Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Huệ Chi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Huệ Chi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 1 tháng 4, 2021

Agence France-Presse: Bắc Kinh lúng túng sau phát ngôn của người đứng đầu WHO (Nguyễn Huệ Chi dịch)

(Bắc Kinh) Hôm thứ Tư, Trung Quốc tỏ ra bối rối sau phát ngôn của người đứng đầu Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), người đã đưa ra yêu cầu điều tra thêm về giả thuyết COVID-19 có thể đã thoát ra khỏi một phòng thí nghiệm ở Trung Quốc.

Được hỏi trong một cuộc họp báo, Liang Wannian (Lương Vạn Niên 梁万年), người đứng đầu phái đoàn các nhà khoa học Trung Quốc, người cộng tác trong bản báo cáo của các chuyên gia do WHO chỉ định về nguồn gốc của coronavirus, đã bày tỏ sự khó hiểu của mình về những lời phát biểu của ông Tedros Adhanom Ghebreyesus.

"Tôi không hiểu được cách nhìn của ông ấy vì đây là lĩnh vực có liên quan đến chúng tôi, chúng tôi những nhà khoa học", ông nói.

Mặt khác, ông cũng sớm cân nhắc đề nghị của người đứng đầu WHO về việc cử một phái bộ mới đến khảo sát tại chỗ.

Người đứng đầu WHO, lâu nay bị cáo buộc là quá chiều ý Bắc Kinh, hôm thứ Ba đã gây bất ngờ khi kêu gọi các cuộc điều tra sâu hơn về giả thuyết rằng coronavirus có thể đã trốn thoát khỏi Viện Virus học Vũ Hán, thành phố từ miền trung Trung Quốc, nơi COVID-19 lần đầu tiên xuất hiện vào cuối năm 2019.

Vậy mà trong báo cáo của WHO được công bố trong tuần này, các chuyên gia quốc tế được WHO cử đến Vũ Hán vào tháng Giêng đã hầu như loại trừ điều đó, cho rằng việc virus đến từ phòng thí nghiệm là "cực kỳ khó xảy ra".

Mặc dù nhóm nghiên cứu đã đến thăm Viện Virus Vũ Hán và xem xét giả thuyết về một sự cố trong phòng thí nghiệm, “tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng đánh giá này đã đủ kỹ lưỡng", người đứng đầu WHO nói.

Thứ Bảy, 29 tháng 2, 2020

Nguyễn Huệ Chi: Nhắc lại một kỷ niệm để tưởng nhớ Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ
Năm 1992, bấy giờ tôi đang là cán bộ của Viện Văn học, hơn nữa lại đang giữ một chức về khoa học cũng có thể gọi là to: Chủ tịch Hội đồng khoa học của Viện. Nhân đang được Viện giao Chủ biên công trình "Thơ văn Lý-Trần", tôi đề nghị với Viện trưởng kiêm Tổng biên tập tờ "Tạp chí Văn học" cho mình chịu trách nhiệm ra một số đặc san về văn học Phật giáo, được Viện trưởng chấp nhận. Trong khi chuẩn bị cho số báo này, tôi nghe phong thanh ở Thái Bình có một nhà sư tài giỏi từ miền Nam bị Nhà nước lưu đày ra đây đã hơn mười năm, vì tội không thừa nhận Hội Phật giáo Việt Nam do Nhà nước cai quản mà chủ trương một tổ chức Phật giáo độc lập lấy tên là Hội Phật giáo Thống nhất, có Ban lãnh đạo do toàn thể hội viên bầu lấy, và có đường lối tu tập riêng của mình. Tiếng tăm vị sư lan tỏa rất xa, từ Thái Bình bay lên đến Hà Nội, với những lời đồn thổi khiến người nghe hết sức tò mò, rằng đây là một nhà Phật học thông thái phi thường, khác xa lớp sư trụ trì ở các chùa miền Bắc trước nay.

Một hôm, vào khoảng đầu tháng 7-1992, có người bạn là nhà nho Nguyễn Tiến Đoàn từ Thái Bình lên Hà Nội, đến nhà thăm tôi. Tôi đem chuyện nhà sư bị lưu đày ra hỏi anh thì không ngờ chính anh đã từng thân hành đến ngôi chùa giam lỏng vị sư này để tìm gặp ông và được ông trao đổi rất cởi mở. Và theo anh, đó quả thực là một bậc thầy về Phật học trước nay anh chưa từng gặp. Thế là tôi liền mời anh Đoàn viết cho một bài về cuộc gặp gỡ hy hữu đó để đăng vào số đặc san tôi đang phụ trách, sẽ được in vào cuối tháng 8-1992. Anh Đoàn hào hứng ngồi tại nhà tôi viết ngay, và viết trong có một buổi là xong. Khi anh "nộp quyển" cho tôi, chúng tôi cùng đọc lại, bàn bạc chỉnh sửa câu chữ với nhau, trong đó chủ trương chỉ để tên vị sư xuất hiện một lần duy nhất ở cuối bài, nhằm tạo nên một ấn tượng mạnh, đọng lại rất lâu trong lòng bạn đọc. Mặt khác chúng tôi cũng tra cứu và bổ sung thêm các chú thích cần thiết cho rõ ra một bài viết học thuật, để khỏi có ai nghi ngờ dụng ý không hay. Thế mà chỉ mấy ngày sau, tôi lại nhận được một lá thư của anh Đoàn gửi từ Thái Bình lên đề nghị cho rút bài lại, không phải vì anh sợ cho mình mà sợ khi in ra có thể ảnh hưởng đến chính tôi. Nhưng tôi trả lời anh, tôi chịu trách nhiệm việc này, rồi quyết định ký vào bản đánh máy cho đưa đi nhà in.

Thứ Ba, 17 tháng 5, 2016

Nguyễn Quang A; Nguyễn Huệ Chi; Hoàng Hưng - Tố cáo và phản đối Truyền hình An ninh TV vu cáo trắng trợn, ngang nhiên bôi nhọ danh dự của công dân (có bản dịch tiếng Anh)

Trên kênh youtube phát ngày 14.5.2016 có clip “Bằng chứng Việt Tân chỉ đạo dùng bom xăng để kích nổ "Cách mạng Cá" ở Việt Nam” của An ninh TV (xin xem https://www.youtube.com/watch?v=lUAs-GbdvTE), ở phút 04:45 có đoạn như sau:
“... Một số đối tượng, nhóm hoạt động trá hình ở trong nước ra các bản tuyên bố, kiến nghị, thư ngỏ mang tính lừa bịp, điển hình như bản tuyên bố do Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Hưng khởi xướng, kêu gọi ký tên. Theo cơ quan chức năng, đây là thủ đoạn nhằm khuếch trương thanh thế, nguỵ tạo dư luận nhằm lôi kéo, tập họp lực lượng mà các tổ chức cá nhân chống đối thường xuyên sử dụng trong thời gian qua. Bản chất là các tổ chức phản động lưu vong và một số phần tử xấu lợi dụng vụ việc và lòng tốt của người dân để kích động kêu gọi tụ tập gây rối theo kịch bản cách mạng đường phố được chúng gọi tên là cách mạng cá…”:
Trong clip này, tên của chúng tôi được phát kèm theo ảnh chân dung rõ mồn một.
Chúng tôi kiên quyết phản bác những nhận định vô căn cứ, bôi nhọ, vu cáo chính trị ác độc mà An ninh TV đã ngang nhiên áp đặt cho bản Tuyên bố và cho cá nhân chúng tôi.
“Tuyên bố về vụ đầu độc biển miền Trung” được khởi xướng bởi rất nhiều trí thức có tên tuổi, phẫn nộ trước tình trạng vô trách nhiệm, chậm trễ, bất lực của nhiều cơ quan chính quyền Trung ương và địa phương, thấy cần lên tiếng một cách mạnh mẽ nhưng ôn hoà để buộc chính quyền khẩn trương kiên quyết xử lý tai hoạ vô cùng nguy hiểm cho nước cho dân.

Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2016

Nguyễn Huệ Chi - Tư tưởng của Giáo sư Kim Định qua các tác phẩm của ông

LTS Diễn Đàn Thế Kỷ.- Sử gia Tạ Chí Đại Trường, trong bản Di cảo của mình, đã dành nhiều trang để nói về luận thuyết của Giáo sư Linh mục Kim Định và nhất là ảnh hưởng của nó đối với một số người tại Việt Nam hiện nay.
Chúng tôi nghĩ, muốn hiểu những gì sử gia viết về việc này trong Di cảo, trước hết chúng ta cần biết qua nội dung những gì Giáo sư Kim Định đã trình bày như một lý thuyết của ông. Cách tốt nhất là đọc hết các sách của Gs Kim Định. Nếu độc giả nào không đủ điều kiện để đọc hết, chúng tôi đề nghị quý vị đọc bài dưới đây của học giả Nguyễn Huệ Chi, tóm tắt một cách hàm súc các tư tưởng của Gs Kim Định.Bài này do tác giả Nguyễn Huệ Chi gửi cho DĐTK, đầu đề do Tòa soạn DĐTK đặt. - DĐTK 

Giáo sư Lm Kim Định

(15.VI.1915 - 25.III.1997). Linh mục, nhà nghiên cứu triết học, nhà văn hóa Việt Nam, sinh ở làng Trung Thành, địa phận Bùi Chu thuộc Nam Định. 1937-39, dạy tiếng Latinh tại Tiểu chủng viện Ninh Cường, Bùi Chu. 1939-43, học triết học và thần học tại Đại chủng viện Quần Phương, Bùi Chu. Năm 1943 được thụ phong Linh mục. 1943-47, dạy triết học phương Tây tại Đại chủng viện Quần Phương, Bùi Chu và bắt đầu cầm bút, viết cuốn Duy vật và duy thực. 1947, được cử đi du học ở Pháp, vào học tại Học viện Công giáo (Institut Catholique) và Học viện cao học Trung Quốc học (Institut des Hautes Etudes Chinoises), Paris. Sau khi tốt nghiệp, năm 1958 trở về miền Nam Việt Nam, dạy triết học tại Đại chủng viện Lê Bảo Tịnh Gia Định. 1961-75, là Giáo sư Viện Đại học Văn khoa Sài Gòn, chuyên dạy triết học Đông phương, ngoài ra còn giảng dạy tại các Viện Đại học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Thành Nhân và An Giang. Sau 1975 sang cư trú tại Xăng Jôzê (San Jose) Hoa Kỳ, tiếp tục nghiên cứu triết học phương Đông và nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tham dự các hội nghị quốc tế về triết học thế giới tại Đài Loan 1984, về Khổng học với thế giới ngày nay tại Đài Bắc, Đài Loan, 1987, về triết học tại Braigơtơn (Brighton), Anh, 1988 và về triết học Á Châu tại Bắc Phi, 1990. Ông mất ở bang Mixuri (Missouri), Hoa Kỳ.

Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2016

Nguyễn Huệ Chi - Trở lại câu chuyện so sánh Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều của ông Đổng Văn Thành(*) (Tiếp theo và hết)

Tác giả Nguyễn Huệ Chi - ảnh: Uyên Nguyên
Một chỗ khác, ông Đổng Văn Thành còn kỳ công trích dẫn cả một đoạn dài để làm bằng chứng cho hình tượng Từ Hải “ôm chí lớn ngút trời” trong Kim Vân Kiều truyện: “Có một hảo hán họ Từ tên Hải, hiệu là Minh Sơn hòa thượng, người đất Việt đến chơi. Người này có lòng ưu ái, phóng khoáng đại lượng, ôm chí lớn lao, coi giàu sang nhẹ tựa lông hồng, xem người bằng vai như cỏ rác. Khí tiết hơn hẳn người cùng lứa, cao lớn hùng vĩ trùm đời, hiểu rõ lược thao, giỏi giữ ngay thẳng. Thường nói: ‘Trời cho ta tài năng ắt cho ta sử dụng. Hữu tài vô dụng là trời phụ ta vậy. Nhược bằng hoàng thiên phụ ta thì ta cũng phụ lại hoàng thiên. Đại trượng phu ở đời phải làm sao cho được lỗi lạc, lập được những sự bất hủ trên đời, sao có thể chết già bên cửa sổ như những kẻ sống vì miếng ăn? Còn nếu có tài mà vô mệnh, anh hùng không có đất dụng võ, không để lại được tiếng thơm cho trăm đời thì phải tự mình tạo ra mệnh. Khinh suất gây binh đao nơi ngòi đầm chỉ tổ để lại nỗi sỉ nhục đến vạn năm. Nếu không được như thế thì bầu nhiệt huyết trong người này làm thế nào sử dụng được?’ Hồi nhỏ học hành nhưng không thành đạt bèn bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao với bạn bè”(30). Trích xong, ông đem so sánh với đoạn Nguyễn Du mô tả Từ Hải trong Truyện Kiều mà theo ông, từ một người “chí lớn ngút trời” đã bị “thay đổi thành võ sĩ giang hồ lưu lạc khắp nơi”:
Câu 2165 “Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.
Râu hùm hàm én mày ngài,
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng

Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2016

Nguyễn Huệ Chi - Trở lại câu chuyện so sánh Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều của ông Đổng Văn Thành(*)

giả Nguyễn Huệ Chi (ảnh: Uyên Nguyên)
Năm 1989, tôi là người có cái may mắn tiếp xúc với hai cuốn Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng       tập 4 (1986) và tập 5 (1987) trong đó có bài So sánh “Truyện Kim Vân Kiều” giữa hai nước Trung Việt   “      (Trung Việt “Kim Vân Kiều truyện” đích tỷ giảo) in liền hai kỳ của ông Đổng Văn Thành    mà nhà Trung Quốc học người Nga Riftine nhã ý trao cho đọc tại Moskva rồi sau đó nhờ tôi đem về tặng lại chị Phạm Tú Châu. Vừa đọc, tôi đã nhận thấy đây là một bài viết có ngữ khí không bình thường, có vẻ là một hồi chuông “cảnh mê”, hay một gáo “nước xối sau lưng” cho người ta tỉnh lại, như lời Huỳnh Thúc Kháng nói về bài Ngô Đức Kế cũng về chuyện đánh giá Truyện Kiều 70 năm về trước. Lời lẽ của Đổng Văn Thành kể như là lời tâm huyết của một “tráng sĩ” muốn “ra tay tế độ” khi chứng kiến cảnh “trầm luân” của một sản phẩm thuộc “kho báu” tinh thần của đất nước mình, bị đồng loại (người Trung Hoa) quên lãng, trong khi đó thì người chị em sinh đôi với nó tại một quốc gia khác – Truyện Kiều – lại được hết thảy người Việt và rộng hơn, rất nhiều người đọc trên thế giới, kể cả một số học giả Trung Quốc rất mực trân trọng, đề cao, coi đó như kiệt tác của một thiên tài. Tôi cảm thông với nỗi phẫn hận chính đáng của nhà nghiên cứu họ Đổng và kính trọng công phu kiên trì tìm kiếm bóng dáng nguyên bản Kim Vân Kiều truyện của ông, cũng như hứng thú đón nhận những thông tin mới mẻ về Kim Vân Kiều truyện mà ông cung cấp, cả những lời bàn giải về nhiều mặt khả thủ ông gợi ra từ tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng lại rất không đồng tình với cách ông bênh vực Kim Vân Kiều truyện bằng việc hạ thấp Truyện Kiều. Tôi thầm hẹn với lòng thế nào cũng phải có ngày hầu chuyện ông. Vì thế, mặc dù từ bấy đến nay kể cũng đã lâu, đã có nhiều người như Phạm Tú Châu, Hoàng Văn Lâu, Nguyễn Khắc Phi và cả Trần Ích Nguyên   ở Đài Loan lên tiếng(1), xem ra tiếng chuông của Đổng Văn Thành gióng lên mười tám năm về trước vẫn còn gây hiệu ứng trên văn đàn Trung Quốc, Đài Loan, có thể ở Việt Nam và biết đâu ở một số nước khác nữa(2), nên xin tiếp tục có mấy lời mạo muội trao đổi với Đổng tiên sinh.

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2015

TUYÊN BỐ - về vụ GS Nguyễn Huệ Chi bị cấm xuất cảnh và thu hộ chiếu

GS Nguyễn Huệ Chi (Hình: Uyên Nguyên)
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi là nhà nghiên cứu văn hóa, văn học Việt Nam Cổ, Trung đại nổi tiếng, là một trong những người sáng lập trang Bauxite Việt Nam, một trang báo điện tử phản biện của giới trí thức Việt Nam. Ngày 18 tháng 5 năm 2015, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đang làm thủ tục xuất cảnh tại sân bay Tân Sơn Nhất để đi Hoa Kỳ thăm gia đình, thì bị nhân viên an ninh thu hộ chiếu và thông báo không được xuất cảnh theo đề nghị của Công an thành phố Hà Nội.

Theo Nghị định 136/2007/NĐ-CP, thì GS Nguyễn Huệ Chi chỉ có thể bị cấm xuất cảnh nếu thuộc vào một trong ba trường hợp sau đây:
1. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm.
2. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự.
3. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế; đang chờ để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế.

Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Nguyễn Huệ Chi - Đức vua trầm tưởng


Kỷ niệm 35 năm ngày 17-2-1979 tại Hà Nội
Bản sửa lại trọn vẹn

Lý Thái Tổ nhíu đôi mắt lo âu,
Nhìn dõi xuống chân mình... rõ ràng một lũ Tàu
bụng ưỡn ẹo, ngoáy mông, ca những lời nhí nhố:
Ông tự hỏi: Sao nảy nòi ra một lũ dân mất gốc,
Ba mươi lăm năm sừng sững mối hận quân cướp nước
sao không biết buồn đau?
Thác Bản Giốc chúng ngoạm luôn một nửa,
Ải Nam Quan đã thuộc về lãnh thổ chúng từ lâu.
Núi Đất (chúng gọi Lão Sơn) chúng chà đi xát lại, chôn sống cả trăm ngàn anh hùng còn sống sót,
Sáu vạn con em mình ngã xuống để giữ vững biên cương Tổ quốc
nay mồ mả nơi đâu?
Ấy thế mà giữa cái nơi ta đang ngự trị

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

Nguyễn Huệ Chi - Tìm hiểu cái “tôi” “Thơ mới”



Nguyễn Huệ Chi


Tham luận đọc tại Hội thảo Phong trào Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn - 80 năm nhìn lại 

Công trình của chúng tôi vốn có tên là Thử xác định hệ hình “Thơ mới”, bao gồm bốn mục chính: 1. Sự hoàn kết của “Thơ mới” trong tư cách một trào lưu nghệ thuật gắn với lịch sử văn học một giai đoạn cụ thể; 2. Cái “tôi” “Thơ mới” nhìn trong thế đối sánh với cái “ta” “Thơ cũ”; 3. Hình thức “Thơ mới” với các thể thơ đặc trưng đột phá từ thơ cổ điển; 4. Các biện pháp nghệ thuật của “Thơ mới” làm nên dấu ấn thẩm mỹ của một thời đại. Trong phạm vi giới hạn của một tham luận khoa học, tôi xin trích ra hai phần đầu và đặt lại tiêu đề: Tìm hiểu cái “tôi” “Thơ mới”, coi như phần thứ hai mới là trọng tâm, thêm vào một đoạn kết chung cho cả bốn phần. Trước khi vào bài, cũng xin giới thuyết về cách dùng thuật ngữ: cách gọi “Thơ mới” để đối lập với “Thơ cũ” thật ra chưa mang trong nó những nội hàm khoa học xác đáng, bởi lẽ nói “mới” là mới ở thời điểm nó đang sinh thành và vận động, còn ở thời điểm hiện tại nó đâu còn mới nữa. Ngay “Thơ cũ” cũng vậy, thế nào là cũ và cái “cũ” có đồng nghĩa với sự thấp kém về mặt giá trị hay không? Chính Hoài Thanh đã có băn khoăn về những điều này. Vì thế ở đây, tuy vẫn sử dụng hai khái niệm “Thơ mới” “Thơ cũ”, để cho thỏa đáng, tôi đã để chúng trong ngoặc kép như một cách dùng tạm, có thể thay đổi khi được giới nhiên cứu phân định tỷ mỉ và có một kết luận rõ ràng.


1. Sự hoàn kết của “Thơ mới” trong tư cách một trào lưu nghệ thuật gắn với lịch sử văn học một giai đoạn cụ thể

Cùng với Tự lực văn đoàn, “Thơ mới” là một trong hai hiện tượng cách tân tiêu biểu cùng có khởi điểm phát sinh từ năm 1932, và nếu tính đến 1945 thì trong suốt 13 năm phát triển sôi nổi nhất, từ bề rộng đến bề sâu, nó đã làm nên một cuộc cách mạng văn học lớn lao chưa từng thấy, đưa thi ca Việt Nam từ phạm trù truyền thống bước hẳn sang phạm trù hiện đại. Cuộc cách mạng ấy thực ra đã hoàn thành trọn vẹn và bắt đầu chững lại vào đầu những năm 40 mà Nhóm Xuân thu nhã tập xuất hiện 1942 và Nhóm Dạ đài xuất hiện 1946 chính là những mầm mống báo hiệu một thúc đẩy của dòng chảy thi ca dân tộc vốn diễn ra như một vận động nội tại đòi hỏi đổi mới không ngừng.

Có người nói trường ảnh hưởng của Thơ mới sâu rộng đến mức cấu trúc, âm hưởng cùng nhịp điệu của nó vẫn còn lưu lại trong thơ cách mạng miền Bắc thời kháng chiến chống Pháp, sang kháng chiến chống Mỹ và cả về sau nữa, và ở Miền Nam cũng thế, nó chi phối bút lực của phần đông thi nhân một nửa đất nước còn lại cho đến tận 1975. Từ một góc nhìn nào đấy, nhận định này không phải không có cơ sở. Ám ảnh vô thức và kéo dài của “Thơ mới” mãi sau 1945 rất lâu là một sự thực, và là bằng chứng của một hiện tượng đột phá có một không hai ở một loại hình văn học đứng hàng đầu trong văn học Việt Nam là thơ, đúng vào thời điểm có sự gặp gỡ của nhiều nhân tố cùng kết hợp với nhau tạo nên cuộc cách mạng thi ca nói trên, đáp ứng cao nhất đòi hỏi lịch sử phát triển của thể loại. Cho nên, nếu xét theo mỹ học tiếp nhận thì “Thơ mới” đã đưa lại một thành tựu đồng bộ trên cả ba khâu không thể tách rời: xuất hiện một loạt ba thế hệ nhà thơ kế tiếp thật sự tài năng và giàu cá tính mà hạt nhân là Thế Lữ, Xuân Diệu và Hàn Mạc Tử (chủ thể sáng tạo); cho ra đời những thành phẩm tuyệt tác thỏa mãn thị hiếu nhiều mặt của thời đại với những quy phạm hoàn toàn khác trước (sáng tạo thẩm mỹ); và hình thành được nhiều thế hệ độc giả nằm trong quỹ đạo thi hứng của nó đến mức gần như chối bỏ hẳn thói quen thưởng thức ngâm vịnh thi ca truyền thống (chủ thể tiếp nhận). Phải xét cả ba khâu này trong quan hệ gắn kết chặt chẽ mới nghiệm sinh được ở “Thơ mới” một giá trị lâu bền, vượt xa khỏi thời đoạn mà nó hiển nhiên được thừa nhận. Tuy vậy, nhận định đề cập ở đây chỉ đúng với điều kiện cuộc kháng chiến chống Pháp bất thần nổ ra cuối năm 1946 làm cắt ngang mọi khuynh hướng phát triển tự nhiên của văn học, khiến thi ca bắt buộc phải đi theo quán tính một thời gian dài. Nếu không vì chiến cuộc ngày càng mở rộng và diễn biến suốt 30 năm trên phạm vi cả nước, Nhóm Dạ đài hẳn sẽ tiếp tục sống như một sự tiếp nối của Xuân thu nhã tập, và chắc chắn nhiều nhóm thi ca khác ở nhiều vùng miền khác cũng kế tục xuất hiện theo, thì diện mạo thi ca Việt Nam đã không như ta thấy ngày nay. 

Lại có ý kiến ngược lại, cho rằng chính cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã làm đứt dòng mạch của “Thơ mới”, chuyển trung tâm biểu hiện của cảm hứng thơ từ lĩnh vực cái “tôi” sang cái “ta” cộng đồng, nếu không, “Thơ mới” đúng nghĩa của “Thơ mới 1932 - 1945” sẽ còn tồn tại rất lâu. Mới nhìn ở những biểu hiện bề ngoài, cũng có thể nghĩ như thế thật. Thơ Việt nói chung kể từ mùa thu 1945, nhất là trong kháng chiến chống Pháp và trên miền Bắc sau 1954, đã vắng bóng một tiếng nói cá nhân cá thể mà chuyển sang phát ngôn cho một tập thể nhân danh “con người tiên tiến”, nói ra những gì cuộc cách mạng yêu cầu, trong đó khó tránh khỏi đưa vào nhiều sáo ngữ, nói như Nguyễn Đình Thi: “Những “lửa căm hờn” những “làn sóng cách mạng” là những cái sáo mới của chúng ta hiện thời”(1). Mặc dầu thế, nếu hiểu thơ như một loại hình nghệ thuật hoàn chỉnh thì không thể chỉ cô lập ở một vài đặc điểm của chủ thể thẩm mỹ, tức là cái “tôi’ hay cái “ta” để xem xét, mà còn phải nhìn vào nhiều thành tố khác làm nên toàn bộ hệ hình của nó. Bởi thế, giá thử không có Cách mạng tháng Tám, cái “tôi” vẫn được tự do vùng vẫy, thì các thành tố đặt nền tảng biểu đạt cho cái “tôi” ấy, đến lúc đã viên mãn cũng vẫn tự nó nảy sinh nhu cầu chuyển đổi, không thể ngăn cản được, dù có toàn bích đến đâu. Đó là biện chứng của sự phát triển xưa nay. Một bằng chứng là trong hoàn cảnh sáng tác dưới ánh sáng “nhận đường” của cách mạng ở chiến khu Việt Bắc, Nguyễn Đình Thi vẫn cứ viết ra những bài thơ không vần, “những bài thơ đau đớn”, “là một cái thiết tha nhất của tôi và cũng là cái tìm tòi rất khổ của tôi”, nó là “những câu thơ như lời nói thường mà đến một độ cảm xúc mãnh liệt” mà “khi tôi nói cái đau thương của tôi ra, nó ẩn ở một chỗ rất kín”(2). Nguyễn Đình Thi cũng đã chú ý phân biệt thơ do mình sáng tác với “Thơ mới” mà ông gọi là “những bài thơ cũ, cùng một nhịp điệu đều đều, tôi không thể chịu được”(3). Đáng nói hơn nữa là trong cuộc tranh luận về thơ Nguyễn Đình Thi do Hội Văn nghệ kháng chiến tổ chức tại Việt Bắc năm 1949, ngoại trừ Nguyên Hồng, Văn Cao và phần nào Nguyễn Huy Tưởng, tất cả cử tọa đều phản bác thơ ông, phản bác mạnh mẽ nhất là “ông hoàng” “Thơ mới” Xuân Diệu, cho rằng thơ Nguyễn Đình Thi có năm nhược điểm lớn: “tứ thơ không dính nhau”, “trí óc nhiều tình cảm ít”, “câu thơ đúc quá”, “vần rất là hệ trọng” bị xem nhẹ, và “thơ không chấm câu” “vì câu này tràn sang câu kia không biết chấm thế nào cho đúng”(4). Còn Thế Lữ, tuy coi đây là một “cuộc thí nghiệm” của “một hồn thơ mãnh liệt” “muốn đi tìm cái mới”, nhưng cũng cảnh báo một “sự nguy hiểm”, rằng Nguyễn Đình Thi “đã gieo rắc lối thơ của anh trong làng thơ”(5). Rõ ràng, so với “Thơ mới” thì thơ Nguyễn Đình Thi cuối những năm 40 đã là một hiện tượng không tương thích, có thế ông mới bị các nhà “Thơ mới” đem tiêu chí “Thơ mới” ra để công phạt. Và sự không tương thích của thơ ông không phải phản ánh của chỉ một cá tính sáng tạo riêng lẻ mà là một thôi thúc khách quan của cả một chuyển động thi ca ngấm ngầm, nên Thế Lữ mới lo “cái nguy cơ” “cuộc thí nghiệm” lây lan ra khắp làng thơ. Mà lây lan là điều cầm chắc. Chỉ sau Nguyễn Đình Thi ít lâu, Trần Dần, Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Đạt,... sẽ tiếp tục vật lộn với những thử nghiệm bằng đủ mọi cách, kết quả đã cho ra đời nhiều hình thức thơ tự do đa dạng, rất đậm chất suy tưởng, mặc tưởng, mạch cảm hứng nhiều khi bị đứt đoạn bắt người ta phải vất vả đi tìm sự liên thông ở ngoài lời ngoài ý, khác hẳn với kiểu tư duy “Thơ mới”, biểu thị cả một quyết tâm “chôn Tiền chiến” của thế hệ nhà thơ Việt những năm 50. Không hẹn mà gặp, ở miền Nam, Nhóm Sáng tạo của Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền... ra đời trong khoảng 1956 - 1959 cũng nỗ lực kiếm tìm một hướng đi nhằm “đoạn tuyệt được hoàn toàn với những ám ảnh và những tàn tích của quá khứ”(6). Có thể suy ra, giá thử không có biến cố Cách mạng 1945 và kháng chiến chống Pháp 1946, sự bứt phá của thi ca Việt Nam sẽ diễn ra sớm hơn, đưa thơ Việt Nam bước vào một chặng đường khác hẳn trước kia. Nghĩa là trước sau cái mốc 1945, “Thơ mới” cũng đã đóng xong sứ mạng của mình.
2. Cái “tôi” “Thơ mới” nhìn trong thế đối sánh với cái “ta” “Thơ cũ”
Vậy thì, nói đến phạm trù “Thơ mới” là nói đến một hệ hình thơ đã hoàn thành, đã được mô thức hóa, nghĩa là đã đi vào những khuôn khổ mà nhà thơ mới nào trong giai đoạn cũng mặc nhiên tuân theo. Vấn đề là phải xác định cho được các tiêu chí làm nên đường nét của hệ hình kia, như những nguyên tắc vô ngôn quy định tính nhất quán trong sự sáng tạo nghệ thuật ngôn từ muôn vẻ của cả một thời. Đây là việc hết sức khó. Kể từ khi văn học nghệ thuật được “cởi trói” (khoảng 1990), trong đó có lý luận phê bình, rất nhiều bài viết, công trình nối nhau xuất hiện, đã nhiệt tình “làm người trạng sư” cho “Thơ mới”, cũng đã rọi sáng vào nhiều giá trị của “Thơ mới”, song vẫn chưa mấy ai dám bàn giải thấu triệt vấn đề này. Trong phạm vi một tiểu luận khoa học, người viết cũng khó có điều kiện đào sâu vào nhiều khía cạnh cụ thể, chi tiết, nhằm phơi bày toàn bộ nội hàm và nghệ thuật của một trào lưu thơ, minh định cho điều mình đã nêu, vì thế chỉ có thể giới hạn ở một số gợi ý tổng quát có tính chất đặt giả thuyết làm việc mà thôi. 
Muốn vạch được hệ hình “Thơ mới” thì trước tiên phải sử dụng phương pháp so sánh loại hình để khu biệt rành mạch đường ranh giữa nó với “Thơ cũ”. Trong cuốn sách mà hầu hết chúng ta đều công nhận là bản tổng kết kinh điển về “Thơ mới” là Thi nhân Việt Nam công bố lần đầu năm 1941, Hoài Thanh đã quan tâm so sánh hai phạm trù “Mới” “Cũ” theo cách của ông. Ta để ý, yếu tố hình thức được ông nói đến đầu tiên nhưng chỉ mới là điểm qua, hẹn “một lần khác buồn rầu hơn”(7) sẽ quay trở lại. Yếu tố mà ông coi là quan trọng để đưa ra so sánh chính là “cái tinh thần” được biểu hiện trong thơ. Ông viết: “Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nói giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta. Nhưng chúng ta hãy tìm những chỗ khác nhau”(8). Lần theo cách diễn giải kế tiếp của ông, ta hiểu rằng, “chữ ta” là một khái niệm mơ hồ để nhà thơ xưa “trốn nấp” mỗi khi cần “nói chuyện với mình” hay “với tất cả mọi người”, tức là một cách nhà thơ “cầu cứu đoàn thể để trốn cô đơn”. Tạm luận ra, hai chữ “đoàn thể” ông nói đây là một thứ chuẩn mực chung của cộng đồng được coi như một “thành bền vách cứng”, yên tâm tựa vào đó mà soi mình và soi vào người khác. Sản phẩm của “Thơ cũ” là một thứ phát ngôn không thuộc riêng ai sở hữu, “lắm khi cũng chẳng thèm ghi tên” tác giả. Chứng tỏ, cá nhân và bản sắc cá nhân trong “Thơ cũ” luôn luôn “bị rẻ rúng”, tuy vậy, nhờ nương tựa vào “đoàn thể” – cái “thành bền vách cứng” – nên cái “ta” “Thơ cũ” lại có được một “cốt cách hiên ngang”, một “khí phách ngang tàng”, chẳng hạn cái ngang tàng của thi hào Lý Bạch thời Đường, cái “lòng tự trọng cần thiết để khinh cảnh cơ hàn” của một Nguyễn Công Trứ, cái cứng cỏi an nhiên của một số phận oan khiên đến như Cao Bá Nhạ thời Nguyễn,... Chỗ tựa đó, theo Hoài Thanh, “Thơ mới” về sau không thể có nữa(9).

Gần đây, có ý kiến cho rằng Hoài Thanh đã đối lập phiến diện cái “ta” của “Thơ cũ” và cái “tôi” của “Thơ mới”, vì thực tế trong “Thơ cũ” vẫn không thiếu vắng cái “tôi”. Xem lại Thi nhân Việt Nam chúng tôi thấy Hoài Thanh không hề rơi vào phiến diện trong lập luận, trái lại ông cũng đã rất tinh tế nhìn ra, đây đó cái “tôi” vẫn có mặt trong thơ quá khứ: “Cũng có những bực kỳ tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ. Và thảng hoặc trong văn thơ họ cũng dùng chữ tôi để nói chuyện với người khác”(10). Quả có thế. Khi đọc thơ Gửi Trương Quỳnh Như của Phạm Thái, không ai có thể phủ nhận nhà thơ họ Phạm đã in dấu tình cảm bồng bột của mình vào trong những câu thơ đắm đuối gửi người tình: “Oanh yến véo von gọi khách - Cỏ hoa hớn hở mừng ai - Gió xuân hây hẩy giục đưa người - Dễ khiến lòng thơ bối rối...”. Khi đọc thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương, ai mà lại cạn nghĩ rằng những vần thơ tình tứ của bà chẳng thể hiện con người giàu cá tính của bà chút nào: “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi - Này của Xuân Hương mới quệt rồi - Có phải duyên nhau thì thắm lại - Đừng xanh như lá bạc như vôi”. Và khi đọc bài thơ Tích cảnh số 10 của Nguyễn Trãi, hẳn ta dễ dàng cùng tin với Trần Thanh Mại là bài thơ nhằm gửi chút lòng riêng cho “khách lầu hồng” – Nguyễn Thị Lộ – ở “ngoài kinh thành”: “Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng - Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng - Ngoài ấy dù còn áo lẻ - Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng”(11). Thế thì chuyện “Thơ cũ” nhiều khi táo bạo chuyển từ “ta” sang “tôi” ở một số thi tài kiệt xuất – Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Tú Xương, Nguyễn Khuyến,... – hoặc ở tất cả mọi nhà thơ “thường thường bậc trung” trong những cảnh ngộ dồn nén tình cảm đặc biệt nào đấy, là điều không còn phải bàn cãi. Có điều, nhìn bao quát thì đúng như Hoài Thanh nhận định, “Thơ cũ” là một tiếng nói vắng bóng sự riêng tư của con người cá thể. Nó là thế giới của cái “ta”. Nhưng Hoài Thanh chỉ mới chiêm nghiệm riêng một phẩm tính duy nhất của cái “ta” là phẩm tính đạo lý, cái rường cột ngàn đời, giúp cho xã hội không nghiêng đổ, và thơ ca giữ được sự bình yên trong tâm hồn. Phải nói rộng hơn, cái “ta” trong “Thơ cũ” đã trở thành một quy ước suốt hàng trăm năm, thường được biểu hiện dưới hình thức vô nhân xưng, và mang năm dạng thức chủ yếu: 1. Là cái “ta” đạo lý, cũng là cái “ta” nói chí; 2. Là cái “ta” tự nhiệm hoặc tự tại; 3. Là cái “ta” đối diện đàm tâm với cổ nhân; 4. Là cái “ta” tương giao bằng hữu, thảng hoặc cũng có thể là cái “ta” giao duyên; và 5. Là cái “ta” tức cảnh sinh tình. Trong cả năm phương thức, cả một thi giới gọi bằng “ta” ít khi chiếm lĩnh người đọc bằng trực cảm mà phần lớn là bằng thấu hiểu, nghĩa là giữa hai bên, “trao” và “nhận”, không do cảm xúc trực nhiên tràn sang nhau ngay từ thao tác đọc, trái lại chỉ đến được với nhau thông qua việc mặc nhận những chuẩn mực về “chí” hoặc về “đạo” mà cả hai đều đã được rèn dạy từ cửa Khổng sân Trình, cùng với nó là sự nghiền ngẫm cả một hệ thống những biện pháp tu từ hỗ trợ đắc lực cho việc đưa cái “chí” và cái “đạo” vào thơ, nhằm gây được hiệu ứng thẩm mỹ. Người xưa nói đọc thơ là “thẩm thơ”, chính là đọc bằng cách ngâm nga những vần thơ súc tích, để nhấm nháp cho hết ý vị của các loại từ chương lồng vào ý tưởng của bài thơ, làm tôn thêm ý tưởng của bài thơ.

Khác với “Thơ cũ”, “Thơ mới” rõ ràng đã dành trọn lãnh địa cho cái “tôi”. Vấn đề là có thể hình dung cái “tôi” ấy với những tố chất và những dạng thức biểu hiện như thế nào? 

1. Thoạt đọc Hoài Thanh chỉ thấy ông nhắc đến tâm trạng bơ vơ mất lý tưởng đến “tội nghiệp” trong con người “Thơ mới” ta ngỡ rằng đây là chỗ ông chê “Thơ mới” so với “Thơ cũ”. Nhưng ngẫm nghĩ cho kỹ cách nói ý nhị của ông thì mới hiểu nhà phê bình không hẳn đã chê mà muốn lưu ý một thực tế mang ý nghĩa hai mặt quy định việc nhận dạng cái “tôi” “Thơ mới”, đáng xếp vào đặc điểm hàng đầu. Một mặt, nhìn vào chiều kích tư tưởng, văn hóa, con người “Thơ mới” đã đứng ở một tầm cách biệt rất xa “Thơ cũ”. Cái “tôi” “Thơ mới” sở dĩ gây một choáng ngợp khi vừa có mặt trên thi đàn, vì nó “lạ” quá: đang từ trong những ràng buộc nặng nề của nhân sinh quan và thế giới quan phương Đông Trung cổ, trên nền tảng một xã hội nông nghiệp cổ truyền, nó bỗng vượt lên, bỏ gánh nặng quá khứ lại phía sau để chuyển mình thành con người của xã hội thành thị hiện đại, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng tự do dân chủ phương Tây, tắm mình trong văn hóa Pháp, thấm thía cái hạnh phúc được sống đích thực là mình với những nhu cầu riêng tư, trần tục của chính mình. Mặt khác, vì bị nhổ bật khỏi gốc rễ truyền thống, chưa biết bám víu vào đâu trên mảnh đất cộng đồng để đứng vững, lớp người này không khỏi mang tâm trạng bơ vơ lạc lõng mà xét đến cội rễ, đó cũng chính là áp lực nặng nề của cả một nỗi buồn thời cuộc vẫn đeo đẳng trong tâm thức suốt mấy thế hệ, từ các bậc cha anh truyền sang con cháu “Cùng một hận truyền nhau từng thế kỷ” (Trò chuyện – Huy Cận). 

Tuy vậy, do được trang bị một tư duy duy lý, cái buồn không đẩy thế hệ đương thời đến bờ vực tuyệt vọng. Họ nhận thức rất rõ bản ngã tự do của mình, lần đầu tiên dám đặt mình trong mối tương quan bình đẳng và nhiều chiều với cả vũ trụ xung quanh để ngắm nhìn thế giới và để chiêm ngẫm cái hiện tại mình đang chứng sống, từ đó, khởi đi một niềm vui sống trước kia chưa bao giờ có: “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ - Mà vạn vật là muôn đá nam châm - Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm - Sao lại trách người thơ tình lơi lả” (Cảm xúc – Xuân Diệu); “Mai này thiên địa mới tinh khôi - Gió căng hơi và nhạc lên trời - Chim khuyên hót tiếng đầu tiên hết - Hoa lá hồ nghi sự lạ đời” (Xuân đầu tiên – Hàn Mạc Tử); “Sáng hôm nay hồn em như tủ áo - Ý trong veo là lượt xếp từng đôi - Áo đẹp chưa anh! Hoa thắm thêu đời - Áo mơ ước anh bận giùm chiếc nhé - Vàng rạng cùng xanh, hồng cười với tía - Xin mời anh chọn hình sắc yêu đương - Hồn em đây đủ muôn ánh nghê thường - Anh hãy bận hồn em màu sáng chói” (Tình tự – Huy Cận); “Đã quyết bao phen khổ cũng cười - Nhưng đời vui đẹp quá anh ơi - Những vai Ganh Ghét cùng Gian Trá - Diễn kịch Trần Gian mãi chẳng thôi” (Tôi muốn đi – Thế Lữ)... 

Kể cả nỗi buồn, sự thất vọng, cảm giác lẻ loi cô độc, đi đến nghi ngờ, chán nản... cũng là hình ảnh nghịch lý của niềm vui sống: “Tôi chỉ là người mơ ước thôi - Là người mơ ước hão than ôi - Bình minh chói lói đâu đâu ấy - Mà chốn lòng riêng u ám hoài” (Bên sông đưa khách – Thế Lữ); “Anh cũng như em chán cõi đời - Nhưng mà quả quyết sống mà chơi - Đời càng bạc bẽo cùng mình lắm - Mình cũng yên vui, cũng nói cười” (Cảnh đoạn trường – Thái Can); “Bao nhiêu năm tưởng đã phí công chờ - Ta xé vụn ân tình gieo rắc mãi - Nay dẫu muốn thu về khâu chắp lại - Cũng không sao toàn vẹn được như xưa” (Chậm quá rồi – Vũ Hoàng Chương)... Đúng như Alfred de Musset (1810 - 1857) từng ghi nhận: “Tuyệt vọng nhất là những bài hát đẹp nhất - Và tôi biết sự bất tử của nó là những tiếng nức nở thuần khiết” (Les plus désespérés sont les chants les plus beaux - Et j'en sais d'immortels qui sont de purs sanglots – La Muse). 

Vậy là cái “tôi” “Thơ mới” hướng tới vũ trụ và nhân sinh không trong hệ quy chiếu đạo lý muôn thuở của cái “ta” “Thơ cũ” nữa. Nó thiết lập ra một hệ giá trị mới cưỡng lại an bài của định mệnh và thái độ bi quan yếm thế trong hành xử. Nó đòi hỏi giải phóng cá tính và kêu gọi tinh thần nhập cuộc, đặt mình vào giữa thực tại “Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi” (Cây đàn muôn điệu – Thế Lữ). Nhưng cái tầng lớp mà nó đại diện chưa đủ điều kiện phát huy hết sức vóc để nó có được một tầm thước tương xứng. Trên hành trình đầy thăng trầm của nó, lòng tin và ý chí nhiều khi suy giảm, cô đơn ngập tràn tâm tưởng: “Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa - Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh” (Phương xa – Vũ Hoàng Chương); “Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng - Một vũng cô liêu cũ vạn đời - Chao ôi ghê quá! Chao ghê quá! - Cảm thấy hồn tôi ớn lạnh rồi!” (Cô liêu – Hàn Mạc Tử). Tuy thế nó vẫn không chịu đánh mất mình. 

2. Nhìn ở cái vỏ vật chất là ngôn ngữ, cái “tôi” “Thơ mới” đến với người đọc cũng mang một vóc dáng rất “tân thời”. Không còn những lễ phục đạo mạo quan cách, cái “tôi” hiện ra trực diện, tự khẳng định mình thông qua chữ tôi được dùng một cách tự tin và đóng vai trò chủ ngữ trong thơ: “Tôi ngợi ca với tiếng lòng phấn khởi - Tôi thở than cùng thiếu nữ bâng khuâng - Tôi véo von theo tiếng sáo lưng chừng - Tôi yên ủi với tiếng chuông huyền diệu” (Cây đàn muôn điệu – Thế Lữ). Bằng sự trình diện dưới hình thức một chủ ngữ, chữ tôi làm cho mọi gián cách vốn có trong “Thơ cũ” bỗng dưng biến mất. Vị trí của những thông báo nghệ thuật phút chốc bị xáo trộn, thay đổi. Động từ, hình dung từ, bổ ngữ... tất cả không còn bày ra một cách lớp lang theo ước lệ định sẵn (“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”,...), mà châu tuần vào chủ ngữ, lấy chủ ngữ làm trung tâm. Chủ ngữ là lý do tồn tại của cảm hứng thơ, dù là cảm hứng lãng mạn – trữ tình hóa ngoại vật – trong giai đoạn khởi sự và cao trào: “Tôi muốn tắt nắng đi - Cho màu đừng nhạt mất - Tôi muốn buộc gió lại - Cho hương đừng bay đi - Của ong bướm này đây tuần tháng mật - Này đây hoa của đồng nội xanh rì - Này đây lá của cành tơ phơ phất - Của yến anh này đây khúc tình si” (Vội vàng – Xuân Diệu), hay cảm hứng tượng trưng, siêu thực – biến ngoại vật thành biểu tượng và ảo giác – ở những chặng đường về cuối: “Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết - Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi - Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười - Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng - Tôi chết giả và no nê vô vạn - Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng - Áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng - Hồn đã cấu đã cào, nhai ngấu nghiến - Thịt da tôi sượng sần và tê điếng - Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên” (Hồn là ai – Hàn Mạc Tử). Trong bài Thơ Abdourahman A. Waberi: hướng về một căn cước của chủ ngữ (La poésie d’Abdourahman A. Waberi: Vers une identité du sujet), Genovaitë Druěkutë nói: “Trong những tác phẩm lớn của chủ nghĩa hiện đại, vai trò của chủ ngữ là thiết yếu: tác phẩm tự tiết lộ như là một lĩnh vực thăm dò sự tồn tại của chủ ngữ và cái căn cước của nó, được chứa đựng trong suốt chiều dài của một cuốn tiểu thuyết hoặc của một lối viết thi ca”(12). Chủ ngữ trong thơ chính là chủ thể trữ tình, truyền cái rất riêng tư của bản sắc cá nhân đến với bạn đọc mà mọi thành tố khác đan dệt với nhau quanh nó: cỏ cây, người vật, màu sắc, hương vị, thanh âm... đều góp vào, làm tăng thêm độ nhạy cảm của sự truyền dẫn. Cái cá nhân được nhìn ngắm ở một cự ly gần nên rất sáng rõ. 

Đã đành, không phải nhà thơ mới nào ngay từ đầu cũng dám táo bạo đưa tôi vào thơ làm chủ ngữ. Phần chiếm đa số trong cái “tôi” “Thơ mới” vẫn mang dạng thức chủ ngữ ẩn. Một phần khác mượn lại chữ ta trong “Thơ cũ” nhưng cấp cho nó cái nghĩa mới là tôi. Đôi khi còn tùy theo trường phái, có nhóm nhà thơ chỉ thuần túy miêu tả cảnh đồng quê, phố chợ, chợ Tết, hội làng,... (Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Nam Trân, Bàng Bá Lân,...) tưởng chừng không giấu vào thơ một cái “tôi” nào cả. Ấy thế mà cách họ nhìn thẳng vào sự vật, để sự vật hiện ra ở thì hiện tại, với tất cả mọi gam màu sống thực của những bức tranh sắc nét, khác hoàn toàn loại tranh thủy mặc trong “Thơ cũ”, chính là họ đã gửi hồn mình vào thơ, hệt như một Lê Thị Lựu, một Tô Ngọc Vân, một Nguyễn Gia Trí, một Nguyễn Phan Chánh,... đã gửi hồn vào các bức tranh hiện đại sau những năm tiếp thu cái nhìn mới từ Trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương: “Trời lóe nắng, chợ vào đầy những nắng - Đầy những người chen chúc họp... mồ hôi - Các mẹt bún bầy ruồi không hở trắng - Các sàng dưa bán nhặng kín xanh tươi” (Chợ mùa hè – Anh Thơ); “Một chiếc kiệu đương đi dừng bước lại - Rồi thình lình quay tít mãi như bay - Một bà già kính cẩn chắp hai tay - Đứng vái mãi theo đám người bí mật - Trên bãi cỏ dưới trời xuân bát ngát - Một chị đương đu ngửa tít trên không - Cụ lý già đứng lại ngửng đầu trông - Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh” (Đám hội – Đoàn Văn Cừ). 

(Xin xem phần tiếp theo trong số này)


Nguyễn Huệ Chi - Tìm hiểu cái “tôi” “Thơ mới”



Nguyễn Huệ Chi

(Tiếp theo và hết)

Nếu xét theo thời gian thì Thế Lữ là người đầu tiên học theo thơ Pháp dùng thẳng chữ tôi, mở ra một trường cảm xúc tinh khôi, mạnh mẽ. Trước ông, Nguyễn Thị Manh Manh, Hồ Văn Hảo, Lưu Trọng Lư,... chưa làm và sau khi Thế Lữ đã thử nghiệm thành công thì các nhà thơ cùng thế hệ, trong đó có Lưu Trọng Lư, mới đặt những bước chân rón rén tiếp theo (Lưu trọng Lư: “Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời - Những năm còn bé tôi lên mười...” (Nắng mới); Lan Sơn: “Thủa bé tôi đeo chiếc khánh vàng - Quần đào xẻ đũng áo hàng lam” (Tết và người qua) – đều chưa phải là “tôi” giao lưu mà là “tôi” hoài niệm; Thái Can: “Tôi, phận sinh ra gái má hồng” (Lữ khách và ái tình) – hiểu “tôi” cũng được mà hiểu “người” cũng được...). Trong khi đó, chuyển sang thế hệ Xuân Diệu còn táo bạo hơn Thế Lữ, hễ mở miệng ra là xưng tôi hay xưng anh, một sự khẳng định dứt khoát quyền hiện diện con người cá nhân của mình. Và sau chặng đường Xuân Diệu với những Nguyễn Bính, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Hàn Mạc Tử... củng cố chữ tôi thêm rõ rệt, đến Vũ Hoàng Chương tưởng chừng lại trở lại với chữ ta, kỳ thực đây là cái “ta – tôi” kiêu sa đài các và còn riêng tư nghìn lần hơn chữ tôi thông thường: “Ôi ta đã làm chi đời ta - Ai đã làm chi lòng ta - Cho đời tàn tạ lòng băng giá - Sương mong manh quạnh chớm thu già” (Đời tàn ngõ hẹp),... Nói chung, dù “tôi” hay “ta”, “anh” hay “em”, hay không có một chủ ngữ nào cả, thì cái “tôi” “Thơ mới” vẫn ở đó, vẫn phát ngôn cho thế giới bên trong của thi sĩ và là cái thế giới thu nhận được bằng cảm giác cụ thể, không chung chung, mơ hồ, muốn hiểu ra sao thì hiểu như trong thơ xưa: “Một mảnh tình riêng ta với ta” (Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan). 


Chủ ngữ xuất hiện đồng thời lại kéo theo một đối tượng có mặt song song với nó, làm cho sự giao tiếp thơ ca không còn trống không mà trở nên có tương tác, mất dư vị độc thoại triền miên trong “Thơ cũ”. Đó là chủ thể đối ứng trong “Thơ mới”. Nó đi vào thơ với nhiều đại từ rất phong phú, đại diện cho vô số tư cách khác nhau của nhân vật chia sẻ tình cảm với cái “tôi”. Có khả năng nó bắt nguồn từ ca dao dân ca (“Hỡi anh đi đường cái quan - Dừng chân đứng lại em than đôi lời”) nhưng không giữ lại chức năng giao duyên của ca dao dân ca mà được cải tạo để chỉ đóng vai trò một đối tượng ảo cho cái “tôi” có cơ hội chuyện trò, giao cảm,... chủ yếu là phát ngôn từ một phía, hãn hữu cũng có đối thoại. 

Có tôi trao lời tất có cô có nàng có bạn hoặc có người đón nhận: “Cô hãy là nơi mấy khóm dừa - Dầm chân trong nước đứng say sưa - Để tôi là kẻ qua sa mạc - Tạm lánh hè gay thế cũng vừa” (Vì sao? – Xuân Diệu); “Tôi yêu là bởi tôi yêu - Cầm tay cô hỏi hỏi nhiều làm chi?” (Đến chiều – Nguyễn Đình Thư); “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi - Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn - Hai người sống giữa cô đơn - Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi” (Người hàng xóm – Nguyễn Bính); “Và từ đấy thu sang tôi lạnh quá - Tôi chia thương với kẻ cuối chân trời - Và tin chắc khi bên đường rụng lá - Bạn cũng buồn trạnh nghĩ đến tình tôi” (Chuyến tàu thu – Hồ Dzếnh); “Đường trong làng hoa dại với mùi rơm - Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm - Lòng dắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng” (Đi giữa đường thơm – Huy Cận),... 

Có anh mở lòng tất có em cùng mở lòng hòa điệu: “Em nói trong thư: Mấy bữa rày - Sao mà bươm bướm cứ đua bay - Em buồn em nhớ, chao em nhớ - Em gọi thầm anh suốt cả ngày” (Hẹn hò – Xuân Diệu),... 

Cũng có những lúc giữa anh và tôi, anh và em là sự chia tay, xa cách, hờ hững, giận hờn, ngờ vực: “Anh đi đường anh, tôi đường tôi - Tình nghĩa đôi ta có thế thôi - Đã quyết không mong sum họp nữa - Bận lòng chi những lúc chia phôi” (Giây phút chạnh lòng – Thế Lữ); “Em có bao giờ nghĩ tới anh - Khi tay vịn rủ lá trên cành? - Cười chim, cợt gió, nào đâu biết - Chua chát lòng anh biết mấy tình!” (Khi thu rụng lá – Lưu Trọng Lư); “Em buồn? Anh gặng hỏi - Mấy lần em chẳng nói - Rồi anh không biết vì sao - Đẩy ghế đứng lên em giận dỗi” (Hờn dỗi – Vũ Hoàng Chương); “Kiếm mãi, nghi hoài, hay ghen bóng gió - Anh muốn vào dò xét giấc em mơ - Nhưng anh giấu em những mộng không ngờ - Cũng như em giấu những điều quá thực” (Xa cách – Xuân Diệu),... 

Và hầu hết các trường hợp, cô, bạn, người, anh, em là chủ thể khác giới, nhưng một đôi khi cũng lại có cả chủ thể đồng giới, có mặt trong thơ không để chia sẻ tình cảm yêu đương hờn giận mà chia sẻ sự đồng cảm về số kiếp, nào cả cuộc đời bị cái nghèo xua đuổi: “Và nhìn chúng mình hỳ hục viết - Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết - Mà thương cho tôi thương cho anh - Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh” (Gửi Trương Tửu – Nguyễn Vỹ), nào cả cuộc đời là một chuỗi chia ly: “Thôi thế anh về – tôi đi đây - Cây nào có gió không thèm lay - Chim nào có cánh không thèm bay - Lòng nào có máu không thèm say” (Lưu biệt – Trần Huyền Trân),... 

Chưa hết. Cái chủ thể chia sẻ này hay cũng là sự phân thân của cái “tôi” trong “Thơ mới”, tuy thông thường chỉ là ảo, thậm chí là ảo giác: “Chiều nay nàng đến trong ly rượu - Tôi uống vơi vơi hết cả nàng - Tôi uống dặt dè từng hớp một - Sợ mai nàng bận chẳng buồn sang” (Say – Đỗ Huy Nhiệm), song ở một đôi trường hợp nào đấy lại thể hiện cực đoan thành tên riêng của một người, một cái tên gắn bó với kỷ niệm của chỉ riêng thi sĩ, được đem hẳn vào thơ, mà cũng không ai lấy làm khó chịu vì ngỡ như không liên quan đến mình: “Xa lắm rồi Nhi, muộn lắm rồi - Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi - Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ - Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi” (Hoa với rượu – Nguyễn Bính); “Là thế là thôi là thế đó - Mười năm thôi thế mộng tan tành - Mười năm trăng có ai nguyền ước - Tố của Hoàng ơi, Tố của anh” (Mười hai tháng Sáu – Vũ Hoàng Chương),... 

Thật ra, khi hiểu cái “tôi” là cõi riêng tư của nhà thơ không phải là nghĩ đến một cái “tôi” hoàn toàn dị biệt, chỉ một mình nhà thơ có. Theo GS Jean-Michel Maulpoix, nhà nghiên cứu thơ hiện đại nổi tiếng của Pháp, trong thơ, dù là tự truyện bằng thơ, cái “tôi” cũng ít khi tồn tại với tư cách là thẻ căn cước của một chủ thể đặc thù, mà tồn tại như cái thẻ giả định về tính khác biệt của những thỏa hiệp giữa chủ thể “tôi” với những chủ thể khác mà nó cùng lúc ấp ủ trong nó(13). Ý Maulpoix muốn nhắc nhở rằng cái “tôi” trong thơ hiện đại là cái cá thể đấy nhưng không phải là cái đơn nhất chỉ dành cho một người. Nó vẫn mang phẩm chất chung của nhiều con người. Và phải có thế mới tạo nên một sức lan tỏa phi thường, khơi dậy được muôn nghìn cái “tôi” đồng dạng với nó, như cách nói của phương Đông: “đồng loại tương động”, hay như tuyên bố của Victor Hugo (1802 - 1885) trong Lời tựa tập Quán niệm (Contemplation): “Khi tôi nói về tôi, chính là tôi nói với các anh về các anh” (Quand je parle de moi, je vous parle de vous), hay cũng như Arthur Rimbeau (1854 - 1891) trong thư gửi Paul Demeny năm 1871: “TÔI là một người khác” (JE est un autre – Lettre à Paul Demeny). Khả năng cuốn hút của cái “tôi” không phải tôi, cái “tôi” là một người khác mà các nhà thơ hiện đại phương Tây xác nhận cũng chính là nội lực của cái “tôi” “Thơ mới” 1932 - 1945. 

3. Cũng vì là một thực thể trực diện với người đọc thông qua vai trò của chủ ngữ, sau nhiều thế kỷ bị áp lực của cái “ta” “Thơ cũ” ngăn trở, cái “tôi” “Thơ mới” giàu tri giác cảm tính giờ đây còn đến với người đọc như một sự “lộn trái” hết mình. Hay dở tốt xấu, cái cao cả và cái dục vọng thấp hèn, đều cần thổ lộ với bạn tri âm. Về phía người đọc cũng tiếp nhận thẳng ở nó cái nó muốn thông báo với tất cả cảm xúc trần trụi, không cần phải được kích thích bởi một thứ từ chương học sáo mòn nào. Người đọc lập tức cùng nhập thân vào tiếng nói của thơ và xốn xang với nó, đồng hành với nó, nói cách khác hợp cùng chủ thể thành một hiện tượng “hai trong một”. Mỹ học tiếp nhận nói đến sự đồng sáng tạo giữa chủ thể thẩm mỹ và chủ thể tiếp nhận chính là nói đến khả năng hòa đồng kỳ diệu này. Đã đến lúc các thứ điển tích và tiểu xảo tu từ cổ điển như phép đối, cách vận dụng điệp thanh điệp ngữ, cách dùng nhãn tự,... là những trò chơi sang trọng của “Thơ cũ” phải lùi bước vì không cần đến nữa. Ngôn ngữ thơ đi từ ngân nga đến lời nói thẳng, lấy nguyên từ đời sống, đạt được một sự giao cảm tức thì và thấm thía, là tiếng lòng kêu gọi tiếng lòng. Đặc điểm này dần dần kết tinh thành những biện pháp tu từ mới mẻ, làm nên đặc trưng khu biệt giữa ngôn từ “Thơ cũ” và “Thơ mới” – một bên hàm súc, hàm chứa độ nén tối đa của nghĩa, một bên tràn đầy, nghĩa căng mọng trên mặt chữ. Nhưng lạ thay, điều đó không làm giảm chất lượng thơ của “Thơ mới”, lại gây được những vang hưởng nghĩa nóng hổi, mãnh liệt hơn “Thơ cũ”. 

Dẫu sao, sẽ không phải là thừa nếu có thêm một ý bổ sung như một cái nhìn quán chiếu trở lại. Là lĩnh vực diễn ra trong tâm giới, cái “tôi” bao giờ cũng mang trong nó hai phía đối nghịch: vừa sáng đấy mà vừa tối đấy, vừa rõ mà cũng vừa mờ. Cái “tôi” của “Thơ mới” cũng không khác. Nói rằng nó là sự bộc bạch hết mình nhưng cũng phải nói ở nó vẫn có mặt ẩn khuất, bởi thế giới bên trong của nhà thơ là một cái gì bí mật mà ngay chính nhà thơ cũng không thể đoán ra “Linh hồn ta còn u ẩn hơn đêm - Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ” (Xa cách – Xuân Diệu). Emil Michel Cioran (1911 - 1995) cũng nói một câu tương tự: “Sống với cái “tôi” của mình với tư cách một vũ trụ, đó là bí mật của các nhà thơ, và nhất là của những tâm hồn thơ”(14). Cả hai phương diện lộ mà kín, nồng nàn mà e ấp, gần gũi mà xa lạ của cái “tôi” “Thơ mới” 1932 - 1945 hợp thành một thể thống nhất, giúp “Thơ mới” có thêm sức hấp dẫn, có nhiều tầng nghĩa bện vào nhau mà đến nay không chắc chúng ta đã giải mã hết và đến tận ngọn ngành.

4. Cái “tôi” “Thơ mới” còn là một khát vọng mãnh liệt, khát vọng tìm kiếm, giao hòa với cái đẹp, khát khao được nếm đủ mọi hương vị, thanh âm, màu sắc của “cõi trần gian”. “Tôi chỉ là một khách tình si - Ham cái đẹp có muôn hình muôn thể - Mượn lấy bút nàng Ly Tao tôi vẽ - Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca - Vẻ đẹp u trầm, đắm đuối hay ngây thơ - Cũng như vẻ đẹp cao siêu, hùng tráng - Của non nước, của thi văn, tư tưởng - Dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhân - Ánh tưng bừng linh hoạt nắng trời xuân - Vẻ sầu muộn âm thầm ngày mưa gió - Cảnh vĩ đại sông nghiêng trời, thác ngàn đổ - Nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay - Cảnh cơ hàn nơi nước đọng bùn lầy - Thú xán lạn mơ hồ trong ảo mộng - Chí hăng hái đua ganh đời náo động - Tôi đều yêu đều kiếm, đều say mê...” (Cây đàn muôn điệu – Thế Lữ). Khát khao “con đường gió bụi”, mưu tìm hạnh phúc cho muôn vạn con người: “Non nước đang chờ gót lãng du - Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu” (Giây phút chạnh lòng – Thế Lữ); “Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ - Chí lớn chưa về bàn tay không - Thì không bao giờ nói trở lại Ba năm mẹ già cũng đừng mong!” (Tống biệt hành – Thâm Tâm); “Đi, bạn ơi, đi! Sống đủ đầy - Sống trào sinh lực, bốc men say - Sống tung sóng gió thanh cao mới - Sống mạnh, dù trong một phút giây” (Đi – Tố Hữu),... 

Nhưng chính vì cái “tôi” trước sau vẫn là một thế giới bên trong nên khát khao khám phá ngoại giới cũng không có gì mâu thuẫn với khát khao đi vào cõi lòng sâu thẳm, bước đến tận cùng địa hạt tâm linh huyền bí của nhà thơ, đúng như cách diễn đạt của Jean-Michel Maulpoix: “Thơ, tự truyện của một khát vọng” (Poésie, autobiographie d’un soif)(15). Thơ là tự truyện vì đây là những chuyện của cái “tôi” nhà thơ gửi trao cho người khác. Nhưng khác xa những trải nghiệm đời tư dàn ra theo trật tự thời gian mà nhà thơ – con người thật từng sống, thơ là câu chuyện của những khát vọng ấp ủ và lên men trong tưởng tượng vô cùng giàu có của thi nhân. Tình yêu và sự đam mê, tình cảm mơ mộng, ước ao một chốn Bồng Lai tiên cảnh, hồi tưởng về một dĩ vãng trong trẻo vàng son với sắc màu rực rỡ, nỗi thất vọng giữa lý tưởng và hiện thực, những giây phút ngập ngừng trong tâm tưởng, ám ảnh rợn ngợp về cái chết, về thời gian và tuổi trẻ mất đi, sự phẫn nộ đi đến hủy hoại phá phách chính mình, cảm giác ngất ngây điên loạn trước những ảo ảnh đảo ngược cả thực tại,... tất cả, đều là đề tài bất tận để “Thơ mới” bộc lộ hết các ngóc ngách khát vọng của cái “tôi”. 

Trong hoàn cảnh lịch sử giai đoạn 1932 - 1945, chính trị có những bước thoái trào, cộng thêm mặc cảm về thân phận nô lệ của người dân thuộc địa, những khát vọng kể trên nhiều khi không có điều kiện phát tiết hết tinh lực, hoặc bị cản trở, khúc xạ qua nhiều thứ lăng kính. Ước ao cuộc sống “khách chinh phu” đối với nhiều nhà thơ rốt cuộc cũng chỉ để lại những ảnh hình thấp thoáng “Năm năm theo tiếng gọi lên đường - Tóc lộng tơi bời gió bốn phương” (Giây phút chạnh lòng – Thế Lữ) chứ chưa khắc họa được một biểu tượng điển hình kỳ vĩ nào cả. Tình yêu lứa đôi là một đề tài hết sức nhân bản và nhà thơ mới nào ít nhất cũng một lần tráng mình qua nó. Thế nhưng kể cả những nhà thơ dành hết tâm hồn cho tình yêu đắm say như Xuân Diệu: “Mau với chứ vội vàng lên với chứ - Em em ơi tình non sắp già rồi - Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi - Mau với chứ thời gian không đứng đợi” (Giục giã) thì tình yêu trong thơ ông dường như vẫn chưa đạt được một tầm vóc xã hội đúng nghĩa và nói chung, mảng thơ tình trong “Thơ mới” đều phủ bóng bởi một cảm giác hắt hiu. Đam mê nhục cảm cũng là một cảm hứng chính đáng của cái “tôi”, một khát vọng cao cả khi đạt đến tận độ của tình yêu. Song dường như “Thơ mới” đã cố tình né tránh. Và nếu có một vài nhà thơ dám đương đầu với dư luận để đụng chạm đến những hình ảnh “nhạy cảm”, cũng chưa phải là ghê gớm gì, như Nguyễn Giang trong tập Trời xanh (1935): “Suồng sã giường xuân dải tóc mây - Ngắm em thiêm thiếp giấc ngơi ngày - Gáy xanh thơ thẩn bàn tay ngọc - Ngực trắng thơ ơ rặng vú hây” (Suồng sã), hay Hàn Mạc Tử tương đối bạo hơn trong tập Gái quê (1936): “Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự - Tôi đều nhận thấy trên môi em - Làn môi mong mỏng tươi như máu - Đã khiến môi tôi mấp máy thèm” (Gái quê); “Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm - Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe” (Bẽn lẽn),... Bạo hơn nữa là Bích Khê trong Tinh huyết (1939) và nhất là một ít bài chưa có điều kiện công bố lúc sinh thời: “Tôi vồ người như một miếng mồi ngon - Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son - Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc - Tôi giật nẩy rồi cười lên sặc sặc - Hai tay cào đôi vú trắng như bông” (Xác thịt)(16), hoặc nữa Quỳnh Dao trong tập Tơ trăng (1939): “Là thiếu nữ trần truồng mà chẳng ngượng - Cả một đời chưa biết lấy chi che - Thường khi quên tên cỏ một đêm hè - Trăng soi thấy bộ đùi thon trắng hếu” (Muôn năm về trước), rồi Vũ Hoàng Chương trong tập Thơ say (1940): “Gió bỗng đổi chiều trên táp xuống - Nặng trĩu hai vai nàng cố gượng - Thắt vòng tay ghì riết lưng ta - Những luồng run chạy khắp thịt da ngà - Run vì sợ hay vì ngây ngất” (Tối tân hôn),... thì đã có ngay những nhà phê bình có uy như Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan sẵn sàng đem ông Khổng ngự trị trong tiềm thức ra nhắc khéo họ(17), thế là chiều hướng thưởng thức của số đông bỗng đâm ra phân vân e ngại “Chân đang bước bỗng e dè đứng lại” (Đi giữa đường thơm – Huy Cận). 

Có thể nói suốt chặng đường 1932 - 1945, khát vọng sống của cái “tôi” “Thơ mới” vẫn chưa một lúc nào và ở một trường phái thi ca nào phát triển đầy đủ hết mọi cung bậc, mọi tần số, và được phơi bày một cách đàng hoàng, trọn vẹn.

*

Với một cái “tôi” xù xì góc cạnh biểu hiện dưới nhiều dạng vẻ, đem đến cho độc giả một thế giới tinh thần đầy quyến rũ, lần đầu tiên trào lưu “Thơ mới” 1932 - 1945 đã mở cho thơ Việt Nam một cánh cửa để nhìn thấy ở đó một con người, vốn là người chủ soái đích thực từ xưa trên thi đàn nhưng đến đây mới có quyền xuất hiện công khai. Với những thể thơ đột phá từ thơ cổ điển để trở thành những thể thơ có hình thức ngày càng ổn định, kể từ các thể hai chữ, bốn chữ, năm chữ, cho đến ba thể thơ chủ yếu: thể bảy chữ nhưng không phải là thất ngôn bát cú mà là bảy chữ nhiều khổ bốn câu kết nối với nhau thành một dãy, gắn lại bằng các kiểu vần liên tiếp, vần ôm và vần chéo, rồi thể tám chữ bắt nguồn xa gần từ hát nói nhưng tước bỏ tiết tấu nhẩn nha réo rắt của hát nói mà thêm câu và kéo dài thành một hơi thơ dồn gấp, hoặc cũng chia khổ như thể bảy chữ – cả hai thể này đều có giá trị mở rộng dung lượng thông báo thẩm mỹ – và thể lục bát đã được loại trừ chức năng tự sự, nâng cấp chức năng trữ tình, tạo ra những nhịp ngắt khoan thai hai câu một, như những nhịp ngân trong tâm hồn,... cái “tôi” “Thơ mới” trong vòng mười năm thử thách, đã tìm được hình thức tồn tại thích đáng nhất cho nó. Cùng với đó, những tìm tòi nghệ thuật đắt giá cũng đã được đúc rút và chia sẻ: cách dùng từ cùng lúc gợi nhiều cảm giác phức hợp: màu sắc, mùi vị, thanh âm quyện với hình ảnh, cách dùng đồng âm và cách lặp đi lặp lại những cụm từ gợi nhạc tính, cách kiến trúc câu thơ toàn âm bằng, cách hình tượng hóa những tính từ gây ấn tượng mới lạ, cách đảo lộn và phá vỡ cú pháp thông thường, cách bắc cầu giữa hai dòng thơ trong thơ Pháp được Việt hóa, cách thay đổi biến hóa nhịp thơ tùy theo thi cảnh,... đã giúp “Thơ mới” sáng tạo nên nhiều giọng điệu tân kỳ, nhưng cũng đóng vào “Thơ mới” những khuôn mẫu không di dịch được nữa. Thể thức và khuôn mẫu là sản phẩm của thời đại, vừa khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nhà thơ, đưa họ đến những đỉnh cao, lại cũng vô hình trung ràng buộc họ vào lịch sử thể loại. Khi tư duy nghệ thuật đã thay đổi, nếu vẫn còn sử dụng các thể thức và khuôn mẫu cũ thế tất sẽ không khỏi vướng víu. Ngay như Hoài Thanh, đến giai đoạn cuối trào lưu “Thơ mới”, đọc lại Thái Can giai đoạn đầu đã không thể chịu được giọng sáo của ông. Thiết tưởng, ta chỉ nên đánh giá “Thơ mới” như một hệ hình tồn tại đúng trong “vòng đời” của nó: 10 năm, 1932 - 1945. Có như thế mới thấy hết cống hiến của “Thơ mới” cho thơ ca Việt Nam mà xét về số lượng cũng như chất lượng, chưa dễ một thời đoạn nào về sau đã theo kịp.

NHC 
_____________

Chú thích
(1) Nguyễn Đình Thi, Mấy ý nghĩ về thơ, 1949. Tác phẩm mới , số 3 - 1992.
(2), (3), (4), (5) Biên bản cuộc tranh luận về thơ Nguyễn Đình Thi tại Hội nghị tranh luận văn nghệ do Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức trong buổi chiều ngày 28 tháng 9 năm 1949. In trên Tạp chí Văn nghệ số tháng 9 - 1949. Trích lại theo Sưu tập Văn nghệ 1948 – 1954, Tập II, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999; tr. 633 - 646.
(6) Lời Mai Thảo. Dẫn theo T. Khuê trong mục “Nhóm Sáng tạo”, Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, 2004; tr. 1273.
(7), (8), (9), (10) Thi nhân Việt Nam, Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Nhà in Thụy ký, Hà Nội, in lần thứ hai, 1943; tr.50, 52, 53, 54.
(11) Xem: Nguyễn Huệ Chi, Trần Thanh Mại trong những bước đi đầu tiên của Viện Văn học, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3622&rb=0102
(12) Genovaitë Druěkutë là Giảng sư Khoa Lịch sử và Lý thuyết văn học Đại học Vilnius. Nguyên văn: “Dans les grandes oeuvres du modernisme le rôle du sujet est essentiel: l’oeuvre se révèle comme un champ d’exploration de son existence, et son identité se constitute tout au long d’une fiction ou d’une écriture poétique”. La poésie d’Abdourahman A. Waberi: Vers une identité du sujet.
(13), (15) Jean-Michel Maulpoix, sinh 1952, là Giáo sư l'Université ParisOuest-Nanterre. Nguyên văn: “S'il existe une autobiographie poétique, une autobiographie du poème, ou “dans la poésie”, elle constitue moins la carte d'identité d'un sujet spécifique, que l'hypothétique carte d'altérité de ses transactions avec les autres qu'il porte en lui”. La poésie, autobiographie d'une soif.
(14) Nhà triết học và nhà văn Roumanie. Nguyên văn: “Vivre son moi en tant qu'univers, c'est le secret des poètes, et surtout des âmes poétiques” – Le crépuscule des pensées - 1940.
(16) Bài này không có trong Tinh huyết, chỉ thấy ở Thơ Mới 1932 - 1945, tác giả và tác phẩm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999.
(17) Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam, chê Nguyễn Giang muốn giữ thủy chung với thơ Đường nhưng “đã bị ruồng rẫy mà không hay” (tr. 36, Sđd) có vẻ như không phải chỉ vì thơ Đường luật của Nguyễn Giang không hay mà còn vì những bài mang hơi hướm sắc dục. Còn Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, Nxb. Tân dân, Hà Nội, chương “Hàn Mạc Tử”, có chê bài thơ Hát giã gạo là “suồng sã đến lợm giọng” chỉ vì những câu mang hai lớp nghĩa lộ và kín. chẳng hạn: “Hái trăng anh cũng nỏ từ - Hái đôi trái mận bên bờ lòng em”; “Thú gì hơn thú ban đêm - Một trai một gái đứng kèm với nhau”; “Anh ơi anh giã vừa vừa - Em theo không kịp mệt lừ anh ơi”; “Chày anh càng nện càng ròn - Sức anh càng xuống càng mòn chày sương - Thấy em anh đã thương thương - Suốt cả đêm trường gắng gỗ vì anh”... dẫn theo bản mới sưu tầm do công lao nhà phê bình Đặng Tiến, NXB Hội Nhà văn, 2012). Ngay Hàn Mạc Tử là một nhà thơ lớn nhưng khi phác họa những giọng thơ tiêu biểu của cả trào lưu “Thơ mới” (tr. 29, Sđd), Hoài Thanh cũng không nhắc đến ông, và đầu phần thi tuyển, ông nói: “Tình ở đây [trong Gái quê] không có cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào trong khung cảnh những vườn tre, những đồi thông. ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. . Ô. Phạm Văn Ký đề tựa tập thơ ấy là phải lắm: Gái quê và Une voie sur la voix [của Phạm Văn Ký] đều bắt nguồn trong tình dục” (tr. 205 - 206, Sđd). Với Bích Khê, Hoài thanh “bảo hiểm” bằng cách chỉ chọn 2 bài không liên quan gì đến chủ đề “tính dục”, và trích một đoạn “trong lành nhất” trong Tranh lõa thể trong lời giới thiệu, còn đối với Thơ say của Vũ Hoàng Chương, Hoài Thanh nhắc nhở một cách tế nhị đủ cho tác giả và bạn đọc hiểu: “Kể cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng dài chi” (tr. 369, Sđd).


Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

André Menras Hồ Cương Quyết - Con tin của luật im lặng



André Menras Hồ Cương Quyết
Nguyễn Huệ Chi dịch

Giải mã hiện tượng Bắc Kinh tăng tốc chiến lược bành trướng các vùng biển và những hải đảo quanh vùng. Việt Nam là nạn nhân chính của tình trạng này.


Ba năm nay, Bắc Kinh đã tăng tốc chiến lược bành trướng các vùng biển và những hải đảo quanh vùng. Nhật Bản, Hàn Quốc, Philipinnes, Việt Nam bị tấn công hung bạo.

Tuy nhiên, Việt Nam chắc chắn là nạn nhân chính của áp lực “Trung Hoa hóa” nói trên. Việt Nam đã bị mất một quần đảo và một phần của quần đảo khác (1). Trước mỗi một sự xâm lấn của Trung Quốc, trong tình thế đất nước hiểm nghèo, nhà cầm quyền Hà Nội, trong khi công khai loan báo những lời kháng nghị rắn rỏi, thực tế vẫn không có phản ứng tự vệ cụ thể nào cả. Thay vào đó, dư luận quốc tế chứng kiến một điệu nhảy dị thường về chính trị-ngoại giao kiểu bạo dâm giữa hai thủ đô: cứ sau mỗi trò bẩn mới của bọn Tàu, nhiều công dân Sài Gòn và Hà Nội biểu tình trên các đường phố bất chấp sự ngăn cấm; thế là dùi cui, bắt bớ, bỏ tù.

Cuộc xâm lăng mới của Trung Quốc

Một vài ngày sau, một phái viên của Chính phủ hoặc một viên chức cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam lập tức đánh đường vội vã sang Bắc Kinh để trấn an các đồng chí đảng anh em, công khai hứa chấm dứt các cuộc biểu tình và một lần nữa khẳng định “tình hữu nghị vĩnh viễn và sự hợp tác toàn diện giữa hai đảng anh em và hai nước”. Và đó, một cuộc xâm lược mới của Trung Hoa được tái khởi đầu. Đối với những người Việt Nam yêu nước, đó là một cơn ác mộng. Một số người thì nói đây là “sự thần phục”, số khác nói “đi theo quỹ đạo”, còn số nữa nói “phản quốc”.

Chấn thương tươi rói nhất và chắc chắn là nói rõ nhất về tấn thảm kịch này là sự chịu đựng hàng ngày của thân phận những ngư dân con tin miền Trung Việt Nam phải làm ăn sinh sống tại các khu vực quần đảo dưới sự chiếm đóng của Trung Quốc, mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.

Một biên niên chính xác mặc dù không đầy đủ về các cuộc xâm lấn của Trung Quốc chỉ riêng ở khu vực quần đảo Hoàng Sa đã được xác lập. Những nguồn tài liệu sau đây là khách quan hơn cả: báo cáo của lực lượng phòng vệ bờ biển, báo chí chính thống, lời khai của nạn nhân. Nó xác nhận rằng, trong suốt thập kỷ qua, gần 1.400 ngư dân Việt Nam đã phải chịu đựng những nỗi đau của “tình hữu nghị rắn” của Trung Quốc. Tên các nạn nhân, ngày tháng, con số đăng ký những tàu cá bị khám xét, bị đánh chìm hoặc bị tịch thu, các biên bản bằng tiếng Trung Quốc kèm theo con dấu chính thức của cơ quan có thẩm quyền, những tài liệu ghi rõ khoản tiền chuộc khổng lồ mà các gia đình người bị bắt phải thanh toán tại ngân hàng Trung Quốc để giải thoát cho thân nhân của họ, tất cả mọi thứ đều có thể truy cập và kiểm chứng được.


Một cuộc biểu tình diễn ra vào ngày 20 tháng 10 tại Munich
đòi hỏi tôn trọng quyền chủ quyền của các dân tộc. Ảnh: dr

Một số ngư dân đã bị bắn giết, những người khác thì mất tích, tàu của họ bị húc chìm trong đêm tối, những người nữa biến mất trong những trận bão, ở ngay gần các hòn đảo mà kẻ chiếm đóng từ chối cho họ trú ẩn. Tất cả những người bị bắt đều bị xâm phạm thân thể, một số bị đánh đập dã man. Những tin tức gần đây nhất còn cho thấy có việc dí điện bằng dùi cui điện. Trong vòng mười năm, 413 người trong số họ, theo như tôi biết, đã bị giam giữ trên đảo Phú Lâm, từ nhiều ngày đến hàng mấy tháng.

Những tù nhân chiến tranh thật sự

Tất cả họ đều tả lại cùng một kịch bản: bị bịt mắt và còng tay vào một nhà giam 40 m2, sàn xi măng, mái phi-brô xi măng. Trong tháng 4 năm 2012, 21 ngư dân đã bị lèn chật ních tại đây suốt 49 ngày. Trong cái nóng ngột ngạt. Đói bụng tới mức phải gặm những lá chuối với được qua song sắt. Nước cấp theo hạn mức. Hầm cầu thối khẳm. Muỗi như trấu đến nỗi phải lấy áo che mặt để cố tìm giấc ngủ. Sự bùng phát của bệnh sốt rét và các bệnh đường ruột khác do nước lã và mỗi ngày hai bát cơm hẩm. Những lời khai được ghi lại cẩn thận trùng hợp với nhau gần như hoàn hảo: những người lao động hiền lành giữa biển này đang bị đối xử như những tù nhân chiến tranh thực sự. Bộ phim tài liệu “Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau tím tái” do tôi thực hiện gần một năm trước trên đảo Lý Sơn, nơi xuất phát của số ngư dân ấy, đã cung cấp cho mọi người lời nói của họ, cũng như lời nói của các góa phụ của những ngư dân đã không trở về.

Tuy nhiên, những tài liệu này có vẻ đã làm phiền phức nhiều đến thế giới ngoại giao, kinh doanh và thậm chí cả báo chí quốc tế.

Việc công chiếu bộ phim tại Việt Nam bị ngăn trở. Ở Montpellier, Hội trường quan hệ quốc tế đã từ chối nó. Ở Leizig, một nhà báo địa phương chính thức thổ lộ với chúng tôi rằng chủ đề này khá tế nhị khi các nhà máy BMW [tên hãng xe hơi Bringt Mich Werkstatt của Đức] và Porsche [cũng là thương hiệu nổi tiếng về các mẫu ô tô thể thao của Đức] của thành phố đang có những “áp phe” ngoạn mục tại Trung Quốc. Đã phải đoàn kết đấu tranh rất nhiều để tổ chức công chiếu được bộ phim ở 5 thành phố của Pháp, 7 thành phố lớn của Đức, Séc, Ba Lan… May mắn thay, Youtube đã mở rộng cửa với chúng tôi: hơn 460.000 khán giả đã truy cập bộ phim được lưu hành trên các trang web khác nhau với các phiên bản tiếng Pháp, tiếng Việt và tiếng Nhật.

Cho đến nay chưa có tờ báo nào đề cập một cách cụ thể về số phận của các ngư dân này và gia đình họ. Chỉ có một bài viết tổng quát của AFP, một tờ tuần báo của Philippines “Buổi trưa tự do” và nhất là tờ “La Marseillaise” là đã mở ra cho chúng tôi một không gian ngôn từ để cố gắng phá vỡ luật im lặng đó.

Biểu tình cho quyền sống, nhân phẩm và việc làm

Kể cũng hơi nghịch lý, cho dù các hồ sơ về các vụ giam giữ là chắc nịch không bắt bẻ vào đâu được, các tổ chức như “Ân xá Quốc tế” (Amnesty International) hoặc “Theo dõi nhân quyền” (Human Rights Watch) vẫn giữ sự im lặng, tuy rằng họ thường hay bắt bẻ đến từng ly từng tí mỗi khi đụng tới quyền con người. Không một hội nghị quốc tế nào dành một tí không gian nhỏ nhất cho các ngư dân được đứng ra làm chứng.

Tại Munich, vào ngày 20 tháng 10, tôi đã biểu tình để bảo vệ quyền sống, nhân phẩm và việc làm của những con người ấy, bảo vệ chủ quyền của các dân tộc chống lại chủ nghĩa bành trướng Trung Hoa, bên cạnh các công dân Việt Nam và bạn bè Đức của họ, thuộc tất cả chính kiến, tầng lớp xã hội, không phân biệt nghi thức, màu cờ. Như một thông điệp mạnh mẽ tại thành phố này, nơi mà vào năm 1938, cuộc đầu hàng nhục nhã đã mở đường cho chủ nghĩa bành trướng Hitler đi vào châu Âu. Có những tình huống mà im lặng là đồng nghĩa với hèn nhát. Hèn nhát tất sẽ phải trả giá, không ngày này ắt ngày khác, trong một thế giới đã trở nên quá nhỏ.

(1) Xem hai bài trên La Marseillaise của cùng một tác giả: 1. “Trung Hoa hóa vùng biển Đông Nam Á, một bầu không khí điện giật”, 17/05/2010; 2. “Leo thang quân sự”, 27/06/2011.

N.H.C.
Nguồn: Bauxite Việt Nam

Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

Nguyễn Huệ Chi - Những vấn nạn của một Thủ đô xanh, sạch, đẹp


Nguyễn Huệ Chi

Chưa có một thời nào mà những chuyện nhố nhăng kệch cỡm lại diễn ra trâng tráo như thời buổi hôm nay. Cả một Chùa Trăm Gian nổi tiếng hàng mấy trăm năm bỗng dưng bị quan chức ngành văn hóa đè ra đập phá vô tội vạ nhân danh “tôn tạo”, kỳ thực chỉ là vì khoản tiền hàng mấy chục đến cả trăm tỷ đồng béo bở gói trong cái dự án tôn tạo quái dị này. Những lăng mộ các vua Trần ở Yên Sinh – một thời đại rạng rỡ những chiến công đánh giặc giữ nước,  ngay dưới thời Nguyễn còn được các vua Nguyễn cho trùng tu cẩn thận, năm 1971 chúng tôi đi khảo sát còn chụp ảnh lưu niệm, thế mà cả một Nhà nước mải lo “4 tốt 16 chữ vàng” nên quên bẵng, để dân thi nhau sấn vào cướp phá đào xới tanh bành cho đến viên gạch cuối cùng, và chen lấn làm nhà lên đấy, rồi đến nay lại bảo nhau “lập dự án trùng tu”, hỏi có vạn lần vô phúc hay không?


Mà trùng tu như thế nào? Có ai đi trên con đường thiên lý ghé thăm đền thờ An Dương Vương (đền Cuông) ở Diễn Châu thì khắc thấy tất cả những tô đắp thô kệch rẻ tiền của xi măng thay cho các cột kèo điêu khắc tinh xảo bằng gỗ lim xưa kia (dù không phải thật cổ nhưng cũng đã bám đầy lớp patin của nhiều thế kỷ mà người viết bài này còn được thấy năm 1948 khi cùng gia đình đi tản cư ghé thăm nơi đó), cùng với những đôi câu đối xấu xí (cũng trên xi măng) làm cộm con mắt bất kỳ ai có chút kiến văn giờ đây đến thăm lại ngôi đền. Trùng tu như người Nhật đã làm đối với đình chùa của họ trong Thế chiến thứ Hai vốn đang cũ kỹ bỗng sắc nét tinh khôi bội phần hơn thì ai mà không muốn. Còn ta, sao lại có một “An Dương Vương từ” lưu giữ trong ký ức và huyền thoại dân tộc từ hàng ngàn năm lịch sử mà đến một thời đại được gọi là “cách mạng” lại nỡ bôi bác nó đi như vậy, có phải là một sự mỉa mai cay đắng và là nỗi bẽ bàng trước du khách quốc tế hay không?

Tất nhiên đưa một đền Cuông ra làm dẫn chứng để bạn đọc suy ngẫm, rằng trên đất nước này đã gặp không phải chỉ một đền Cuông. Gần ta hơn nhiều là một đền Phù Đổng có vô số đôi câu đối khắc lại vừa chữ Hán vừa quốc ngữ chen nhau xấu xí đến khó chịu. Đôi câu đối lừng danh của Cao Bá Quát “Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn” (Giết giặc chỉ hiềm rằng ba tuổi đã là quá muộn), người cung tiến số tiền để thuê khắc lại còn  không thèm đề tên Cao Bá Quát nữa mà thay luôn vào dòng lạc khoản cái tên của mình (một kiểu ỷ thế tiền bạc đến lạ lùng). Lại có đến ba tấm hoành phi rất cổ không biết từng khắc những gì nhưng từ lâu đã bị bào đi để khắc thay vào đấy… ba bài thơ quốc ngữ của Hồ Chí Minh, của Tố Hữu và của Ngô Chi Lan, và được treo vào những vị trí cực kỳ trang trọng trong ngôi đền!

Bên cạnh đó, lại có những hiện tượng lố lăng kiểu khác. Người ta vung tay bỏ hàng núi tiền ra để làm những ngôi chùa khổng lồ như chùa Bái Đính, nhưng những người “vung tay” mà vốn liếng hiểu biết có hạn hẳn chẳng thể nào thấm thía được nỗi đau đến xương tủy khi đứng trước những khối đá lù lù khoe khoang cái lớn cái oai một cách trơ tráo, song lại tuyệt nhiên không hề thấm được cái hồn của chùa chiền Việt Nam, sự thanh mảnh duyên dáng với mái cong hiền hoà nhưng ẩn trong nó là biểu tượng cô đúc của con người Việt Nam rất tinh tế mà không ồn ào trong cách sống, cách nhìn sự vật, và biết dẻo dai thích nghi để trường tồn.
Thử điểm lại mà xem, có bao nhiêu đình chùa miếu mạo, bia đá, sách cổ cho đến hồ ao, sông suối, thác ghềnh nổi tiếng… của đất nước đã bị hủy hoại bằng mọi cách kể từ 1948 đến nay? Con số tính đếm không sao cho xuể, và nếu có ai đi sâu làm một điều tra xã hội học để so sánh tỷ mỉ về mặt số lượng với khoảng thời gian từ 1945 trở về trước thì tôi đoan chắc họ sẽ thấy kinh hoàng vì con số hiện còn  không thể đến một phần ba. Cứ nghĩ thế ai mà không thấy cực lòng đến xốn xang bứt rứt?

Hãy cứ ngắm bộ sách in vô số bản dập bia cổ của Việt Nam được người Pháp dập và lưu trữ từ ngày Viễn Đông Bác cổ thành lập (1901), nay cũng chính họ in lại giúp, gồm hơn 20 tập khổ lớn – mà chỉ mới in được hơn một phần ba, vì trong dự tính của họ là 55 tập –  để giới văn hóa người Việt còn có cái mà nghiên cứu di sản của cha ông, tôi thấy hổ thấy nhục, bởi xét cho cùng chính mình lại là thủ phạm triệt tiêu tất cả những giá trị vật chất và tinh thần không có giá nào mua được, trong khi họ là kẻ đến xâm lược thì lo gom góp lại cho dân mình (tất nhiên họ cũng phá nhưng đó là đám nhà binh cai trị buổi đầu, và không phá nhiều bằng từ sau ngày Cách mạng thành công).

Vậy mà, những kẻ phải chịu trách nhiệm lớn nhất về những gì tổn thất trong 60 năm qua, những kẻ đã nhởn nhơ trước mọi sự xuống cấp văn hoá đang hiển hiện từng ngày từng giờ trên mọi phương diện của đời sống đất nước (những đảo lộn khó tin về lối sống, hành xử, đạo lý, giáo dục… đến những vụ giết người, cướp của, hiếp dâm ghê rợn nhất, bôi lên bộ mặt chế độ những vết đen nhằng nhịt), nay vẫn chính những kẻ ấy đang chỉ đạo việc tàn phá nốt những gì là môi trường sống, môi trường văn hóa còn sót lại ở đây hay ở đó khi chúng ngửi ra “hơi tiền” trong cái việc tàn phá man rợ kia.

Hãy chỉ khoanh lại trong phạm vi Thủ đô Hà Nội thôi. Giới trí thức đã bao nhiêu phen phải oằn mình chống chọi để mọi thứ dự án triệt hạ Hồ Tây vào hạng “khủng” không thể triển khai được (những Thủy cung Thăng Long, đường hầm ngầm xuyên qua lòng Hồ tây…). Nhưng Hồ Tây liệu đã yên thân chưa khi có tin một vị lãnh đạo cấp cao vừa ký xong “bản án” chấp thuận đóng cọc xuống giữa lòng Hồ làm con đường sắt vừa nổi vừa chìm sẽ cắt Hồ ra làm đôi cho một trục giao thông từ phía Bắc Hà Nội chạy xuống phố cổ? Cũng có tin sau khi vội vã ký, người ta đã kịp tỉnh lại, đã điều chỉnh sơ đồ con đường để… không còn chạm vào Hồ Tây. Tin trước là một cái tin thót tim và tin sau là một điềm lành. Dù sao, nếu keo này Hồ Tây tạm yên thì sẽ vẫn còn đó rất nhiều keo khác, dám tin như vậy đấy, bởi cái gì dính đến diện tích xung quanh và ngay giữa Hồ Tây, kể cả sâu dưới lòng Hồ, đều… “hái ra tiền”, mà đã hái ra tiền thì cặp mắt long lên của hết lớp “đầy tớ”  này đến lớp “đầy tớ” nọ chắc chắn luôn luôn dòm đến. Khổ thân cho một “nàng Tây Thi của Việt Nam”  (Cao Bá Quát) bị bọn Ngô Phù Sai đời nay lăm lăm vùi hoa dập liễu tàn bạo đến mức chúng có thể thoả thuận với nhau mỗi đứa cắt một miếng thịt tươi thắm của nàng.

Và không phải chỉ một Hồ Tây. Hiện tại đang là tiếng kêu cứu của Công viên Tuổi Trẻ và Công viên Thống Nhất. Một Hà Nội vừa được Nhà nước cho mở rộng ra gấp đôi gấp ba không hiểu sao không có kế hoạch bài bản xây dựng thành một đô thị có tầm quốc tế, không còn những ngõ ngách quanh queo chật chội như hũ nút, giãn dân ra những khu vực mới để hàng ngày người ta khỏi dẫm lên nhau mà lạng lách xe ô tô xe máy, xóa dần đi những khu ổ chuột không phải bằng những ngôi nhà chung cư chọc trời ngay giữa nội thành mà phải có cái nhìn viễn kiến về một quy hoạch cân đối, hài hòa và bảo đảm thẩm mỹ, để cải tạo lần lần những di họa của 60 năm xây dựng XHCN còn để lại? Trái lại, lúc nào cũng chỉ thấy các vị chấp chính của thành phố phô ra những cái nhìn ngắn có vài gang tay, trong đó có việc chiếm đất của Công viên Thống Nhất để làm 6 bãi đỗ xe, hoặc băm nhỏ Công viên Tuổi Trẻ thành nhiều mảnh để bán nốt, nếu không phải vì… túi tiền những ai ai đấy hình như chưa “phồng” thì chẳng thể hiểu được vì lẽ gì.

Xin hỏi ông Nguyễn Thế Thảo, ông có thấy một Thủ đô như Paris với những công viên rộng mênh mông như vườn Tuileries có một đời Thị trưởng nào dám cho dựng lên đấy một quán ăn hay xẻo đi một mảnh đất làm bãi đỗ xe hay không? Hay từ hàng mấy trăm năm nay vẫn chỉ là những vườn cây xanh mát với những ghế đá cũ xưa cho người dân đến thư thái ngồi đọc sách, và trẻ em chơi các trò chơi chúng thích? Thậm chí một cái ghế mà văn hào Anatole Francethường ngồi để thưởng thức cái cảm giác của mùa thu nghe từng chiếc lá vàng rơi khẽ lên vai mình, nay vẫn còn nguyên vẹn. Mà nào có phải chỉ một vườn Tuileries. Ông hẳn đã sang đấy nhiều lần, đi đến đâu mà chẳng có vườn hoa trải dài ngút mắt? Nào Vườn Bách thảo (Jardin des plantes), Công viên La Villette, Vườn Luxembourg, Công viên Buttes Chaumont, Công viên Montsouris, Quảng trường Vendôme, Quảng trường la Concorde, khu vườn Champ de Mars… kể không hết được. Thử nghĩ nếu một Thị trưởng Paris nào lên chấp chính cũng nhăm nhăm bán vườn để thu lợi, cho người ta xây dựng bừa bãi lên những nơi vốn là sở hữu đích thực của toàn dân kia, bất chấp quyền thụ hưởng của dân chúng, thì liệu Paris sẽ biến thành một thứ gì khác chứ còn tráng lệ được như ngày nay?

Ấy thế mà một Thủ đô Hà Nội luôn luôn tự thị rằng mình có lịch sử đến 1.000 năm, đếm cho hết cũng chỉ có mấy khoảng xanh tí tẹo (nhưng như Công viên Thống Nhất tính từ 1960 đến nay thì cũng đã 50 năm rồi đấy, chưa kể khi nó còn là Hồ Bảy Mẫu mênh mông thì đúng là có ngót nghìn năm chứ ít gì), sao ông và đám quan chức dưới quyền ông nỡ liều lĩnh xẻ nó ra để cho xây lên đấy 6 bãi đỗ xe to tướng, suốt ngày sẽ ồn ào đinh tai nhức óc khiến phần dư lại chỉ còn bằng tí tẹo, và chắc chẳng một ai dám vào đấy mà thư giãn, tập thở, tập đi nữa? Đến nỗi Kiến trúc sư Nguyễn Tấn Vạn, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư ViệtNam, cũng phải lấy làm bức xúc: “Đây là dự án phi lý nhất mà tôi từng được nghe. Công viên là nơi để người dân sinh hoạt, vui chơi, giải trí trong bối cảnh thành phố ngột ngạt, thiếu cây xanh. Đừng vì mục đích nào đó mà dựng lên những công trình ngoạm vào đất công viên”. Ông có hình dung được một việc làm như thế là phạm luật, là vi phạm cảnh quan văn hóa, môi trường của thành phố và cả vi phạm nhân quyền (cái quyền được hưởng không gian thoáng mát của người dân), tức là phạm tội ác hay không thưa ông? Cũng như vậy, tôi không thể hình dung nổi một người đứng đầu thành phố như ông mà lại không dẹp nổi những “lấn chiếm” kéo dài quá lâu trong Công viên Tuổi Trẻ, giải thể tất cả những phần đất do những kẻ trót ham hố chia chác với quan chức các ông (hẳn là thế thôi, nếu không các vàng cũng đố họ dám phá tường trèo vào công viên) rồi dựng lên trong đấy những căn nhà làm nơi buôn bán, thi công, lò xưởng, quán ăn… để trả lại cho dân một không gian giúp 3 triệu con người nội thành có thêm một “chốn náu thân” yên tĩnh mỗi buổi sáng buổi chiều, giữa một thành phố nhìn đâu cũng đông nghẹt?

Từ những băn khoăn như trên, tôi bỗng ngạc nhiên không hiểu nổi chức trách Chủ tịch Ủy ban Nhân dân của ông thật ra chủ chốt là chức trách gì? Vì sao từ ngày ông lên chức đó, chỉ có việc quản lý Hà Nội cho đúng là nơi xanh sạch đẹp không thôi mà cũng không làm được? Chẳng cần dẫn chứng cụ thể, xin ông thử soát lại xem tất cả những công trình thuộc về những dự án to tát mà đám quan chức các ông đã vạch ra từ những 10 năm trước thời điểm 1000 năm thăng Long – Hà Nội, nay sau ngày kỷ niệm mới chưa đầy 2 năm chúng đã trở thành như thế nào rồi? Bản thân tôi đã đi đến một số nơi gắn tấm biển đánh dấu cả một thời điểm lịch sử đáng khắc ghi của người Hà Nội, và sau khi xem xong thì… không còn muốn phẩm bình gì nữa.
Thiết tưởng một Kiến trúc sư như ông không cần phải nói nhiều. Tôi chỉ mong mỏi ông có được một lúc giật mình nhìn lại mình thật rõ. Những người trước ông như ông Hoàng Văn Nghiên đã cho lấp Hồ Thủ Lệ để xây tòa khách sạn Daewoo và làm nhiều việc tai tiếng, dân Thủ đô vẫn còn đinh ninh trong lòng, nhưng thôi ta không nói nữa. Tuy nhiên, ông là một vị quan đương chức, là “gương mặt” để người ta nhìn vào khi nói đến hiện trạng của một Hà Nội thoái hóa về nhiều mặt, tôi nghĩ ông không thể tránh được công luận. Không thể làm cái kiểu “ngậm miệng ăn tiền” để rồi khi “hạ cánh” lại để lại vô số tai tiếng như những người tiền nhiệm của ông. Chúng tôi không mong điều đó mà mong ở ông những tự vấn nghiêm chỉnh để sửa đổi gấp cách điều hành Thủ đô sao cho chững chạc. Tôi vẫn không hết hy vọng ở nơi ông. Nhược bằng ông thấy không thể đảm đương tốt trách nhiệm trước toàn dân thì sao ông không lên tiếng xin từ chức? Hoặc giả, nếu ông thấy rằng mình tại vị cùng với những bê bối kéo dài trong tình thế “mặc kệ nó” là hoàn toàn chính đáng thì có lẽ nên có một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của dân chúng Thủ đô – được tổ chức công khai và thật sự dân chủ – để xem nhân dân Hà Nội có còn tín nhiệm ông không.

N.H.C.

Phụ lục:
Hà Nội nhăm nhe “xẻ thịt” Công viên Thống Nhất

Sở Quy hoạch – Kiến trúc Hà Nội vừa có ý kiến ủng hộ dự án đầu tư xây dựng 2 bãi giữ xe công cộng nằm trong Công viên Thống Nhất. Công viên này cũng đề xuất xây 4 bãi giữ xe nữa

Sở Quy hoạch – Kiến trúc (QH-KT) TP Hà Nội vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của UBND TP về đề xuất của Công ty Khai thác điểm đỗ xe Hà Nội được đầu tư xây dựng bãi giữ xe dàn thép trong Công viên Thống Nhất. Theo đó, vị trí bãi giữ xe nằm ở góc đường Nguyễn Đình Chiểu – Trần Nhân Tông (trong phạm vi công viên), diện tích khoảng 3.000 m2, cao 4 tầng, đáp ứng nhu cầu đỗ xe cho khoảng 400 ô tô.

Mất gần 9.000 m2 đất

Theo Sở QH-KT TP Hà Nội, khu đất dự kiến xây dựng bãi giữ xe ở Công viên Thống Nhất đã được quy hoạch trong mạng lưới các điểm giữ xe công cộng trên địa bàn đến năm 2020; đồng thời cho rằng đề xuất của Công ty Khai thác điểm đỗ xe Hà Nội cơ bản là hợp lý. Một bãi giữ xe khác cũng “ăn” vào đất Công viên Thống Nhất đã được UBND TP Hà Nội gợi ý Công ty có thể phối hợp với Công viên xây dựng tại khu đất diện tích 2.000 m2.
Trong khi đó, Công viên Thống Nhất cũng đang lập dự án xin UBND TP Hà Nội cho phép xây dựng 4 bãi giữ xe trong khuôn viên. Các bãi đỗ xe này nằm ở vị trí gần các cổng vào, được Công viên Thống Nhất cho rằng nằm ở các khoảng không phù hợp, không làm ảnh hưởng đến phần diện tích trồng cây xanh và cảnh quan chung.

Tổng diện tích của 4 bãi đỗ xe này là 6.538 m2. Đại diện Công viên Thống Nhất cho biết các bãi giữ xe nhằm phục vụ người dân đến tham quan công viên lẫn nhu cầu của dân cư trong khu vực.

Khu vực Công viên Thống Nhất, đoạn góc đường Nguyễn Đình Chiểu – Trần Nhân Tông, dự kiến xây bãi giữ xe
Các dự án bãi giữ xe này hiện vẫn đang trong giai đoạn đề xuất nhưng nếu được TP Hà Nội chấp thuận, Công viên Thống Nhất sẽ mất gần 9.000 m2 đất.

Hậu quả khó khắc phục

Được xem là lá phổi xanh lớn nhất khu vực nội thành Hà Nội, Công viên Thống Nhất xây dựng từ đầu những năm 1960, là khu vui chơi giải trí, thư giãn của người dân Thủ đô cũng như điểm đến của du khách.

TS – kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Hoa (Hội Kiến trúc sư Việt Nam) cho biết TP Hà Nội hiện có trên 3 triệu dân sống ở khu vực nội thành. Diện tích cây xanh trên đầu người ở nội đô Hà Nội hiện rất thấp, chỉ bằng khoảng 1/10 các đô thị lớn trong khu vực. Vì thế, các công viên Thống Nhất, Bách Thảo, Thủ Lệ… là những lá phổi xanh rất quan trọng giúp điều hòa, cân bằng không khí cho Hà Nội. “Thiếu nơi giữ xe cho người dân là đáng báo động nhưng nếu lấy đất công viên thì tác động rất lớn đến môi trường, sinh thái đô thị và đời sống khu dân cư” – ông Hoa lo ngại.

Ông Đào Ngọc Nghiêm, nguyên Giám đốc Sở QH-KT TP Hà Nội, cho rằng nhu cầu nơi giữ xe cho người dân Hà Nội dù đang bức thiết nhưng nếu đánh đổi cả lá phổi xanh thì hậu quả khó khắc phục. Theo ông Nghiêm, quy hoạch Công viên Thống Nhất năm 1994 và năm 2004 đều dành một phần diện tích để làm bãi giữ xe cho du khách chứ không nhằm tạo dựng bãi giữ xe công cộng. “Cần xem lại việc lấy đất công viên để làm bãi giữ xe đáp ứng nhu cầu của cả TP” – ông kiến nghị.

Phi lý!

Kiến trúc sư Nguyễn Tấn Vạn, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư ViệtNam, nhìn nhận: “Đây là dự án phi lý nhất mà tôi từng được nghe. Công viên là nơi để người dân sinh hoạt, vui chơi, giải trí trong bối cảnh TP ngột ngạt, thiếu cây xanh. Đừng vì mục đích nào đó mà dựng lên những công trình ngoạm vào đất công viên”.


Nguồn: http://nld.com.vn/20120828101619495p0c1002/ha-noi-nham-nhe-xe-thit-cong-vien-thong-nhat.htm