Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Duy Chính. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Duy Chính. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2022

Dịch giả Nguyễn Duy Chính: Việt Nam Và Cuộc Chiến Trung-Pháp

LỜI GIỚI THIỆU CỦA NGƯỜI DỊCH


Khi ở bậc Trung Học, những năm đệ nhị cấp (tức cấp 3) chúng tôi được học về thời kỳ người Pháp xâm chiếm nước ta. Dấu ấn của giai đoạn này là những hiệp ước mà mỗi lần ký kết thì đất đai và quyền tự chủ của triều đình Huế lại lùi thêm một bước.


Năm 1862, nước ta mất ba tỉnh miền đông Nam Kỳ, đến năm 1874 phải ký hoà ước nhường đứt 6 tỉnh rồi đến năm 1883 thì nhận quyền bảo hộ của người Pháp trên toàn lãnh thổ. Sau đó một năm, người Pháp sửa đổi một số chi tiết và ký một hoà ước mới năm 1884. Những hiệp ước ấy chúng tôi quen thuộc với những tên hoà ước năm Nhâm Tuất (1862), hoà ước năm Giáp Tuất (1874), hoà ước năm Quí Mùi (1883) và hoà ước năm Giáp Thân (1884). Hai hiệp ước sau vẫn được gọi là hoà ước Harmand và hoà ước Patenôtre lấy tên của những người Pháp ký tên trên đó.


Về giai đoạn lịch sử nhiễu nhương này, chương trình học đặt trọng tâm vào diễn biến thời cuộc như việc quân Pháp đánh Đà Nẵng, Kỳ Hoà, việc sứ thần sang Pháp chuộc ba tỉnh miền Đông rồi mất cả Nam Kỳ đưa đến cái chết của cụ Phan Thanh Giản.


Sau đó không lâu, người Pháp theo sông Hồng tìm đường sang Vân Nam rồi chiếm Hà Nội và các tỉnh lân cận. Trẻ con chúng tôi đứa nào cũng nhớ địa danh Cầu Giấy ở phủ Hoài Đức là nơi Francis Garnier và Henri Rivière bị quân Cờ Đen phục kích giết chết. Tiếp đó là những cuộc khởi nghĩa từ nam ra bắc, Trương Định, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám … đánh dấu giai đoạn mất quyền tự chủ. Tác giả Trần Trọng Kim giải thích trong Việt Nam sử lược:


… Quan ta đem quân về đánh quân Pháp ở Hà-nội, ở Hải-phòng và ở Nam-định nhưng chỗ nào cũng thất bại.


Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2022

Điếu Văn Của Phạm Phú Thứ Viếng Phan Thanh Giản (Dịch thuật : Nguyễn Duy Chính; Giới thiệu : Phạm Phú Minh)

LTS. Dù toàn bộ bài này đã được đăng trên DĐTK vào tháng 8 năm 2021, nay vì một “lý do đặc biệt”, chúng tôi xin đăng lại trong số báo này. Lý do là vào chiều ngày 15 tháng 5, 2022 trong buổi ra mắt cuốn sách Phan Thanh Giản và Vụ Án ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân’ của tác giả Phan Đào Nguyên, diễn giả Phạm Phú Minh đã dùng bài Ai Điếu của Phạm Phú Thứ viếng Phan Thanh Giản làm đề tài cho bài thuyết trình của mình. Nhiều khán giả tỏ ý muốn biết rõ hơn về bài Ai Điếu này, chúng tôi đã hứa sẽ đăng lại toàn bài trên số DĐTK hôm nay để ai quan tâm sẽ có tài liệu để xem lại kỹ càng hơn. DĐTK
***
Trong thế kỷ 19, Việt Nam đã nếm trải bao nỗi cay đắng trước sự xâm lăng bằng vũ lực mà một triều đình nhà Nguyễn mặc dù đã rất vững chãi với một lãnh thổ lần đầu tiên rộng lớn nhất trong lịch sử kéo dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, đã cuối cùng cũng phải mất nước trước kẻ cướp đến từ phương Tây. Nếu phải chọn một nhân vật Việt Nam điển hình đã trực tiếp đương đầu với cái kịch bản đấu trí đấu lực suốt cái quá trình đau khổ ấy, thì thiết nghĩ không ai khác hơn là Phan Thanh Giản. Ông đã phục vụ suốt ba triều Minh Mạng (1820 – 1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883), đặc biệt trong triều Tự Đức ông đã nổi lên như một rường cột chính phục vụ quốc gia cho đến hơi thở cuối cùng, để thấy đời ông cũng chính là hình ảnh cái bi kịch của nước ta khi chống chọi với sự xâm lăng của người Pháp.

Sau khi quân Pháp đã chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông Phan Thanh Giản là người được vua Tự Đức cử làm chánh sứ, Lâm Duy Hiệp làm phó sứ đi vào Gia Định thương thuyết với Pháp để nghị hòa. Kết quả là hòa ước Nhâm Tuất 1862 đã được ký kết, Việt Nam nhượng cho Pháp ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường. Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, vua Tự Đức bất đắc dĩ phải chấp nhận hòa ước Nhâm Tuất nhưng trong bụng vẫn muốn cố hết sức để chuộc lại vì đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại là đất quê ngoại của nhà vua. Chính vì lý do này mà năm 1863 vua Tự Đức mới cử một phái đoàn Việt Nam gồm Phan Thanh Giản chánh sứ, Phạm Phú Thứ phó sứ và Ngụy Khắc Đản bồi sứ, qua tận Pháp để thương thuyết chuộc lại ba tỉnh ấy. Nhưng đã gọi là thực dân, đã chiếm được đất của người ta rồi, làm sao có chuyện trả lại! Không trả lại, mà còn lấy thêm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ và đưa đến cái chết bi tráng của Phan Thanh Giản.

Chúng ta đều biết bản án mà triều đình Huế dành cho Phan Thanh Giản sau khi Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây và ông đã tuẫn tiết : tước bỏ hết quan tước và đục xóa tên trong bia tiến sĩ. Một đời làm quan suốt ba triều nhà Nguyễn, nhiều lần xin rút lui vì tuổi già sức yếu mà vua khăng khăng không chấp thuận, bắt phục vụ cho đến giây phút cuối cùng, để rồi sau cái chết đã bị xóa trắng bao công sức mà suốt đời ông đã bỏ ra cho vua, cho dân, cho nước. Bi kịch ấy của cuộc đời Phan Thanh Giản rất thấm thía trong lịch sử nước ta, mà các thế hệ về sau đã ra công điều chỉnh để giữ gìn công đạo của một dân tộc có lương tâm.

Nhưng ít ai biết ngay trong thời gian xảy ra vụ án này, ngay giữa triều đình Tự Đức, đã có một tiếng nói cất lên để bênh vực Phan Thanh Giản. Đó là bài điếu văn của Phạm Phú Thứ viếng Phan Thanh Giản. Đúng hơn đây là một tài liệu mượn hình thức là điếu văn để khẳng định bao công lao, mưu lược, tài kinh bang tế thế của vị lão thần Phan Thanh Giản, dù tuổi già sức yếu đã mấy lần xin về hưu, đã bị nhà vua khư khư đưa ra tuyến đầu đại diện cho triều đình để đương đầu với một thế lực cướp nước quá hùng cường. Gọi là điếu văn mà không có một tiếng khóc Ô Hô!, không một từ ngữ đã thành sáo ngữ để tưởng niệm người quá cố. Trái lại, như một bài chính luận đanh thép nhằm đặt để lại giá trị của vị lão thần đã đem hết sức tàn lực kiệt để lo cho nước, và đã được “trả ơn” bằng một bản án có thể gọi là bất nhân, bất cận nhân tình. Với bản án đó, sau khi chết, cụ Phan Thanh Giản ra đi tay trắng, chẳng còn một sự nghiệp “hợp pháp” nào để lại cho người đời và con cháu.

Chủ Nhật, 29 tháng 8, 2021

Nguyễn Duy Chính: Đọc Nghiên cứu Lịch sử Phan Thanh Giản và Vụ án Phan Lâm Mãi Quốc Triều Đình Khí Dân của Winston Phan Đào Nguyên


Đọc Nghiên Cứu Lịch Sử

Phan Thanh Giản 

潘清簡

Và Vụ Án

Phan Lâm Mãi Quốc Triều Đình Khí Dân

潘林賣國朝廷棄民

Của Winston Phan Đào Nguyên


Khác hẳn với việc bênh/chống của các nhà nghiên cứu đã nêu ra để khen/chê về tư đức hay công hạnh, Winston Phan Đào Nguyên tìm đến một luận đề khác hẳn. Đó là ông đi tìm xem cái gốc tích của vấn đề khen chê đó từ đâu và đi đến kết luận rằng đây chỉ là một bản án xuất hiện sau này, được dàn dựng để thành một tấm “bìa giấy” đeo lên cổ những tội nhân mà chúng ta đã thấy trong những cuộc đấu tố của Hồng Vệ Binh thời Cách Mạng Văn Hoá. Winston Phan đã đội rất nhiều mũ và đóng rất nhiều vai, cả vai trò thám tử, điều tra viên, thẩm phán công tố, thẩm phán xử án, luật sư và luôn cả vai trò một hội thẩm đoàn để hoàn thành công việc “lật từng viên gạch” này.


Mở đầu

Mặc dầu tác giả đã có nhiều công trình được phổ biến trên tạp chí hay báo mạng, lưu truyền rộng rãi trong giới nghiên cứu lịch sử trong và ngoài nước, đây là ấn phẩm đầu tiên của Winston Phan Đào Nguyên tại Nam California. Lược qua cuốn sách, chúng ta có thể đưa ra một nhận xét cơ bản. Tác phẩm của Winston Phan được thực hiện rất bài bản trên cả hai mặt, 1/ trước hết là công phu sưu tầm và đánh giá tài liệu, 2/ là cách lập luận để bênh hay chống một quan điểm.Quyển sách cũng thể hiện đượcsở trường của tác giả, ông không những tốt nghiệp ngành chuyên môn sử mà còn là một luật sư hành nghề đã lâu năm.

Với nhan đề Phan Thanh Giản và vụ án “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” (384 trang) do nhà xuất bản Nhân Ảnh (Cali. USA) ấn hành năm 2021, quyển sách được chia ra thành ba phần chính (không kể phần Dẫn Nhập và Thay Lời Kết).


Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2021

Nguyễn Duy Chính: Vụ Án Đánh Roi

Lời mở đầu


Lãng Nhân trong Giai Thoại Làng Nho (1985) có chép một câu đối giữa Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường. Vế xuất của Đặng Trần Thường là:

Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai ai dễ biết ai.

Ngô Thì Nhậm đối lại:

Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.

Vì lời lẽ ngang tàng này mà họ Ngô bị Đặng Trần Thường sai lính đánh đến chết.

Thế nhưng trước đó P.J.B. Trương-vĩnh-Ký đã chép câu chuyện tương tự như sau:

35. Ngô-thì-Sĩ với ông Tán-lý Thường

Ông Thường (tán-lý Thường) đời loạn Tây-sơn ra lấy Bắc, con nhà học-trò giỏi văn-chương chữ-nghĩa, cũng là bạn học với ông Ngô-thì-Sĩ; giận ý kẻ nịnh lại hổ vì bị nhục mà vào Gia-định ở đầu thám với vua Gia-long. Vô một năm rồi về ngoài Bắc, giả chết, biểu vợ con giả đò chôn cất để tang để chế cho, rồi mới vào lại làm tôi vua Gia-long. Khi trước ở ngoài ấy còn hàn vi đi đường gặp ông Ngô-thì-Sĩ là bạn học, mà khi ấy làm quan lớn, đi võng điều, lọng lợp binh-gia rền-rột (làm Quan cho vua Quang-trung là Nguyễn-văn-Huệ, nguỵ Tây-sơn) Mặc áo rộng, đội nón tu-lờ điệu học trò; đi né tránh bên đường, lính nó nói sao có vô phép, nó bắt nó vật xuống nó đánh cho vài chục. Quan lớn mới hỏi là ai, thì bẩm rằng mình là học-trò; thì Ngô-thì-Sĩ mới rằng: Có phải là học-trò thì ra câu đối cho nó đối. Ra rằng:

Ai công hầu? ai khanh tướng?

Lúc trần ai, ai dễ biết ai?

Ông Thường đối lại rằng:

Thế chiến-cuốc [sic], thế xuân-thu,

Gặp thì thế, thế nào thì thế.

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2019

Nguyễn Duy Chính (Tuỳ bút): Hai Người Con Gái

Mấy hôm nay ngồi dọn lại đống sách vở cũ dưới garage, tôi lại gặp một bức hình chụp người Việt di cư năm 1954 mà lần nào cũng làm tôi xao xuyến. Bức hình này làm tôi nhớ đến một bức ảnh khác, vẫn thường gặp trong sách báo viết về cuộc di tản năm 1975. Hai tấm ảnh chụp cách nhau 20 năm mà sao có nét gì gần gũi.

Tấm hình bên trái là hình của một cô bé con trên đường từ Bắc vào Nam tôi tìm thấy trong tập san “The National Geographic Magazine” Volume CVII, số 6 (June, 1955) trang 871 trong một bài viết nhan đề “Passage to Freedom in Viet Nam” do ký giả Gertrude Samuels nội dung có cả hình ảnh và bản đồ.

Cô bé con có lẽ không biết có người đang chụp hình mình, hai tay giữ chiếc nón cho khỏi bay, nét mặt ngây thơ nhìn về xa xa như đang hi vọng vào một tương lai tươi sáng, bỏ lại sau lưng những ngày tháng ở một ngôi làng quê nào đó từ miền châu thổ sông Hồng.

Hồi mới vào nam, bố tôi dạy học ở một làng di cư trên Tây Ninh, gần biên giới Việt – Miên. Gia đình tôi vì thế cũng theo lên và tôi phải rời ngôi trường ở Sài Gòn để vào học trường tiểu học Cao Xá. Lớp học có độ dăm cô gái ngồi ngay trước bàn tôi, trong số đó có một cô bé rất xinh tên là Duyên. Duyên là con một ông giáo khác cũng dạy trong trường nhưng mới qua đời trước khi tôi lên đây. Thỉnh thoảng bố tôi cũng dẫn tôi đến thăm bà giáo trong tình đồng

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2018

Nguyễn Duy Chính: Tại sao tôi lại dịch Kim Dung?

Lời mở đầu:


Vài chục năm trước đây, những ai không mê truyện chưởng được coi như hiếm có và có lẽ thế hệ của tôi – những người trên dưới năm mươi tuổi – đều biết đến những truyện kiếm hiệp của Kim Dung.

Khoảng 1964, một người anh họ ở trọ nhà tôi để đi học, vì nhà tôi chỉ cách trường Bách Khoa Phú Thọ một quãng ngắn. Mỗi buổi chiều chúng tôi thường hay đi lên phố Tàu để ăn một chén chè hay uống một ly nước mía. Tuy nhiên, trước khi đi, bao giờ anh ấy cũng dừng chân nơi sạp báo đầu đường để mua một tờ báo, hình như tờ Tiếng Chuông thì phải. Mục đầu tiên anh giở ra không phải là những tin tức ở trang ngoài mà là một truyện đăng tải liên tục ở trang hai, truyện Anh Hùng Xạ Ðiêu, mà thuở ấy tôi nhớ là đang đến chương "Âu Dương công tử bị đá đè". Những hôm không tiền, anh cũng cố cười cầu tài nháy nhó với anh bán báo để khi được gật đầu thì lôi tờ báo, mở ra đọc truyện rồi nhẹ nhàng gập và để lại, cố sao cho khỏi nhàu ngõ hầu không mích lòng “ân nhân”.

Có lần tôi hỏi:

- Truyện đó có gì mà anh mê thế?

Anh trả lời:

- Mày còn bé chưa biết chứ truyện này hay lắm. Ai đọc cũng mê.

Tôi không tin nhưng quả thật, chỉ vài năm sau tôi cũng bị vướng vào cái vòng “nghiện” Kim Dung mà khởi đầu là truyện Cô Gái Ðồ Long do Từ Khánh Phụng dịch. Sau bộ này là những bộ khác liên tục mà nhiều tác giả dịch theo những đoạn đăng tải trên báo Hongkong theo đường bay về Saigon hàng ngày. Cơn sốt đó đã kéo dài và khi Kim Dung tuyên bố không viết tiếp nữa sau bộ Lộc Ðỉnh Ký, nhiều người cảm thấy mất mát và trống vắng thiếu hẳn một món ăn tinh thần trong cuộc đời. 


Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2018

Nguyễn Duy Chính: GIÁO SƯ ĐẶNG NGỌC THIỀM


Để tưởng nhớ một ông thầy cũđã “khai tâm” cho tôi môn Hán Vănở CVA năm đệ Thất 1959-1960.

Thằng Tiến Con ghé tai tôi nói nhỏ:
- Thim thừ là con cóc.
Tôi hơi ngạc nhiên, không hiểu tại sao nó lại có thể “uyên bác” đến thế, hỏi lại:
- Thim thừ là con cóc?
Thằng Tiến gật gù:
- Đúng rồi, tao mới tra hôm qua. Nhà tao có quyển từ điển Hán Việt.
Phục thằng này thật, nó bé bằng tôi mà cái gì cũng biết. Nó lại thì thầm:
- Mày nhìn xem ông ấy có giống con cóc không?
Nó nói đây là nói v ông giáo sư Việt Văn đang trên bục giảng bài, ông Đặng Ngọc Thim. Cái tên nghe cũng hay nhưng những đứa bé 11 tuổi vừa vào đệ Thất chúng tôi thì chắc chẳng ai muốn biết cái tên ông ấy nghĩa là gì, trừ thằng Tiến. Độ này chúng tôi đã hơi quen quen với tính khí của ông Thim nên cũng đỡ sợ chứ mấy hôm đầu vừa thấy ông ta bước vào lớp là đã chết khiếp. Nhìn kỹ, với cái bụng to và đôi mắt gườm gườm, đứng chống hai tay lên bàn ông quả cũng giống một con cóc đang chờ mồi thật.

Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

NGUYỄN DUY CHÍNH: CỤ GIÁO Ðể tưởng nhớ cụ giáo Ðặng Quí Tùy (1880-1976)


Năm lên đệ tam, sinh ngữ hai của tôi là Pháp văn. Một ngôn ngữ mới bao giờ cũng cho mình nhiều tìm tòi thích thú. Thế nhưng hai giờ mỗi tuần ở trường Chu Văn An lại chỉ cho mình một số vốn thật nhỏ nhoi. Bố tôi, tuy thông Pháp ngữ, nhưng hình như ông không thích và cũng không có khiếu dạy con, dẫu rằng ông đã chọn nghề “gõ đầu trẻ” gần hai mươi năm. Cho nên tôi chỉ lò mò học lấy. Bỗng đâu, ông anh họ tôi đến rủ tôi đi học tiếng Pháp ở một ông cụ gần trong xóm. Nhà cụ nằm trong một hãng nhôm lớn ngay sau nhà tôi, mà chủ nhân chính là ông con thứ ba của cụ.

Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2017

Nguyễn Duy Chính: HỌC CHỮ HÁN (Tiếp theo và hết)

Cái vốn chữ Hán của tôi chựng lại khá lâu – vì không có cơ hội nào để tiến thêm ngoài việc học “ngoài đường” và thỉnh thoảng ngâm nga vài câu thơ cổ. Thế nhưng người ta có thể ngâm thơ mà không biết mặt chữ, lại cũng không cần hiểu niêm luật cho tường tận nên không hiếm người thuộc rất nhiều thơ nhưng lại không biết chữ Hán.
Như hầu hết thanh niên, chưa tập đi đã muốn chạy, tôi cũng mua mấy cuốn thơ Đường về đọc và tập viết. Viết thì cũng không chịu viết chân phương cho rành rọt mà lại muốn đi thẳng sang hành thư, thảo thư. Thơ Đường vốn dĩ rất khó vì hàm súc, chỉ trong 56 chữ mà gói ghém biết bao nhiêu ý, bao nhiêu tình, cú pháp nhiều khi không theo mực thường, xem ra còn khó hơn văn ngôn[1] gấp bội. Ấy thế mà thuở đó tôi lại đi theo con đường ngược đời đó nên không đi đến đâu. Giá cứ như ngày xưa học từ Tam Tự Kinh sang Ấu Học Ngũ Ngôn Thi lại còn có cơ sở vì trẻ con học nhớ nhiều hơn học nghĩa, mưa dầm thấm đất, học mãi rồi cũng nhập tâm.
Khi đi làm ở một tỉnh miền Trung, tôi đem theo một bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa mua ở Chợ Lớn để đọc và để học, theo cách của cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ dạy. Thế nhưng vì chữ nghĩa ít ỏi, đọc và tra lâu quá nên chỉ được vài trang rồi phải bỏ.

Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2017

Nguyễn Duy Chính: Học Chữ Hán

Tôi bắt đầu học chữ Hán không có chủ đích gì. Được vỡ lòng bằng một giờ Hán văn mỗi tuần trong chương trình Việt văn lớp đệ Thất ở CVA. Đúng lý ra chương trình này phải kéo dài 4 năm cho đến hết bậc trung học đệ Nhất cấp nhưng sau năm đầu tiên thì không thấy tiếp tục.
Giờ Hán văn đệ Thất của tôi do một giáo sư[1] tên là Đặng Ngọc Thiềm hướng dẫn. Theo đúng thể lệ ông bắt chúng tôi mua mực Tàu, giấy bản, nghiên bút đàng hoàng. Có thể nói, những sinh hoạt ấy với những người khác chỉ là kỷ niệm nhưng lại trở thành “vốn quí” trong tôi. Vốn quí vì đây là bước chân mở cho tôi vào cánh cửa chữ Hán mãi đến tận hôm nay, mỗi lúc một thiết yếu hơn chứ không suy giảm chút nào.
Thuở ấy, cái nghiên giống như một cái bát sành nhỏ na ná cái đồ kê chân trạn cho kiến khỏi bò lên, còn mực thì là một thỏi a dao có mùi rất nặng. Thế mà chúng tôi cũng hí hoáy viết được những trang giấy chép theo cuốn Hán Học Phổ Thông của Đinh Đình Hòe và Thích Giải Minh[2]. Bộ Hán Học Phổ Thôngnày về sau tôi có mua thêm được cuốn thứ hai nhưng không phải để dùng trong lớp mà để tự học ở nhà.
Qua cuốn Hán Học Phổ Thông, chúng tôi biết qua phép Lục Thư (tượng hình, chỉ sự, hội ý, chuyển chú, giả tá, hài thanh) và theo chỉ dẫn của giáo sư Thiềm chúng tôi biết cầm bút viết theo lối trái trước, phải sau, trên trước dưới sau, ngoài trước, trong sau ngoại trừ một vài biệt lệ như bộ Sước () phải viết sau cùng.

Chủ Nhật, 25 tháng 6, 2017

Nguyễn Duy Chính: PHAN HUY ÍCH VÀ BANG GIAO THANH – VIỆT. (PHẦN I TIỂU SỬ)

Phan Huy Ích (1751-1822)[1]


LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử nước ta có những thời k bị coi như “khuyết sử”. Sở dĩ gọi là khuyết sử vì sử sách không tường thuật lại những gì đã xảy ra mà nhiều chi tiết bị che dấu có chủ đích. Che khuất đã đành, lại có những chi tiết không phải là “tín sử” được phổ biến với ác ý. Khi một triu đại khác lên ngôi, tất cả những công trình của người đi trước đu bị huỷ hoại hay không đ cập đến tưởng như thời k đó không hề hiện diện. Đến khi không thể bỏ trống được, quá khứ nay trở thành một bản tường thuật chiến tranh nhằm đ cao việc tranh giành chính quyn.

Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

Hồi ký của Nguyễn Duy Chính: Vượt biên qua đất Thái


Khi chúng tôi được cứu thoát thì chỉ nghe tiếng lao xao và đã ở trên thuyền chứ không nhớ gì đến lúc còn dưới nước được kéo lên. Hé mắt nhìn ra tôi thấy mấy người dân chài Thái Lan, cởi trần, da ngăm đen tương tự như những người dân vùng Hậu Giang. Một người quấn cho tôi một cái chăn rồi bóp miệng nhét một cục dầu cù là to bằng nắm tay vào mồm. Cục dầu cay sè khiến tôi dãy nảy. Có tiếng reo xem chừng vui mừng vì đã cứu tôi tỉnh lại. E ngại họ sẽ tra vấn để đưa trở lại hòn đảo hoang thì khổ, tôi giả vờ như vẫn còn thiêm thiếp chưa hồi phục. Ông chú tôi và anh bạn đồng hành cũng cùng ở trên con tàu đánh cá, một chiếc thuyền máy không lớn lắm, chỉ bằng những chiếc ghe chạy trên sông.
Chiếc thuyền đi được một lúc thì trời sâm sẩm tối. Ðưa mắt nhìn ra xa xa đã thấy bờ và ánh đèn lấp lánh như một bầy đom đóm. Tôi yên chí là không bị đưa trở về nơi xuất phát nên lặng thinh ngồi dậy, mặc dù trong bụng mừng chỉ muốn reo lên cho thoả thích. Thêm một hồi nữa thì nhà cửa cũng rõ hơn, những cột ăng ten TV nổi bật trên nền trời và ánh sáng chiếu ra từ những khung cửa. Tàu cập lại một bến đầy ghe cũng một loại như chiếc đang chở chúng tôi và khung cảnh trù phú khiến tôi yên chí đây không phải là một trong những nước nghèo đói mà tôi vừa đào thoát.
Người chung quanh đổ xô đến, bàn tán xôn xao bằng tiếng Thái nên chúng tôi không hiểu họ nói gì. Khoảng nửa giờ sau một sĩ quan cảnh sát đi xuống, quần áo chỉnh tề, cầu vai đeo lon ra vẻ chức sắc thẩm vấn tôi bằng tiếng Anh. Tôi cho ông ta biết chúng tôi là người Việt Nam tị nạn Cộng Sản, bị đắm tàu và được vớt đưa về đây. Viên sĩ quan quay lại nói với người lái tàu – có lẽ cũng là chủ chiếc tàu đó – bằng một giọng gay gắt, dường như khiển trách y đã cứu chúng tôi rồi ra lệnh cho mấy người cảnh sát khác còng tay cả bọn đưa về Ty Cảnh Sát Rayong, một thị trấn nhỏ nằm trên bờ biển Thái Lan.

Chủ Nhật, 16 tháng 4, 2017

Nguyễn Duy Chính (Hồi ký): Xã hội sau 1975: lương thiện là xa xỉ


Khi tôi về, số người được ra trại còn hiếm lắm. Những năm làm quen với cuộc sống mới khiến cho nhiều người miền Nam có cái nhìn khác hẳn về chế độ Cộng Sản, nói theo sách vở thì là có dịp đối chiếu thực tế và lý thuyết. Phải nói rằng phần lớn chúng ta khá ngây thơ vì được đào tạo trong một nền giáo dục trắng đen rõ rệt, xấu tốt rạch ròi trong khi kẻ địch lại nói và làm khác nhau, suy nghĩ một đằng, hành động một nẻo.
Gần nhà tôi có “bác Tư cơm tấm”, một người mà tôi rất mến. Bác mở tiệm bán cà phê và các món điểm tâm ở khu vực này từ khi tôi còn học trung học. Khi còn bé bác gọi tôi bằng cậu, bằng em, xưng qua, đến khi ra trường đi làm bác gọi bằng thầy, thầy hai.

Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

Nguyễn Duy Chính - SỰ ÐÓNG GÓP CỦA GIÁM MỤC PIGNEAU DE BÉHAINE VÀO CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Ở GIA ÐỊNH (Tiếp theo và hết)

3. Thiết kế đô thị
Việc quan tâm đầu tiên của chúa Nguyễn có sự đóng góp của người ngoại quốc là xây dựng một kinh đô. Kinh đô đó vừa là nơi thị tứ tập trung được một số lượng quần chúng đông đảo để bảo đảm cho việc bổ sung theo nhu cầu mà còn phải thuận tiện cho thuyền bè nước ngoài vào buôn bán. Riêng trường hợp của chúa Nguyễn, xây dựng kinh đô cũng là củng cố căn cứ phòng thủ chống lại những trận “giặc mùa” của Tây Sơn nên hai mục tiêu kinh tế và quân sự đều phải quan tâm.
Việc trở về của Pigneau de Béhaine khiến ông thất vọng khi không có tất cả những gì ông mong đợi nhưng cũng đem lại một số niềm vui. Hiệp ước Versailles không thi hành nên sau này ông không vướng vào món nợ với nước Pháp và những người sang giúp ông lại có khả năng thiết kế một mô hình đô thị phòng thủ (city-fortress). Một số bản đồ về thành phố Saigon còn tồn tại đến ngày nay có thể giúp chúng ta đưa ra một số phỏng đoán về khả năng của họ.

Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

Nguyễn Duy Chính - SỰ ÐÓNG GÓP CỦA GIÁM MỤC PIGNEAU DE BÉHAINE VÀO CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Ở GIA ÐỊNH


LỜI MỞ ÐẦU
Trong chiều hướng đưa ra một lời giải thích cho thời k tranh hùng cuối thế kỷ XVIII giữa hai thế lực Tây Sơn và chúa Nguyễn, nhiu sử gia cận đại đã đồng hóa những giáo sĩ với các thế lực ngầm khuynh loát trong các âm mưu chính trị. Quan điểm này còn nhiu điểm cần đánh giá lại. Tuy không thể phủ nhận những thừa sai có ý định khai thác ảnh hưởng với chính quyn để truyn đạo nhưng ngược lại nhà cầm quyn cũng lắm phen sử dụng họ vào những mục tiêu quân sự.



Mọi việc không đơn giản khi chúng ta lại tìm ra những chứng cớ chúa Nguyễn và đồng minh thân cận nhất của ông là giám mục Pigneau de Béhaine [1741-1799] – thường được biết dưới tên Hán dịch là Bá Ða Lộc - đã bôn ba cầu viện không phải một thế lực mà gõ cửa rất nhiều nơi, lân bang cũng có, các nước Tây phương như Anh, Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Hoà Lan, Pháp ... cũng có. Vai trò độc đáo của chúa Nguyễn khiến cho nhiều thế lực công khai đầu tư vào ông như một hình thức buôn vua đủ biết chính chúa Nguyễn cũng có những hình thức tự vận động rất đáng kể. Tuy ông được người Xiêm giúp đỡ trong một số trường hợp nhưng không phải không có lúc lâm nguy một khi chính ông lại trở thành một mầm hoạ đáng quan ngại cho chính họ.
Cuối thế kỷ XIX, khi người Pháp dùng võ lực chiếm Việt Nam họ đã nỗ lực đề cao vai trò của Bá Ða Lộc và các giáo dân trong khuynh hướng làm nổi bật sự đóng góp vào công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn – biến ông thành một “điệp viên chính trị” đi tìm cơ hội bành trướng thuộc địa nên đã trở thành mục tiêu tấn công của một số người có tinh thần cực đoan chính trị hay tôn giáo.
Sau khi hoàn thành việc thống trị toàn cõi Ðông Dương, một pho tượng cao gần 3 thước tạc giám mục Pigneau de Béhaine, một tay dắt hoàng tử Cảnh, một tay đưa ra bản hiệp ước Versailles 1787 được nhà cầm quyền Pháp dựng lên ngay trước nhà thờ Sài gòn trong một đại lễ năm 1901.[1]  (1)
Khi tường thuật về vai trò của Pigneau de Béhaine, các tác giả Tây phương thường nhấn mạnh vào việc ông xả thân cứu chúa Nguyễn khi còn đang bôn đào nhất là được tin cậy để cầm quốc ấn và đưa hoàng tử Cảnh qua Pháp cầu viện rồi trở về Gia Ðịnh với một số chiến thuyền, thủy thủ, súng ống. Người ta cũng nhắc đến vai trò của ông trong những chiến dịch đánh với Tây Sơn trước khi ông qua đời nhưng lại đề cập rất giản lược vai trò trung gian trong du nhập kỹ thuật và văn hóa vào nước ta, coi như một chuyện bình thường. Chính vì thế vị thừa sai chỉ được coi như một kẻ chủ mưu đáng lên án và những người ngoại quốc đến giúp chúa Nguyễn cũng chỉ coi như một số lính đánh thuê vì mục tiêu danh lợi chứ không phải là những cố vấn đóng góp vào việc xây dựng một quốc gia theo kiểu mẫu Tây phương.
CON NGƯỜI BÁ ÐA LỘC
Cho đến nay, khi viết về giám mục Pigneau de Béhaine [1741-1799], tức Evêque d’Adran, hay Bá Ða Lộc, mỗi sử gia có một nhận định, đôi khi hoàn toàn trái ngược. Một số nhà biên khảo kết án giám mục Pigneau có đầu óc thực dân đã mở đường cho cuộc xâm lăng của Pháp nhưng một số khác lại cho rằng ông thuần tuý là một nhà tu, những việc ông giúp chúa Nguyễn ngoài tình bạn cũng chỉ nhằm mục tiêu được dễ dàng hơn trong việc truyền giáo sau này.
Tiểu sử của ông chép trong Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện quyển XXVIII là quyển chép về những người nước ngoài theo giúp chúa Nguyễn như Hà Hỉ Văn, người Trung Hoa [một dư đảng Thiên Ðịa Hội], Nguyễn Văn Tồn, người Cao Miên, Hà Công Thái, người Mường, Bá Ða Lộc, người Pháp và Vĩnh Ma Ly, người Xiêm.[2] (2)
Nói chung, tuy Bá Ða Lộc có công lớn nhưng sử triều Nguyễn chép về ông lại khá sơ sài, có vẻ muốn cho lu mờ để nâng cao vai trò sáng nghiệp của Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, nếu đánh giá cho khách quan và dù mục tiêu đích thực của ông là gì chăng nữa, Bá Ða Lộc quả đóng góp rất lớn trong việc phục quốc của chúa Nguyễn.
Khác hẳn với lối nhìn của Á Ðông khi đưa ra mẫu người “quân sư” mưu trí “ngồi trong trướng mà quyết thắng chuyện ngoài ngàn dặm”, giám mục Pigneau hành động giống như những cố vấn Tây phương gần đây, đưa ý kiến đồng thời phân tích lợi hại để chúa Nguyễn chọn lựa giải pháp chứ không ép buộc hay đòi hỏi kế hoạch của mình phải được thực hiện triệt để. Nhiều lý do khiến chúng ta có thể tin rằng những mâu thuẫn hay xung đột với vị giáo sĩ nếu có thường bắt nguồn từ tính đa nghi của Nguyễn Ánh và sự ghen ghét của những cận thần.
Cũng vì thế tuy Bá Đa Lộc qua đời khá đột ngột, sự nghiệp của chúa Nguyễn không bị bế tắc như Lưu Bị mất Khổng Minh. Cái chết của giám mục Pigneau gần như không ảnh hưởng gì đến thế lực của chúa Nguyễn lúc bấy giờ và người thừa sai đã hoàn tất vai trò đầu cầu trung gian, tạo điều kiện để Nguyễn Ánh tiếp thu được văn minh Âu Châu làm nền tảng cho những cải cách. Ðối chiếu với phát triển thực tế, những thay đổi mạnh mẽ về tổ chức và kỹ thuật là những nhân tố cốt yếu giúp chúa Nguyễn thành công.


N
ếu không có Bá Ða Lộc, chúa Nguyễn sẽ không thể đột phá được những bế tắc của khu vực và rất khó tồn tại khi lực lượng của Gia Định so với anh em Tây Sơn quả là kém thế. Thắng lợi của Nguyển Ánh đã khiến cho cả Xiêm lẫn Pháp đu cho rằng vai trò của mình quan trọng hơn nhưng thực tình mà nói, Xiêm La cho ông nương thân khi còn hàn vi nhưng giúp đỡ cũng có giới hạn, một phần vì họ còn nhiu việc phải lo, phần khác cũng không thực tâm muốn Việt Nam sẽ trở thành một nước láng ging nguy hiểm. Ngược lại, giám mục Bá Ða Lộc có quyết tâm giúp chúa Nguyễn vì mục tiêu lâu dài trong công tác truyn giáo ở Á Ðông và có thể ảnh hưởng từ chủ trương của một số người đi trước. Việc ông đưa bán đảo Tourane vào trong nhượng địa mà chúa Nguyễn sẽ phải nhường cho Pháp cho thấy ông đã đồng tình với Poivre [một nhà truyn giáo sau đổi sang ngh con buôn] v khởi đầu một chủ trương can thiệp sâu hơn vào bán đảo Ðông Dương nhưng cũng có thể chỉ là một đổi chác thường tình. Nếu so sánh với những ưu đãi mà Nguyễn Nhạc đ nghị với Chapman[3] (3) khi đòi mua khí giới và nhờ người Anh giúp đỡ thì thái độ của chúa Nguyễn còn dè dặt hơn và cũng không đáng kết án một cách nghiệt ngã.
Một điều chắc chắn, chúa Nguyễn không bị ai dẫn dắt theo đường lối của họ mà chỉ tham khảo rồi có quyết định tối hậu, dẫu rằng khi đúng, khi sai. Ông là kiến trúc sư trong việc xây dựng mô hình quốc gia và cũng là vị tham mưu trưởng trong mọi chiến dịch lớn.

 VIỆC CẢI CÁCH Ở GIA ÐỊNH 

Trong bài này chúng tôi lược bỏ phần giám mục Adran đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp để cầu viện và ký với bá tước de Montmorin [khi đó là ngoại trưởng nước Pháp thời vua Louis XVI] một bản hiệp ước gọi là hiệp ước Versailles (1787). Vì nhiều lý do, hiệp ước này không thi hành được nên giám mục Bá Ða Lộc phải xuất tiền ra chiêu mộ binh sĩ và mua chiến thuyền đem về Gia Ðịnh năm 1789. Những chi tiết cụ thể về chuyến đi này có thể tìm thấy trong những biên khảo về công cuộc khôi phục của vương triều Nguyễn, đặc biệt là tiểu sử của Bá Ða Lộc trong Mgr Pigneau de Behaine, Évêque d’Adran của Alexis Faure (Paris, 1891).


Nguồn ki
ến thức dùng trong cải cách
Theo hai tác giả đến Ðàng Trong trong những thời điểm mà ảnh hưởng và vai trò của giám mục Adran còn hiện hữu, chúng ta biết được một số chi tiết sử triều Nguyễn đã không nhắc đến khiến vai trò của vị thừa sai mờ nhạt hơn nhưng thực ra công lao của ông là những trọng điểm đưa đến sự thành công của vua Gia Long sau này.
Trong A Voyage to Cochin China [John Barrow, 1806], tác giả người Anh ghi lại những điều mắt thấy tai nghe ở Ðàng Trong khi Barrow cùng phái bộ Macartney có dịp ghé ngang nước ta trên đường sang Trung Hoa năm 1792.
Gần 30 năm sau [1819] John White, một thương gia người Mỹ trong một tác phẩm cùng tên [A Voyage to Cochin China, 1824] ghi lại những gì ông ta thấy ở Gia Ðịnh giúp chúng ta kiểm chứng được những gì đã thực sự hiện hữu 30 năm trước.
Theo Barrow, khi tìm hiểu bản dịch bộ Encyclopedie của giám mục Pigneau de Béhaine, Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm về hai phương diện: hàng hải và đóng thuyn (navigation and ship-building).[4] (4)
Chi tiết này quan trọng và cho chúng ta thấy giám mục Adran đã trao lại cho chúa Nguyễn kiến thức khoa học và quân sự Tây phương thông qua một số đề tài thích đáng trong bộ bách khoa vì đó là nguồn tài liệu tương đối cập nhật và chính xác, đại diện cho văn minh Âu châu thời đó. Một số thành quả khác do những người đi cùng với Pigneau de Béhaine đến Ðàng Trong còn được ghi lại trên giấy trắng mực đen, chẳng hạn như Victor Olivier là tổng công trình sư (chief engineer) xây thành Gia Ðịnh và Le Brun được coi như đại kế hoạch gia (principal architect-planner) của Saigon khi đó. Ðây là mô hình thiết kế đô thị (urban planning) theo khuôn mẫu Tây phương sớm sủa nhất ở khu vực Ðông Nam Á thời bấy giờ.
Một vai trò quan trọng khác cũng ít được nhắc đến là việc Pigneau de Béhaine đã thực hiện công tác phiên dịch các tài liệu kỹ thuật Tây phương sang chữ Hán [và có thể cả tiếng Nôm hay quốc ngữ] để chúa Nguyễn và ban tham mưu có ý niệm và hiểu biết về văn minh cơ khí trong một giai đoạn còn manh nha, đi trước tất cả mọi nơi khác trong khu vực. Công lao của ông riêng trong lãnh vực phiên dịch cũng đã là một đóng góp to lớn cho việc khai sinh ra vương quốc Ðồng Nai.

Giám mục Pigneau vốn là một chuyên gia ngôn ngữ, đã đóng góp chính yếu trong việc hoàn thành bộ từ điển Annamite-Latin [Dictionarium Anamitico-Latinum] vào khoảng 1772-3, được giám mục Jean-Louis Taberd bổ túc và ấn hành năm 1835. Ông cũng thông thạo tiếng Việt và am hiểu chữ Hán, chữ Nôm nên có lẽ ông đã dùng thì giờ khi đi trên tàu từ Pháp về Gia Ðịnh để tìm hiểu, chọn lựa và phiên dịch những gì ông thấy rằng cần thiết cho chúa Nguyễn.
Cũng nên thêm rằng, bộ bách khoa đại từ điển không phải chỉ thuần túy là chữ mà có rất nhiều hình vẽ được in theo lối đồng bản họa (copper plate printing) nên chúa Nguyễn cũng có thể tìm hiểu nguyên bản, xem hình ảnh. Không thấy tài liệu nào nói Nguyễn Ánh có biết chữ viết theo mẫu tự Latin hay không nhưng Rei, một thương gia người Pháp có đề cập đến thái tử Ðảm biết viết chữ quốc ngữ.[5] (5) Trong những lá thư của các thừa sai gửi về giáo hội hay liên lạc với nhau, thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy kèm theo một số từ ngữ Việt viết theo lối mẫu tự Latin.
Do đó, muốn tìm hiểu xem chúa Nguyễn đã học hỏi được gì về kỹ thuật của Tây phương – một phần chìm mà sử sách không đề cập đến nhiều – chúng ta phải đi sâu vào nguồn kiến thức, nếu không có nguyên bản bộ sách mà giám mục Adran đã dùng thì ít ra cũng phải qua sách vở cùng thời kỳ để dựng lại một quá trình học hỏi và ứng dụng trong việc canh tân tổ chức hành chánh và quân sự.
Chúng ta cũng có thể xem những miêu tả, qua bản đồ, hình ảnh của những người có mặt ở Ðàng Trong thời kỳ đó để ít nhiều biết được ảnh hưởng Tây phương như thế nào, hay những gì mà sinh hoạt truyền thống chưa hiện hữu. Trước đây khi đề cập đến thắng lợi của chúa Nguyễn, các sử gia thường chỉ nhấn mạnh vào sự tiếp sức của người Pháp qua viện trợ súng đạn và số tướng sĩ đi theo giám mục Adran sang giúp mà thường không nhắc đến những định chế tổ chức và mô hình hành chánh là nền tảng giúp cho cải cách có cơ hội phát triển.
Về bộ Encyclopedie mà giám mục Pigneau de Béhaine có thể tìm được trong khoảng tháng 2 đến 12-1787 là thời gian ông và hoàng tử Cảnh ở Pháp thì chỉ có bộ Encyclopédie của Denis Diderot, ấn hành trong khoảng từ 1751-1766 mà bộ này cũng chỉ dịch lại từ bộ Cyclopaedia của Anh ấn hành năm 1728. Tuy nhiên bộ Encyclopédie của Diderot khó có thể kiếm được tại Paris sau 21 năm xuất bản, nhất là bộ này có nhiều chi tiết bị coi là trái với đường lối của giáo hội (heretical).
Bộ đại từ điển dễ kiếm hơn trong thời gian đó có lẽ là bộ Encyclopedia Britannica ấn bản đầu tiên in từ năm 1768 đến 1771 [gồm 3 quyển, 2391 trang, với 160 trang đồng bản hoạ] hay lần thứ hai năm 1784 được cải biên có thêm phần lịch sử, địa lý và tiểu sử các danh nhân thế giới [tổng cộng 10 quyển, 8,595 trang và 340 trang hình vẽ].[6] (6) Do đó, muốn tìm hiểu những kiến thức và kỹ thuật mà giám mục Bá Ða Lộc mang từ Tây phương truyền đạt cho chúa Nguyễn, chúng ta không thể không tìm hiểu về những sở đắc cụ thể hiện hữu trong bộ sách này.
TỔNG QUÁT
Từ những kiến thức mang tính thời đại, chúng ta có thể dựng lại những mô hình gần nhất với kiến thức khoa học quân sự từ bốn mục quan trọng là kỹ thuật xây thành (fortification), kỹ thuật hàng hải (navigation), kỹ thuật chế tạo súng (gunnery) và kỹ thuật đóng tàu (ship building) để đối chiếu với những gì được thực hiện ở Ðàng Trong trong khoảng từ 1789 đến 1799 là thời gian Bá Ða Lộc cộng tác mật thiết với Nguyễn Ánh. Ngoài ra chúng ta cũng không thể quên được những dự án về xây dựng đô thị (urban planning) rất mới mẻ so sánh với những thành phố khác trên bán đảo Ðông Dương. Thành phố Saigon vào cuối thế kỷ XVIII là một mô hình Tây phương, ngoài thành trì là căn cứ quân sự còn có những đường sá thẳng và rộng được trắc địa theo ô vuông, có những khu vực trại lính, kho gạo, xưởng đóng tàu, lò đúc súng và cả một nghĩa địa riêng biệt thay vì bạ đâu chôn đó như tập quán của người Á Ðông.
Chúng ta cũng không thể bỏ qua mô hình hành chánh vì đó là nền tảng cơ sở để có thể ứng dụng những kỹ thuật mới. Tuy chỉ trong một thời gian rất ngắn, trên dải đất Việt Nam thời đó đã xuất hiện một tiểu quốc mà người ngoài thường gọi là nước Ðồng Nai, người Thanh gọi là đất Nông Nại còn sử nước ta quen gọi là Gia Ðịnh, những cái tên còn tồn tại đến tận bây giờ. Theo những chi tiết mà chúng ta có được, về phương diện hành chánh vương quốc này có thể coi là thoái thân của vương triều Nguyễn, được tổ chức theo một khuôn mẫu tổng hợp nhiều mô hình nhưng đã được cải biên cho phù hợp với nhu cầu. Trên nhiều lãnh vực, chúa Nguyễn Ánh đã áp dụng nhiều canh tân và học hỏi từ Xiêm La và các nước Ðông Nam Á nhưng cũng mạnh dạn cải cách theo đường lối Tây phương, chủ yếu là các lãnh vực quân sự, thương mại, kỹ thuật.
Giữa Bá Ða Lộc và Nguyễn Ánh, chúng ta thấy hai người tuy vẫn hết lòng với nhau nhưng mặt khác cũng tìm cách khai thác cho mục tiêu riêng của mình. Chúa Nguyễn muốn Bá Ða Lộc làm đầu cầu trung gian để thủ đắc kỹ thuật và sự giúp đỡ của Tây phương, trong khi vị giám mục cũng mong việc làm của mình sẽ đem tới những ưu đãi để truyền đạo một khi chúa Nguyễn thành công.
Không nói tới những âm mưu hay tham vọng dựa trên suy luận cảm tính, trong biên khảo này chúng tôi cố gắng đào sâu vào một số chi tiết cụ thể, những kỹ thuật mới du nhập vào nước ta trong đó bao gồm các kỹ thuật quân sự và một số định chế được giám mục Pigneau de Béhaine giới thiệu vào một tiểu quốc mới thành lập: Ðồng Nai hay đất Gia Ðịnh. Việc du nhập đó được áp dụng một phần lớn vì đã giúp cho chúa Nguyễn gia tăng khả năng chống lại Tây Sơn nhưng đồng thời cũng là một mô hình thí nghiệm theo kiểu Tây phương đầu tiên trong vùng Ðông Nam Á. Miền nam nước ta đã hình thành một quốc gia với đầy đủ cơ chế, dung hợp thực lực bản địa với ba nguồn “chân khí ngoại chủng”, từ Trung Hoa của những người di dân gốc nhà Minh, từ Xiêm La mà chúa Nguyễn đã lưu ngụ rút tỉa kinh nghiệm chiến đấu, từ Tây phương do những thừa sai và những người Âu Châu sang giúp.
Những vấn đề chính trị xen kẽ với quân sự và một tập thể đa dạng đặt ra những câu hỏi về quản trị. Cũng vì trưởng thành trong gian nan và luôn luôn bị đe doạ bởi chung quanh, chúng ta phần nào có thể hiểu được thái độ quyết liệt, lắm khi tàn nhẫn của chúa Nguyễn khi đã lên nắm quyền. Trên thực tế Nguyễn Ánh vẫn khôn khéo quân bình mọi lực lượng phò tá ông nên tuy những người Pháp có nổi bật trong những ngày đầu về sau lại lui vào bóng tối khi người Việt đã thủ đắc những ưu điểm về quân sự và kỹ thuật của họ. Ngoài Bá Ða Lộc hầu như không một người ngoại quốc nào được coi trọng hơn một tướng lãnh bậc trung.
Trong một thời gian tương đối ngắn 1788 – 1792, chúa Nguyễn đã hoàn thành được những cơ cấu căn bản để chuẩn bị tấn công. Trong những năm sau đó, ông đã đẩy đối phương vào thế thủ và chưa đầy 10 năm thì ông đã lấy lại được vương quốc của Nguyễn Nhạc và chiếm luôn cả lãnh thổ miền bắc trong tay Nguyễn Quang Toản.
Việc cải cách ở Gia Ðịnh không phải chỉ nhằm mục tiêu khai khẩn một vùng đất hoang hay tổ chức một vương quốc độc lập mà mục tiêu tối hậu là khôi phục lại vùng lãnh thổ ở phương nam nói theo từ ngữ ngày nay là xây dựng một hậu phương để hoàn thành công việc bắc tiến. Tuy nhiên, đó chỉ là một suy luận sau khi ông đã thành công còn ngay trong thời điểm đó, tuy Nguyễn Ánh vẫn nhắm tới vùng đất của cha ông từ sông Gianh đổ vào nhưng làm sao bảo đảm được khu vực Ðồng Nai không bị anh em Tây Sơn xua quân vào chiếm lại như thời kỳ trước mới thực sự quan trọng.
Kinh nghiệm cũ cho thấy một khi bị địch quân đuổi đánh phải bôn đào, mọi công trình chúa Nguyễn đã và đang xây dựng đều trở thành tay trắng, tan biến như những viên cát tròn của con dã tràng trên bờ biển khi bị sóng đánh qua. Do đó, trước khi tập trung được sức mạnh để tiến ra bắc, nỗ lực củng cố, xây dựng và phòng thủ là ưu tiên hàng đầu lúc bấy giờ.
Cuối thế kỷ XVIII, cuộc nội chiến tại Việt Nam cũng đưa đến những phát triển căn bản khiến chiến lược, chiến thuật phải thay đổi theo. Những tiến bộ kỹ thuật về vũ khí và qui mô của đội hình, vận chuyển để sử dụng những đội quân đông đảo nên việc phòng thủ theo kiểu cũ không còn hiệu quả. Súng đại bác và thần công đã tương đối thông dụng nên hai bên không còn phải cận chiến mà có thể bắn từ xa. Thành trì vì vậy được tổ chức sao cho linh hoạt hơn, có thể tự túc được một thời gian dài mà không bị kiệt quệ về lương thực, nước uống hay đạn dược.
Những cuộc công thành vì thế thường lâu hơn, kéo dài hàng tháng, có khi hàng năm nên chiến thuật “thần tốc”, đánh mau đánh mạnh, lấy số đông để áp đảo không còn hiệu quả. Thành Qui một mặt dựa vào sông Sài Gòn, ba mặt còn lại có nhiều đầm lầy là những chướng ngại thiên nhiên.
Nỗi ám ảnh lớn nhất của chúa Nguyễn khi mới lấy lại được Gia Ðịnh là e ngại một cuộc tấn công qui mô của Tây Sơn, chiếm lại những gì ông vừa có được. Chính vì thế, trong giai đoạn đầu ông trông chờ ở viện binh do giám mục Bá Ða Lộc đang đi vận động. Ông đã thiết lập những hệ thống thông tin từ biển vào đất liền để có được những tin tức sớm sủa nhất.
Khi Bá Ða Lộc trở về, tuy không mang được những gì ông mong đợi nhưng lại có được những cơ bản cần thiết đúng lúc mà ông yêu cầu. Không phải vũ khí hay nhân sự, tiền bạc, giám mục xứ Adran đã trao lại cho ông kỹ thuật của Tây phương, ngay cả những gì thuộc loại bí mật, không như người Á Ðông thường thường dấu kín cho riêng mình.
Việc đầu tiên mà chúa Nguyễn nhờ đến người Tây phương giúp sức là xây dựng một thành phố nhưng phòng thủ được (fortified citadel). Cứ theo những tường thuật của người nước ngoài, từ nam chí bắc cho tới lúc đó người Việt chưa xây được một thành theo nghĩa đó, nếu không có chướng ngại thiên nhiên như sông núi, đầm lầy thì chỉ biết đắp lũy, đào hào và dựng những chướng ngại chung quanh nơi đóng quân. Lũy Ðồng Hới hay Lũy Thầy do Ðào Duy Từ thiết trí được coi là một công trình lớn nhưng thực tế chỉ là một bức tường có đặt súng theo mẫu Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa ở một qui mô nhỏ.
Trong khi đó, Tây phương thời trung cổ đã có những tiến bộ đáng kể về việc xây dựng những thành trì (citadel) và lâu đài (castle) và đạt tới một hệ thống công sự (fortification) chu đáo. Muốn đạt tới tiêu chuẩn này, một thành phố phải có thể tự bảo vệ được và nhất là mọi cơ cấu trong đó đều thông được với nhau khiến cho chỉ cần một nhóm nhỏ có thể ngăn chặn được một lượng địch quân lớn và theo thời gian, quân địch sẽ hao binh tổn tướng để chờ dịp phản công.
Trong bộ Encyclopaedia Britannica in lần thứ nhất (1771) phần công sự đã được miêu tả kỹ lưỡng trong 8 trang chữ nhỏ và ba trang hình ảnh, khá đầy đủ chi tiết bình đồ, thiết đồ đủ thiết kế một tòa thành với những ưu điểm vượt trội.
  1. Hành chánh, tổ chức
Về phương diện tổ chức quốc gia, thời kỳ đầu chúa Nguyễn mới lấy lại Gia Ðịnh chúng ta thấy có những kế hoạch xây dựng một kinh đô cho tiểu vương quốc, tái phân chia lại địa giới các khu vực để hình thành một bộ máy chính quyền tương đối hữu hiệu nếu không hơn thì cũng không kém các nước láng giềng.
Việc xây thành Qui có thể do Nguyễn Ánh nung nấu đã lâu, kết hợp cả những điều mới học hỏi lẫn kinh nghiệm đã qua. Muốn biết ông học hỏi được gì, chúng ta không thể không xét đến quá trình lưu vong tại Xiêm La trong khoảng thời gian 1784 đến 1787 và những gì ông chứng kiến quân Xiêm đối phó với những cuộc tấn công khốc liệt của quân Miến từ phương bắc kéo xuống. Có thể nói, chính cuộc chiến tranh Xiêm – Miến đã là một mô hình tốt để ông suy ngẫm về phương thức đối phó với Tây Sơn mà ông sử dụng sau này.
Hoàn cảnh của Xiêm La có thể nói rất gần với hoàn cảnh của Việt Nam thời đó, chỉ khác nhau là những việc xảy ra ở Xiêm đi trước Việt Nam khoảng vài mươi năm. Vào giữa thế kỷ XVIII, người Miến thường xuyên đem quân xuống cướp phá kinh đô Ayutthaya ở lưu vực sông Chao Phya. Năm 1767, quân Miến phá kinh đô Ayutthaya thành bình địa, giết và bắt làm nô lệ gần như toàn bộ dân chúng khi đó khoảng một triệu người. Quốc vương bị giết và chỉ khoảng 10,000 người thoát chết.[7] (7)
Một trong những tướng lãnh tên là Taksin trốn thoát, chiêu tập binh mã chỉ một năm sau đánh đuổi quân Miến và dựng lại một kinh đô mới ở phía nam là Thonburi, bên kia sông của một làng chài có tên Bangkok.[8] (8) Cũng thời gian đó, gần như toàn bộ lực lượng Miến Ðiện bị cầm chân trong chiến tranh với Trung Hoa năm 1768 khiến cho việc chiếm đóng Ayutthaya lỏng lẻo và Taksin có thể tiến đánh từng doanh trại của người Miến không mấy khó khăn.[9] (9) Cục diện hoàn toàn thay đổi khi quân Xiêm do tướng Suki chỉ huy tại Posamton thắng được một trận quyết liệt đưa đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1782, Taksin bị hạ bệ và xử tử, tướng Chakkri lên ngôi vua [sử gọi là Rama I] rồi dời đô sang Bangkok.
Việc thiên đô này có mục tiêu chiến lược của nó. Vua Rama I cho rằng việc thành lập kinh đô ở phía đông của bán đảo có lợi thế về phòng thủ vì hơn một nửa chu vi bao quanh là sông. Ngoài ra, việc chọn một kinh đô mới cũng là dấu hiệu của việc khởi đầu một triều đại theo tin tưởng của người dân Nam Á.[10] (10) Vua Rama I cũng đổi tên Bangkok thành Krungthep [City of Deities] nhưng người ngoại quốc vẫn quen gọi theo tên cũ.
Thời gian chúa Nguyễn sống lưu vong giúp ông học hỏi kinh nghiệm thực tế của nước Xiêm và tham gia một số trận đánh với quân Miến Ðiện. Thành Gia Ðịnh có khá nhiều tương đồng với kinh đô Krungthep, cũng nằm cạnh bờ sông cách biển không xa lắm. Tuy nhiên, ngoài vị trí địa lợi, chúa Nguyễn còn đi thêm một bực là xây thành không phải chỉ là một hoàng cung như mẫu của Xiêm La mà còn là một mô hình phòng thủ Tây phương mà chúng ta thường gọi là kiểu Vauban đề phòng một trận tấn công đại qui mô của Tây Sơn từ Thuận Hóa đánh vào nhất là sau khi vua Quang Trung đánh bại quân Thanh tạo nên một chiến tích lẫy lừng. Việc xây một toà thành kiên cố ở Gia Ðịnh kết hợp nhiều nguyên nhân, từ việc chọn địa điểm phù hợp với phong thuỷ, cho đến sự thuận lợi để phòng thủ và là hậu phương để làm điểm xuất phát tấn công ra bắc.
Trước đó đất Gia Ðịnh mới khai khẩn, tình trạng tổ chức sơ sài, chưa thích hợp cho tổng hành dinh qui mô để trú đóng lâu dài. Gia Ðịnh Thành Thông Chí viết:
Trấn Gia Ðịnh xưa có nhiu ao đầm, rừng rú, buổi đầu thời Thái Tông (Nguyễn Phúc Tần 1648-1687), sai tướng vào mở mang bờ cõi, chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Ðiu Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng, lại đặt dinh Phiên Trấn tại lân Tân Thuận ngày nay, làm nha thự cho các quan Giám quân, Cai bạ và Ký lục ở, được trại quân bảo vệ, có rào giậu ngăn cản hạn chế vào ra, ngoài ra thì cho dân trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, chợ phố. Nơi đây nhà ở hỗn tạp, đường sá chỗ cong chỗ thẳng, tạm tu tiện cho dân mà chưa kịp phân chia sửa sang cho ngăn nắp. Chức Khổn suý thay đổi lắm lần cũng để y như vậy. Ðến mùa xuân năm Ất Mùi (1775), đời vua Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) thứ 11, xa giá phải chạy đến trú ở thôn Tân Khai. Mùa thu năm Mậu Thân (1788) năm thứ 11, buổi đầu đời Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) Trung hưng, việc binh còn b bộn, ngài phải tạm trú nơi đồn cũ của Tây Sơn ở phía đông sông Bình Dương để cho nghỉ quân dưỡng dân.[11] (11)
Việc cải tổ hành chánh của Nguyễn Ánh bao gồm cả cải cách tổ chức lẫn định chế cai trị. Về tổ chức, chúa Nguyễn chia lại địa giới các tỉnh và xây dựng một mạng lưới giao thông, liên lạc. Những cải cách kinh tế đã biến vùng Ðồng Nai từ một khu vực hoang vu, ít người ở thành một tiểu quốc trù phú. Vì miền nam là một tâm điểm giao lưu, một khi tình hình an ninh được ổn định, các thương thuyền qua lại buôn bán đem đến những món tiền lớn.
Trong một thời gian tương đối ngắn, đất Ðồng Nai có thêm nhiều đại lộ, được vẽ và trắc địa theo kiểu Tây phương, một hệ thống sông đào qui mô vừa thuận tiện cho việc giao thông, vừa cải cách hệ thống thoát nước để thuần hoá một khu vực rộng vốn chỉ là đầm lầy không thể canh tác được.
Những con đường trong thành phố cũng được mở theo đường thẳng và nếu định vị với bản đồ Saigon về sau, chúng ta còn có thể tìm ra được một số đại lộ chính. Nhờ các phóng đồ này, khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, việc mở rộng thành phố không đòi hỏi việc tái qui hoạch toàn bộ khu vực mà chỉ tiếp nối vào những công trình cũ còn dở dang hoặc thoái hóa vì đã lâu không tu bổ.
Theo tài liệu của người nước ngoài, một số định chế pháp luật tương đối mới mẻ và công bình được ban hành. Các chính quyền triều đại của phương Ðông thường không minh bạch về luật lệ và dành quyền phán quyết cho các quan lại. Vì thế để có được những dễ dãi, các thuyền buôn thường phải biếu xén rất nhiều cấp, nhiều lần vì chỗ nào cũng có thể gây khó khăn, hạch sách làm ngăn trở công việc.
  1. Phát triển kinh tế
Ngoài ý nghĩa giao thông, hệ thống đường bộ, đường sông cũng giải quyết việc lương thực, hậu cần để cung ứng cho chiến tranh với đối phương ở Ðàng Ngoài.
Theo Barrow, chúa Nguyễn có mấy năm tương đối bình yên[12] (12) và nhờ sự cố vấn của giám mục Pigneau de Béhaine, ông đã dốc toàn lực vào việc kiến tạo đất nước. Ông xây dựng một nhà máy diêm tiêu (salpetre) ở Fen-tan (Tsiompa)[13] (13), mở mang liên lạc giữa những vị trí quan yếu từ thành phố này đến thành phố khác, và trồng cây hai bên đường lấy bóng mát.
Chúa Nguyễn cũng khuyến khích việc tái xây dựng những đồn điền trầu cau bị phá hủy vì chiến tranh và khuyến khích việc trồng dâu, nuôi tằm. Ông dành một vùng đất lớn để trồng mía làm đường và xây dựng những xưởng làm keo, nhựa trét và hắc ín [dùng trong kỹ nghệ đóng thuyền].[14] (14)
Tuy không biết rõ có những cải tiến nào cho kinh tế địa phương, nhưng ngay cả trong thời kỳ suy thoái cũng có rất nhiều mặt hàng, đặc biệt giá cả rất rẻ so với các quốc gia khác.

(Còn tiếp)

Chú thích:

1.James P. Daughton, “Recasting Pigneau de Béhaine” trong Tran Tuyet Nhung & Anthony Reid (chủ biên). Việt Nam – Borderless Histories (Wisconsin: The University of Wisconsin Press, 2006) tr. 307
2. Một số sĩ quan được liệt kê Chaigneau, de Forçant, Vannier, Dayot, Ollivier, Le Brun, Barizy, Girald de l’Isle Sellé, Despiaux, Guillion, Guilloux ... [A. Folliot, Notions sur l’histoire de l’Annam et sur les résultats de l’occupation Française, (Saigon, 1905)] tr. 20. Cũng theo Folliot thì những người Âu có kiến thức và năng động này đã giúp ông xây dựng một đội chiến thuyền, phòng thủ thành trì và xung phong giúp ông trong mọi trường hợp cần đến sự can trường và thiện chí của họ (...Ces auxiliaires instruits et énergetiques lui construisirent une flotte, lui fortifièrent ses villes eit lui prétèrent dans toutes les circonstances l’appui de leur courage et de leur dévouement)
3....They were no less than to subdue the Kingdom of Cambodia with the whole peninsula as far as Siam, and the Provinces belonging to Cochin China to the north now in the hands of the Tonquinese. To effect these (and indeed it would be requisite) he wished much for the assisstance of some English vessels, in recompense for which he would make them such grants of land for settlement as they might think proper. “... Phải làm sao chinh phục vương quốc Cambodia và toàn thể bán đảo cho tới tận Xiêm La, cùng [lấy lại] những tỉnh thuộc Ðàng Trong ở phía bắc nay đang ở trong tay người Ðàng Ngoài. Và để thực hiện dự tính đó, ông (Nguyễn Nhạc) mong được người Anh giúp cho một số tàu chiến, và để trả lại thì ông sẵn lòng nhường cho họ mảnh đất nào họ thấy thích hợp để trú đóng.” Alastair Lamb, The Mandarin Road to Old Hué: Narratives of Anglo-Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest (London: Chatto & Windus, 1970) tr. 100
4. ...and, through the translations into the Chinese character of the Encyclopedie by the Bishop Adran, he has acquired no inconsiderable knowledge of European arts and sciences, among which he is most attached to such as relate to navigation and ship-building.
... qua bản dịch bộ Encyclopedie sang chữ Hán do giám mục Adran thực hiện, ông đã thu lượm được một số kiến thức Tây phương đáng kể v kỹ thuật và khoa học trong đó hai ngành ông chú trọng nhất là hải hành và đóng tàu. John Barrow, A Voyage to Cochinchina (Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1975) tr. 277
5. “Voyage from France to Cochin-China : in the Ship Henry / Captain Rey, of Bordeaux, in the years 1819 and 1820” (London : Printed for Sir Richard Phillips and co., 1821)
6. Hiện nay trên thị trường còn có một ấn bản chụp lại y như bản chính – kể cả những dấu giấy cũ và những phần bị loại bỏ theo lệnh giáo hội [Authentic Replica of the First Edition of the Encyclopedia Britannica, 1768-1771 (Three Volume Facsimile Set) (Hardcover)]. Dựa theo nội dung trong bộ từ điển này, chúng tôi dựng lại các kiến thức cơ bản mà giám mục Bá Đa Lộc đem về cho chúa Nguyễn trong thời gian ấy.
7. John Blofeld, Bangkok (TIME-LIFE International, 1979) tr. 10
8. Việc khôi phục lại vương quốc Xiêm La thành công chính vì quân Miến chỉ xuống để cướp bóc tài vật và bắt người về làm nô lệ mà không có ý định chiếm đóng đất đai, tương tự như quân Tây Sơn khi xuống Gia Ðịnh hay vào Thăng Long với chủ đích thu góp chiến lợi phẩm, tiền bạc rồi lại rút về nên sau khi địch đi khỏi chúa Nguyễn lại có cơ hội hồi sinh.
9. Các sử gia Thái Lan cũng vì quá đề cao việc phục quốc của Taksin nên không chú trọng đến yếu tố Miến Ðiện đang có chiến tranh với Trung Hoa, tương tự như trường hợp chúa Nguyễn nhờ vào mâu thuẫn của Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ và việc triều đình Quang Trung đang vướng mắc vào vấn đề ngoại giao với Thanh triều.
10. ... This was a strategic move, since Bangkok was well protected by water on one side and by a vast swampy plain stretching away to east and south on the other. It was also a symbolic move, intended as a fresh and auspicious start for the kingdom. Blofeld, Bangkok, tr. 10. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, ông cũng dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long với cùng một ý nghĩa và mục tiêu như việc vua Rama I chọn Bangkok làm kinh đô mới.
11. Trịnh Hoài Ðức, Gia Ðịnh Thành Thông Chí [bản dịch Lý Việt Dũng] (Biên Hòa: nxb Tổng Hợp Ðồng Nai, 2005) tr. 216
12. John Barrow, sđd. tr. 273. John Barrow ghi lại theo lời tường thuật của người khác nên nhiều chỗ không chính xác, nhất là niên biểu. Ông chép rằng hai năm bình an đó là 1797 và 1798 nhưng thực ra hai năm này là hai năm chiến sự đang căng thẳng. Hai năm mà chúa Nguyễn được thong thả để củng cố lực lượng phải là năm 1789 và 1790 khi Bá Ða Lộc vừa ở Pháp v, Nguyễn Huệ đang bận giao thiệp với nhà Thanh nên chưa tính chuyện đánh vào nam.
13. Tsiompa có lẽ là phiên dịch hai chữ Chiêm Ba (tức Champa hay Chiêm Thành) nhưng không biết địa điểm nào. Vào thời đó, người Tây phương gọi chung cà khu vực là Champa. Fen-tan có thể là Phiên An, tên cũ của thành Saigon, tức ngay tại thủ phủ Gia Định.
14. John Barrow, sđd. tr. 273-4
15. Miền nam gọi là một quài chuối, gồm nhiều nải chưa cắt riêng.