Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Hữu Chi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Hữu Chi. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014
NGUYỄN HỮU CHI* - LÝ THUYẾT GIÁO HUẤN VÀ CHÍNH SÁCH “TRỒNG NGƯỜI”
Tiến Sĩ Tâm Lý Chính trị Học
Trong thời Chiến Quốc, Quản Trọng ý thức được
tầm quan trọng trong vấn đề giáo huấn bằng một câu nhận xét như sau:
“Nhất
niên vi kế, mạc như thụ cốc.
Thập
niên vi kế, mạc như thụ mộc.
Bách
niên vi kế, mạc như thụ nhân.”
Xin tạm dịch là:
“Kế
hoạch một năm, không gì bằng trồng lúa.
Kế hoạch
mười năm, không gì bằng trồng cây.
Kế hoạch
trăm năm, không gì bằng trồng người.”
Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2011
“Tôi Biết Sợ”: “Toàn Dân Trăm Người Như Một”... Ðều Biết Sợ
Nguyễn Hữu Chi
Tiến Sĩ Tâm Lý Chính Trị Học
Trong bài khảo luận này, tôi sẽ trình bày một khía cạnh đặc biệt về tâm lý sợ hãi. Câu hỏi được đặt ra là: tại sao người đạo đức lại hay lo sợ, và ghét người vô đạo đức? Tại sao người có quyền thế lại sợ người yếu thế? Tại sao các lãnh tụ độc tài lại sợ dân, rồi tìm đủ mọi cách làm cho dân sợ? Ðây không phải là một bài “chống Cộng” vì> nhiều người đã viết về vấn đề này rồi.[1] Tôi chỉ dựa vào sử liệu [2] để chứng minh vài định lý bắt nguồn từ lý thuyết về sợ hãi mà trước đây tôi đã có dịp trình bày.
Thứ Tư, 5 tháng 1, 2011
Nỗi Sợ Vẩn Vơ
Nguyễn Hữu Chi
Tiến Sĩ Tâm Lý Chính Trị Học
Ðời này ai dại, ai khôn?
Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành.
Ca dao
Ðược tin ông bạn già bất thình lình “ra đi”, tôi vội mang vòng hoa đến chào từ biệt. Ông bạn tôi mặc bộ đồ rất đẹp, bình thản nằm đó. Tôi mừng thầm cho ông bạn đã “ra đi” một cách nhẹ nhàng trong lúc đang ngủ ngon lành. Sau đó, trên đường lái xe về nhà, tôi suy tư về khoảng thời gian còn lại trong đời tôi. Dù sao năm nay tôi đã trên bẩy chục tuổi đầu rồi. Theo thống kê ở Canada, người đàn ông trung bình có thể sống tới năm 76 tuổi mới được phép “ngao du vùng tiên cảnh”. Có nghĩa là tôi còn có thể sống được chừng 5 năm nữa. Vì thế, tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi phải phác họa ngay một “chương trình ngũ niên” cho tôi, kẻo lúc “ra đi” lại tiếc rẻ khôn nguôi.
Thứ Năm, 1 tháng 7, 2010
“Tôi Biết Sợ”: “Toàn Dân Trăm Người Như Một”... Ðều Biết Sợ (IV)
Sau khi đập tan nền móng quyền lực cổ truyền ở nông thôn, “Bác” dùng quyền tưởng thưởng để lôi cuốn đám bần cố nông: “Bác” tịch thu ruộng đất và nhà cửa của các địa chủ và phú nông, rồi mang ra chia cho đám nông dân nghèo đói. Thế lực của “Bác” càng ngày càng mạnh, thì chương trình cải cách ruộng đất ở nông thôn bắt đầu đi vào giai đoạn quyết liệt sau khi Mao Trạch Ðông nắm quyền thống trị ở Trung Quốc (1949-1954). Một số trí thức phản đối một cách tích cực thì bị “Bác” thủ tiêu (cho đi “mò tôm,” hoặc đầy ải vào trại Ðầm Ðùn). Còn một số phản đối tiêu cực thì bỏ nông thôn chạy vào “thành,” theo Bảo Ðại, hoặc đóng vai “chùm chăn.” Thế là “Bác” nắm toàn quyền thống trị ở nông thôn vì lúc này nông thôn không còn một lực lượng nào chống đối “Bác,” trừ một số bần cố nông còn nuôi hoài bão tư sản nông nghiệp - tức là lòng ham muốn tự lực cánh sinh bằng cách tự mình canh tác mảnh đất đã được Nhà Nước cấp phát. Sau khi “Bác” được ngoại bang tiếp sức để toàn trị Miền Bắc, “Bác” bèn thẳng tay bắt giới bần cố nông vào khuôn phép trong chương trình “hợp tác xã” dập theo kiểu mẫu bên Trung Quốc (1954-1956). Thế là nông dân trở thành một thứ phu đồn điền tận lực kéo cầy nuôi dưỡng các tổ chức quyền lực của “Bác.” Nói tóm lại, “Bác” dùng tuyên truyền và nhất là quyền trừng phạt để phát huy quyền lực của mình, rồi lại còn tước quyền “tự lực cánh sinh” của nông dân để tạo ra độc quyền nuôi dân cho chính mình. Ðến giai đoạn này, nông thôn hoàn toàn bị đặt dưới quyền toàn trị của “Bác”![15]
Sau khi thành thị rơi vào tay của “Bác” (1954), “Bác” bèn thực hiện chương trình “nông thôn hóa” thành thị, dùng quyền trừng phạt và độc quyền nuôi dân để cải hóa dân thành thị thành một đám người nhẫn nhục và sợ hãi, không khác gì đám bần cố nông sống trong các hợp tác xã nông nghiệp. Chế độ “hộ khẩu” và “bao cấp” giúp “Bác” tổ chức nhân dân thành một đàn cừu ngoan ngoãn dưới sự dẫn dắt của “Bác.” Ða số văn nghệ sĩ trước kia theo “Bác” vì yêu nước, chứ không phải vì muốn duy trì quyền toàn trị của “Bác.” Vì thế một số chưa biết sợ “Bác,” nên không chịu dùng khả năng của mình để ca tụng “Bác.” Thế là “Bác” thẳng tay hành hạ một cách vô nhân đạo những người đã hy sinh cho “Bác” hơn 10 năm trời: người thì bị tù đầy, người thì mất hết nguồn sinh sống (vụ “Nhân Văn-Giai Phẩm”). [16] Ngoài ra, một số cận thần liều lĩnh manh nha muốn “Bác” về hưu để họ lên thay thế, thì bị “Bác” thanh lọc hoặc trừng trị một cách rất là khắc nghiệt (vụ án “Xét Lại”).[17] Tuy vậy, “Bác” vẫn còn sợ những công thần có uy tín và có khả năng cướp quyền toàn trị của “Bác.” “Bác” không dám giết những người có danh tiếng, nhưng “Bác” không cho họ có dịp nắm thực quyền lãnh đạo. Những tên “mã tấu răng đen” hoặc “vô danh tiểu tốt” (như Lê Duẩn) thì được “Bác” cất nhắc lên nắm quyền điều hành công việc Ðảng và Nhà Nước. Kỹ thuật lãnh đạo của “Bác” là luôn luôn ngồi đằng sau giật dây, nếu thành công thì “Bác” có thêm uy tín (thêm quyền uy), nếu thất bại thì tên thi hành ý muốn của “Bác” trở thành vật hy sinh để “Bác” chạy tội và giữ nguyên vẹn uy tín của “Bác” (thí dụ như Trường Chinh sau vụ cải cách ruộng đất và đấu tố đẫm máu và nước mắt).
Ðến giai đoạn này thì toàn dân Miền Bắc đều sợ “Bác.” Tuy vậy, “Bác” vẫn còn cảm thấy mình chưa có đủ uy tín (chưa đủ quyền uy) đối với toàn dân. “Bác” thấy truyền thống Việt Nam trọng thơ văn, “Bác” bèn dở trò làm thơ với hy vọng lợi dụng uy tín của truyền thống này để nâng cao uy tín của mình. Lẽ dĩ nhiên những câu vè của “Bác” không ai dám phê bình hoặc ngợi khen một cách quá lộ liễu. Biết vậy, “Bác” đành giở trò đạo văn, tức là tự gắn cho mình là tác giả cuốn “Ngục Trung Nhật Ký” - một tập thơ rất hay do một thi sĩ người Hoa sáng tác. [18] Thế là đám văn nô có dịp ca tụng tài thơ phú của “Bác” mà không sợ ngượng mồm. Tuy thế, “Bác” vẫn còn cảm thấy là mình chưa có đủ uy tín. “Bác” sợ ít người biết đến công trình đi tìm đường cứu quốc của “Bác.” “Bác” bèn tạo ra một cán bộ tưởng tượng, và kể chuyện đời của “Bác” cho người tưởng tượng này viết và in thành sách làm tài liệu cho toàn dân học tập. [19] Lẽ dĩ nhiên, tác giả tưởng tượng chỉ có thể viết những chuyện “Phong Thần,” nên trong cuốn tiểu sử của “Bác,” người ta thấy chi tiết thần thoại thì nhiều, mà sự thật thì chẳng có bao nhiêu! Những cận thần của “Bác” đều biết tác giả cuốn này chính là “Bác,” mãi sau này mới lộ ra rằng “Bác” dùng tên một “cán bộ ma” để tự mình nâng bốc uy tín của mình.
Nhờ vậy, “Bác” nắm được quyền toàn trị cho đến lúc chết. Sau đó, đám đàn em của “Bác” tiếp tục dùng quyền toàn trị mà “Bác” đã tạo ra để huy động toàn dân chiến đấu chống Mỹ “cho đến giọt máu cuối cùng.” Tập đoàn lãnh đạo mới lên nắm chính quyền không có đủ uy tín, nên phải dựa vào uy tín của “Bác” (rêu rao là theo đúng “di chúc của Bác”). Ðám thừa kế “Bác” thừa biết rằng “Bác” càng “vĩ đại” bao nhiêu, thì “các cháu ngoan của Bác” càng có quyền uy nhiều bấy nhiêu. Vì vậy, một chương trình tuyên truyền nhằm tăng uy tín xác chết của “Bác” được phát động rất ư là trọng thể, ngay từ ngày “Bác” nằm xuống và kéo dài cho đến tận bây giờ. Cuối cùng, “Bác” đã chết rồi mà toàn dân vẫn còn sợ “Bác,” nên không ai dám “chối bỏ công lao của Bác.”
Khi chiếm được Miền Nam, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội thấy dựa vào quyền uy của “Bác” cũng không đủ làm Miền Nam mến phục. Như dân Cần Thơ đã truyền khẩu cho nhau nghe hai câu thơ vịnh “Bác” như sau:
Chiều chiều ra bến Ninh Kiều,
Sau lưng tượng “Bác” đĩ nhiều hơn dân!
Trong một xã hội thiếu “đạo đức cách mạng” như vậy, Hà Nội chỉ còn cách dùng quyền trừng phạt và độc quyền nuôi dân để bắt dân Miền Nam vào khuôn phép XHCN. Miền Nam đã phải sống trong kinh hoàng gần một thập niên. Sau khi đã kéo cả Miền Bắc và Miền Nam vào khuôn phép, thế là đất nước bị “thống nhất” trong vòng sợ hãi. Tuy vậy, nhóm lãnh đạo Hà Nội vẫn còn quá lo sợ mất quyền toàn trị, nên làm những hành động điên khùng không ai hiểu nổi. Việc gì phải đàn áp tôn giáo để mang tiếng với thế giới? Phải chăng vì quá sợ mất quyền cai trị nên tưởng rằng vài vị tu sĩ hay mục sư truyền đạo có đủ khả năng lật đổ chế độ công an trị. Việc gì phải triệt hạ đài tưởng niệm các thuyền nhân xấu số? Phải chăng vì quá mê sảng nên nghĩ rằng hành động bất nhân này sẽ làm cho chế độ vẻ vang hơn, vững vàng hơn, và Việt Kiều sẽ gửi về nước nhiều tiền hơn. Ôi, truyền thống “cường hào, ác bá” này biết bao giờ mới triệt tiêu được!
Chú Thích
[1] Trong số những tài liệu chống cộng, nổi tiếng nhất là cuốn sách xuất bản ở Pháp do năm tác giả Stéphane Courtois, Nicolas Werth, Jean-Louis Panné, Andrzej Paczkowski, Karel Bartosek và Jean-Louis Margolin, tựa đề là Le Livre Noir du Communism, Crimes, terror, répression (Paris: Editions Robert Laffont, 1997) được Joanathan Murphy và Mark Kramer dịch ra tiếng Anh dưới tựa đề The Black Book of Communism, Crime, Terror, Repression (Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press, 1999). Chỉ tiếc là phần viết về Việt Nam chỉ vỏn vẹn có hơn 10 trang (tr. 565-575), hiển nhiên là quá sơ sài. Bù vào đó, xin đọc Trần Gia Phụng, Án Tích Cộng Sản Việt Nam (Toronto: Non Nước, 2001).
[2] Sách nói về chế độ cộng sản Việt Nam nói chung, và Hồ Chí Minh nói riêng thì quá nhiều, nên tôi không liệt kê ra ở đây. Về thư tịch, sách đáng dùng để tham khảo thư tịch là cuốn dày gần 800 trang, tựa đề là Hồ Chí Minh, Nhận Ðịnh Tổng Hợp (Virgnia: Tiếng Quê Hương, 2003) trong đó tác giả Minh Võ đã có công giới thiệu và phê bình hàng chục cuốn sách do những tác giả quen biết viết về Việt Nam. Ngoài ra, trong cuốn sách dày gần 700 trang tựa đề là Phản Tỉnh, Phản Kháng, Thật Hay Hư (California: Thông Vũ, 1999), tác giả Minh Võ cũng phân tích và nhận định gần 20 cuốn sách khảo luận và ký ức của những tác giả đã từng có kinh nghiệm sống trong chế độ cộng sản Việt Nam.
[3] “So long as the virtue of respectable women is regarded as a matter of great importance, the institution of marriage has to be supplemented by another institution which may really be regarded as a part of it ố I mean the institution of prostitutionà She, however, poor woman, in spite of the undoubted service she performs, in spite of the fact that she safeguards the virtues of wives and daughters, is universally despised à” Bertrand Russell, Marriage and Morals (New York: Liverright Publishing Corporation, 1929), tr. 145-146
[4] Rokeach, Milton, Beliefs, Attitudes, and Values; a Theory of Organization and Change, (San Francisco: Jossey-Bass., 1972).
[5] Có rất nhiều sách về lý thuyết phân tâm học đã được xuất bản từ đầu Thế Kỷ 20 đến giờ. Ðể có một khái niệm căn bản về vấn đề này, xin đọc C. S. Hall, A Primer of Freudian Psychology (Cleveland: World Pubplishing Co., 1954). Muốn biết thêm, xin đọc những sách sau đây của Freud: A General Introduction to Psychoanalysis (Garden City, N. Y., Garden City Publishing Co., 1943), New Introductory Lectures of Psychoanalysis (New York: Norton, 1933), và An Outline of Psychology (New York: Norton, 1949).
[6] Dương Thu Hương, Những Thiên Ðường Mù (Hà-Nội: Nhà Xuất Bản Phụ Nữ, 1988).
[7] Trần Trọng Kim, Nho Giáo (Sài-gòn, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1971), tr. 39
[8] Phan Khoang, Trung Dung (Sài-gòn, Nhà Sách Mai Lĩnh, 1959), tr. 18, 844-885. Những chữ trong ngoặc [à] do tôi thêm vào cho rõ nghĩa.
[9] Những người vỗ ngực tự hào mình là người “Mác-xít” thực ra là những người trắng trợn lợi dụng học thuyết Karl Max để thực hiện tham vọng cá nhân của mình. Ngay Karl Max cũng đã thú nhận rằng: “Tôi, Karx Max, không phải là người Marxiste.” Tôi xin cám ơn bạn Nguyễn Hoài Vân đã tìm ra nguồn gốc câu nói bất hủ này khi viết một bài khảo cứu rất xuất sắc về “Những Ngộ Nhận Về Học Thuyết Marx”, Thế Kỷ 21, số 194, June 2005, tr. 80-86.
[10] Xin đọc Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa Ban Ngày (California: Văn Nghệ, 1997). Nhưng tác giả không được sống gần “Bác” hàng giờ hàng phút, nên chỉ biết lối xử tàn ác của “Bác” đối với các “công thần,” nhưng không nhìn thấy nỗi sợ hãi âm ỉ trong lòng “Bác.” Trái lại, ông Li Zhisui là một vị bác sĩ ngày đêm phải lo sóc sức khoẻ cho Mao Trạch Ðông, nên có dịp nhận thấy tên độc tài này bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi triền miên, nên nghi ngờ hết tất cả mọi người, trừ một số nữ cán bộ xinh đẹp được lựa chọn vào “hầu hạ” thú nhục dục của “Mao Chủ Tịch.” Xin đọc cuốn The Private Life of Chairman Mao, The Memoirs of Mao's Personal Physician (New York, Random House,1994).
[11] Clare Hollingworth, Mao and the Men Against Him , (London, Johnathan Cape, 1985), Chương 12, “Final Purge of Liu”, pp 196-213; Chương 13 “The Fall of Lin Biao”, pp. 214-255, Chương 19, “Notes on the Ten Men Who Rose Against Chairman Mao” pp. 345-357.
[12] Nguyễn Chí Thiệp, Trại Kiên Giam
[13] Nguyễn Hiến Lê, Hàn Phi Tử : (California: Văn Hóa), tr. 439.
[14] Amitai Etzioni coi “tuân hành” (compliance) là nền tảng của mọi tổ chức. Muốn mọi người trong một tổ chức nào đó phải tuân hành, thành phần lãnh đạo phải áp dụng “quyền lực” (power). Ông phân biệt ba loại quyền lực: “coercive power,” “remunerative power,” và “normative power.” Xin đọc cuốn A Comparative Analysis of Complex Organizations; On power, Involvement, and Their Correlates, (New York: Free Press of Glenco, 1971), tr. 5-6.
[15] Trần Gia Phụng, Án Tích Cộng Sản Việt Nam, op. cit. , 109-148
[16] Hoàng Văn Chí, Trăm Hoa Ðua Nở Trên Miền Bắc (Sài-gòn: Mặt Trặn Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa, 1959); Trần Gia Phụng, Án Tích Cộng Sản Việt Nam, op. cit. tr. 149-216.
[17] Trần Gia Phụng, Án Tích Cộng Sản Việt Nam, op. cit. 217-270.
[18] Học giả Lê Hữu Mục (trước đây là giáo sư tiếng Việt và Chữ Nôm kiêm trưởng ban Việt Hán tại Ðại Học Văn Khoa) đã dựa vào sử liệu để phanh phui hành động gian trá của Hồ Chí Minh trong cuốn Hồ Chí Minh Không Phải Là Tác Giả “Ngục Trung Nhật Ký” (Toronto: Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, 1990).
[19] Trần Dân Tiên hết mình ca tụng lòng hy sinh và tài siêu việt của “Bác” trong cuốn Những mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng của Hồ Chủ Tịch . Sau này mọi người mới được biết cán bộ “ma” Trần Dân Tiên chính lại là “Bác.” Muốn biết “văn chương... loạng quạng” và tài khoác lác không mạch lạc của “Bác,” xin đọc cuốn sách phê bình của Kiều Phong, tựa đề là Chân Dung “Bác” Hồ (San Diego, Calif.: 1989).
Sau khi thành thị rơi vào tay của “Bác” (1954), “Bác” bèn thực hiện chương trình “nông thôn hóa” thành thị, dùng quyền trừng phạt và độc quyền nuôi dân để cải hóa dân thành thị thành một đám người nhẫn nhục và sợ hãi, không khác gì đám bần cố nông sống trong các hợp tác xã nông nghiệp. Chế độ “hộ khẩu” và “bao cấp” giúp “Bác” tổ chức nhân dân thành một đàn cừu ngoan ngoãn dưới sự dẫn dắt của “Bác.” Ða số văn nghệ sĩ trước kia theo “Bác” vì yêu nước, chứ không phải vì muốn duy trì quyền toàn trị của “Bác.” Vì thế một số chưa biết sợ “Bác,” nên không chịu dùng khả năng của mình để ca tụng “Bác.” Thế là “Bác” thẳng tay hành hạ một cách vô nhân đạo những người đã hy sinh cho “Bác” hơn 10 năm trời: người thì bị tù đầy, người thì mất hết nguồn sinh sống (vụ “Nhân Văn-Giai Phẩm”). [16] Ngoài ra, một số cận thần liều lĩnh manh nha muốn “Bác” về hưu để họ lên thay thế, thì bị “Bác” thanh lọc hoặc trừng trị một cách rất là khắc nghiệt (vụ án “Xét Lại”).[17] Tuy vậy, “Bác” vẫn còn sợ những công thần có uy tín và có khả năng cướp quyền toàn trị của “Bác.” “Bác” không dám giết những người có danh tiếng, nhưng “Bác” không cho họ có dịp nắm thực quyền lãnh đạo. Những tên “mã tấu răng đen” hoặc “vô danh tiểu tốt” (như Lê Duẩn) thì được “Bác” cất nhắc lên nắm quyền điều hành công việc Ðảng và Nhà Nước. Kỹ thuật lãnh đạo của “Bác” là luôn luôn ngồi đằng sau giật dây, nếu thành công thì “Bác” có thêm uy tín (thêm quyền uy), nếu thất bại thì tên thi hành ý muốn của “Bác” trở thành vật hy sinh để “Bác” chạy tội và giữ nguyên vẹn uy tín của “Bác” (thí dụ như Trường Chinh sau vụ cải cách ruộng đất và đấu tố đẫm máu và nước mắt).
Ðến giai đoạn này thì toàn dân Miền Bắc đều sợ “Bác.” Tuy vậy, “Bác” vẫn còn cảm thấy mình chưa có đủ uy tín (chưa đủ quyền uy) đối với toàn dân. “Bác” thấy truyền thống Việt Nam trọng thơ văn, “Bác” bèn dở trò làm thơ với hy vọng lợi dụng uy tín của truyền thống này để nâng cao uy tín của mình. Lẽ dĩ nhiên những câu vè của “Bác” không ai dám phê bình hoặc ngợi khen một cách quá lộ liễu. Biết vậy, “Bác” đành giở trò đạo văn, tức là tự gắn cho mình là tác giả cuốn “Ngục Trung Nhật Ký” - một tập thơ rất hay do một thi sĩ người Hoa sáng tác. [18] Thế là đám văn nô có dịp ca tụng tài thơ phú của “Bác” mà không sợ ngượng mồm. Tuy thế, “Bác” vẫn còn cảm thấy là mình chưa có đủ uy tín. “Bác” sợ ít người biết đến công trình đi tìm đường cứu quốc của “Bác.” “Bác” bèn tạo ra một cán bộ tưởng tượng, và kể chuyện đời của “Bác” cho người tưởng tượng này viết và in thành sách làm tài liệu cho toàn dân học tập. [19] Lẽ dĩ nhiên, tác giả tưởng tượng chỉ có thể viết những chuyện “Phong Thần,” nên trong cuốn tiểu sử của “Bác,” người ta thấy chi tiết thần thoại thì nhiều, mà sự thật thì chẳng có bao nhiêu! Những cận thần của “Bác” đều biết tác giả cuốn này chính là “Bác,” mãi sau này mới lộ ra rằng “Bác” dùng tên một “cán bộ ma” để tự mình nâng bốc uy tín của mình.
Nhờ vậy, “Bác” nắm được quyền toàn trị cho đến lúc chết. Sau đó, đám đàn em của “Bác” tiếp tục dùng quyền toàn trị mà “Bác” đã tạo ra để huy động toàn dân chiến đấu chống Mỹ “cho đến giọt máu cuối cùng.” Tập đoàn lãnh đạo mới lên nắm chính quyền không có đủ uy tín, nên phải dựa vào uy tín của “Bác” (rêu rao là theo đúng “di chúc của Bác”). Ðám thừa kế “Bác” thừa biết rằng “Bác” càng “vĩ đại” bao nhiêu, thì “các cháu ngoan của Bác” càng có quyền uy nhiều bấy nhiêu. Vì vậy, một chương trình tuyên truyền nhằm tăng uy tín xác chết của “Bác” được phát động rất ư là trọng thể, ngay từ ngày “Bác” nằm xuống và kéo dài cho đến tận bây giờ. Cuối cùng, “Bác” đã chết rồi mà toàn dân vẫn còn sợ “Bác,” nên không ai dám “chối bỏ công lao của Bác.”
Khi chiếm được Miền Nam, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội thấy dựa vào quyền uy của “Bác” cũng không đủ làm Miền Nam mến phục. Như dân Cần Thơ đã truyền khẩu cho nhau nghe hai câu thơ vịnh “Bác” như sau:
Chiều chiều ra bến Ninh Kiều,
Sau lưng tượng “Bác” đĩ nhiều hơn dân!
Trong một xã hội thiếu “đạo đức cách mạng” như vậy, Hà Nội chỉ còn cách dùng quyền trừng phạt và độc quyền nuôi dân để bắt dân Miền Nam vào khuôn phép XHCN. Miền Nam đã phải sống trong kinh hoàng gần một thập niên. Sau khi đã kéo cả Miền Bắc và Miền Nam vào khuôn phép, thế là đất nước bị “thống nhất” trong vòng sợ hãi. Tuy vậy, nhóm lãnh đạo Hà Nội vẫn còn quá lo sợ mất quyền toàn trị, nên làm những hành động điên khùng không ai hiểu nổi. Việc gì phải đàn áp tôn giáo để mang tiếng với thế giới? Phải chăng vì quá sợ mất quyền cai trị nên tưởng rằng vài vị tu sĩ hay mục sư truyền đạo có đủ khả năng lật đổ chế độ công an trị. Việc gì phải triệt hạ đài tưởng niệm các thuyền nhân xấu số? Phải chăng vì quá mê sảng nên nghĩ rằng hành động bất nhân này sẽ làm cho chế độ vẻ vang hơn, vững vàng hơn, và Việt Kiều sẽ gửi về nước nhiều tiền hơn. Ôi, truyền thống “cường hào, ác bá” này biết bao giờ mới triệt tiêu được!
Chú Thích
[1] Trong số những tài liệu chống cộng, nổi tiếng nhất là cuốn sách xuất bản ở Pháp do năm tác giả Stéphane Courtois, Nicolas Werth, Jean-Louis Panné, Andrzej Paczkowski, Karel Bartosek và Jean-Louis Margolin, tựa đề là Le Livre Noir du Communism, Crimes, terror, répression (Paris: Editions Robert Laffont, 1997) được Joanathan Murphy và Mark Kramer dịch ra tiếng Anh dưới tựa đề The Black Book of Communism, Crime, Terror, Repression (Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press, 1999). Chỉ tiếc là phần viết về Việt Nam chỉ vỏn vẹn có hơn 10 trang (tr. 565-575), hiển nhiên là quá sơ sài. Bù vào đó, xin đọc Trần Gia Phụng, Án Tích Cộng Sản Việt Nam (Toronto: Non Nước, 2001).
[2] Sách nói về chế độ cộng sản Việt Nam nói chung, và Hồ Chí Minh nói riêng thì quá nhiều, nên tôi không liệt kê ra ở đây. Về thư tịch, sách đáng dùng để tham khảo thư tịch là cuốn dày gần 800 trang, tựa đề là Hồ Chí Minh, Nhận Ðịnh Tổng Hợp (Virgnia: Tiếng Quê Hương, 2003) trong đó tác giả Minh Võ đã có công giới thiệu và phê bình hàng chục cuốn sách do những tác giả quen biết viết về Việt Nam. Ngoài ra, trong cuốn sách dày gần 700 trang tựa đề là Phản Tỉnh, Phản Kháng, Thật Hay Hư (California: Thông Vũ, 1999), tác giả Minh Võ cũng phân tích và nhận định gần 20 cuốn sách khảo luận và ký ức của những tác giả đã từng có kinh nghiệm sống trong chế độ cộng sản Việt Nam.
[3] “So long as the virtue of respectable women is regarded as a matter of great importance, the institution of marriage has to be supplemented by another institution which may really be regarded as a part of it ố I mean the institution of prostitutionà She, however, poor woman, in spite of the undoubted service she performs, in spite of the fact that she safeguards the virtues of wives and daughters, is universally despised à” Bertrand Russell, Marriage and Morals (New York: Liverright Publishing Corporation, 1929), tr. 145-146
[4] Rokeach, Milton, Beliefs, Attitudes, and Values; a Theory of Organization and Change, (San Francisco: Jossey-Bass., 1972).
[5] Có rất nhiều sách về lý thuyết phân tâm học đã được xuất bản từ đầu Thế Kỷ 20 đến giờ. Ðể có một khái niệm căn bản về vấn đề này, xin đọc C. S. Hall, A Primer of Freudian Psychology (Cleveland: World Pubplishing Co., 1954). Muốn biết thêm, xin đọc những sách sau đây của Freud: A General Introduction to Psychoanalysis (Garden City, N. Y., Garden City Publishing Co., 1943), New Introductory Lectures of Psychoanalysis (New York: Norton, 1933), và An Outline of Psychology (New York: Norton, 1949).
[6] Dương Thu Hương, Những Thiên Ðường Mù (Hà-Nội: Nhà Xuất Bản Phụ Nữ, 1988).
[7] Trần Trọng Kim, Nho Giáo (Sài-gòn, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1971), tr. 39
[8] Phan Khoang, Trung Dung (Sài-gòn, Nhà Sách Mai Lĩnh, 1959), tr. 18, 844-885. Những chữ trong ngoặc [à] do tôi thêm vào cho rõ nghĩa.
[9] Những người vỗ ngực tự hào mình là người “Mác-xít” thực ra là những người trắng trợn lợi dụng học thuyết Karl Max để thực hiện tham vọng cá nhân của mình. Ngay Karl Max cũng đã thú nhận rằng: “Tôi, Karx Max, không phải là người Marxiste.” Tôi xin cám ơn bạn Nguyễn Hoài Vân đã tìm ra nguồn gốc câu nói bất hủ này khi viết một bài khảo cứu rất xuất sắc về “Những Ngộ Nhận Về Học Thuyết Marx”, Thế Kỷ 21, số 194, June 2005, tr. 80-86.
[10] Xin đọc Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa Ban Ngày (California: Văn Nghệ, 1997). Nhưng tác giả không được sống gần “Bác” hàng giờ hàng phút, nên chỉ biết lối xử tàn ác của “Bác” đối với các “công thần,” nhưng không nhìn thấy nỗi sợ hãi âm ỉ trong lòng “Bác.” Trái lại, ông Li Zhisui là một vị bác sĩ ngày đêm phải lo sóc sức khoẻ cho Mao Trạch Ðông, nên có dịp nhận thấy tên độc tài này bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi triền miên, nên nghi ngờ hết tất cả mọi người, trừ một số nữ cán bộ xinh đẹp được lựa chọn vào “hầu hạ” thú nhục dục của “Mao Chủ Tịch.” Xin đọc cuốn The Private Life of Chairman Mao, The Memoirs of Mao's Personal Physician (New York, Random House,1994).
[11] Clare Hollingworth, Mao and the Men Against Him , (London, Johnathan Cape, 1985), Chương 12, “Final Purge of Liu”, pp 196-213; Chương 13 “The Fall of Lin Biao”, pp. 214-255, Chương 19, “Notes on the Ten Men Who Rose Against Chairman Mao” pp. 345-357.
[12] Nguyễn Chí Thiệp, Trại Kiên Giam
[13] Nguyễn Hiến Lê, Hàn Phi Tử : (California: Văn Hóa), tr. 439.
[14] Amitai Etzioni coi “tuân hành” (compliance) là nền tảng của mọi tổ chức. Muốn mọi người trong một tổ chức nào đó phải tuân hành, thành phần lãnh đạo phải áp dụng “quyền lực” (power). Ông phân biệt ba loại quyền lực: “coercive power,” “remunerative power,” và “normative power.” Xin đọc cuốn A Comparative Analysis of Complex Organizations; On power, Involvement, and Their Correlates, (New York: Free Press of Glenco, 1971), tr. 5-6.
[15] Trần Gia Phụng, Án Tích Cộng Sản Việt Nam, op. cit. , 109-148
[16] Hoàng Văn Chí, Trăm Hoa Ðua Nở Trên Miền Bắc (Sài-gòn: Mặt Trặn Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa, 1959); Trần Gia Phụng, Án Tích Cộng Sản Việt Nam, op. cit. tr. 149-216.
[17] Trần Gia Phụng, Án Tích Cộng Sản Việt Nam, op. cit. 217-270.
[18] Học giả Lê Hữu Mục (trước đây là giáo sư tiếng Việt và Chữ Nôm kiêm trưởng ban Việt Hán tại Ðại Học Văn Khoa) đã dựa vào sử liệu để phanh phui hành động gian trá của Hồ Chí Minh trong cuốn Hồ Chí Minh Không Phải Là Tác Giả “Ngục Trung Nhật Ký” (Toronto: Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, 1990).
[19] Trần Dân Tiên hết mình ca tụng lòng hy sinh và tài siêu việt của “Bác” trong cuốn Những mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng của Hồ Chủ Tịch . Sau này mọi người mới được biết cán bộ “ma” Trần Dân Tiên chính lại là “Bác.” Muốn biết “văn chương... loạng quạng” và tài khoác lác không mạch lạc của “Bác,” xin đọc cuốn sách phê bình của Kiều Phong, tựa đề là Chân Dung “Bác” Hồ (San Diego, Calif.: 1989).
“Tôi Biết Sợ”: “Toàn Dân Trăm Người Như Một”... Ðều Biết Sợ (III)
Nói tóm lại, người có quyền lực thường sợ người yếu thế coi thường mình. Trong chế độ độc tài, tên lãnh đạo nào cũng sợ dân, nhiều khi còn sợ dân hơn là dân sợ hắn. Hãy nhìn vào lịch sử nhân loại từ Ðông sang Tây, ta đều thấy những tên nắm toàn quyền trị dân trong tay luôn luôn ngấm ngầm sợ hãi. Thời xưa thì có Tần Thủy Hoàng. Tên bạo chúa này bắt toàn dân đổ mồ hôi nước mắt ra xây bức Lũy Trường Thành chỉ vì hắn sợ đám man rợ miền Bắc tiến quân sang làm rung chuyển ngai vàng của hắn. Sau khi lập được công thống nhất đất nước, hắn lại sợ đám Nho gia giở trò “hư đốn,” bèn ra lệnh đốt những sách “đồi trụy” và chôn sống những người nào không biết sợ. Hắn đã thoát nhiều vụ mưu sát chỉ vì hắn biết sợ, và biết dùng đủ mọi cách làm toàn dân run sợ, nên không ai đụng được tới lông chân của hắn (Kinh Kha định vào giết hắn, nhưng khi nhìn thấy hắn thì đã run sợ đến nỗi đánh rơi thanh đoản đao, nên không làm được trò trống gì). Cuối cùng tên bạo chúa chỉ còn biết sợ Trời bắt chết, nên đã chi rất nhiều vàng bạc cho các danh lang đi tìm thuốc “tràng sinh, bất tử” cho hắn. Nhưng “người trần mắt thịt” làm sao mà có thể cướp được quyền sinh sát của Trời. Thế là dân Tàu tạm thoát nạn. Sau khi Tần Thủy Hoàng thảnh thơi đi thăm “Suối Vàng,” thì các sĩ phu được dịp ngồi viết hàng ngàn trang sử chửi bới thậm tệ tên bạo chúa đáng ghét này. Hành động hiên ngang của các sử gia này cũng không giúp gì cho dân Tầu thoát khỏi cảnh cùm kẹp thường xuyên xảy ra. Các vị Nho sĩ khả kính vẫn tiếp tục dạy dân Tầu phải có bổn phận “Quân, Thần, Tử,” tức là phải quỳ lạy hết đời bạo chúa này sang đời bạo chúa khác.
Trong thời đại mới, không tên độc tài nào lại mơ tưởng đến chuyện “tràng sinh, bất tử,” nhưng tên nào cũng sợ đám cận thần xông vào giết như trường hợp Brutus đã thỉa dao con chó vào bụng Jules César ngay trước hoàng cung ở La-Mã. (Ta cũng nên biết, Brutus là một cận thần được César yêu mến và tin cẩn, rồi sau đó Brutus cầm đầu đám Thượng Nghị Sĩ nổi lên giết César). Các tên độc tài thời mới không ngây thơ như César. Ta đã thấy từ Hitler tới Sì-Ta-Lin, Mao-Trạch Ðông và Hồ Chí Minh, những tên khát máu này không sợ địch thủ ngoài tiền tuyến bằng sợ đám “công thần” trong cung cấm. Ðiều này Hàn Phi Tử đã từng nhận thấy cách đây hơn hai ngàn năm (cùng thời với Tần Thủy Hoàng). Như ông đã viết: “Loạn sở dĩ do sáu hạng người này [gây ra]: (1) mẹ vua, (2) hậu phi, (3) con cháu, (4) anh em, (5) đại thần, (6) người nổi danh là hiền”. [13]
Nhìn vào lịch sử cận đại ở Việt Nam thì ta mới thấy Hàn Phi Tử quả là một nhà chính trị học tài ba, đã nhìn thấy những nét đặc thù của một xã hội suy vi. Ông Ngô Ðình Diệm lãnh đạo một chế độ suy nhược vì loạn lạc, đã bị giết một cách thê thảm, vì không biết sợ đám người thân cận của ông, vì ông không tin rằng đám người này lại có thể hại ông. Ông đã đi ngược lời khuyên răn của Hàn Phi Tử, nên đã để bốn loại người thao túng chế độ một cách dễ dàng. Ðó là:
(2) Hậu phi - bà Ngô Ðình Nhu (tuy bà này không đóng vai trò một quý phi, nhưng rất được ông Diệm sủng ái nên có nhiều quyền lực trong Dinh Ðộc Lập);
(4) Anh em - ông Ngô Ðình Nhu, Ngô Ðình Cẩn, Ngô Ðình Thục;
(5) Ðại thần - đó là các tướng được ông Diệm coi như “con nuôi”;
(6) Người nổi danh là hiền - đó là các chính khách có uy tín trong xã hội và các vị tu sĩ cao cấp (kể cả giám mục lẫn thượng tọa).
Cái lầm của ông Diệm là ông không biết sợ, không muốn dùng quyền độc tài sinh sát, hoặc không nắm được toàn quyền sinh sát, để bảo vệ chế độ như các lãnh tụ Cộng Sản thường làm. Nói cho cùng, lối suy nghĩ và hành động của ông Diệm cũng không khác gì những người Việt “Quốc Gia.” Ðại đa số chúng ta đều có khuynh hướng đặt tình cảm gia đình, bạn bè lên trên quyền lợi công cộng. Không một ai trong chúng ta có thể nhẫn tâm như các người cộng sản mang cha mẹ ra tòa án nhân dân đấu tố (Trường Chinh). Giờ đây, ta mới thấy một định lý rất đau lòng: trong một cuộc nội chiến ngang ngửa giữa hai phe, phe nào tàn bạo và biết làm cho dân sợ, thì phe đó có nhiều hy vọng thắng hơn. Vì thế, phe Quốc Gia thua trận cũng không có gì là ngạc nhiên. Những trái tim đầy tình người làm sao chọi lại được những trái tim đầy căm hờn!
2. “Bác” làm Các “Cháu” Sợ
Trước hết, chúng ta đều biết trong bất cứ một quốc gia nào, đại đa số công dân đều không ít thì nhiều phải tuân hành theo ý muốn người lãnh đạo, vì người lãnh đạo nắm trong tay một hay nhiều quyền lực như sau: [14]
(1) Quyền uy
Người lãnh đạo nắm được quyền uy vì có uy tín nên được toàn dân mến phục (charisma) vì đã có công lập quốc (như Georges Washington ở Mỹ), hoặc cứu quốc (như Mustafa Kemal ở Thổ Nhĩ Kỳ, Ghandi ở Ấn Ðộ, v.v.), hoặc dựa vào truyền thống hay luật pháp có uy tín lâu đời (“Thiên Mệnh” ở Trung Hoa dưới thời phong kiến, Hiến Pháp Mỹ, v.v.). Quyền uy của người lãnh đạo sẽ mai một dần dần nếu người lãnh đạo không biết thích ứng với thời cuộc để giải quyết những khủng hoảng trầm trọng cho đất nước. Thí dụ như các vua chúa Nhà Nguyễn, các vị này không biết tìm cách đương đầu với sức mạnh Âu Tây nên đã mất hết quyền uy, và làm cho truyền thống quân chủ cũng mất hết uy tín luôn. Trái lại, vua Chu-La-Long-Quốc ở Thái-Lan, cũng như Minh-Trị-Thiên-Hoàng ở Nhật, đã biết thực hiện những chương trình cải cách cần thiết, nên không làm tổn thương đến truyền thống quân chủ, vì thế con cháu vẫn còn giữ được ngai vàng của mình cho tới ngày nay.
(3) Quyền Tưởng Thưởng
Người lãnh đạo nắm được quyền tưởng thưởng vì có công tạo ra một đời sống an hòa và trù phú cho toàn dân. Ta cũng nên biết quyền tưởng thưởng không làm cho người dân sợ hãi hay mến phục bằng quyền uy. Vì lý do đó, quyền này có tính cách đoản kỳ và sẽ mất hiệu lực khi người lãnh đạo không còn “khả năng nuôi dân.” Lúc đó dân có thể nổi lên lật đổ người lãnh đạo, bằng lá phiếu hoặc bằng những cuộc biểu tình bạo động (như các cụ đã dạy chúng ta câu “bạc như dân”). Ta cũng nên biết, trong các nước tự do dân chủ, người lãnh đạo (tổng thống hoặc thủ tướng) chỉ tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế chứ không trực tiếp “nuôi dân.” Trái lại, trong các chế độ toàn trị (totalitarian regime) người lãnh đạo tìm đủ mọi cách cướp quyền tự lực cánh sinh của dân để nắm độc quyền nuôi dân với mục đích làm cho dân hoàn toàn tùy thuộc vào chế độ. Cuối cùng, “nồi cơm” là “Bác,” “Bác” là “nồi cơm,” theo “Bác” thì ấm no, không theo “Bác” thì đói rách.
(3) Quyền Trừng Phạt
Người lãnh đạo dùng võ lực trừng phạt những hành động “bất tuân thượng lệnh” để bắt người dân phục tòng vì sợ hãi. Trong các chế độ tự do pháp trị, quyền trừng phạt của Nhà Nước bị hạn chế bởi luật pháp, vì thế người dân bình thường chỉ cần phục tòng luật pháp chứ không cần phục tòng tất cả sở thích của người lãnh đạo. Trái lại, trong các chế độ toàn trị, ý muốn của người lãnh tụ có sức mạnh ngang hàng với Ý Trời. Vì thế, dưới chế độ này, luật pháp rất mơ hồ, và thay đổi hàng ngày tùy theo ý thích của người lãnh tụ. Ta cũng nên biết, luật pháp càng mơ hồ bao nhiêu, quyền tự do trừng phạt của người lãnh tụ càng gia tăng lên bấy nhiêu. Như Phạm Văn Đồng đã tuyên bố một câu bất hủ: “Làm luật làm gì ?? nó trói tay mình vào.” Nhiều người không hiểu rõ đặc tính toàn trị của chế độ, nên thường coi luật pháp mơ hồ là một loại “luật rừng.”
Sau khi trình bày vài nét đại cương về quyền lực, bây giờ tôi xin cứu xét phương thức ông Hồ Chí Minh đã dùng để cướp quyền lãnh đạo quốc gia, rồi bành trướng quyền lực đã nắm trong tay thành quyền toàn trị. Bắt “toàn dân trăm người như một” sợ hãi và làm theo ý muốn của mình là một công tác đại quy mô, đòi hỏi những gian kế quỷ quyệt. Ông Hồ không thiếu khả năng này, nên đã thành công trên con đường tiến thủ vì ông biết đi từng giai đoạn, và dùng phương pháp “chia để trị” để tiêu diệt đối phương.
Khi mới bước chân về nước, ông Hồ không có một lực lượng gì đáng kể. Trong hai năm đầu (1945-46), ông không đặt trọng tâm vào nông thôn, vì các đảng “Quốc Gia” không có lực lượng chống đối ông trong các thôn xã hẻo lánh. Hơn nữa, đại đa số nông dân lúc đó rất thờ ơ với thời cuộc, tuy bao nhiêu năm họ đã bị thực dân và phong kiến bóc lột nên phải sống trong cảnh đói khổ cùng cực. Lại còn vụ đói kinh hồn năm Ất Dậu đã làm cho thôn quê miền Bắc hoàn toàn kiệt quệ về tinh thần cũng như thể xác, nên không còn bụng dạ nào nghĩ đến ủng hộ hay chống đối bất cứ một phong trào chính trị nào. Vì thế, ông Hồ chỉ cần lôi cuốn một số trí thức, và tiểu tư sản sinh trưởng nơi thành thị bằng lá bài “Cứu Quốc.” Ta cũng nên biết, giai cấp tiểu tư sản thành thị (nhất là đám trí thức) là thành phần biết rất nhiều về chính sách thực dân của Pháp, nên hồ hởi chui vào bẫy của ông Hồ. Trong khi đó, ông Hồ dùng phương pháp Lê-Nin-Nít (agitprop - vừa tuyên truyền vừa tiêu diệt thành phần đối lập trong các thành phố lớn) để trở thành “Bác,” một hình ảnh “cha già dân tộc.” (Chương trình tuyên truyền này quả là siêu việt, vì theo tiếng ta, “bác” còn có quyền uy hơn “cha” một bậc, dù sao “bác” là người anh của cha. Nhờ đó, “Bác” đã nắm trong tay một chút quyền uy, nhất là trong đám người yêu nước một cách rất ư là lãng mạn - “chỉ biết yêu thôi, mà chẳng biết gì” (thơ).
Sau khi tiêu diệt các đảng phái “Quốc Gia” ở các thành phố một cách dễ dàng vì các đảng này thiếu lãnh đạo, thiếu tổ chức, thiếu đoàn kết, thiếu sự ủng hộ quần chúng, “Bác” trở thành lãnh tụ tối cao, và “Ðảng” trở thành một tổ chức độc nhất nắm độc quyền “chống thực dân.” Khi chiến tranh bùng nổ, thành phần tiểu tư sản thành thị tản cư về nông thôn, tiếp tục hồ hởi giúp “Bác” tổ chức công cuộc chiến đấu dành độc lập. Ở đây, “Bác” phải cạnh tranh quyền uy với giới địa chủ vì nhóm người này có uy tín truyền thống trong đám nông dân đã bao nhiêu thế kỷ nay (tuy rằng giới địa chủ và phú nông thẳng tay lợi dụng cổ tục phong kiến để bóc lột các nông dân nghèo đói). Vì không đủ hậu thuẫn, “Bác” đành phải dựa vào giới tiểu tư sản thành thị đã tản cư về làng để thực hiện chương trình đánh đổ lực lượng “cường hào ác bá.” Các cô, các cậu từ tỉnh về sống nơi bùn lầy nước đọng tự nhiên cảm thấy có bổn phận phải theo “Bác” để giải quyết nạn “Lý Toét” và “Xã Xệ” mà nhóm Tự Lực Văn đoàn đã nhiều năm bôi nhọ trong báo Phong Hóa và Ngày Nay trước hồi 1945.
Trong thời đại mới, không tên độc tài nào lại mơ tưởng đến chuyện “tràng sinh, bất tử,” nhưng tên nào cũng sợ đám cận thần xông vào giết như trường hợp Brutus đã thỉa dao con chó vào bụng Jules César ngay trước hoàng cung ở La-Mã. (Ta cũng nên biết, Brutus là một cận thần được César yêu mến và tin cẩn, rồi sau đó Brutus cầm đầu đám Thượng Nghị Sĩ nổi lên giết César). Các tên độc tài thời mới không ngây thơ như César. Ta đã thấy từ Hitler tới Sì-Ta-Lin, Mao-Trạch Ðông và Hồ Chí Minh, những tên khát máu này không sợ địch thủ ngoài tiền tuyến bằng sợ đám “công thần” trong cung cấm. Ðiều này Hàn Phi Tử đã từng nhận thấy cách đây hơn hai ngàn năm (cùng thời với Tần Thủy Hoàng). Như ông đã viết: “Loạn sở dĩ do sáu hạng người này [gây ra]: (1) mẹ vua, (2) hậu phi, (3) con cháu, (4) anh em, (5) đại thần, (6) người nổi danh là hiền”. [13]
Nhìn vào lịch sử cận đại ở Việt Nam thì ta mới thấy Hàn Phi Tử quả là một nhà chính trị học tài ba, đã nhìn thấy những nét đặc thù của một xã hội suy vi. Ông Ngô Ðình Diệm lãnh đạo một chế độ suy nhược vì loạn lạc, đã bị giết một cách thê thảm, vì không biết sợ đám người thân cận của ông, vì ông không tin rằng đám người này lại có thể hại ông. Ông đã đi ngược lời khuyên răn của Hàn Phi Tử, nên đã để bốn loại người thao túng chế độ một cách dễ dàng. Ðó là:
(2) Hậu phi - bà Ngô Ðình Nhu (tuy bà này không đóng vai trò một quý phi, nhưng rất được ông Diệm sủng ái nên có nhiều quyền lực trong Dinh Ðộc Lập);
(4) Anh em - ông Ngô Ðình Nhu, Ngô Ðình Cẩn, Ngô Ðình Thục;
(5) Ðại thần - đó là các tướng được ông Diệm coi như “con nuôi”;
(6) Người nổi danh là hiền - đó là các chính khách có uy tín trong xã hội và các vị tu sĩ cao cấp (kể cả giám mục lẫn thượng tọa).
Cái lầm của ông Diệm là ông không biết sợ, không muốn dùng quyền độc tài sinh sát, hoặc không nắm được toàn quyền sinh sát, để bảo vệ chế độ như các lãnh tụ Cộng Sản thường làm. Nói cho cùng, lối suy nghĩ và hành động của ông Diệm cũng không khác gì những người Việt “Quốc Gia.” Ðại đa số chúng ta đều có khuynh hướng đặt tình cảm gia đình, bạn bè lên trên quyền lợi công cộng. Không một ai trong chúng ta có thể nhẫn tâm như các người cộng sản mang cha mẹ ra tòa án nhân dân đấu tố (Trường Chinh). Giờ đây, ta mới thấy một định lý rất đau lòng: trong một cuộc nội chiến ngang ngửa giữa hai phe, phe nào tàn bạo và biết làm cho dân sợ, thì phe đó có nhiều hy vọng thắng hơn. Vì thế, phe Quốc Gia thua trận cũng không có gì là ngạc nhiên. Những trái tim đầy tình người làm sao chọi lại được những trái tim đầy căm hờn!
2. “Bác” làm Các “Cháu” Sợ
Trước hết, chúng ta đều biết trong bất cứ một quốc gia nào, đại đa số công dân đều không ít thì nhiều phải tuân hành theo ý muốn người lãnh đạo, vì người lãnh đạo nắm trong tay một hay nhiều quyền lực như sau: [14]
(1) Quyền uy
Người lãnh đạo nắm được quyền uy vì có uy tín nên được toàn dân mến phục (charisma) vì đã có công lập quốc (như Georges Washington ở Mỹ), hoặc cứu quốc (như Mustafa Kemal ở Thổ Nhĩ Kỳ, Ghandi ở Ấn Ðộ, v.v.), hoặc dựa vào truyền thống hay luật pháp có uy tín lâu đời (“Thiên Mệnh” ở Trung Hoa dưới thời phong kiến, Hiến Pháp Mỹ, v.v.). Quyền uy của người lãnh đạo sẽ mai một dần dần nếu người lãnh đạo không biết thích ứng với thời cuộc để giải quyết những khủng hoảng trầm trọng cho đất nước. Thí dụ như các vua chúa Nhà Nguyễn, các vị này không biết tìm cách đương đầu với sức mạnh Âu Tây nên đã mất hết quyền uy, và làm cho truyền thống quân chủ cũng mất hết uy tín luôn. Trái lại, vua Chu-La-Long-Quốc ở Thái-Lan, cũng như Minh-Trị-Thiên-Hoàng ở Nhật, đã biết thực hiện những chương trình cải cách cần thiết, nên không làm tổn thương đến truyền thống quân chủ, vì thế con cháu vẫn còn giữ được ngai vàng của mình cho tới ngày nay.
(3) Quyền Tưởng Thưởng
Người lãnh đạo nắm được quyền tưởng thưởng vì có công tạo ra một đời sống an hòa và trù phú cho toàn dân. Ta cũng nên biết quyền tưởng thưởng không làm cho người dân sợ hãi hay mến phục bằng quyền uy. Vì lý do đó, quyền này có tính cách đoản kỳ và sẽ mất hiệu lực khi người lãnh đạo không còn “khả năng nuôi dân.” Lúc đó dân có thể nổi lên lật đổ người lãnh đạo, bằng lá phiếu hoặc bằng những cuộc biểu tình bạo động (như các cụ đã dạy chúng ta câu “bạc như dân”). Ta cũng nên biết, trong các nước tự do dân chủ, người lãnh đạo (tổng thống hoặc thủ tướng) chỉ tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế chứ không trực tiếp “nuôi dân.” Trái lại, trong các chế độ toàn trị (totalitarian regime) người lãnh đạo tìm đủ mọi cách cướp quyền tự lực cánh sinh của dân để nắm độc quyền nuôi dân với mục đích làm cho dân hoàn toàn tùy thuộc vào chế độ. Cuối cùng, “nồi cơm” là “Bác,” “Bác” là “nồi cơm,” theo “Bác” thì ấm no, không theo “Bác” thì đói rách.
(3) Quyền Trừng Phạt
Người lãnh đạo dùng võ lực trừng phạt những hành động “bất tuân thượng lệnh” để bắt người dân phục tòng vì sợ hãi. Trong các chế độ tự do pháp trị, quyền trừng phạt của Nhà Nước bị hạn chế bởi luật pháp, vì thế người dân bình thường chỉ cần phục tòng luật pháp chứ không cần phục tòng tất cả sở thích của người lãnh đạo. Trái lại, trong các chế độ toàn trị, ý muốn của người lãnh tụ có sức mạnh ngang hàng với Ý Trời. Vì thế, dưới chế độ này, luật pháp rất mơ hồ, và thay đổi hàng ngày tùy theo ý thích của người lãnh tụ. Ta cũng nên biết, luật pháp càng mơ hồ bao nhiêu, quyền tự do trừng phạt của người lãnh tụ càng gia tăng lên bấy nhiêu. Như Phạm Văn Đồng đã tuyên bố một câu bất hủ: “Làm luật làm gì ?? nó trói tay mình vào.” Nhiều người không hiểu rõ đặc tính toàn trị của chế độ, nên thường coi luật pháp mơ hồ là một loại “luật rừng.”
Sau khi trình bày vài nét đại cương về quyền lực, bây giờ tôi xin cứu xét phương thức ông Hồ Chí Minh đã dùng để cướp quyền lãnh đạo quốc gia, rồi bành trướng quyền lực đã nắm trong tay thành quyền toàn trị. Bắt “toàn dân trăm người như một” sợ hãi và làm theo ý muốn của mình là một công tác đại quy mô, đòi hỏi những gian kế quỷ quyệt. Ông Hồ không thiếu khả năng này, nên đã thành công trên con đường tiến thủ vì ông biết đi từng giai đoạn, và dùng phương pháp “chia để trị” để tiêu diệt đối phương.
Khi mới bước chân về nước, ông Hồ không có một lực lượng gì đáng kể. Trong hai năm đầu (1945-46), ông không đặt trọng tâm vào nông thôn, vì các đảng “Quốc Gia” không có lực lượng chống đối ông trong các thôn xã hẻo lánh. Hơn nữa, đại đa số nông dân lúc đó rất thờ ơ với thời cuộc, tuy bao nhiêu năm họ đã bị thực dân và phong kiến bóc lột nên phải sống trong cảnh đói khổ cùng cực. Lại còn vụ đói kinh hồn năm Ất Dậu đã làm cho thôn quê miền Bắc hoàn toàn kiệt quệ về tinh thần cũng như thể xác, nên không còn bụng dạ nào nghĩ đến ủng hộ hay chống đối bất cứ một phong trào chính trị nào. Vì thế, ông Hồ chỉ cần lôi cuốn một số trí thức, và tiểu tư sản sinh trưởng nơi thành thị bằng lá bài “Cứu Quốc.” Ta cũng nên biết, giai cấp tiểu tư sản thành thị (nhất là đám trí thức) là thành phần biết rất nhiều về chính sách thực dân của Pháp, nên hồ hởi chui vào bẫy của ông Hồ. Trong khi đó, ông Hồ dùng phương pháp Lê-Nin-Nít (agitprop - vừa tuyên truyền vừa tiêu diệt thành phần đối lập trong các thành phố lớn) để trở thành “Bác,” một hình ảnh “cha già dân tộc.” (Chương trình tuyên truyền này quả là siêu việt, vì theo tiếng ta, “bác” còn có quyền uy hơn “cha” một bậc, dù sao “bác” là người anh của cha. Nhờ đó, “Bác” đã nắm trong tay một chút quyền uy, nhất là trong đám người yêu nước một cách rất ư là lãng mạn - “chỉ biết yêu thôi, mà chẳng biết gì” (thơ).
Sau khi tiêu diệt các đảng phái “Quốc Gia” ở các thành phố một cách dễ dàng vì các đảng này thiếu lãnh đạo, thiếu tổ chức, thiếu đoàn kết, thiếu sự ủng hộ quần chúng, “Bác” trở thành lãnh tụ tối cao, và “Ðảng” trở thành một tổ chức độc nhất nắm độc quyền “chống thực dân.” Khi chiến tranh bùng nổ, thành phần tiểu tư sản thành thị tản cư về nông thôn, tiếp tục hồ hởi giúp “Bác” tổ chức công cuộc chiến đấu dành độc lập. Ở đây, “Bác” phải cạnh tranh quyền uy với giới địa chủ vì nhóm người này có uy tín truyền thống trong đám nông dân đã bao nhiêu thế kỷ nay (tuy rằng giới địa chủ và phú nông thẳng tay lợi dụng cổ tục phong kiến để bóc lột các nông dân nghèo đói). Vì không đủ hậu thuẫn, “Bác” đành phải dựa vào giới tiểu tư sản thành thị đã tản cư về làng để thực hiện chương trình đánh đổ lực lượng “cường hào ác bá.” Các cô, các cậu từ tỉnh về sống nơi bùn lầy nước đọng tự nhiên cảm thấy có bổn phận phải theo “Bác” để giải quyết nạn “Lý Toét” và “Xã Xệ” mà nhóm Tự Lực Văn đoàn đã nhiều năm bôi nhọ trong báo Phong Hóa và Ngày Nay trước hồi 1945.
“Tôi Biết Sợ”: “Toàn Dân Trăm Người Như Một”... Ðều Biết Sợ (II)
(b) “Chữ Trung”
Nói đến trinh tiết và đạo đức mà không bàn qua về các đấng quân tử và những kẻ tiểu nhân thì thiệt là thiếu sót. Quả thực, tôi thấy tâm trạng hai loại người này cũng ná ná như tâm trạng các cô gái nhà lành và các cô gái điếm. Theo sự hiểu biết của tôi về Khổng giáo, tôi thấy các ông quân tử Tàu ngày xưa cũng rất lo lắng “giữ mình,” như mấy cô gái nhà lành vậy. Tuy các vị Nho gia không sợ mất “chữ trinh,” nhưng lại rất sợ mất chữ “chữ trung” (Ðịnh Lý 1), và rất khinh bỉ những tên tiểu nhân không biết sống theo “chữ trung,” có lẽ vì cảm thấy những tên tiểu nhân có một đời sống thảnh thơi hơn mình (Ðịnh Lý 2 và Ðịnh Lý 3).
Vậy các đấng quân tử lo sợ như thế nào? Câu hỏi này đã được cụ Trần Trọng Kim trình bày rõ ràng khi giải thích thuyết Trung Dung như sau:
“Nhân tâm nghĩa là cái phần sáng suốt riêng của người ta, tuy là một phần thiên lý ... nhưng thường hay bị vật dục làm bế tắc, hơi sai một ly là chếch lệch ngay, ... hễ sai một ly là mất cái trung rồi, cho nên ta phải lo sợ, phải cố hết sức mà giữ nó không trệch lệch.”[7]
Vì “chữ trung” thiêng liêng và “đáng giá ngàn vàng” như vậy, nên Tử Tư (“cháu ngoan” của cụ Khổng) đã phán rằng:
“Ðạo là cái chẳng nên rời xa giây phút nào, hễ rời ra được thì chẳng phải đạo nữa rồi. Vậy người quân tử răn đe và cẩn thận về những điều cho rõ [thêm về lý thuyết Trung Dung], e sợ ở những điều mình chưa nghe chắc [về lý thuyết]... vì vậy người quân tử giữ gìn cẩn thận trong khi chỉ một mình mình đối với mình...[8]
Nói một cách khác, nếu ta muốn trở thành một người quân tử và muốn giữ vững danh vị quân tử thì ta phải tự phê bình kiểm thảo hàng ngày, không khác gì một cán bộ trung kiên muốn trở thành “cháu ngoan” của “Bác”. Ôi, đời sống của người quân tử quả thiệt là gian truân! Còn gì khổ hơn là tự mình tẩy não mình, tự mình mở rộng cửa lòng của mình để cho một tên công an vô hình lẻn vào kiểm soát đầu óc của mình từng giờ từng phút! Thế cho nên tìm ra được một đấng quân tử, hay một “cháu ngoan của Bác” quả là khó hơn là đi mò kim dưới đáy biển Ðông. Cũng vì thế, ở trên cõi đời này, ta chỉ thấy đầy rẫy những tên “ngụy quân tử” giả nhân giả nghĩa, không khác gì những tên cán bộ “ngụy cách mạng,” nhân danh “tự do” để kìm kẹp dân, nhân danh “công bằng xã hội” để bóc lột dân. Nói tóm lại,
• Các đấng quân tử chỉ có một nỗi lo sợ: sợ không theo đúng giáo điều mà các “Thánh Hiền” đã “phịa” ra trong lúc ngồi rảnh rang, rồi bắt người đời phải triệt để tuân theo.
• Những tên “ngụy quân tử” lại có hai nỗi lo sợ: (1) sợ không đủ gian manh để che mắt thiên hạ, nên phải luôn luôn tìm đủ mọi cách cải tiến phương pháp lừa bịp; và (2) sợ người hiểu biết lật tẩy và lên án là đã đi ngược lại lời dạy của các “Thánh Hiền” (tuy rằng trong bụng coi “Thánh Hiền” như cỏ rác).
• Còn những kẻ tiểu nhân không sợ cái gì cả, nhất là không sợ người đời chê bai, nên sống rất ư là “ung dung tự tại,” theo đúng câu châm ngôn “Ai chửi mặc ai, tiền thầy bỏ túi” - không khác gì các cán bộ thối nát bị chửi sa sả mà vẫn “tỉnh bơ như người Hà-Nội” (thành ngữ mà người Miền Nam đã truyền khẩu cho nhau sau khi có dịp tiếp súc với đám cán bộ Miền Bắc).
2. “Bác” Sợ Các “Cháu”
Nhiều người thường nghĩ rằng dân sợ “Bác,” chứ ít ai cho rằng “Bác” sợ dân. Theo tôi nghĩ, “Bác” sống trong tình trạng lo sợ vì “Bác,” cũng như ba tên sư phụ của “Bác” (Lê-Nin, Sì-Ta-Lin và Mao) đều là thứ “ngụy quân tử,” tự vỗ ngực là con người Mác-Xít, nhưng không làm theo đúng những giáo điều mà “Thánh Hiền Các-Mác” đã dạy. Thực ra, có tên Mác-Xít nào theo đúng lý thuyết của Các Mác đâu? Ngay cả Các-Mác cũng chê bai những người mang danh “Mác-Xít” khi ông thanh minh rằng ông là Các-Mác chứ không phải là người Mác-Xít. [9] Vì thế, “Bác” (cũng như tất cả những lãnh tụ “Mác-Xít” khác) rất sợ bị lộ tẩy, nên tìm đủ mọi cách tiêu diệt những người sáng suốt đã nhận ra những cái sai lầm của “Bác.” (Thí dụ: “Bác” cũng như Mao-Trạch Ðông đã phong chức đám bần cố nông lên địa vị “giai cấp tiến bộ,” thay thế giai cấp thợ thuyền để làm cách mạng lao động; Lê-Nin cũng muốn đốt giai đoạn nên đã tiêu diệt đám Men-Sơ-Vích để nắm độc quyền, làm một cuộc cách mạng lao động cưỡng ép, trái với lối suy luận về “diễn tiến lịch sử” trong lý thuyết mà Các Mác đã sáng tác ra).
Hơn nữa, “Bác” lại là người gian ngoan nên cũng thừa biết là các “cháu” của “Bác” đều là một tụi “hư đốn,” không đủ “ý thức giai cấp lao động” (“proletarian class consciousness), nên “Bác” cũng sợ chúng lắm, vì bất cứ “thằng phải gió” nào cũng thèm cái địa vị độc tôn của “Bác”. Trong đám này, thế nào mà chẳng có thằng quá ư “đồi trụy” và liều lĩnh (tức là không biết sợ “Bác”), hễ có dịp là là lật tẩy “Bác,” và có thể cho “Bác” về hưu non, hoặc đi “mò tôm” như “Bác” đã ra lệnh dìm Khái Hưng xuống sông cho đến chết. Ðó là lý do tại sao “Bác” sợ các “cháu.” Cho nên “Bác” phải dùng mọi phương pháp khủng khiếp để làm cho các “cháu” sợ “Bác.” Cuối cùng, cả “Bác” lẫn “cháu” đều sợ lẫn nhau. [10]
Nói chung, bất cứ tên độc tài khát máu nào cũng bị dằn vặt bởi hai nỗi sợ: (1) sợ bị chỉ trích là đã sai lầm, và (2) sợ đám đàn em nổi lên cướp quyền sinh sát của mình. Ðến đây, tôi xin dựa trên những định lý về sợ hãi đã trình bày ở trên để đưa ra một số định lý về quyền lực như sau:
Ðịnh Lý 1 : Kẻ nào càng có nhiều quyền lực bao nhiêu, thì kẻ đó lại càng sợ mất quyền lực bấy nhiêu; hơn nữa, quyền lực tuyệt đối tạo ra nỗi lo sợ tuyệt đối.
Ta đã từng thấy người lãnh đạo trong các chế độ dân chủ pháp trị không có toàn quyền thống trị (vì bị ràng buộc bởi luật pháp), nên không mấy lo sợ dân nổi loạn, hoặc đám cận thần tạo phản. Trái lại, những tên độc tài khát máu thì ngày đêm lo sợ đến mức khiếp đảm (paranoia), nhìn đâu đâu cũng thấy kẻ thù. Do đó, chế độ độc tài nào cũng áp dụng triệt để chính sách “nhổ cỏ phải nhổ tận rễ,” đi đôi với chính sách “thà giết nhầm còn hơn thả nhầm.” Trái lại, người không có một chút quyền lực nào, kể cả quyền sinh sống thì không sợ giới quyền lực tước quyền của mình. Vì thế, hiện nay “Ðảng và Nhà Nước” rất sợ đám bần cố nông nổi lên “thí mạng cùi” (như vụ nổi loạn Thái Bình đã xẩy ra cách đây mấy năm). Trái lại, trong các nước dân chủ như ở Mỹ, người dân có đầy đủ nhân quyền, nên đại đa số rất sợ người nắm quyền lực trong tay tước đoạt mất quyền tự do và quyền sinh sống của mình (quyền “pursuit of happiness” trong Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Mỹ).
Ðịnh Lý 2: Ðộc quyền sinh sát tạo ra sự tranh dành nội bộ tàn bạo và những cuộc thanh trừng đẫm máu.
Ðộc quyền sinh sát tạo ra thèm muốn trong số những tên chưa nắm được quyền chúa tể. Thế là tranh dành nhau. Ðộc quyền này thường đi liền với khẩu hiệu “Thề phanh thây uống máu quân thù” (quốc ca Việt Nam XHCN). Khi “quân thù” không còn nữa, tất nhiên các đồng chí đành phải tiếp tục “phanh thây uống máu” lẫn nhau. Chuyện quá dễ hiểu nếu người nào tin vào lý thuyết “ác giả, ác báo” trong Phật giáo. Thí dụ như Sì-Ta-Lin lúc còn sống đã dùng tên chúa chùm công an Bê-Ria-A tiêu diệt hàng trăm ngàn đảng viên trung kiên chỉ vì những người này bị nghi ngờ là thuộc thành phần chống đối. Ðến lúc Sì-Ta-Lin qua đời, Bê-Ri-A được mời đến họp Bộ Chính Trị, thế là các đồng chí sợ tên đao phủ này lên nắm quyền lãnh đạo, bèn xúm nhau vào giết hắn ngay trong phòng họp. Mao Trạch Ðông cũng không thoát khỏi định lý này, nên trước khi nắm được quyền toàn trị đã tìm cách thanh toán những người ở địa vị cao hơn mình để chiếm quyền lãnh đạo đảng; đến khi leo lên tới địa vị chúa tể thì lại tìm cách loại bỏ những tên “công thần” manh nha muốn làm chúa tể. [11] Sống trong môi trường tranh dành vô giới hạn này, bất cứ tên nào nắm được quyền lực trong tay (dù ở thứ vị cao hay thấp) đều phải giữ thế thủ, bằng cách kéo bè bạn hoặc thân thuộc vào guồng máy đảng, và cho đám đàn em “ngồi dưới dù” được hưởng lợi nhuận bất chính của quyền lực. Ðó là nguyên nhân của nạn bè phái, thối nát trong tất cả mọi chế độ độc tài đảng trị.
Ðịnh Lý 3: Những người sợ mất quyền lực thường rất ghét những kẻ không biết sợ quyền lực.
Còn gì bực mình hơn nữa khi mang quyền lực ra hù đời mà người đời vẫn tỏ vẻ không sợ hãi. Người dùng quyền lực đi hù đời nếu gặp phải một người yếu thế không sợ hắn, hắn sẽ nổi cơn giận lôi đình, và dùng quyền lực đàn áp tàn bạo người không biết sợ. Hành động hung hãn này nhằm hai mục đích chính:
• Ðể tự chứng minh là hắn hãy còn nắm quyền lực trong tay, còn có khả năng hù đời (power testing).
• Ðể biểu diễn quyền lực làm cho những người yếu thế khác phải sợ hắn (power demonstration).
•
Ngay cả trong những chế độ tự do trọng luật, người nào bị cảnh sát công lộ chặn hỏi mà tỏ vẻ lễ độ với điệu bộ sợ hãi, thì dễ được khoan hồng hơn là người có vẻ mặt “xấc láo, đáng ghét.” Nếu can phạm nào bị điệu ra tòa mà biết sợ hãi và tỏ vẻ hối hận (plead guilty) thì quan tòa cũng không nỡ mạnh tay trừng phạt. Trái lại, những tên can phạm nào đã có bộ mặt “cô hồn,” rồi lại còn không biết đóng vở kịch “Em lỡ chót dại, xin quan tòa khoan hồng” thì tất nhiên sẽ được “lãnh đủ.” Khi bị bắt vào tù rồi mà can phạm vẫn không có vẻ sợ hãi đám cai ngục thì sẽ bị hành hạ (biệt giam), và còn có thể bị xếp vào loại người “bất trị” nên mất luôn quyền được tạm tha trước khi mãn hạn tù (parole). Còn trong các trại “cải tạo” thì khỏi cần phải nói nhiều về quyền sinh sát của các tên “quản giáo” ngu dốt, thiếu tự tin nên trở nên kiêu căng quá lố; nạn nhân nào muốn được “nhân dân khoan hồng” đều không dám làm trái ý những tên hung thần này. [12]
Nói đến trinh tiết và đạo đức mà không bàn qua về các đấng quân tử và những kẻ tiểu nhân thì thiệt là thiếu sót. Quả thực, tôi thấy tâm trạng hai loại người này cũng ná ná như tâm trạng các cô gái nhà lành và các cô gái điếm. Theo sự hiểu biết của tôi về Khổng giáo, tôi thấy các ông quân tử Tàu ngày xưa cũng rất lo lắng “giữ mình,” như mấy cô gái nhà lành vậy. Tuy các vị Nho gia không sợ mất “chữ trinh,” nhưng lại rất sợ mất chữ “chữ trung” (Ðịnh Lý 1), và rất khinh bỉ những tên tiểu nhân không biết sống theo “chữ trung,” có lẽ vì cảm thấy những tên tiểu nhân có một đời sống thảnh thơi hơn mình (Ðịnh Lý 2 và Ðịnh Lý 3).
Vậy các đấng quân tử lo sợ như thế nào? Câu hỏi này đã được cụ Trần Trọng Kim trình bày rõ ràng khi giải thích thuyết Trung Dung như sau:
“Nhân tâm nghĩa là cái phần sáng suốt riêng của người ta, tuy là một phần thiên lý ... nhưng thường hay bị vật dục làm bế tắc, hơi sai một ly là chếch lệch ngay, ... hễ sai một ly là mất cái trung rồi, cho nên ta phải lo sợ, phải cố hết sức mà giữ nó không trệch lệch.”[7]
Vì “chữ trung” thiêng liêng và “đáng giá ngàn vàng” như vậy, nên Tử Tư (“cháu ngoan” của cụ Khổng) đã phán rằng:
“Ðạo là cái chẳng nên rời xa giây phút nào, hễ rời ra được thì chẳng phải đạo nữa rồi. Vậy người quân tử răn đe và cẩn thận về những điều cho rõ [thêm về lý thuyết Trung Dung], e sợ ở những điều mình chưa nghe chắc [về lý thuyết]... vì vậy người quân tử giữ gìn cẩn thận trong khi chỉ một mình mình đối với mình...[8]
Nói một cách khác, nếu ta muốn trở thành một người quân tử và muốn giữ vững danh vị quân tử thì ta phải tự phê bình kiểm thảo hàng ngày, không khác gì một cán bộ trung kiên muốn trở thành “cháu ngoan” của “Bác”. Ôi, đời sống của người quân tử quả thiệt là gian truân! Còn gì khổ hơn là tự mình tẩy não mình, tự mình mở rộng cửa lòng của mình để cho một tên công an vô hình lẻn vào kiểm soát đầu óc của mình từng giờ từng phút! Thế cho nên tìm ra được một đấng quân tử, hay một “cháu ngoan của Bác” quả là khó hơn là đi mò kim dưới đáy biển Ðông. Cũng vì thế, ở trên cõi đời này, ta chỉ thấy đầy rẫy những tên “ngụy quân tử” giả nhân giả nghĩa, không khác gì những tên cán bộ “ngụy cách mạng,” nhân danh “tự do” để kìm kẹp dân, nhân danh “công bằng xã hội” để bóc lột dân. Nói tóm lại,
• Các đấng quân tử chỉ có một nỗi lo sợ: sợ không theo đúng giáo điều mà các “Thánh Hiền” đã “phịa” ra trong lúc ngồi rảnh rang, rồi bắt người đời phải triệt để tuân theo.
• Những tên “ngụy quân tử” lại có hai nỗi lo sợ: (1) sợ không đủ gian manh để che mắt thiên hạ, nên phải luôn luôn tìm đủ mọi cách cải tiến phương pháp lừa bịp; và (2) sợ người hiểu biết lật tẩy và lên án là đã đi ngược lại lời dạy của các “Thánh Hiền” (tuy rằng trong bụng coi “Thánh Hiền” như cỏ rác).
• Còn những kẻ tiểu nhân không sợ cái gì cả, nhất là không sợ người đời chê bai, nên sống rất ư là “ung dung tự tại,” theo đúng câu châm ngôn “Ai chửi mặc ai, tiền thầy bỏ túi” - không khác gì các cán bộ thối nát bị chửi sa sả mà vẫn “tỉnh bơ như người Hà-Nội” (thành ngữ mà người Miền Nam đã truyền khẩu cho nhau sau khi có dịp tiếp súc với đám cán bộ Miền Bắc).
2. “Bác” Sợ Các “Cháu”
Nhiều người thường nghĩ rằng dân sợ “Bác,” chứ ít ai cho rằng “Bác” sợ dân. Theo tôi nghĩ, “Bác” sống trong tình trạng lo sợ vì “Bác,” cũng như ba tên sư phụ của “Bác” (Lê-Nin, Sì-Ta-Lin và Mao) đều là thứ “ngụy quân tử,” tự vỗ ngực là con người Mác-Xít, nhưng không làm theo đúng những giáo điều mà “Thánh Hiền Các-Mác” đã dạy. Thực ra, có tên Mác-Xít nào theo đúng lý thuyết của Các Mác đâu? Ngay cả Các-Mác cũng chê bai những người mang danh “Mác-Xít” khi ông thanh minh rằng ông là Các-Mác chứ không phải là người Mác-Xít. [9] Vì thế, “Bác” (cũng như tất cả những lãnh tụ “Mác-Xít” khác) rất sợ bị lộ tẩy, nên tìm đủ mọi cách tiêu diệt những người sáng suốt đã nhận ra những cái sai lầm của “Bác.” (Thí dụ: “Bác” cũng như Mao-Trạch Ðông đã phong chức đám bần cố nông lên địa vị “giai cấp tiến bộ,” thay thế giai cấp thợ thuyền để làm cách mạng lao động; Lê-Nin cũng muốn đốt giai đoạn nên đã tiêu diệt đám Men-Sơ-Vích để nắm độc quyền, làm một cuộc cách mạng lao động cưỡng ép, trái với lối suy luận về “diễn tiến lịch sử” trong lý thuyết mà Các Mác đã sáng tác ra).
Hơn nữa, “Bác” lại là người gian ngoan nên cũng thừa biết là các “cháu” của “Bác” đều là một tụi “hư đốn,” không đủ “ý thức giai cấp lao động” (“proletarian class consciousness), nên “Bác” cũng sợ chúng lắm, vì bất cứ “thằng phải gió” nào cũng thèm cái địa vị độc tôn của “Bác”. Trong đám này, thế nào mà chẳng có thằng quá ư “đồi trụy” và liều lĩnh (tức là không biết sợ “Bác”), hễ có dịp là là lật tẩy “Bác,” và có thể cho “Bác” về hưu non, hoặc đi “mò tôm” như “Bác” đã ra lệnh dìm Khái Hưng xuống sông cho đến chết. Ðó là lý do tại sao “Bác” sợ các “cháu.” Cho nên “Bác” phải dùng mọi phương pháp khủng khiếp để làm cho các “cháu” sợ “Bác.” Cuối cùng, cả “Bác” lẫn “cháu” đều sợ lẫn nhau. [10]
Nói chung, bất cứ tên độc tài khát máu nào cũng bị dằn vặt bởi hai nỗi sợ: (1) sợ bị chỉ trích là đã sai lầm, và (2) sợ đám đàn em nổi lên cướp quyền sinh sát của mình. Ðến đây, tôi xin dựa trên những định lý về sợ hãi đã trình bày ở trên để đưa ra một số định lý về quyền lực như sau:
Ðịnh Lý 1 : Kẻ nào càng có nhiều quyền lực bao nhiêu, thì kẻ đó lại càng sợ mất quyền lực bấy nhiêu; hơn nữa, quyền lực tuyệt đối tạo ra nỗi lo sợ tuyệt đối.
Ta đã từng thấy người lãnh đạo trong các chế độ dân chủ pháp trị không có toàn quyền thống trị (vì bị ràng buộc bởi luật pháp), nên không mấy lo sợ dân nổi loạn, hoặc đám cận thần tạo phản. Trái lại, những tên độc tài khát máu thì ngày đêm lo sợ đến mức khiếp đảm (paranoia), nhìn đâu đâu cũng thấy kẻ thù. Do đó, chế độ độc tài nào cũng áp dụng triệt để chính sách “nhổ cỏ phải nhổ tận rễ,” đi đôi với chính sách “thà giết nhầm còn hơn thả nhầm.” Trái lại, người không có một chút quyền lực nào, kể cả quyền sinh sống thì không sợ giới quyền lực tước quyền của mình. Vì thế, hiện nay “Ðảng và Nhà Nước” rất sợ đám bần cố nông nổi lên “thí mạng cùi” (như vụ nổi loạn Thái Bình đã xẩy ra cách đây mấy năm). Trái lại, trong các nước dân chủ như ở Mỹ, người dân có đầy đủ nhân quyền, nên đại đa số rất sợ người nắm quyền lực trong tay tước đoạt mất quyền tự do và quyền sinh sống của mình (quyền “pursuit of happiness” trong Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Mỹ).
Ðịnh Lý 2: Ðộc quyền sinh sát tạo ra sự tranh dành nội bộ tàn bạo và những cuộc thanh trừng đẫm máu.
Ðộc quyền sinh sát tạo ra thèm muốn trong số những tên chưa nắm được quyền chúa tể. Thế là tranh dành nhau. Ðộc quyền này thường đi liền với khẩu hiệu “Thề phanh thây uống máu quân thù” (quốc ca Việt Nam XHCN). Khi “quân thù” không còn nữa, tất nhiên các đồng chí đành phải tiếp tục “phanh thây uống máu” lẫn nhau. Chuyện quá dễ hiểu nếu người nào tin vào lý thuyết “ác giả, ác báo” trong Phật giáo. Thí dụ như Sì-Ta-Lin lúc còn sống đã dùng tên chúa chùm công an Bê-Ria-A tiêu diệt hàng trăm ngàn đảng viên trung kiên chỉ vì những người này bị nghi ngờ là thuộc thành phần chống đối. Ðến lúc Sì-Ta-Lin qua đời, Bê-Ri-A được mời đến họp Bộ Chính Trị, thế là các đồng chí sợ tên đao phủ này lên nắm quyền lãnh đạo, bèn xúm nhau vào giết hắn ngay trong phòng họp. Mao Trạch Ðông cũng không thoát khỏi định lý này, nên trước khi nắm được quyền toàn trị đã tìm cách thanh toán những người ở địa vị cao hơn mình để chiếm quyền lãnh đạo đảng; đến khi leo lên tới địa vị chúa tể thì lại tìm cách loại bỏ những tên “công thần” manh nha muốn làm chúa tể. [11] Sống trong môi trường tranh dành vô giới hạn này, bất cứ tên nào nắm được quyền lực trong tay (dù ở thứ vị cao hay thấp) đều phải giữ thế thủ, bằng cách kéo bè bạn hoặc thân thuộc vào guồng máy đảng, và cho đám đàn em “ngồi dưới dù” được hưởng lợi nhuận bất chính của quyền lực. Ðó là nguyên nhân của nạn bè phái, thối nát trong tất cả mọi chế độ độc tài đảng trị.
Ðịnh Lý 3: Những người sợ mất quyền lực thường rất ghét những kẻ không biết sợ quyền lực.
Còn gì bực mình hơn nữa khi mang quyền lực ra hù đời mà người đời vẫn tỏ vẻ không sợ hãi. Người dùng quyền lực đi hù đời nếu gặp phải một người yếu thế không sợ hắn, hắn sẽ nổi cơn giận lôi đình, và dùng quyền lực đàn áp tàn bạo người không biết sợ. Hành động hung hãn này nhằm hai mục đích chính:
• Ðể tự chứng minh là hắn hãy còn nắm quyền lực trong tay, còn có khả năng hù đời (power testing).
• Ðể biểu diễn quyền lực làm cho những người yếu thế khác phải sợ hắn (power demonstration).
•
Ngay cả trong những chế độ tự do trọng luật, người nào bị cảnh sát công lộ chặn hỏi mà tỏ vẻ lễ độ với điệu bộ sợ hãi, thì dễ được khoan hồng hơn là người có vẻ mặt “xấc láo, đáng ghét.” Nếu can phạm nào bị điệu ra tòa mà biết sợ hãi và tỏ vẻ hối hận (plead guilty) thì quan tòa cũng không nỡ mạnh tay trừng phạt. Trái lại, những tên can phạm nào đã có bộ mặt “cô hồn,” rồi lại còn không biết đóng vở kịch “Em lỡ chót dại, xin quan tòa khoan hồng” thì tất nhiên sẽ được “lãnh đủ.” Khi bị bắt vào tù rồi mà can phạm vẫn không có vẻ sợ hãi đám cai ngục thì sẽ bị hành hạ (biệt giam), và còn có thể bị xếp vào loại người “bất trị” nên mất luôn quyền được tạm tha trước khi mãn hạn tù (parole). Còn trong các trại “cải tạo” thì khỏi cần phải nói nhiều về quyền sinh sát của các tên “quản giáo” ngu dốt, thiếu tự tin nên trở nên kiêu căng quá lố; nạn nhân nào muốn được “nhân dân khoan hồng” đều không dám làm trái ý những tên hung thần này. [12]
Nỗi Sợ Vẩn Vơ
Trước hết, tôi không muốn những bạn bè thân thuộc tôi quá u sầu về chuyến “ngao du” của tôi. Do đó, tôi đã trình bày cho mọi người biết rằng khi “chuyến xe buýt” tới, tôi sẽ thản nhiên “ra đi” như tất cả mọi người khác đã từng “ra đi.” Tôi sẽ “đi” về đâu? Có lẽ tôi sẽ về với bố mẹ tôi. Có lẽ tôi sẽ ngao du vùng tiên cảnh cùng với bạn bè tôi. Dù sao đi chăng nữa, tôi không cần biết tôi sẽ “đi” đâu, vì có biết hay không biết thì tôi và những người thân thuộc của tôi cũng chẳng làm được gì cả.
Sau đó, việc tôi phải làm trước khi “ra đi” là sửa sang lặt vặt trong nhà, vì vợ tôi không phải là một người khéo tay biết sửa chữa nhà cửa. Ngoài ra, những gì của tôi mà tôi thấy không cần dùng cho bản thân tôi hoặc cho “người ở lại,” tôi mang đi cho người khác, hoặc đổ vào thùng rác. Khi tôi quẳng đi gần hai ngàn quyển sách của tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Trái lại, vợ tôi rất xúc động, và hỏi tôi:
– Những cuốn sách này là kỷ niệm gần 40 năm dạy học, tại sao anh vất đi?
– Anh không cần nữa.
– Thì cứ để đấy, đôi khi anh muốn đọc lại thì sao?
– Ðọc đi, đọc lại làm gì? Người ta lại tưởng rằng anh dốt, học mãi mà chưa thuộc bài.
Sau khi dọn dẹp nhà cửa, tôi bắt đầu nghĩ đến phí tổn chôn cất. Tôi thấy ở Ottawa mấy gia đình mà tôi quen biết đã chi phí trên 15 ngàn dollars cho mỗi vụ ma chay. Tôi tính nhẩm trong đầu thì thấy rằng chỉ trong vài chục năm nữa, cộng đồng người Việt ở Ottawa (hơn bốn ngàn nhân mạng) sẽ phải chi cho Nhà Ðòn và nghĩa địa một tổng số vào khoảng 60 triệu dollars (không kể tiền chi cho các vị tu sĩ cúng lễ, cùng tiền bạn bè bỏ ra mua hoa phúng viếng). Như vậy, phí tổn ma chay cho nửa triệu người Việt đang sinh sống ở Bắc Mỹ sẽ lên tới gần 8 tỷ dollars – bằng tiền viện trợ mà những nước tư bản kiêm tài phiệt đã cấp cho “Ðảng ta” trong một khoảng thời gian kéo dài hơn bốn năm trời. Thiệt là oai hùng! Thiệt là vĩ đại!
Ðể biết rõ chi tiết của vấn đề, tôi bèn mời một đại diện Nhà Ðòn quen biết ở Ottawa tới bàn chuyện ma chay cho tôi. Ông “tiếp thị” (salesman), quần áo chỉnh tề, mặt trang nghiêm và đầy kính cẩn, ăn nói nhẹ nhàng và từ tốn trong khi trình bày giá cả cho tôi nghe. Tập tài liệu về giá biểu in rất đẹp như tờ thực đơn của một tiệm ăn sang trọng ở Paris (năm sao). Ðiều quan trọng mà mọi người nên biết là “người mua” không được kỳ kèo về giá cả, vì Nhà Ðòn làm ăn đàng hoàng “trước sau như một,” không khác gì “Bác và Ðảng” đã đối xử với dân ta hơn nửa thế kỷ nay.
Tôi đọc kỹ tờ giá biểu, rồi tham khảo với các bạn bè, tôi thấy rõ phí tổn nặng nề mà “người ở lại” phải chi cho Nhà Ðòn ở Canada (có lẽ cũng tương tự như ở bên Mỹ). Ðể có một thí dụ cụ thể, tôi xin liệt kê sau đây các “món hàng” căn bản mà Nhà đòn Tubman đã trình cho tôi:
(1) Dịch Vụ Chuyên Môn (Professional Services)
• 900$ – dịch vụ do các chuyên viên Nhà Ðòn cung cấp (professional and support staff services);
• 250$ – giấy tờ lên quan đến vấn đề khai tử (documentation);
• 125$ – dịch vụ ở nghĩa địa hoặc công việc trao lọ đựng tro cho thân nhân (gravesides service or delivery of urn as arranged).
(2) Dịch Vụ Chăm Lo “Người Ra đi” (Prrofessional Care of Deceased)
• 200$ – tắm rửa và làm vệ sinh cho “người ra đi” (sanitary care of deceased);
• 570$ – ướp xác và trang điểm “người ra đi” (embalming and cosmetology of deceased).
(3) Phòng Ốc Và Dụng Cụ
• 400$ – xử dụng Nhà Ðòn (basic use of funeral home);
• 990$ – xử dụng phòng thăm viếng, phòng làm lễ và những dụng cụ (visitation room, chepel, and/or service equipment);
• 225$ – xử dụng phòng sửa soạn và gìn giữ xác “người ra đi” (use of facilities for preparation of deceased and/or shelter of remains).
(4) Xe Cộ Và Vận Chuyển (Automotiles and Transportation)
• 295$ – chuyển xác về Nhà Ðòn (transfer from place of death ố radius 40 km);
• 200$ – xe cộ cần dùng cho các nhân viên Nhà Ðòn (vehicles required for administrative tasks, clergy, funeral director);
• 270$ – xe chở quan tài ra nghĩa địa (funeral coach);
• 125$ – xe limousine chở thân nhân.
(5) Chi Phí Cho Thành Phố
• 75$ – khám nghiệm tử thi.
• 52$ – thuế vệ sinh cho thành phố.
(6) Phí Tổn Mai Táng
• 3,700$ (trung bình) – Tiền mua quan tài tùy theo loại sang hay hèn, đúng theo giai cấp: từ thứ rẻ nhất là vải quấn xác (890$) cho tới quan tài rẻ tiền bằng gỗ ván ép (1,695$), tới loại quan tài vừa đẹp vừa bền dành cho các nhà giầu thích sài sang (11,000$);
• 5,500$ – Tiền mua chỗ “An Nghỉ Ngàn Thu” (R.I.P - Rest In Peace ) tại nghĩa địa: miếng đất to hơn cái giường đáng giá khoảng chừng 5,500$;
• 1,000$ – Tiền dựng mộ bia tùy theo túi tiền của mỗi người (từ 1,000$ cho tới 5,000$, hoặc nhiều hơn nữa).
Tôi đọc tờ giá biểu thấy nhân dân ta bị Nhà Ðòn và Nhà Nước làm tiền một cách rất là quy củ. Không những thế, ông “tiếp thị” lại còn khuyến khích tôi “mua” nhiều món “hàng” khác vừa đắt tiền, vừa... vô dụng. Tôi bèn chặn lại với một câu hỏi rất ư là “rẻ tiền”:
– Mai táng kiểu nào rẻ tiền nhất?
Hắn ngỡ ngang vì đang “rao hàng” thì bị cụt hứng. Nhưng ngay sau đó, hắn mỉm cười, rồi nhìn tôi một cách rất ư là đại lượng:
– Ông thích chơi trò rẻ tiền thì ông nên chọn con đường hỏa táng, vì ông sẽ không mất tiền chi phí chôn cất và mua đất ở nghĩa địa.
– Ngoài tiền hỏa táng ra, còn có mục chi phí nào khác nữa không.
– Có chứ. Thân xác của ông sẽ được tắm rửa, thoa son đánh phấn, và được đặt trong một cỗ quan tài thiệt đẹp. Chúng tôi sẻ tổ chức linh đình cho ông. Ai trông thấy nằm đó cũng phải thèm cái địa vị của ông.
– Nếu tôi thích đi con đường hỏa táng, thì tôi đâu có cần mua quan tài làm gì cho tốn tiền?
Lần này hắn nhìn tôi một cách khinh thường ra mặt, và nói với một giọng mỉa mai:
– Ông cũng cần phải được trang điểm và nằm trong một cỗ quan tài đàng hoàng khi bạn bè thân thuộc đến thăm viếng ông lần cuối cùng. Trưng bày thân xác ra như vậy mới là người đàng hoàng chứ! Tuy nhiên, nếu ông thích bủn xỉn, thì cũng không sao. Chúng tôi cũng có thể chiều ông được. Ðáng lẽ ông mua một cỗ quan tài rẻ tiền, ông có thể thuê một cỗ quan tài sang nhất hạng. Cỗ này đáng giá 11,000$. Những người giầu sang mua loại này, rồi mang đi chôn hay đốt cùng với cái xác của họ. Nhưng nếu ông mướn cỗ quan tài này, để nằm vài ba bữa, lấy le với bà con lối xóm, thì ông chỉ phải trả tiền thuê là 2,850$. Thiệt là rẻ mạt! Làm sao mà người đời biết được rằng ông là người hà tiện, đến lúc “nằm xuống” mà còn không dám bỏ tiền ra mua một cỗ quan tài để nằm cho thoải mái.
– Nhưng tôi không muốn “trình làng nước” cái thân thể xám ngắt của tôi cho mọi người chiêm ngưỡng thì sao?
Hắn thở dài đến sượt một cái như một thầy giáo làng nhìn thằng học trò bướng bỉnh lại còn có tật cù nhầy:
– Làm như vậy cũng bớt được vài ngàn: tiền son phấn, tiền thuê quan tài, tiền thuê Nhà Ðòn v.v.. Mà ông cũng không cần phải chi cho các vị tu sĩ đến tụng kinh gõ mõ tùm lum trong Nhà Ðòn của chúng tôi làm gì. Thế là ông đỡ thêm được vài ba trăm nữa. Ðối với hạng người “rẻ tiền” như ông, đỡ được trăm nào hay trăm đó, có phải không?
Thằng cha “tiếp thị” cho tôi là người bủn xỉn nên có vẻ bực mình lắm. Hắn chỉ muốn thu được nhiều tiền cho chủ Nhà Ðòn để được ăn nhiều tiền hoa hồng do gia đình “người ra đi” cung phụng. Vì thế, mỗi lần tôi bớt được món chi phí nào là hắn có vẻ đau đớn như đang bị bà nha sĩ nhổ một cái răng hàm bự trong mồm. Cuối cùng, tôi chọn một chương trình hỏa táng hợp với ý tôi. Tổng số tiền tôi phải chi ra là 2,709.24$ cho những mục như sau:
• tiền giấy tờ (khám nghiệm xác chết, giấy khai tử, v.v.);
• tiền xe đưa xác tôi từ nhà xác đến Nhà Ðòn;
• tiền hòm bằng giấy cứng (50$) đựng xác chết để mang đi hỏa táng;
• tiền đưa hòm xác tới lò đốt (không có vụ bầy biện thân xác ra cho mọi người “dòm ngó”);
• tiền đốt xác;
• tiền hộp đựng tro để trao cho vợ tôi mang đi thả xuống biển (tôi mua loại rẻ tiền nhất nên chỉ tốn có 20$; còn loại sang và đẹp thì lên tới 500$);
• tiền thuế trả cho thành phố, tiểu bang, và liên bang.
Người “tiếp thị” đại diện Nhà Ðòn Tubman và tôi cùng ký vào tờ khế ước (bốn bản). Sau đó, tôi hân hoan trao cho hắn tấm ngân phiếu 2,709.24$. Tôi phải trả tiền trước. Ðối với tôi, điều này rất thuận tiện, vì sau này giá cả có gia tăng thì Nhà Ðòn ráng mà chịu, chứ những “người ở lại” không còn phải lo lắng điều gì cho “người ra đi.”
Khi vợ tôi đi làm về, tôi hý hửng đưa cho cô nàng xem tờ khế ước. Thế là cô nàng khóc bù lu bù loa, rồi hỏi tôi một câu mà tôi cho là lãng nhách:
– Trong cả cuộc đời của anh, anh chỉ thích chơi sang. Tại sao đến cuối cuộc đời, anh lại định chết một cách rẻ tiền như vậy?
– Em hỏi một câu thiệt là lãng nhách! Thế nào là chết rẻ tiền? Chết sang thì đi đến đâu? Mang tiền ra cúng Nhà Ðòn và Nhà Nước làm gì? Chúng nó làm gì có quyền cấp visa cho anh vào Thiền Ðàng, hay vào Vùng Cực Lạc. Việc gì mình phải “đút lót” chúng nó? Dù sao anh cũng “save” hơn 12,000$, chứ đâu có phải là ít.
– Em không cần món tiền đó đâu!
– Nếu em không cần số tiền đó, thì em mang nó đi giúp người nghèo, có sao đâu? Ða số dân ta hiện đang sống trong cảnh nghèo túng. Em có biết rằng nếu em mang 12,000$ về Việt Nam, em có thể nuôi hơn 60 em mồ côi trong một năm. Như vậy, anh là người “chết sang” hay là người “chết rẻ tiền”?
Thấy tôi lý luận như vậy, cô nàng vừa lau nước mắt vừa cười đùa:
– Thôi, anh muốn chết kiểu nào cũng được. Cái đó tùy anh. Nếu anh “ra đi” trước em, em sẽ chúc anh theo kiểu Tàu: “Thượng Lộ Bình An,” và xin anh “Bảo Trọng.”
– Vậy, trước khi “ra đi,” anh sẽ chào em theo kiểu Mỹ: “Hẹn Ngày Tái Ngộ” – “See You Later.”
Sau đó, việc tôi phải làm trước khi “ra đi” là sửa sang lặt vặt trong nhà, vì vợ tôi không phải là một người khéo tay biết sửa chữa nhà cửa. Ngoài ra, những gì của tôi mà tôi thấy không cần dùng cho bản thân tôi hoặc cho “người ở lại,” tôi mang đi cho người khác, hoặc đổ vào thùng rác. Khi tôi quẳng đi gần hai ngàn quyển sách của tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Trái lại, vợ tôi rất xúc động, và hỏi tôi:
– Những cuốn sách này là kỷ niệm gần 40 năm dạy học, tại sao anh vất đi?
– Anh không cần nữa.
– Thì cứ để đấy, đôi khi anh muốn đọc lại thì sao?
– Ðọc đi, đọc lại làm gì? Người ta lại tưởng rằng anh dốt, học mãi mà chưa thuộc bài.
Sau khi dọn dẹp nhà cửa, tôi bắt đầu nghĩ đến phí tổn chôn cất. Tôi thấy ở Ottawa mấy gia đình mà tôi quen biết đã chi phí trên 15 ngàn dollars cho mỗi vụ ma chay. Tôi tính nhẩm trong đầu thì thấy rằng chỉ trong vài chục năm nữa, cộng đồng người Việt ở Ottawa (hơn bốn ngàn nhân mạng) sẽ phải chi cho Nhà Ðòn và nghĩa địa một tổng số vào khoảng 60 triệu dollars (không kể tiền chi cho các vị tu sĩ cúng lễ, cùng tiền bạn bè bỏ ra mua hoa phúng viếng). Như vậy, phí tổn ma chay cho nửa triệu người Việt đang sinh sống ở Bắc Mỹ sẽ lên tới gần 8 tỷ dollars – bằng tiền viện trợ mà những nước tư bản kiêm tài phiệt đã cấp cho “Ðảng ta” trong một khoảng thời gian kéo dài hơn bốn năm trời. Thiệt là oai hùng! Thiệt là vĩ đại!
Ðể biết rõ chi tiết của vấn đề, tôi bèn mời một đại diện Nhà Ðòn quen biết ở Ottawa tới bàn chuyện ma chay cho tôi. Ông “tiếp thị” (salesman), quần áo chỉnh tề, mặt trang nghiêm và đầy kính cẩn, ăn nói nhẹ nhàng và từ tốn trong khi trình bày giá cả cho tôi nghe. Tập tài liệu về giá biểu in rất đẹp như tờ thực đơn của một tiệm ăn sang trọng ở Paris (năm sao). Ðiều quan trọng mà mọi người nên biết là “người mua” không được kỳ kèo về giá cả, vì Nhà Ðòn làm ăn đàng hoàng “trước sau như một,” không khác gì “Bác và Ðảng” đã đối xử với dân ta hơn nửa thế kỷ nay.
Tôi đọc kỹ tờ giá biểu, rồi tham khảo với các bạn bè, tôi thấy rõ phí tổn nặng nề mà “người ở lại” phải chi cho Nhà Ðòn ở Canada (có lẽ cũng tương tự như ở bên Mỹ). Ðể có một thí dụ cụ thể, tôi xin liệt kê sau đây các “món hàng” căn bản mà Nhà đòn Tubman đã trình cho tôi:
(1) Dịch Vụ Chuyên Môn (Professional Services)
• 900$ – dịch vụ do các chuyên viên Nhà Ðòn cung cấp (professional and support staff services);
• 250$ – giấy tờ lên quan đến vấn đề khai tử (documentation);
• 125$ – dịch vụ ở nghĩa địa hoặc công việc trao lọ đựng tro cho thân nhân (gravesides service or delivery of urn as arranged).
(2) Dịch Vụ Chăm Lo “Người Ra đi” (Prrofessional Care of Deceased)
• 200$ – tắm rửa và làm vệ sinh cho “người ra đi” (sanitary care of deceased);
• 570$ – ướp xác và trang điểm “người ra đi” (embalming and cosmetology of deceased).
(3) Phòng Ốc Và Dụng Cụ
• 400$ – xử dụng Nhà Ðòn (basic use of funeral home);
• 990$ – xử dụng phòng thăm viếng, phòng làm lễ và những dụng cụ (visitation room, chepel, and/or service equipment);
• 225$ – xử dụng phòng sửa soạn và gìn giữ xác “người ra đi” (use of facilities for preparation of deceased and/or shelter of remains).
(4) Xe Cộ Và Vận Chuyển (Automotiles and Transportation)
• 295$ – chuyển xác về Nhà Ðòn (transfer from place of death ố radius 40 km);
• 200$ – xe cộ cần dùng cho các nhân viên Nhà Ðòn (vehicles required for administrative tasks, clergy, funeral director);
• 270$ – xe chở quan tài ra nghĩa địa (funeral coach);
• 125$ – xe limousine chở thân nhân.
Chi phí căn bản cho Nhà Ðòn là $5,604.03 (gồm cả thuế)
(5) Chi Phí Cho Thành Phố
• 75$ – khám nghiệm tử thi.
• 52$ – thuế vệ sinh cho thành phố.
(6) Phí Tổn Mai Táng
• 3,700$ (trung bình) – Tiền mua quan tài tùy theo loại sang hay hèn, đúng theo giai cấp: từ thứ rẻ nhất là vải quấn xác (890$) cho tới quan tài rẻ tiền bằng gỗ ván ép (1,695$), tới loại quan tài vừa đẹp vừa bền dành cho các nhà giầu thích sài sang (11,000$);
• 5,500$ – Tiền mua chỗ “An Nghỉ Ngàn Thu” (R.I.P - Rest In Peace ) tại nghĩa địa: miếng đất to hơn cái giường đáng giá khoảng chừng 5,500$;
• 1,000$ – Tiền dựng mộ bia tùy theo túi tiền của mỗi người (từ 1,000$ cho tới 5,000$, hoặc nhiều hơn nữa).
Chi phí mai táng trung bình khoảng chừng $13,000
Tôi đọc tờ giá biểu thấy nhân dân ta bị Nhà Ðòn và Nhà Nước làm tiền một cách rất là quy củ. Không những thế, ông “tiếp thị” lại còn khuyến khích tôi “mua” nhiều món “hàng” khác vừa đắt tiền, vừa... vô dụng. Tôi bèn chặn lại với một câu hỏi rất ư là “rẻ tiền”:
– Mai táng kiểu nào rẻ tiền nhất?
Hắn ngỡ ngang vì đang “rao hàng” thì bị cụt hứng. Nhưng ngay sau đó, hắn mỉm cười, rồi nhìn tôi một cách rất ư là đại lượng:
– Ông thích chơi trò rẻ tiền thì ông nên chọn con đường hỏa táng, vì ông sẽ không mất tiền chi phí chôn cất và mua đất ở nghĩa địa.
– Ngoài tiền hỏa táng ra, còn có mục chi phí nào khác nữa không.
– Có chứ. Thân xác của ông sẽ được tắm rửa, thoa son đánh phấn, và được đặt trong một cỗ quan tài thiệt đẹp. Chúng tôi sẻ tổ chức linh đình cho ông. Ai trông thấy nằm đó cũng phải thèm cái địa vị của ông.
– Nếu tôi thích đi con đường hỏa táng, thì tôi đâu có cần mua quan tài làm gì cho tốn tiền?
Lần này hắn nhìn tôi một cách khinh thường ra mặt, và nói với một giọng mỉa mai:
– Ông cũng cần phải được trang điểm và nằm trong một cỗ quan tài đàng hoàng khi bạn bè thân thuộc đến thăm viếng ông lần cuối cùng. Trưng bày thân xác ra như vậy mới là người đàng hoàng chứ! Tuy nhiên, nếu ông thích bủn xỉn, thì cũng không sao. Chúng tôi cũng có thể chiều ông được. Ðáng lẽ ông mua một cỗ quan tài rẻ tiền, ông có thể thuê một cỗ quan tài sang nhất hạng. Cỗ này đáng giá 11,000$. Những người giầu sang mua loại này, rồi mang đi chôn hay đốt cùng với cái xác của họ. Nhưng nếu ông mướn cỗ quan tài này, để nằm vài ba bữa, lấy le với bà con lối xóm, thì ông chỉ phải trả tiền thuê là 2,850$. Thiệt là rẻ mạt! Làm sao mà người đời biết được rằng ông là người hà tiện, đến lúc “nằm xuống” mà còn không dám bỏ tiền ra mua một cỗ quan tài để nằm cho thoải mái.
– Nhưng tôi không muốn “trình làng nước” cái thân thể xám ngắt của tôi cho mọi người chiêm ngưỡng thì sao?
Hắn thở dài đến sượt một cái như một thầy giáo làng nhìn thằng học trò bướng bỉnh lại còn có tật cù nhầy:
– Làm như vậy cũng bớt được vài ngàn: tiền son phấn, tiền thuê quan tài, tiền thuê Nhà Ðòn v.v.. Mà ông cũng không cần phải chi cho các vị tu sĩ đến tụng kinh gõ mõ tùm lum trong Nhà Ðòn của chúng tôi làm gì. Thế là ông đỡ thêm được vài ba trăm nữa. Ðối với hạng người “rẻ tiền” như ông, đỡ được trăm nào hay trăm đó, có phải không?
Thằng cha “tiếp thị” cho tôi là người bủn xỉn nên có vẻ bực mình lắm. Hắn chỉ muốn thu được nhiều tiền cho chủ Nhà Ðòn để được ăn nhiều tiền hoa hồng do gia đình “người ra đi” cung phụng. Vì thế, mỗi lần tôi bớt được món chi phí nào là hắn có vẻ đau đớn như đang bị bà nha sĩ nhổ một cái răng hàm bự trong mồm. Cuối cùng, tôi chọn một chương trình hỏa táng hợp với ý tôi. Tổng số tiền tôi phải chi ra là 2,709.24$ cho những mục như sau:
• tiền giấy tờ (khám nghiệm xác chết, giấy khai tử, v.v.);
• tiền xe đưa xác tôi từ nhà xác đến Nhà Ðòn;
• tiền hòm bằng giấy cứng (50$) đựng xác chết để mang đi hỏa táng;
• tiền đưa hòm xác tới lò đốt (không có vụ bầy biện thân xác ra cho mọi người “dòm ngó”);
• tiền đốt xác;
• tiền hộp đựng tro để trao cho vợ tôi mang đi thả xuống biển (tôi mua loại rẻ tiền nhất nên chỉ tốn có 20$; còn loại sang và đẹp thì lên tới 500$);
• tiền thuế trả cho thành phố, tiểu bang, và liên bang.
Người “tiếp thị” đại diện Nhà Ðòn Tubman và tôi cùng ký vào tờ khế ước (bốn bản). Sau đó, tôi hân hoan trao cho hắn tấm ngân phiếu 2,709.24$. Tôi phải trả tiền trước. Ðối với tôi, điều này rất thuận tiện, vì sau này giá cả có gia tăng thì Nhà Ðòn ráng mà chịu, chứ những “người ở lại” không còn phải lo lắng điều gì cho “người ra đi.”
Khi vợ tôi đi làm về, tôi hý hửng đưa cho cô nàng xem tờ khế ước. Thế là cô nàng khóc bù lu bù loa, rồi hỏi tôi một câu mà tôi cho là lãng nhách:
– Trong cả cuộc đời của anh, anh chỉ thích chơi sang. Tại sao đến cuối cuộc đời, anh lại định chết một cách rẻ tiền như vậy?
– Em hỏi một câu thiệt là lãng nhách! Thế nào là chết rẻ tiền? Chết sang thì đi đến đâu? Mang tiền ra cúng Nhà Ðòn và Nhà Nước làm gì? Chúng nó làm gì có quyền cấp visa cho anh vào Thiền Ðàng, hay vào Vùng Cực Lạc. Việc gì mình phải “đút lót” chúng nó? Dù sao anh cũng “save” hơn 12,000$, chứ đâu có phải là ít.
– Em không cần món tiền đó đâu!
– Nếu em không cần số tiền đó, thì em mang nó đi giúp người nghèo, có sao đâu? Ða số dân ta hiện đang sống trong cảnh nghèo túng. Em có biết rằng nếu em mang 12,000$ về Việt Nam, em có thể nuôi hơn 60 em mồ côi trong một năm. Như vậy, anh là người “chết sang” hay là người “chết rẻ tiền”?
Thấy tôi lý luận như vậy, cô nàng vừa lau nước mắt vừa cười đùa:
– Thôi, anh muốn chết kiểu nào cũng được. Cái đó tùy anh. Nếu anh “ra đi” trước em, em sẽ chúc anh theo kiểu Tàu: “Thượng Lộ Bình An,” và xin anh “Bảo Trọng.”
– Vậy, trước khi “ra đi,” anh sẽ chào em theo kiểu Mỹ: “Hẹn Ngày Tái Ngộ” – “See You Later.”
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)