là một tạp chí chuyên về thơ, do nhà thơ Khế Iêm và một số bạn hữu thành lập nên. Đúng như tên gọi, cái đặc biệt của nó là chuyên đăng thơ và những bài nghiên cứu về thơ (cả sáng tác lẫn dịch thuật). Đây cũng là nơi đã phát động phong trào làm và phổ biến thơ tân hình thức Việt Nam. Nó cũng đã làm dấy động lên một vài cuộc tranh luận về thơ, đặc biệt thơ tân hình thức, khiến những người quan tâm về mặt văn học có sự chú ý. Nói tóm lại, tôi nghĩ rằng tạp chí Thơ, với những nỗ lực của nhóm chủ trương và những người cộng tác, trong một mắt nhìn và một góc cạnh nào đó, đã làm phong phú hóa sinh hoạt văn học của người Việt ngoài nước trong thời gian qua.
20.
Xin hỏi anh một câu hỏi cuối: Anh có thể cho một phóng chiếu về tương lai của dòng văn học Việt Nam hải ngoại, hoặc, gọi như anh, trong một tiểu luận nhiều năm trước đây, dòng văn học Việt Nam ngoài nước.
Tôi không quá lạc quan về một sự lớn mạnh và phát triển rực rỡ của dòng văn học Việt ngoài nước. Và tôi cũng không bi quan khi nghe nhắc đến sự lão hóa của những người cầm bút chủ yếu của dòng văn chương này. Văn chương là đời sống. Và đời sống, tự nó, có những quy luật nội tại để tiếp tục tồn sinh. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin qua internet và sự phát triển của dòng văn học ngoài nước trên những trang mạng toàn cầu là những yếu tố mà trước đây, 15 hay 20 năm trước, ta khó tiên đoán được. Nhưng tình hình bây giờ, so với một hai thập niên đầu khi người Việt đặt những bước chân đầu tiên của mình ra ngoài đất nước tiếp theo sau cơn đại động 1975, đã rất khác. Với một số điều mà chúng ta đã thử khảo sát qua cuộc nói chuyện này, tôi nghĩ người ta còn có thể nhìn thấy nhiều sự kỳ diệu nữa sẽ xảy ra cho dòng văn học và văn chương Việt ngoài nước. Chúng ta có những dấu chỉ để có thể hy vọng như thế. Nhưng, có lẽ còn quá sớm để chúng ta nói về những điều khả hữu kỳ diệu ấy ngay bây giờ.
21.
Xin cám ơn nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc về cuộc "tản mạn văn học" rất bổ ích và đáng yêu này.
Xin cám ơn nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh và chị Nhã Lan của Hồn Việt Direct TV và Little Saigon Radio. Và cũng xin cám ơn quý vị khán thính giả, cùng các bạn đọc, đã bỏ thì giờ theo dõi cuộc nói chuyện của chúng tôi.
Nguyễn Mạnh Trinh
(2 / 2011)